Chuyên đề Một số vấn đề về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng ở cục thuế Vĩnh Phúc

MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thuế giá trị gia tăng 1.1.2 Các phương pháp tính và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng 1.1.3 Tính tất yếu của của việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam 1.2 QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM 1.2.1 Bản chất, vai trò và ý nghĩa của việc hoàn thuế giá trị gia tăng 1.2.2 Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế giá trị gia tăng 1.2.3 Quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng 1.3 CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG HIỆN NAY TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC 2.1 KẾT QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC TRONG MỘT SỐ NĂM GẦN ĐÂY 2.1.1 Giới thiệu khái quát về Cục thuế Vĩnh phúc 2.1.2 Kết quả thực hiện luật thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế Vĩnh Phúc trong một số năm gần đây 2.1.3 Những điều kiện cơ bản để thực hiện luật thuế giá trị gia tăng 2.2 THỰC TRẠNG CỦA QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC 2.2.1 Những vướng mắc, tồn tại 2.2.2 Những nguyên nhân CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.1 NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước 3.2.2 Giải pháp từ phía cơ quan thuế 3.2.3 Giải pháp từ phía đơn vị sản xuất-kinh doanh KẾT LUẬN

doc71 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1898 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng ở cục thuế Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kho hàng hoá; báo cáo tiêu thụ và các sổ sách kế toán chứng từ và hồ sơ tài liệu có liên quan đến việc xác định số thuế GTGT được hoàn. Việc kiểm tra cần lựa chọn có trọng tâm, trọng điểm, đạt hiệu quả, phù hợp với thời gian kiểm tra theo nội dung: + Kiểm tra đối chiếu số liệu liên quan đến các vấn đề có nghi vấn cần kiểm tra như: số liệu trên hồ sơ hoàn thuế với số liệu báo cáo tổng hợp và chi tiết về doanh số mua, doanh số bán, tồn kho hàng hoá, các hoá đơn chứng từ liên quan đến thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ, thuế giá trị gia tăng đầu ra, định mức sử dụng vật tư hàng hoá, căn cứ phân bổ thuế giá trị gia tăng đầu vào chứng từ liên quan đến tình hình nộp thuế, hoàn thuế của cơ sở, chứng từ thanh toán và các tài liệu liên quan khác. + Đối tượng hoàn thuế: Lưu ý: Trường hợp hoàn thuế cho hàng hoá xuất khẩu phải xác định đối tượng được hoàn thuế là chủ sở hữu hàng hoá, trường hợp xuất khẩu uỷ thác thì đối tượng được hoàn thuế là cơ sở uỷ thác xuất khẩu; trường hợp hoàn thuế cho các dự án sử dụng vốn ODA phải xác định đúng đối tượng có đủ điều kiện, thủ tục theo quy định hiện hành; điều kiện thủ tục của hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%. + Đối chiếu xác minh các hoá đơn có nghi vấn. - Lập biên bản xác nhận số liệu với kế toán trưởng của cơ sở được kiểm tra về nội dung có chênh lệch (hoặc không chênh lệch) giữa số liệu kiểm tra của đoàn kiểm tra với số liệu trên hồ sơ đề nghị hoàn thuế của cơ sở. Đề nghị kế toán trưởng ký xác nhận và cung cấp các hoá đơn, chứng từ, tài liệu (bản photocopy có xác nhận sao y bản chính của cơ sở kinh doanh có liên quan đến nội dung giải trình). - Lập biên bản kiểm tra, thanh tra: Kết thúc kiểm tra, thanh tra, đoàn kiểm tra, thanh tra tiến hành lập biên bản về nội dung đã được kiểm tra, thanh tra. Biên bản kiểm tra, thanh tra được lập với người đại diện hợp pháp của cơ sở theo thời gian quu định. Trường hợp có sở kinh doanh có vi phạm thì phải ghi rõ nội dung và mức độ của từng hành vi vi phạm, căn cứ pháp lý để kết luận từng hành vi vi phạm đó. Trên cơ sở kết luận, đoàn kiểm tra, thanh tra kiến nghị với lãnh đạo cơ quan thuế ra quyết định xử lý đối với các hành vi vi phạm của cơ sở. Người được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận của mình. d) Xử lý kết quả kiểm tra, thanh tra: - Căn cứ vào kết quả kiểm tra, thanh tra (biên bản kiểm tra, thanh tra) đoàn kiểm tra, thanh tra về hoàn thuế báo cáo kết quả, kiến nghị xử lý qua kiểm tra, thanh tra, đồng thời sự thảo quyết định xử lý vi phạm theo đúng quy định của pháp luật, trình lãnh đạo cơ quan thuế ký lưu hành. Quyết định xử lý vi phạm của cơ sở được gửi: + Cho cơ sở để thực hiện. + Bộ phận quản lý thu để theo dỗi và đôn đốc cơ sở thực hiện quyết định xử lý. + Phòng thanh tra xử lý tố tụng về thuế (tổ kiểm tra tại Chi cục thuế) để tổng hợp báo cáo theo chế độ quy định - Bộ phận quản lý thu lập danh sách kết quả kiểm tra, thanh tra, quyết định xử lý vi phạm gửi phòng xử lý thông tin và tin học, bộ phận tính thuế (tại Chi cục thuế) để điều chỉnh số thuế phải nộp của đối tượng. Trường hợp kiểm tra phát hiện cơ sở kê khai khấu trừ thuế, hoàn thuế không đúng, cơ quan thuế truy thu, thu hồi tiền thuế đã khấu trừ hoặc hoàn kịp thời vào ngân sách nhà nước. Đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, cơ quan thuế lập hồ sơ theo đúng quy định để chuyển kịp thời cho các cơ quan có chức năng xử lý. e) Trường hợp cơ sở được kiểm tra, thanh tra về hoàn thuế có khiếu nại về kết quả và quyết định xử lý qua kiểm tra, thanh tra thì cơ quan thuế giải quyết theo quy định của các văn bản pháp luật về thuế và luật khiếu nại tố cáo. 1.3 các vấn đề đặt ra trong việc thực hiện quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng 1/ Từ phía nhà nước: Nhà nước là chủ thể có quyền ban hành ra các luật về thuế nhằm huy động nguồn tài chính từ các thành viên trong xã hội, do vậy nhà nước cần phải có: - Hành lang pháp lý như các Luật về thuế, quy định về chế độ kế toán và sử dụng hoá đơn, chứng từ, Luật thương mại, Luật doanh nghiệp … Nhà nước khi ban hành ra các hành lang pháp lý này đều không thể tránh khỏi những thiếu sót mà trong thực tế hoạt động mới làm nảy sinh, trong đó luôn tồn tại những “kẽ hở” để các đơn vị lợi dụng làm sai, làm trái và trốn tránh nghĩa vụ. Do vậy các Luật cần phải thường xuyên được bổ sung, sửa đổi để ngày càng hoàn thiện hơn, đảm bảo không còn “kẽ hở” để doanh nghiệp tránh thuế, trốn thuế và chiếm đoạt tiền của nhà nước thông qua thủ đoạn “xin hoàn thuế”. Các quy định về chế độ kế toán và sử dụng hoá đơn chứng từ trong các doanh nghiệp phải thống nhất và chặt chẽ, các đơn vị áp dụng thống nhất một chế độ kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ trong mọi giao dịch mua bán và lưu giữ đầy đủ để đảm bảo cho việc thực hiện tính toán, theo dõi và quản lý thuế. Luật Doanh nghiệp cho phép thành lập ra các doanh nghiệp một cách rất dễ dàng trong khi việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp chưa được chặt chẽ đã cho phép những “Doanh nghiệp trá hình”, những “Công ty ma” có môi trường để hành hoành. - Quy định về chế tài: nhà nước muốn đảm bảo cho các Luật thuế, các quy định được thực hiện một cách đúng đắn thì cần phải có một công cụ không thể thiếu được, đó là các chế tài. Chế tài được áp dụng đối với đối tượng không chỉ là doanh nghiệp mà còn áp dụng cả với đối tượng là cán bộ ngành để đảm bảo doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với nhà nước và người quản lý thực hiện tốt các quy định. Chế tài cần phải có sự nghiêm khắc cao hơn nữa, không chỉ dừng lại ở việc xử phạt hành chính mà cần có những chế tài nghiêm khắc hơn như bắt buộc ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh tạm thời hoặc vĩnh viễn, khởi tố người chịu trách nhiệm trong vụ việc … tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm vì đây là những hành vi mang tính chất xâm phạm đến lợi ích quốc gia. 2/ Từ phía cơ quan Thuế: - Cơ quan thuế là đơn vị thực hiện thu các khoản thu từ các đối tượng nộp thuế và thu khác vào ngân sách nhà nước, đồng thời cũng là người xem xét đề nghị ngân sách nhà nước hoàn trả cho đối tượng được hoàn thuế. Do vậy để làm tốt công việc này cần phải thực hiện thống nhất theo quy trình về hoàn thuế GTGT đã ban hành, đảm bảo tính đúng đắn, đầy đủ và tính pháp lý của các thủ tục, giấy tờ có liên quan đến hoàn thuế. Đây là điều kiện để tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực hiện, đảm bảo tính khách quan, trung thực trong quá trình hoàn thuế. - Về cán bộ: cán bộ thuế tham gia thực hiện hoàn thuế phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, không chỉ về riêng nghiệp vụ quản lý thuế mà cả nghiệp vụ kế toán, kiểm toán, đặc biệt là đối với cán bộ tham gia công tác thanh tra, kiểm tra. - Trang bị kĩ thuật: đây là bộ phận có ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng công việc. Trong quy trình hoàn thuế có những khâu đòi hỏi phải mất nhiều thời gian và công sức cần phải có sự hỗ trợ của các phương tiện, thiết bị hiện đại như máy vi tính, hệ thống mạng máy tính, internet, mạng truyền tin … Giả sử như việc xác minh hoá đơn của một đơn vị đề nghị hoàn thuế, đây chỉ là một phần nhỏ của khâu kiểm tra, thanh tra. Số lượng hoá đơn cần xác minh có thể lên đến hàng nghìn hoá đơn phát sinh với nhiều đối tượng trên nhiều địa bàn khác nhau, thuộc đối tượng quản lý của các đơn vị quản lý thuế khác, khoảng cách về địa lý rất lớn, do vậy việc xác minh các hoá đơn này đòi hỏi phải mất nhiều thời gian. 3/ Từ phía doanh nghiệp: Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của cơ quan thuế, là người phải chia sẻ phần lợi ích của bản thân với nhà nước, do vậy bản thân doanh nghiệp luôn luôn có xu hướng muốn thoát khỏi mối ràng buộc về nghĩa vụ này. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng được hưởng những quyền lợi mà việc thực hiện nghĩa vụ đem lại như có môi trường an ninh – chính trị ổn định để hoạt động sản xuất kinh doanh, được bình đẳng với các doanh nghiệp khác trong hoạt động… trong đó yêu cầu được hoàn thuế là một trong số những quyền lợi mà doanh nghiệp được hưởng. Để thực hiện tốt quy trình hoàn thuế, không chỉ cần có sự quản lý của cơ quan thuế mà còn cần phải có sự phối hợp thống nhất của các doanh nghiệp. Sự phối hợp của các doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ: có ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhà nước, thực hiện theo đúng các quy định pháp luật của nhà nước về thuế như chấp hành tốt việc tự kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế, chấp hành đúng các quy định về kế toán, về sử dụng và lưu trữ hoá đơn chứng từ … CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG HIỆN NAY TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC. 2.1 KẾT QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC TRONG MỘT SỐ NĂM GẦN ĐÂY 2.1.1 Giới thiệu khái quát về Cục thuế Vĩnh phúc 1/ Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn: * Chức năng: Cục thuế tỉnh Vĩnh Phúc là một tổ chức trực thuộc Tổng Cục Thuế, có chức năng tổ chức thực hiện thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân sách nhà nước (NSNN) trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc theo quy định của pháp luật. * Nhiệm vụ và quyền hạn: Theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, theo quy định của luật thuế và các quy định pháp lý có liên quan, Cục thuế tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể sau đây: Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai thực hiện thống nhất các văn bản quy định pháp lý về thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế trên điạ bàn tỉnh. Phân tích, đánh giá công tác quản lý thuế, tham mưu với cấp Uỷ, Chính quyền địa phương về lập dự toán thu NSNN, công tác thuế trên địa bàn tỉnh, phối hợp chặt chẽ với các ngành, cơ quan, đơn vị liên quan để thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện quản lý thu thuế theo quy định của pháp luật, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục thuế trong việc tổ chức thu thuế. Tổ chức thực hiện, tuyên truyền và cung cấp các hoạt động hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân nộp thuế. Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thu thuế theo quy định của pháp luật và các quy định của BTC, TCT: lập sổ thuế, kiểm tra việc tính thuế, phát hành thông báo thuế, các lệnh thu thuế ...; đôn đốc các tổ chức và cá nhân nộp thuế thực hiện nộp đầy đủ, kịp thời tiền thuế vào kho bạc nhà nước (KBNN). Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và chấp hành chính sách pháp luật thuế đối với tổ chức và cá nhân nộp thuế, tổ chức và cá nhân quản lý thu thuế, tổ chức được uỷ nhiệm thu thuế. Quyết định xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế theo quy định của pháp luật, lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền khởi tố các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật thuế. Tổ chức tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học, Công nghệ thông tin và phương pháp quản lý hiện đại vào các hoạt động của Cục thuế. Tổ chức thực hiện thống kê, kế toán thuế, quản lý ấn chỉ, lập báo cáo về tình hình kết quả thu thuế và báo cáo khác phục vụ cho việc chỉ đạo, điều hành của cơ quan cấp trên, UBND đồng cấp và các cơ quan có liên quan tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả công tác của Cục thuế. Kiến nghị với Cục trưởng TCT những vấn đề vướng mắc cần sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, các quy định của TCT về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nội bộ, kịp thời báo cáo về Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Thuế về những vướng mắc phát sinh, những vấn đề vượt quá thẩm quyền của Cục thuế. Quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định miễn, giảm, hoàn thuế, truy thu về thuế theo quyết định của pháp luật. Được quyền yêu cầu các tổ chức và cá nhân nộp thuế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân có liên quan cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết cho việc quản lý thu thuế, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá nhân không thực hiện trách nhiệm trong việc phối hợp với cơ quan thuế để nộp thuế vào NSNN. Được quyền ấn định số thuế phải nộp, thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành pháp luật thuế theo quy định của pháp luật, được quyền thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế vi phạm pháp luật thuế. Cục trưởng Cục thuế được ký các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi quản lý của Cục thuế theo quy định của Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Thuế. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức, lao động trong Cục thuế, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý đội ngũ công chức Cục thuế theo quy định của nhà nước. Quản lý, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, phương tiện, trang bị kĩ thuật và kinh phí hoạt động của Cục thuế. Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao. 2/ Cơ cấu tổ chức: Vĩnh Phúc là một tỉnh Trung Du, hàng năm có số thu trên 500 tỷ đồng, do đó theo quy định của pháp luật và những đặc thù riêng của tỉnh nên được tổ chức bao gồm các phòng sau đây: Phòng Tổng hợp và Dự toán. Phòng Tuyên truyền và Hỗ trợ. PhòngTin học và Xử lý dữ liệu về thuế. Phòng Quản lý Doanh nghiệp nhà nước và Đầu tư nước ngoài. Phòng Quản lý Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Phòng Thanh tra. Phòng Quản lý ấn chỉ. Phòng Tổ chức cán bộ. Phòng Hành chính – Quản trị – Tài vụ. Phòng Trước bạ và thu khác. Cục thuế Vĩnh Phúc có một đội ngũ cán bộ nhân viên có đầy đủ kiến thức phục vụ cho công tác quản lý thuế, gồm có: Cục trưởng: ông Tạ Văn Xuyên. Cục phó: ông Doãn Tuấn An. Các trưởng phòng, Phó phòng và cán bộ quản lý thuế. 2.1.2 Kết quả thực hiện luật thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế Vĩnh Phúc trong một số năm gần đây Thực hiện công tác quản lý thu thuế GTGT theo Luật thuế GTGT mà Quốc Hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 tháng 4/1997 thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999, được sự chỉ đạo sát sao của Bộ Tài chính, TCT, của HĐND, UBND, sự phối hợp chặt chẽ có hiệu quả của các cấp uỷ và chính quyền các Quận huyện, xã, phường và trên hết là sự nỗ lực của cán bộ công chức ngành thuế. Cục thuế Vĩnh Phúc đã đạt được những kết quả khả quan, tổng số thu từ thuế GTGT nhìn chung không ngừng tăng lên qua 4 năm thực hiện thể hiện ở bảng sau: Biểu số 4: Kết quả thu từ thuế GTGT của Cục thuế Vĩnh Phúc trong 4 năm: 2000, 2001, 2002, 2003 Đơn vị tính: triệu đồng Năm 2000 2001 2002 2003 Số thuế 63.131 74.050 99.079 191.739 Số thuế tăng so với năm trước - 10.919 25.029 92.640 Nhìn vào bảng trên ta thấy từ năm 2000 đến năm 2003, số thuế GTGT của Cục thuế Vĩnh Phúc liên tục tăng và tăng với tốc độ ngày càng lớn. Đặc biệt số thu năm 2003 có sự gia tăng đột biến so với các năm trước do sự tăng trưởng kinh tế lớn trong năm 2003. Việc áp dụng Luật thuế GTGT vào đời sống kinh tế - xã hội nước ta nói chung và địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đã được thực tế kiểm nghiệm đã góp phần mang lại những kết quả tích cực về nhiều khía cạnh thể hiện ở những mặt sau: - Về công tác quản lý thuế: Để thực hiện tốt Luật thuế GTGT, công tác quản lý đã được cải tiến, nâng lên một bước thông qua cấp mã số cho các đối tượng nộp thuế, triển khai hệ thống tin học phục vụ quản lý thuế trên máy tính. Việc phân công nhiệm vụ quản lý đối tượng nộp thuế cũng thay đổi cho phù hợp như các đối tượng nộp thuế nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì được tập trung quản lý tại Cục thuế, các hộ kinh doanh cá thể do các Chi cục Thuế quản lý trực tiếp. Những thay đổi đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý. - Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng qua từng năm, cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến quan trọng theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Năm 2003, kinh tế Vĩnh Phúc đã có sự tăng trưởng cao, ổn định và bền vững, hầu hết các chỉ tiêu đều tăng so với năm 2002. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 17,53%, gấp hơn 2 lần bình quân chung của cả nước và là mức tăng cao nhất trong 5 năm trở lại đây, giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao ở tất cả các khu vực, các thành phần kinh tế và các ngành công nghiệp trên địa bàn: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 24,2% với giá trị sản xuất là 9.721 tỷ đồng, trong đó công nghiệp ngoài Nhà nước tăng trưởng nhanh 58,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22,7%. Giá trị sản xuất các nghành dịch vụ tăng 18,7%. Giá cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng có sự biến động nhẹ nhưng vẫn giữ vững ổn định thị trường, có tác dụng nhất định đến tăng trưởng sản xuất. - Tăng số thu vào Ngân sách Nhà nước: cùng với sự tăng trưởng liên tục của kinh tế qua thực tế áp dụng thuế GTGT và một số sắc thuế mới khác trên địa bàn tỉnh đã góp phần làm tổng số thu vào ngân sách Nhà nước ngày càng tăng lên. Dưới đây là số thu của ngành Thuế Vĩnh Phúc trong 4 năm qua: Biểusố 5: Số thu do Cục thuế Vĩnh Phúc thực hiện trong 4 năm: 2000, 2001, 2002, 2003 Đơn vị tính: triệu đồng Năm 2000 2001 2002 2003 Tổng 263.045 284.809 353.853 639.130 Số thuế tăng so với năm trước - 21.764 69.044 285.277 Qua bảng trên ta thấy năm 2000, số thu về thuế của Cục thuế Vĩnh Phúc đóng góp vào ngân sách chỉ là 263.045 triệu đồng thì sang năm 2001 là 284.809 triệu đồng, năm 2002 là 353.853 triệu đồng và đến năm 2003 đã là 639.130 triệu đồng. Số thu không ngừng tăng lên qua từng năm, kinh tế trên địa bàn phát triển nhanh… có sự đóng góp không nhỏ của Luật thuế GTGT. Luật thuế GTGT là một sắc Luật mới về thuế, nó đã và ngày càng hoàn thiện hơn trong công cuộc cải cách hành chính về Pháp Luật. Tuy nhiên đây là một sắc Luật mới vì vậy không tránh khỏi những khó khăn trong việc áp dụng và thực thi. Vì vậy Bộ Tài chính – Tổng Cục Thuế đã có những thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể như quy trình và thủ tục xét hoàn thuế GTGT. Là một đơn vị thuộc cơ quan Nhà nước nên Cục thuế Vĩnh Phúc cũng nghiêm chỉnh làm theo quy định của Luật thuế GTGT và những thay đổi của nó. Vào thời gian đầu, Cục thuế Vĩnh Phúc thực hiện hoàn thuế theo thông tư 89/1998/TT/BTC ngày 27/6/1998, có hiệu lực từ 1/1/1999. Việc hoàn thuế gặp rất nhiều khó khăn bởi trách nhiệm của các doanh nghiệp chưa được xác định rõ, việc kiểm tra hoá đơn chứng từ chưa được quy định cụ thể, trách nhiệm dường như dồn hết vào người ký quyết định hoàn thuế nên khi thực hiện hoàn thuế, Cục thuế Vĩnh Phúc cũng như các cục thuế khác chỉ căn cứ vào hồ sơ hoàn thuế, việc kiểm tra trước hoàn và sau hoàn thuế hạn chế cả về mặt số lượng và chất lượng, điều này gây khó khăn rất lớn cho cả Cục thuế và các doanh nghiệp vì đối tượng xin hoàn thuế ở địa bàn mà theo phương pháp này thì khối lượng công việc phải thực hiện là rất nhiều đòi hỏi thời gian dài. Điều này gây ra sự chậm trễ trong công tác hoàn thuế từ đó gây nên phản ứng từ phía các doanh nghiệp. Tuy nhiên phương pháp này có ưu điểm là hạn chế tình trạng gian lận để chiếm đọat tiền Nhà nước thông qua hoàn thuế. Thông tư số 93/1999/TT/BTC ngày 28/7/1999 ban hành quy định chi tiết quy trình xét hoàn thuế cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp về những tờ khai cuả mình đã tạo điều kiện cho Cục thuế thực hiện công tác hoàn thuế nhanh hơn. Theo đó, Cục thuế chỉ cần tiếp nhận, kiểm tra tính chính xác của các hồ sơ và tiến hành hoàn thuế, việc kiểm tra được tiến hành sau. Từ khi thực hiện theo tinh thần của Thông tư này Cục thuế đã giải quyết nhanh và nhiều hơn các trường hợp được hoàn thuế so với trước đây, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn kinh doanh kịp thời và giảm được một khối lượng lớn công việc để hoàn thuế. Tuy nhiên thực hiện theo thông tư này cũng có những hạn chế, việc kiểm tra tiến hành sau khi hoàn thuế nên các đối tượng yêu cầu hoàn thuế dễ lợi dụng để chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Từ 18/9/2002 Cục thuế Vĩnh Phúc tiến hành hoàn thuế theo tinh thần của thông tư 82/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 76/CP của Chính phủ, sửa đổi bổ sung Luật thuế GTGT với nội dung về hoàn thuế là phân loại đối tượng yêu cầu hoàn thuế thành 3 loại và thực hiện kiểm tra hoàn thuế: - Loại 1: Các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động dưới 1 năm và yêu cầu hoàn thuế lần đầu; cơ sở kinh doanh nghi ngờ có gian lận sẽ thực hiện kiểm tra trước khi hoàn thuế (Việc kiểm tra trong thời gian 60 ngày). - Loại 2: Cơ sơ sản xuất kinh doanh chấp hành tốt pháp luật sẽ thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau. - Loại 3: Cơ sở đang bị khởi tố, điều tra về gian lận thuế GTGT sẽ bị tạm ngừng hoàn thuế cho đến khi có kết luận chính thức. Đây là những sửa đổi bổ sung của BTC- TCT để hạn chế tình trạng doanh nghiệp chiếm đoạt tiền của Nhà nước qua hoàn thuế và tạo điều kiện hoàn lại số tiền được hoàn cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính nhanh hơn nữa. Công tác hoàn thuế GTGT ở Cục thuế Vĩnh Phúc đã được tập trung chỉ đạo thực hiện, quy trình hoàn thuế GTGT đã được phổ biến công khai ngay từ những ngày đầu áp dụng Luật thuế GTGT và đã đạt được những kết quả nhất định. Số thuế hoàn cho các doanh nghiệp qua thực hiện của năm 2003 được phản ánh qua bảng số liệu dưới đây. Biểu số 6: Tình hình hoàn thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế Vĩnh Phúc năm 2003 Đơn vị tính: Số hồ sơ và triệu đồng Nội dung 2003 Số hồ sơ đề nghị hoàn 64 Số hồ sơ đã được giải quyết 46 Số thuế đề nghị hoàn 33.172 Số thuế thực hoàn 27.934 Tỷ lệ % số thuế đã hoàn so với số thuế đề nghị hoàn 84,21 Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy số thuế Cục thuế Vĩnh Phúc đã hoàn cho các doanh nghiệp trong năm 2003 là 27.934 triệu đồng trên tổng số đề nghị hoàn thuế là 33.172 triệu đồng, đạt 84,21%. Còn lại là số thuế mà Cục thuế đã từ chối không hoàn cho các đơn vị do không đủ các điều kiện theo quy định. Đối tượng được hoàn thuế của Cục thuế cũng đa dạng như các dự án ODA, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Nhà nước, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ trong 3 tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên độ kế toán) có luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra, các dự án sử dụng ODA… tỷ trọng số tiền hoàn thuế có khác nhau đối với từng đối tượng. Số thuế mà Cục thuế Vĩnh Phúc kiểm tra sau hoàn thuế phát hiện được phải thu hồi vào tài khoản truy hoàn thuế trong 3 năm qua như sau: Biểu số 7: Số thuế phải truy hoàn sau khi kiểm tra sau hoàn thuế trong 3 năm: 2000, 2001, 2002 Đơn vị tính: Số doanh nghiệp và triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số doanh nghiệp kiểm tra sau hoàn thuế vi phạm 13 20 6 Số tiền 368 1.057,3 4.608 Qua bảng trên cho thấy số vụ vi phạm về hoàn thuế giảm qua các năm song mức độ vi phạm ngày càng lớn. năm 2001 có 13 đơn vị với số thuế phải truy hồi là 368 triệu đồng, sang năm 2003 số đơn vị vi phạm là 20 đơn vị, tăng 7 đơn vị, với số thuế phải truy hoàn là 1.057,3 triệu đồng, năm 2003 chỉ có 6 đơn vị lợi dụng chính sách hoàn thuế nhưng với số thuế đã chiếm đoạt phải truy hoàn lên tới 4.608 triệu đồng. Tình hình này cho thấy mức độ vi phạm ngày càng trở lên nghiêm trọng. 2.1.3 Những điều kiện cơ bản để thực hiện luật thuế giá trị gia tăng Thuế GTGT là loại thuế tiến bộ, tuy nhiên việc thực hiện nó cần phải có những điều kiện cơ bản sau: 1/ Nền kinh tế phát triển ổn định: Thuế GTGT là một sắc thuế của nền kinh tế phát triển vì ở đó giá cả hàng hoá thường xuyên ổn định, đảm bảo cho giá cả ở khâu sau thường cao hơn khâu trước, khi đó thuế đầu ra thường xuyên lớn hơn thuế đầu vào. Trong vài năm trở lại đây, Vĩnh Phúc luôn có mức tăng trưởng cao và không ngừng tăng qua các năm, thị trường giá cả ít biến động, không có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2003, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất là 17,53%, gấp hơn 2 lần tốc độ tăng trưởng của cả nước. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong GDP tăng từ 42,6% năm 2002 lên 45% năm 2003; tỷ trọng dịch vụ tăng từ 28,8% năm 2002 lên 28,9% năm 2003, tương ứng tỷ trọng nông-lâm-thuỷ sản giảm từ 28,6% năm 2002 xuống còn 26,1% năm 2003. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp đạt 9.721 tỷ đồng, tăng 24,2% so với năm 2002 và tăng 2,9% so với kế hoạch. Phần lớn các sản phẩm công nghiệp đều đạt mức tăng cao và tiêu thụ tốt như ô tô, xe máy, cát sỏi, gạch ốp lát, săm lốp, giầy thể thao. Thương mại - dịch vụ phát triển mạnh: luôn duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao, chất lượng một số ngành dịch vụ đã tốt hơn đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ năm 2003 đạt 1.680 tỷ đồng, tăng 18,7% so với năm 2002. Tổng mức bán lẻ trên thị trường đạt 2.552 tỷ đồng, tăng 9,9% so với năm 2002, đạt 105% kế hoạch. Nông nghiệp đã có bước chuyển dịch về cơ cấu sản xuất, giữ được nhịp độ tăng trưởng và có sản xuất hàng hoá. Giá trị nông-lâm-thuỷ sản tăng 8,2% so với năm 2002. Cơ cấu sản xuất gắn với thị trường, tằng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, mặc dù tỷ trọng giảm song vẫn tăng cao về số lượng. Năng suất lao động tăng lên rõ rệt, GDP bình quân đầu người tính theo giá thị trường tăng 20,1%, thu nhập và sức mua của người dân ở nhiều vùng tăng lên, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo còn 8,7% (giảm 1% so với năm 2002). Trong năm đã giải quyết việc làm cho 18.500 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 22,64% (tăng 2,4% so với năm 2002), tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 2,37%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đạt 81,13%, xuất khẩu 1.000 lao động sang các nước trong đó chủ yếu là Đài Loan và Malaysia. 2/ Nhà nước phải thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật Thu thuế và quản lý thuế của nhà nước đối với nền kinh tế là hai mặt của một quá trình tóng nhất biện chứng với nhau. Khi áp dụng thuế GTGT, nếu nhà nước không quản lý được nền kinh tế thì không những không thu được thuế mà còn có thể bị mất đi một phần thuế ở khâu trước do phải hoàn thuế. Hiện nay, Cục thuế Vĩnh Phúc đang thực hiện quản lý thuế đối với tất cả các đối tượng nộp thuế theo quy định của các luật thuế trong đó có luật thuế GTGT. Các đối tượng thuộc quản lý của Cục thuế Vĩnh Phúc tính đến năm 2003 bao gồm: - Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: trên 100 doanh nghiệp; - Doanh nghiệp ngoài ngoài quốc doanh (Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, HTX …): trên 700 doanh nghiệp; - Hộ sản xuất-kinh doanh: trên 10.000 hộ. 3/ Các cơ sở kinh doanh đều thực hiện việc ghi chép , sổ sách kế toán phải thống nhất và hoá đơn chứng từ phải được sử dụng trong mọi giao dịch Việc tính toán, theo dõi và quản lý chỉ có thể thực hiện trên cơ sở chế độ kế toán thống nhất, hoá đơn chứng từ đầy đủ. Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp khi thành lập và đi vào hoạt động đều phải thực hiện theo chế độ kế toán hiện hành, thực hiện theo quy định về chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ trong các hoạt động giao dịch mua bán. Địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ngoài các doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam … đều phải thực hiện theo những quy định trên, trên địa bàn còn xem xét thực hiện mở sổ sách kế toán cho các hộ kinh doanh, đưa các hộ này vào diện quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN hàng tháng với các hình thức: nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, nộp thuế trực tiếp trên GTGT, nộp thuế trực tiếp trên doanh thu. Biểu số 8: Tình hình quản lý hộ kinh doanh trên địa bàn Vĩnh Phúc qua các năm 2001, 2002, 2003 Đơn vị tính: hộ Hộ kinh doanh nộp thuế theo Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Theo phương pháp khấu trừ 71 89 143 Trực tiếp trên GTGT 85 104 166 Trực tiếp trên doanh thu 468 669 977 Tổng số 642 862 1.286 Theo bảng trên ta thấy số hộ kinh doanh được đưa vào quản lý thu thuế thường xuyên ngày càng tăng qua các năm. Điều này thể hiện sự quản lý của Cục thuế đối với các đối tượng là hộ sản xuất-kinh doanh ngày càng sát sao, chặt chẽ. 4/ Quan hệ thanh toán trong nền kinh tế phải phát triển Khi mà đại bộ phận các quan hệ thanh toán, giao dịch đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng thì nhà nước cũng thông qua ngân hàng để kiểm tra, giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp, kiểm tra được việc kê khai, tính thuế và nộp thuế GTGT của doanh nghiệp. Hiện trên địa bàn tỉnh các hình thức giao dịch cũng đã phát triển song còn rất nhiều doanh nghiệp không sử dụng các hình thức giao dịch qua ngân hàng, hoặc có mở tài khoản nhưng ít sử dụng hoặc không sử dụng, việc thanh toán, giao dịch và nộp thuế vẫn thường xuyên sử dụng hình thức “Tiền mặt”. 5/ Trình độ cán bộ quản lý thu thuế Cán bộ quản lý thu thuế đòi hỏi phải được đào tạo, có đủ trình độ và năng lực để thực hiện các qui trình, kĩ thuật, quản lý thu thuế đúng theo quy định của Luật thuế và Nhà nước. Cục thuế Vĩnh Phúc luôn luôn quan tâm đến đội ngũ cán bộ, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ. Thực hiện tinh giảm biên chế, thiên về chất lượng. Cục thuế Vĩnh Phúc hiện có hơn một nửa số cán bộ có trình độ Đại học và trên Đại học, còn lại là những cán bộ có trình độ Trung cấp nhưng đã công tác lâu năm trong lĩnh vực tài chính, có nhiều kinh nghiệm về quản lý. 6/ Các cơ sở kinh doanh phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và tính tự giác trong kê khai nộp thuế Hầu hết các cơ sở kinh doanh đều tự giác trong việc kê khai nộp thuế theo quy định mới của Luật thuế GTGT. Tuy nhiên ý thức chấp hành còn chưa tốt, nhiều doanh nghiệp còn kê khai thiếu, kê khai sai hoặc bỏ sót, có doanh nghiệp không tự kê khai được, không kê khai đúng thời gian quy định phải đợi sự thúc giục của cán bộ quản lý thuế. 7/ Trình độ dân trí tương đối cao, người dân phải hiểu được nghĩa vụ đóng thuế, biết ghi chép, đọc, tính thuế và sử dụng hoá đơn chứng từ. Đó chính là cơ sở cho việc tính thuế. khi người dân đã có trình độ dân trí tương đối cao thì họ mới có khả năng nắm bắt được những đặc điểm của luật thuế GTGT, hiểu được ý nghĩa của thuế GTGT, mới có ý thức thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình. Giáo dục - đào tạo có vai trò quan trọng trong việc thực hiện luật thuế GTGT. Giáo dục và đào tạo là nhằm nâng cao trình độ dân trí của nhân dân, nuôi dưỡng thế hệ trẻ về trí tuệ và ý thức nghĩa vụ công dân. Đây chĩnh là điều kiện để thực hiện tốt luật thuế GTGT, đưa luật thuế GTGT vào đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Năm 2003, qui mô giáo dục đào tạo ở các cấp bậc của tỉnh ổn định song chất lượng giáo dục đào tạo lại được nâng cao. Số lượng học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi ngày càng tăng, riêng lớp 12 có 50 học sinh giỏi cấp quốc gia đứng thứ 6 cả nước, có 2 học sinh tham gia Olympic quốc tế và đều đạt huy chương đồng, tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn tăng đáng kể, công tác xã hội hoá giáo dục được coi trọng, là tỉnh thứ 13 trên 19 tỉnh được công nhận là tỉnh đạt chuẩn hoá phổ cập THCS. Đây là những điều kiện cơ bản đảm bảo cho Luật thuế GTGT được triển khai sâu rộng và đạt kết quả tốt trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong hiện tại và trong tương lai. 8/ Phải có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại trong quản lý thuế. Cụ thế là cần phải có hệ thống máy vi tính nối mạng giữa các cơ sở kinh doanh với cơ quan thuế cũng như nội bộ ngành thuế. Cục thuế Vĩnh Phúc đã được trang bị hệ thống may tính tới tất cả các phòng để phục vụ hỗ trợ cho việc quản lý thuế. Tuy nhiên hệ thống máy tính này mới chỉ được nối mạng nội bộ trong ngành thuế, giữa các chi Cục thuế và Cục thuế với nhau, việc khai thác hệ thống này rất kém hiệu quả, đặc biệt là trong việc truyền tin và khai thác thông tin qua mạng. Số cán bộ có khả năng sử dụng và khai thác hệ thống này chưa nhiều. Nói chung tỉnh Vĩnh Phúc là địa bàn có tương đối đầy đủ các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện và thực hiện tốt Luật thuế GTGT. Không chỉ thế, Vĩnh Phúc còn có khả năng thực hiện tốt các chính sách mà nhà nước đạt ra dựa vào sức mạnh đại đoàn kết của toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. 2.2 THỰC TRẠNG CỦA QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ VĨNH PHÚC 2.2.1 Những vướng mắc, tồn tại * Về các quy định của luật: - Một số quy định không rõ ràng về điều kiện được hưởng thuế suất 0% như đối với các hàng hoá xuất khẩu tại chỗ, các điều kiện thanh toán qua ngân hàng, các trường hợp xuất khẩu tiểu ngạch ... làm cho cơ quan thuế gặp phải nhiều khó khăn trong việc xem xét, kiểm tra hoàn thuế cho đơn vị. - Quy trình hoàn thuế không quy định rõ ràng, không có những văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể. Công tác hoàn thuế hiện đang thực hiện theo Quy trình quản lý hoàn thuế GTGT của Quyết định số 1329 TCT/QĐ/NV1 ngày 18 tháng 9 năm 2002 của Tổng cục trưởng Tổng Cục thuế. theo quy trình này thì không quy định rõ các điều kiện của từng trường hợp được hoàn thuế như các điều kiện về thanh toán đối với các hoạt động xuất khẩu hàng hoá, các hoạt động mua bán hàng hoá khác, trong mục kiểm tra thanh tra có quy định về kiểm tra các chỉ tiêu liên quan đến số thuế GTGT đề nghị hoàn trên hồ sơ nhưng không chỉ rõ đó là những chỉ tiêu nào, cụ thể ra sao nên có thể dẫn đến sai sót trong khi kiểm tra, thanh tra. Thời gian thực hiện hoàn thuế quá gấp trong điều kiện hiện tại khiến cho hồ sơ không được chặt chẽ, có những hồ sơ mà trong đó có một số giấy tờ không có đủ các điều kiện theo quy định như con dấu hành chính ... dẫn đến lơi lỏng trong việc kiểm soát như các loại chứng từ thanh toán, hợp đồng, hoá đơn, tờ khai hải quan ... do đó không đảm bảo tính chính xác, trung thực của các số liệu đề nghị hoàn thuế, nếu đơn vị xin hoàn thuế bị phát hiện có sai phạm thì cũng không phải chịu trách nhiệm mấy về những con số này. Nếu không được hoàn thì lại được khấu trừ vào kỳ sau, còn nếu đã hoàn thì cơ quan thuế lại gặp phải khó khăn trong việc truy hoàn số thuế đã hoàn sai. - Việc kiểm tra, thanh tra chưa làm được nhiều: Ngoài việc kiểm tra, thanh tra các đơn vị có hồ sơ xin hoàn thuế và những đơn vị đã được hoàn thuế, cơ quan thuế còn tiến hành kiểm tra, thanh tra thuế bước 2 đối với các đơn vị sản xuất - kinh doanh khác nhằm chống thất thu thuế, chống hiện tượng tránh, trốn thuế. Biểu số 9: Tình hình kiểm tra, thanh tra tại Cục thuế Vĩnh Phúc qua các năm 2001, 2002, 2003 Đơn vị tính: Doanh nghiệp Năm 2001 2002 2003 Số doanh nghiệp 386 514 835 Số doanh nghiệp được kiểm tra 69 115 164 Tỷ lệ (%) số doanh nghiệp được kiểm tra 18,75 22,37 19,64 Từ bảng trên cho thấy số doanh nghiệp được kiểm tra qua các năm ngày càng tăng song nhìn chung tỷ lệ số doanh nghiệp được kiểm tra vẫn không có sự thay đổi nhiều. 2.2.2 Nguyên nhân - Tính thống nhất trong các luật như luật thuế, luật hải quan, luật ngân hàng, luật thương mại … còn chưa cao, có những điểm không thống nhất, tạo kẽ hở cho những đơn vị làm ăn gian lận lợi dụng để tránh thuế, trốn thuế và chiếm đoạt tiền của nhà nước thông qua hoàn thuế. - Phạm vi quyền hạn của cơ quan thuế bị hạn chế, cơ quan thuế chỉ có chức năng hành thu và ra quyết định xử phạt hành chính đối với các vi phạm về pháp luật thuế với mức độ thấp, không có những công cụ cưỡng chế đối với các đơn vị này và phải thông qua cơ quan khác để thực hiện cưỡng chế như đơn vị cảnh sát, viện kiểm sát, toà án … Do đó gặp phải nhiều khó khăn trong công tác hành thu, truy thu, truy hoàn… Hơn nữa cơ quan thuế lại không có điều kiện để đi kiểm tra, thẩm tra, xác minh, đối chiếu, thực tế nên có nhiều trường hợp giam lận không phát hiện được hoặc phát hiện được khi nó đã tồn tại được một thời gian không phải là ngắn. - Hệ thống quản lý còn nhiều hạn chế, không ứng dụng được những thành tựu của khoa học công nghệ vào quản lý, đặc biệt là những ứng dụng của công nghệ thông tin, công nghệ tin học, trong việc quản lý thuế, trong việc xác minh tính chính xác, trung thực của nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Hiện tại mặc dù ở tất cả các cơ quan thuế từ chi cục đến các phòng của cục thuế đã được trang bị hệ thống mạng máy tính nội bộ ngành song hiệu quả đem lại chưa có gì đáng kể. Việc khai thác thông tin qua hệ thống này còn rất kém, như việc xác minh hoá đơn giữa các cơ quan thuế, tìm kiếm thông tin về doanh nghiệp, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp … vẫn chưa được thực hiện qua hệ thống này. - Trình độ của cán bộ thuế vẫn còn những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế công việc. Ngày nay việc quản lý thuế cần phải thực hiện với sự hỗ trợ của hệ thống thiết bị hiện đại, ngoài trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ thuế, kế toán ra còn đòi hỏi người cán bộ thuế có trình độ tiếp thu học hỏi những ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào quản lý. Tuy nhiên thực tế cho thấy số cán bộ có khả năng sử dụng các thiết bị hiện đại như máy tính, khai thác thông tin qua mạng internet … chưa nhiều, điều này đã hạn chế nhiều năng lực quản lý của ngành thuế, ảnh hưởng đến số thu cho ngân sách nhà nước. - Việc phối kết hợp giữa các phòng ban, các bộ phận và các cơ quan hữu quan khác trong việc kiểm tra, kiểm soát còn chưa chặt chẽ. Trước hết là sự phối hợp với Sở kế hoạch và đầu tư trong việc theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà họ đã cấp giấy đăng ký kinh doanh. Tình trạng không biết doanh nghiệp có hoạt động hay không họ không nắm vững. Từ đó dẫn tới sự phối hợp mang lại hiệu quả không cao, đó là cơ sở cho sự ra đời của các doanh nghiệp thành lập ra chỉ với mục đích “kinh doanh” hoá đơn… góp phần làm công tác quản lý thuế, hoàn thuế thêm phức tạp. Sự phối hợp với cơ quan thuế các cấp cũng chưa đạt hiệu quả cao. Ví dụ công tác xác minh hoá đơn. Việc xác minh hoá đơn được tiến hành giữa các cơ quan thuế cùng cấp nên việc các cơ quan thuế khác có trả lời yêu cầu của hay không, thời gian nhanh hay chậm hoàn toàn phụ thuộc vào tinh thần hỗ trợ, hợp tác từ phía bạn, không có giám sát của một cơ quan hay cấp có thẩm quyền nào trong công tác xác minh hoá đơn. Điều này gây khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra và hoàn thuế. Ngoài ra, cơ quan thuế cần phải phối hợp với công an kinh tế, hải quan, quản lý thị trường, ngân hàng, bộ đội biên phòng…trên thực tế sự phối hợp này gặp phải những khó khăn nhất định như không có quy định rõ ràng về người đứng ra chịu trách nhiệm lãnh đạo chung giữa các cơ quan trên. Mặt khác, trong xử lý các vụ vi phạm liên quan đến hoàn thuế, Cục thuế Vĩnh Phúc cũng như các cục thế khác không có quyền điều tra, tố tụng mặc dù những dấu hiệu vi phạm này do Cục thuế phát hiện ra nhưng lại phải chuyển sang cơ quan điều tra để điều tra. Hoặc việc kiểm tra sau hoàn thuế, có những vụ vi phạm không phải ở khâu liền kề mà vi phạm ở những khâu trung gian nhưng khi đến khâu liền kề thì các hoá đơn, chứng từ đã được hợp pháp hoá. Trong trường hợp này Cục thuế cũng chỉ có thẩm quyền kiểm tra đối chiếu ở khâu liền kề, không có thẩm quyền điều tra. Như vậy sẽ khó phát hiện ra các trường hợp vi phạm. Trong thực tế thì cơ quan thuế là người biết rõ nhất là đối tượng đó có vi phạm hoàn thuế hay không vì họ quản lý đối tượng nộp thuế xin hoàn thuế vì vậy phải trao quyền điều tra xét hỏi hoặc chỉ đạo chung các bộ phận điều tra trong lĩnh vực hoàn thuế mới là điều hợp lý. - Trình độ và nhận thức của đối tượng nộp thuế về luật thuế còn chưa đầy đủ, ý thức chấp hành luật thuế chưa tốt trong khi hệ thống kiểm soát tại doanh nghiệp còn chưa chặt chẽ. Có nhiều doanh nghiệp cố tình vi phạm các quy định về kế toán, chứng từ, hoá đơn, tìm mọi cách để tìm ra những kẽ hở của luật thuế và dựa vào đó làm sai, trốn, tránh và chiếm đoạt tiền thuế. Cũng nhận thấy rằng trình độ và sự hiểu biết về luật thuế còn chưa cao, số doanh nghiệp có nhân viên kế toán có trình độ đại học không nhiều, chủ yếu là cao đẳng và trung cấp, thậm chí có một số doanh nghiệp tư nhân, TNHH do chủ doanh nghiệp tự làm. Do đó không tránh khỏi những sai sót trong việc tính thuế, kê khai thuế và nộp thuế. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.1 NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Việc hoàn thuế giá trị gia tăng cần phải đảm bảo được những yêu cầu sau đây: - Hoàn thuế giá trị gia tăng phải thực hiện theo đúng quy trình hoàn thuế đã ban hành nhằm đảm bảo đầy đủ thủ tục về hành chính, các hoá đơn chứng từ phải được kiểm tra để đảm bảo hợp lệ, hợp pháp nhằm tránh hiện tượng đơn vị xin hoàn thuế sử dụng hoá đơn, chứng từ … giả, sai quy định, sai thực tế để xin hoàn thuế, sử dụng hoá đơn xin hoàn không đúng với thực tế nhằm chiếm đoạt tiền thuế. - Hoàn trả đúng số thuế yêu cầu của đơn vị xin hoàn thuế nếu tất cả các điều kiện xin hoàn thuế của doanh nghiệp đều chính xác và tin cậy. Nếu trong quá tình kiểm tra phát hiện thấy số thuế doanh nghiệp đề nghị hoàn không phù hợp với những số liệu kiểm tra thì phải tiến hành xử lý, điều chỉnh số thuế hoàn cho doanh nghiệp theo kết quả kiểm tra, thanh tra. Đảm bảo hoàn đúng số thuế đơ vị được hoàn theo quy định của luật thuế giá trị gia tăng. - Thời gian hoàn thuế thực hiện nhanh chóng, đảm bảo hoàn trả một cách nhanh chóng và kịp thời một lượng vốn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp khắc phục khó khăn về tài chính. 3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước Các giải pháp đặt ra trước hết cần phải bắt nguồn từ phía cơ chế chính sách, pháp luật của nhà nước. Có thể nêu ra một số giải pháp sau: - Bộ Tài Chính và Chính phủ tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi các quy định của luật thuế giá trị gia tăng để luật thuế giá trị gia tăng ngày càng phù hợp hơn với tình hình thực tế. + Nên có những văn bản hướng dẫn một cách chi tiết về thực hiện các quy định của luật thuế, nghị định, quyết định, các văn bản pháp luật khác về thuế giá trị gia tăng và các quy trình quản lý thuế giá trị gia tăng nhằm làm cơ sở cho việc thực hiện, tránh những sai sót, quan liêu, tắc trách trong quản lý. + Bổ sung vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hoá, dịch vụ để đảm bảo mục tiêu của thuế giá trị gia tăng là điều chỉnh hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng, tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế và hoàn thuế trở nên đơn giản, rõ ràng hơn và liên hoàn trong quá trình sản xuất. + Sắp xếp lại danh mục hàng hoá, dịch vụ chịu các mức thuế suất 0%, 5% và 10% theo hướng chỉ áp dụng mức thuế suất 0% cho các hàng hoá xuất khẩu, giảm dần danh mục hàng hoá chịu mức thuế suất 5% và tiến tới áp dụng thống nhất mức thuế suất 10% đối với tất cả các hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng đến năm 2005. - Chính phủ cùng với các bộ, ngành tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các luật như luật thuế, luật thương mại, luật ngân hàng ... nhằm tạo sự chặt chẽ và thống nhất trong quản lý. Đặc biệt nghiên cứu tăng cường quyền hạn cho cơ quan thuế các cấp trong việc quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế cũng như trong việc yêu cầu phối hợp với các cơ quan hữu quan khác như công an, ngân hàng ... trong việc cưỡng chế thi hành pháp luật về thuế. Cần có thêm những chế tài nghiêm khắc hơn nữa đối với các hành vi vi phạm, đặc biệt là hành vi cố tình lợi dụng các quy định để trốn, tránh và chiếm đoạt tiền của nhà nước thông qua hoàn thuế. - Chính phủ nghiên cứu tiến hành đưa pháp luật về thuế không chỉ vào đời sống mà phải đưa vào cả các trường học (từ cấp trung học đến đại học) nhằm giảng dạy cho thế hệ trẻ những hiểu biết về pháp luật thuế, hiểu được ý nghĩa của từng luật thuế, hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm về thuế đối với nhà nước, tạo cho thế hệ trẻ một ý thức về nghĩa vụ thuế của công dân, coi đó không chỉ là nghĩa vụ mà đó còn là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi công dân. Như vậy sẽ tạo cho toàn xã hội ý thức tự giác chấp hành pháp luật thuế. 3.2.2 Giải pháp từ phía cơ quan thuế - Nâng cao trình đội ngũ cán bộ công chức của Cục thuế Nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định sự thành công của hoạt động quản lý và những hoạt động khác. Xét về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ công chức ngành thuế Vĩnh Phúc so với các địa phương trên cả nước có thể nói ở mức cao, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một bộ phận cán bộ – tập trung ở các chi cục – về chuyên môn nghiệp vụ chưa thật vững vàng. Môi trường kinh tế ngày càng biến động phức tạp, đòi hỏi các cán bộ của ngành thuế phải không ngừng nâng cao trình độ lẫn đạo đức nghề nghiệp để hình thành một đội ngũ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ thuế, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ về tin học, ngoại ngữ, có tinh thần phục vụ cao, theo kịp sự biến động của nền kinh tế, thực hiện tốt cơ chế, chính sách của Nhà nước. Vì vậy Cục thuế nên chú trọng về đào tạo nhân sự theo hướng: + Bổ sung các cán bộ nghiệp vụ còn thiếu cho phù hợp với tính chuyên môn của công tác hoàn thuế. + Cử cán bộ tham gia học tập tại trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ của Tổng Cục Thuế một cách thường xuyên, cần có sự kiểm tra đánh giá trong quá trình đào tạo một cách nghiêm túc về công tác quản lý thuế nói chung, công tác hoàn thuế nói riêng. + Kết hợp với Tổng Cục Thuế đưa cán bộ có năng lực, trình độ ra nước ngoài nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm về quản lý thuế ở các nước phát triển, nhất là các nước áp dụng thành công sắc thuế GTGT như Cộng Hoà Pháp… + Cục thuế nên tập trung vào việc đào tạo cho các cán bộ thuế về lĩnh vực máy tính và khai thác những ứng dụng của công nghệ thông tin vào quản lý thuế, đào tạo chuyên sâu cho các công chức trong ngành sử dụng máy tính đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý, hoàn thuế bởi hiện nay có một bộ phận lớn công chức của ngành trình độ sử dụng máy tính chỉ dùng lại dưới dạng soạn thảo văn bản. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống máy tính, ứng dụng các phần mềm quản lý hiện đại đặc thù cho ngành. Nối mạng máy tính đến tận đơn vị, cơ sở sản xuất-kinh doanh để nhàm trao đổi các thông tin một cách nhanh chóng. Sử dụng mạng máy tính vào một số cồn việc nhằm năng cao năng lực quản lý và hiệu quả công tác như công tác kiểm tra, xác minh hoá đơn, chứng từ, ra quyết định, gửi thông báo một cách nhanh chóng cho các đơn vị về hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vi phạm pháp luật thuế ... - Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, phòng, ban trong việc quản lý, kiểm tra các đối tượng nộp thuế. Đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với sở Kế hoạch - Đầu tư tại địa bàn tỉnh và các tỉnh khác trong việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, hạn chế được các trường hợp doanh nghiệp sử dụng các thủ đoạn để tránh, trốn thuế và chiếm đoạt tiền thuế. - Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn, hỗ trợ đối tượng nộp thuế. Mặc dù bộ phận tư vấn hỗ trợ đối tượng nộp thuế đã được thành lập để giải đáp, giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế song hiệu quả của công tác này còn chưa cao. Nên mở rộng các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế thông qua các phương tiện truyền thông như điện thoại, panô - áp pích, trang web về thuế ... - Tổ chức khuyến khích và tạo điều kiện cho các cán bộ thuế tham gia nghiên cứu các vấn đề về thuế nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời các vấn đề về thuế nảy sinh trong thực tế, trình Bộ Tài Chính và Chính Phủ bổ sung sửa đổi luật thuế cho phù hợp hơn với thực tế. - Tổ chức tập huấn cho các đơn vị về một số nghiệp vụ thuế như tính thuế, các quy trình, quy định mới … Tổ chức hội nghị biểu dương các đơn vị thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, thông qua đây cũng là hình thức để giúp cho doanh nghiệp có những thuận lợi, quảng cáo cho thương hiệu và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp khác thực hiện tốt nghĩa vụ thuế và nộp ngân sách. 3.2.3 Giải pháp từ phía đơn vị sản xuất-kinh doanh Các doanh nghiệp cần phải có đội ngũ nhân viên kế toán có đủ trình độ năng lực để thực hiện đúng các quy định của luật thuế, các quy định và quy trình có liên quan. Do vậy Doanh nghiệp phải thông qua cơ chế tuyển dụng chặt chẽ, tổ chức phối hợp mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên làm công tác kế toán, quản lý: + Tuyển dụng các nhân viên kế toán có trình độ công tác kế toán theo chế độ tuyển dụng. + Cử nhân viên theo học các lớp bồi dưỡng năng cao nghiệp vụ. + Cử nhân viên tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ và tuyên truyền theo yêu cầu của cơ quan thuế. Ngoài ra bản thân các doanh nghiệp cần phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và có ý thức chấp hành pháp luật thuế nói riêng trong đó có luật thuế giá trị gia tăng. Doanh nghiệp phải coi đây không chỉ là nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước mà còn là trách nhiệm và quyền lợi của bản thân doanh nghiệp. KẾT LUẬN N hững câu hỏi về thuế GTGT như: thuế GTGT có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế? Thuế GTGT có đặc điểm gì tiến bộ hơn so với thuế Doanh thu?… Nước ta có nên áp dụng thuế GTGT hay không? đến bây giờ có thể nói đã được lý luận và thực tiễn trả lời đầy đủ, việc áp dụng thuế GTGT là hoàn toàn đúng đắn. Qua 5 năm thực hiện Luật thuế GTGT ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đã thu được những thành công nhất định như khuyến khích xuất khẩu, tăng cường công tác quản lý, hạch toán kế toán của doanh nghiệp, không những đảm bảo mà còn tăng được nguồn thu và số thu cho ngân sách Nhà nước, góp phần đưa Hệ thống thuế nước ta phù hợp với các nước trong khu vực và thế giới…Tuy nhiên đây là sắc thuế mới nên việc xây dựng và thực hiện Luật thuế GTGT gặp những khó khăn vướng mắc, đặc biệt những khó khăn vướng mắc trong công tác hoàn thuế tại các Cục thuế trong thực hiện là điều không thể tránh khỏi. Qua thời gian thực tập tại Cục thuế Vĩnh Phúc, đứng trên giác độ của một người quản lý thuế của Cục thuế, em đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị với mục đích góp phần hoàn thiện quy trình công tác hoàn thuế của Cục thuế. Tuy nhiên, với lượng thời gian thực tập, kiến thức hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có nên việc nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi sai lầm và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy cô giáo, cán bộ trong ngành và các bạn để bài viết mang tính thực tiễn hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các bác, các cô chú và các anh chị công tác tại Cục thuế Vĩnh Phúc và thầy giáo, giáo sư – tiến sĩ Cao Cự Bội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Giáo trình Quản lý thuế – Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội. 2- Tạp chí Thuế Nhà Nước năm 2001, 2002, 2003. 3- Tạp chí Bản tin sinh hoạt chi bộ (Vĩnh Phúc) số 1+2 năm 2004. 4- Báo Vĩnh Phúc xuân 2004 5- Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi bổ sung – Nhà xuất bản Thống Kê tháng 12/2003. 6- Quyết định số 1329 TCT/QĐ/NV1. 7- Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2001 – phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2002 – Cục thuế Vĩnh Phúc. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2002 – phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2003 – Cục thuế Vĩnh Phúc. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2003 – phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2004 – Cục thuế Vĩnh Phúc. 8- Một số tài liệu, sách báo, tạp chí khác có liên quan.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1900.Doc