Chuyên đề Phân tích các nhân tố tác động đến sản lượng cà phê bằng mô hình kinh tế lượng

Trong xu thế hiện nay, khi nhà nước không còn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thì vai trò của các hiệp hội trong việc định hướng sản xuất kinh doanh là rất quan trọng và cần thiết. Hiệp hội là cầu nối giữa giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Qua hiệp hội, hoạt động của doanh nghiệp sẽ được phản ánh nhanh chóng và chính xác tới các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời hiệp hội cũng có thể tham mưu cho Nhà nước trong việc hoạch định và ban hành các chính sách phù hợp, kịp thời. Hiệp hội hoạt động tốt sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, cần củng cố, nâng cao vai trò của Hiệp hội Cà phê – ca cao. Hiệp hội phải phối hợp với các các chi hội, đánh giá khả năng thị trường, sản lượng, có tính đến các yếu tố về thời điểm để định hướng cho các hội viên. Bên cạnh đó, nước ta cũng tích cực tổ chức lại sản xuất, xây dựng ngành hàng cà phê và quản lý ngành hàng có hiệu quả cao, ngăn ngừa rủi ro tác động xấu đến sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam. - Tổ chức nông dân ngành cà phê tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật tiên tiến, thực hiện các thực hành nông nghiệp tốt và thực hành chế biến tốt, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả. Lâu nay có tới trên 90% diện tích và sản lượng cà phê là thuộc về các chủ trang trại, chủ vườn, các hộ nông dân làm ăn riêng lẻ. Với trên 500 ngàn hộ nông dân trồng cà phê, việc chuyển giao kỹ thuật, giới thiệu thông tin đều rất khó khăn. Và cả việc ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm theo quyết định 80 cũng gặp nhiều trở ngại. ở các mô hình trinh diễn về sản xuất cà phê bền vững, người ta đã tổ chức các nhóm nông hộ và đã mang lại hiệu quả tốt. Từ các nhóm nông hộ, các câu lạc bộ, các tổ hợp tác rồi hợp tác xã dịch vụ chúng ta có thể dễ dàng hơn trong việc đầu tư cho nông dân. Là thành viên của WTO chúng ta cần có tổ chức đầu tư cho nông dân đúng với quy định của tổ chức này. Những người trồng cà phê cần được hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất như giao thông, thuỷ lợi, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu. Họ cũng cần hoạt động của các tổ chức khuyến nông, cung cấp thông tin về giá cả thị trường. Những điều này nhà nước hoàn toàn có thể làm được với chính sách hỗ trợ theo “hộp xanh” hoặc hỗ trợ theo “chương trình phát triển” của Việt Nam. - Ngành cà phê cũng cần được tổ chức để có thể tự hỗ trợ cho mình bằng quỹ bảo hiểm cà phê giống như các quỹ cà phê Coffee Fund của Colombia hay thông qua các quỹ hỗ trợ như BCC ( Bourse du cafe et cacao ) của Cot Divoa. - Tăng cường hoạt động của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam để Hiệp hội thực sự là tổ chức đại diện cho lợi ích của ngành cà phê, phục vụ sự nghiệp xây dựng một ngành cà phê Việt Nam phát triển bền vững.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2437 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích các nhân tố tác động đến sản lượng cà phê bằng mô hình kinh tế lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam và cả các hộ nông dân trồng cà phê đã tham gia và được cấp các chứng chỉ như UTZ Certified, Fair Trade, cafe 4C, và cũng có nhiều doanh nghiệp đang phấn đấu sản xuất cà phê hữu cơ. Tại Việt Nam, do lợi nhuận từ cà phê cao, người dân đã tăng diện tích trồng bằng nhiều cách khác nhau như phá bỏ các loại cây khác, phá rừng…để trồng cà phê. Trong nửa cuối thập kỷ 90, diện tích cà phê của Việt Nam tăng trung bình 23,9%/năm, sản lượng tăng trên 20%/năm; và năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng nhanh với mức độ tăng lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%. Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng thứ hai (sau gạo) của Việt Nam, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu lần đầu vượt 1 tỷ USD, năm 2007 kim ngạch đã vượt mức 1,5 tỷ USD. Năm 2007,2008 là những năm thành công đối với ngành cà phê của nước ta. Năm 2007, lượng cà phê xuất khẩu đạt 1.209 nghìn tấn và kim ngạch đạt 1.88 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2008 ngành cà phê Việt Nam xuất khẩu đạt 954 nghìn tấn với kim ngạch 1,95 tỉ USD, giảm 22,4% về lượng nhưng vẫn tăng 2,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Tính trung bình cả năm 2008, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt 2.044 USD/T, tăng 31% so với năm 2007. Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong năm 2009 ước đạt 980 nghìn tấn với giá trung bình khoảng 1.800 USD/T, tương đương với kim ngạch khoảng 1,764 tỉ USD, giảm 8,6% về lượng và giảm 17,4% về trị giá so với năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam (triệu USD) Năm Cà phê Tổng kim ngạch cả nước % Tổng kim ngạch 2003 504,8 2,5 20.176,0 2004 641,0 2,42 26.503,3 2005 735,5 2,27 32.442,0 2006 1.217,2 3,06 39.826,2 2007 1.880,3 3,87 48.561,4 Tháng 3 năm 2008 682,5 5,19 13.160,8 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu- Bộ Công Thương Cà phê được coi là cây trồng mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp của các tỉnh Tây Nguyên. Thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư hàng chục tỷ đồng mua sắm trang thiết bị hiện đại, nhằm từng bước nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu. Nước ta sản xuất và xuất khẩu hai loại cà phê chủ yếu là cà phê Robusta và cà phê Aribica. Cà phê Robusta chiếm hơn 65% diện tích (90% sản lượng). Về chất lượng và hương vị thì cà phê Robusta không thể so sánh với cà phê Arabica. Tuy nhiên, giống này vốn được trồng nhiều ở Châu phi, vùng có khí hậu nóng ẩm, chất lượng khong cao, khi được trồng ở vùng cao nguyên nước ta đã làm cho chúng có được hương vị đặc biệt, chất lượng thơm ngon, nó hoàn toàn có thể cạnh tranh được với cà phê Arabica của các nước khác. Xuất khẩu cà phê chiếm 13% tổng giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam, trở thành nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới, chiếm 43% thị phần cà phê vối thế giới. 2.2.2 Những thực trạng Tuy nhiên qua cuộc khủng hoảng cung cấp thừa trên phạm vi toàn cầu vừa qua chúng ta có thể thấy rõ ngành cà phê nước ta đã bộc lộ không ít điểm còn chưa thực sự bền vững, và sau khi gia nhập WTO chúng ta cũng gặp nhiều thách thức phải vượt qua. Những vấn đề cần được quan tâm nhất của ngành cà phê nước ta là: Vấn đề chất lượng sản phẩm. Mặc dù có nhiều thành tựu, diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta không ngừng tăng lên nhưng chi phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm vẫn cao, chất lượng cà phê còn thấp, nên giá bán sản phẩm giảm, dẫn đến sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới chưa cao. Cà phê xuất khẩu của Việt Nam có khối lượng lớn, trong đó chủ yếu là cà phê Robusta nhưng chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam chưa đồng đều, đặc biệt là số lượng cà phê xuất khẩu bị thải loại còn chiếm tỷ lệ cao (hơn 80%) trong tổng số cà phê bị thải loại của thế giới. Chất lượng cà phê Robusta của nước ta không cao là tác động tổng hợp của cả quá trình trồng trọt, thu hái, chế biến dẫn đến. Sản lượng cà phê vối của Việt Nam lớn nhất nhưng chưa có khả năng dẫn dắt giá cả thị trường do chất lượng cà phê không cao. Cơ hội xuất khẩu của cà phê Việt Nam rất sáng sủa. Trên thực tế sản lượng và kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục trong những năm gần đây. Nhưng thực tế người tiêu dùng thế giới ít biết đến cà phê Việt Nam. Nói cách khác, cà phê Việt Nam xuất hiện như một loại nguyên liệu chứ không phải một thương hiệu. Nguyên nhân là do chất lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam còn thấp. Nhà phân tích thị trường cà phê FO Litchs cho biết, trong số cà phê đạt tiêu chuẩn chất lượng của Ủy ban Điều hành Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) do thị trường cà phê London (LIFFE) phân loại năm 2005 thì Việt Nam chiếm 89%, năm 2006 là 88%, năm 2007 chất lượng cà phê có khá hơn nhưng vẫn chiếm 66%. Báo cáo của Uỷ ban điều hành ICO nhận định sự chậm trễ áp dụng tiêu chuẩn chất lượng mới của Việt Nam đã làm tăng lượng cà phê bị loại ra theo phân loại của LIFFE. Chúng ta vẫn đang áp dụng Bộ tiêu chuẩn cũ 4193: 93 mà Bộ khoa học Công nghệ đã quyết định thay thế bằng Bộ tiêu chuẩn mới 4193: 2001 rồi 4193: 2005. Đây là một vấn đề đang gây tranh cãi trong ngành cà phê. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đưa ra một lộ trình cho ngành cà phê Việt Nam phấn đấu áp dụng Tiêu chuẩn nhà nước TCVN 4193: 2005 vào năm 2010. Chúng ta hy vọng rằng chất lượng mặt hàng cà phê Việt Nam sẽ có nhiều tiến bộ. Theo đánh giá của cục chế biến nông, lâm, thủy sản, quy trình canh tác, thu hoạch, sơ chế, bảo quản của cà phê chưa đem lại hiệu quả cao nhất. Có đến 45% cơ sở xay xát từ cà phê quả ra cà phê hạt không đạt tiêu chuẩn đã ảnh hưởng đến tiêu chuẩn của cà phê nguyên liệu. Đặc biệt là chất lượng sản phẩm xuất khẩu thì năng lực chế biến ở khâu sơ chế mới đạt 20% khâu tinh chế đạt 40% và công nghệ sấy chất lượng cao chỉ đạt 20%. Theo đánh giá của ICO, Việt Nam chậm áp dụng tiêu chuẩn mới đã làm tăng khối lượng cà phê phẩm chất kém. Hiện nay, trong xuất khẩu cà phê, Việt Nam vẫn áp dụng bộ tiêu chuẩn cũ TCVN 4193:93 ban hành từ năm 1993. Đầu năm 2006, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành tiêu chuẩn mới TCVN 4193:2001. Tuy nhiên, bộ tiêu chuẩn này vẫn chưa nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp và cho đến nay, còn không ít doanh nghiệp áp dụng bộ tiêu chuẩn năm 1993. Ngay trên bản giới thiệu sản phẩm của một số đơn vị xuất khẩu cũng chính thức ghi những tiêu chuẩn theo bản TCVN 4193:93. Vì vậy, dù là nước dẫn đầu xuất khẩu cà phê vối nhưng doanh số và giá trị gia tăng của doanh nghiệp Việt Nam luôn bị trừ lùi 180-200 USD/tấn. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngành cà phê Việt Nam ngày nay vấn đề này cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc các vấn đề sử dụng các loại hoá chất trong bảo vệ thực vật. Chúng ta khuyến khích áp dụng biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) không dùng thuốc trừ sâu bệnh trong danh mục cấm của nhà nước và với liều lượng, nồng độ, phương pháp cho phép. Vừa qua Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam đã nhận được báo cáo khảo sát mặt hàng cà phê của các nước cung cấp cà phê nhân cho Nhật Bản, trong đó có báo cáo số 6 về Việt Nam của Promar Nhật Bản do Hiệp hội cà phê toàn Nật Bản chủ trì, tiến hành từ tháng 4 đến đầu tháng 8 năm 2007. Trong báo cáo này Promar Nhật Bản đã khảo sát một loạt 24 nước trong đó có Việt Nam, người ta đã nêu ra mức tồn dư tối đa của 14 loại nông dược trong hạt cà phê do Uỷ ban Codex quy định. Báo cáo cũng liệt kê tóm tắt các loại thuốc trừ sâu bệnh và trừ cỏ dại đã dùng cho cà phê ở Việt Nam nói chung đều ở mức thấp và trung bình. Người ta cũng đưa ra bảng thống kê so sánh các nước cung cấp cà phê cho Nhật Bản trong đó có Brasil, Colombia, Indonesia, Ethiopia, Guatemala, Việt Nam, tất cả 24 nước, Việt Nam được xếp thứ 6 về lượng nhập khẩu cà phê của Nhật Bản năm 2006 với 31.000 tấn. Điều đáng mừng là Việt Nam chưa mắc lỗi nghiêm trọng nào, nhưng rõ ràng đây là một cảnh báo cho toàn ngành cà phê Việt Nam trong việc sử dụng hoá chất để bảo vệ thực vật. Trong thư của ông giám đốc Hiệp hội cà phê toàn Nhật Bản có ghi rõ là ở cà phê Việt Nam có một số dư lượng thuốc được tìm thấy là Glyphosate 0,02 chưa vượt quá mức giới hạn theo quy định của Bộ y tế Lao động và phúc lợi. Hiệp hội cà phê toàn Nhật Bản cũng nhắc chúng ta cần quan tâm vì có thể những chất này sẽ phát sinh vấn đề vượt qua ngưỡng trong tương lai. Ngoài vấn đề dư lượng thuốc trừ sâu, ngành cà phê còn cần quan tâm đặc biệt đến vấn đề nấm mốc và nhiễm Ochratoxyn A (OTA) trong cà phê. Xây dựng ngành cà phê phát triển bền vững trên cả 3 phương diện: kinh tế, môi trường và xã hội. Một vấn đề quan trọng là áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, thực hành chế biến tốt (GAP và GMP). Cà phê Việt Nam được đánh giá là có năng suất cao nhất thế giới. Đó là kết quả của việc thâm canh cao độ vườn cây với việc tăng cường bón phân tưới nước cho cà phê. Nước, phân, cần, giống là những yếu tố quyết định năng suất cà phê. Tuy nhiên cũng không thể lạm dụng quá mức các yếu tố đó. Bón nhiều phân hoá học, tưới nước với một lượng quá cao, tưới không đúng phương pháp đều tác động xấu đến đất trồng và qua đó ảnh hưởng đến độ bền vững của vườn cây. Chúng ta chủ trương xây dựng hệ thống thực hành nông nghiệp tốt (GAP) trên cơ sở thân thiện với môi trường, thân cận sinh thái. Vườn cà phê có cây che bóng, có đai rừng, trồng xen theo hướng đa dạng sinh học, đa dạng sản phẩm. Người ta đã trồng xen trong vườn cà phê các cây ăn quả như sầu riêng, cây hoa hoè, cây quế và cả cây ca cao... Cũng có thể trồng xen hồ tiêu trong vườn cà phê với cây choái sống là cây ngân hoa (silk oak) họ Proteaceae- chẹo thui. Đây là một công thức có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao và đã được áp dụng khá rộng rãi ở Ấn Độ. Trong sản xuất cà phê thường sản sinh ra nhiều chất thải, nhất là trong khâu chế biến với cả 2 phương pháp chế biến khô và ướt. Cần có biện pháp xử lý chất thải cả chất thải lỏng và chất thải rắn. Vấn đề này đã được nghiên cứu và có các điểm trình diễn ở nhiều nơi từ Quảng Trị đến Sơn La, Gia Lai, Đaklak, Lâm Đồng... Quan tâm vấn đề này là quan tâm đến môi trường sống. Nhiều doanh nghiệp trong ngành cà phê đã đăng ký và được cấp chứng chỉ ISO 9000 về chất lượng cà phê. Nhưng việc đăng ký chứng chỉ 14.001 còn chưa được quan tâm phổ biến. Rõ ràng ngành cà phê Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều việc phải làm. Ổn định diện tích cà phê góp phần ổn định cân bằng cung cầu trên thị trường cà phê quốc tế. Hạn chế việc đua nhau mở rộng diện tích ra ngoài quy hoạch do giá cả lên cao là cần thiết. Như trên đã nói, ngành sản xuất cà phê nước ta đã đạt đến cái ngưỡng của nó. Với khoảng nửa triệu hecta cà phê, hàng năm làm ra khoảng 1 triệu tấn sản phẩm cà phê nhân xuất khẩu là phù hợp. Thực ra chúng ta cũng khó mở thêm diện tích cà phê vì đất đai hạn chế. Chúng ta còn phải dành đất cho nhiều loại cây trồng khác như cao su, hồ tiêu, ca cao, điều.... Tuy nhiên đảm bảo diện tích ổn định cũng không phải là dễ vì hiện nay cũng đã có hàng chục vạn hecta cà phê đã đến tuổi già cỗi cần được tạo hình trẻ lại hoặc trồng thay thế. Cần kết hợp việc trồng lại vườn cà phê với việc thay đổi giống cà phê với các đầu dòng ưu tú chọn lọc của cà phê vối. Và cũng tính đến việc thay một số diện tích cà phê vối bằng cà phê chè. Trong một số hội nghị của ngành cà phê gần đây cũng có nhiều ý kiến về việc sử dụng đất các vườn cà phê già cỗi đã thanh lý để trồng ca cao. Đây là một điều hợp lý về thực tế cho thấy không thể trồng lại cà phê trên các vườn cũ, và có thể đưa vào một cây mới là ca cao. Bên cạnh đó, sản xuất cà phê của Việt Nam vẫn ở trong quy mô nhỏ lẻ, các doanh nghiệp chưa chú trọng đến kỹ thuật mà chỉ quan tâm đến khâu chế biến và tiêu thụ. Hiện nay, nước ta có gần 490 nghìn hecta đất trồng cà phê (trong đó Tây Nguyên chiểmt tới 90% diện tích đất trồng với 439 nghìn hecta) với năng suất gần 1,7 tấn/ha, sản lượng bình quân mỗi năm gần 1 triệu tấn. Sản phẩm chủ yếu là cà phê nhân xuất khẩu, cà phê rang xay và cà phê hòa tan. Cà phê xuất khẩu chiểm 90% cà phê của cả nước. Với lợi thế về khí hậu, chất lượng giống và chi phí vận chuyển, song có đến 95% sản lượng cà phê là sản xuất ở quy mô nhỏ, trên 80% số nông trại có diện tích dưới 2 hecta và hộ thấp nhất chỉ 2-3 sào/ hộ, đó là nguyên nhân lớn nhất dấn đến tình trạng chất lượng cà phê không đồng đều, khiển cho giá cà phê nước ta thấp hơn 10% so với giá các sản phẩm cùng loại trên thế giới. Việc các doanh nghiệp đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại là một điều đáng mừng ở nước ta. Tuy nhiên, đầu tư công nghệ chế biến là điều cần thiết nhưng người nông dân trực tiếp sản xuất mới đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng cà phê. Họ là người trực tiếp làm ra sản phẩm từ khâu thu hoạch đến bảo quản, chế biến. Thế nhưng, người nông dân nước ta vẫn còn hạn chế trong việc nhận thức, trình độ canh tác lạc hậu, thói quen chăm sóc, thu hái bừa bãi, không theo quy trình. Họ không quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà chỉ quan tâm giá cả dao động thế nào. Đó là một rào cản khiến chất lượng cà phê Việt Nam luôn bị đánh giá thấp. CHƯƠNG 3: NHỮNG PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO VỀ SẢN LƯỢNG CÀ PHÊ DỰA TRÊN MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG Trong chương này, em sẽ xem xét sự tác động của một số nhân tố như diện tích trồng cà phê, lượng mưa, chi phí sản xuất một tấn cà phê của người nông dân cùng với giá xuất khẩu của cà phê Việt Nam, giá cà phê thế giới.... đến sản lượng cà phê của nước ta, đặc biệt là ở tỉnh Tây Nguyên. 3.1 Các biến trong mô hình 3.1.1 Biến phụ thuộc gồm: Để đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới sản lượng cà phê của nước ta, mà tại Tây Nguyên sản lượng cà phê chiếm đến 92% nên em đã sử dụng bộ số liệu từ năm 2000 tới năm 2006 của các tỉnh Tây Nguyên gồm: Đắk Lắk, , Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, KonTum (có 35 quan sát). Biến phục thuộc của mô hình: - Sản lượng cà phê (theo Tổng cục Thống kê) 3.1.2 Biến độc lập gồm: - Diện tích cà phê Việt Nam của các tỉnh Tây Nguyên: Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, KonTum. (theo Tổng cục Thống kê) - Dân số các tỉnh Tây Nguyên: Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, KonTum. (theo Tổng cục Thống kê) Giá xuất khẩu cà phê Việt Nam (nguồn: VICOFA) Giá cà phê Robusta trên thị trường thế giới (nguồn: Tổ chức cà phê thế giới ICO) Giá phân ure từ năm 1990 đến năm 2007 (nguồn: CAP) Lượng mưa: cây cà phê vối của Việt Nam là cây chịu nước. Mùa vụ phát triển của cây cà phê là từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm. Từ tháng 1 đến tháng 3 là thời gian chuẩn bị quan trọng hoa nở rộ và đậu quả. Vì vậy lượng mưa của các tháng đầu năm rất quan trọng. Theo “Báo cáo thường niên ngành hàng cà phê 2008 & triển vọng 2009” của IPSARD thì ở các tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, KonTum) lượng mưa của tháng 2 có quan hệ tương quan chặt chẽ với các diễn biến năng suất cà phê các tỉnh qua các năm. Còn tỉnh Lâm Đồng thì năng suất cà phê lại có tương quan chặt với thay đổi lượng mưa tháng 3. Số liệu sử dụng trong mô hình là số liệu về lượng mưa tháng 2 của các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, KonTum và số liệu về lượng mưa tháng 3 của tỉnh Lâm Đồng (nguồn: CAP) 3.2 Xây dựng và phân tích mô hình 3.2.1 Mô hình Để phân tích các yếu tố tác động tới sản lượng cà phê, em sử dụng phương pháp ước lượng OLS. Do số liệu thu thập được có hạn nên trong mô hình của em bỏ qua yếu tố thời gian. 3.2.2 Giả thiết Mô hình của em có 35 quan sát về các tỉnh tỉnh Tây Nguyên: Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, KonTum. Do số liệu thu thập được chỉ từ trong khoảng chục năm (thời gian ngắn) nên trong mô hình bỏ qua yếu tố thời gian. 3.2.3 Ước lượng Sử dụng mô hình kinh tế lượng ước lượng sử phụ thuộc của sản lượng cà phê các tỉnh Tây Nguyên vào diện tích, dân số và lượng mưa ta có: Dạng của mô hình như sau: Sl = a1 +a2*dt+a3ds+a4*lm+a5*cp+u Trong đó: - sl: sản lượng (nghìn tấn) - dt: diện tích (nghìn ha) lm: lượng mưa (mm) u: sai số ngẫu nhiên Ước lượng mô hình trên ta có: (Hình 1) Nhìn vào mô hình ta thấy: - Diện tích có ý nghĩa thống kê, diện tích trồng ca phê tương quan cùng chiều với sản lượng cà phê, điều này là hợp lý, do: sản lượng = diện tích * năng suất - Chi phí có ý nghĩa thống kê - Tương quan của mô hình khá cao - Tuy nhiên, lượng mưa và dân số không có ý nghĩa thống kê. Do vậy ta ước lượng mô hình khi không có dân số và lượng mưa: (Hình 2) =>Như vậy các hệ số của diện tích, chi phí đều có ý nghĩa thống kê. Mô hình: sl = a1+a2*dt+a3*cp+u Ta tìm nguyên nhân của việc lượng mưa và dân số không có ý nghĩa thống kê này. Nghi ngờ mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến ta ước lượng mô hình sự phụ thuộc của diện tích trồng cà phê vào dân số và lượng mưa: (Mô hình 3) Từ mô hình hồi quy phụ này ta thấy: có sự phụ thuộc giữa dân số của tỉnh, lượng mưa và diện tích đất trồng cà phê của tỉnh. Tỷ lệ tương quan của mô hình cao. Như vậy trong mô hình ban đầu có hiện tượng đa cộng tuyến cao giữa dân số, lượng mưa và diện tích trồng cà phê. Tiếp tục xem xét sự phụ thuộc của sản lượng cà phê vào lượng mưa ta thấy: (Mô hình 4) Từ kết quả mô hình ta thấy gần như không có sự tương quan giữa lượng mưa tháng 2 ở các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, KonTum và số liệu về lượng mưa tháng 3 của tỉnh Lâm Đồng và sản lượng. Điều này có thể giải thích là: mặc dù với cây cà phê vối thì lượng mưa các tháng đầu năm là rất quan trọng nhưng lượng mưa ở các tỉnh này là không đủ. Do vậy tương quan giữa lượng mưa và sản lượng không cao. Hơn nữa, thực tế các tỉnh Tây Nguyên luôn tốn rất nhiều chi phí cho việc cung cấp nước tưới cho cây cà phê. Cũng theo Báo cáo khoa học: “ Đánh giá tác động của thực tiễn sử dụng đầu vào cho sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk” của nhóm triển vọng cà phê – Mispa của Viện Kinh tế Nông nghiệp thì chi phí tưới nước chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí trồng cây cà phê. Trong mô hình ban đầu hồi quy sản lượng theo diện tích trồng cà phê, dân số tỉnh và lượng mưa ta thấy dân số và lượng mưa không có ý nghĩa thống kê.Vậy ta xem xét riêng sự tác động riêng của dân số và sản lượng: (Mô hình 5) Như vậy: dân số có ý nghĩa thống kê, dân số có hệ số dương chứng tỏ dân số có ảnh hưởng cùng chiểu đến sản lượng. Đồng thời cũng càng khẳng định mô hình ban đầu có hiện tượng đa cộng tuyến. Dân số tạo nên lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ luôn là một ưu thế của ngành cà phê Việt am, giúp cho chi phí sản xuất cà phê Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất thế giới. Sử dụng mô hình dạng cobdouglag ta có: Dựa vào mô hình ta thấy chỉ có log của diện tích có ý nghĩa thống kê. Khi bỏ dân số và lượng mưa ra khỏi mô hình ta có: Như vậy với mức ý nghĩa 10% thì ln dt và lncp có ý nghĩa thống kê, nhưng với mức ý nghĩa 5% thì chỉ có lndt có ý nghĩa thống kê. Hơn nữa, hệ số tương quan của mô hình chỉ chiếm 64% thấp hơn so với mô hình dạng tuyến tính. Vì thế mô hình dạng cobdoulagn không tốt bằng mô hình dạng tuyến tính. 18 quan sát theo năm (1990-2007) Sau khi xem xét sự ảnh hưởng của diện tích trồng cà phê, dân số các tỉnh và lượng mưa tháng 2 của các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, KonTum và số liệu về lượng mưa tháng 3 của tỉnh Lâm Đồng, chi phí tại 5 tỉnh này em muốn xem xét sự ảnh hưởng của giá cà phê Việt Nam xuất khẩu và giá cà phê thế giới đến sản lượng. Nhưng do số liệu ban đầu (35 quan sát) là số liệu mảng, bỏ qua yếu tổ thời gian nên việc đưa giá vào mô hình sẽ không có ý nghĩa. Vì vậy trong phần xem xét tác động của giá, chi phí này em sử dụng mô hình hồi quy theo chuỗi thời gian với số liệu 12 quan sát tương ứng với 18 năm. (Mô hình 6) Nhìn vào mô hình ta thấy giá phân ure có ý nghĩa thống kê, điều này chứng tỏ chi phí có ảnh hưởng đến sản lượng cà phê. Theo Báo cáo khoa học: “ Đánh giá tác động của thực tiễn sử dụng đầu vào cho sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk” của nhóm triển vọng cà phê – Mispa của Viện Kinh tế Nông nghiệp thì bón phân là hoạt động rất quan trọng trong sản xuất cà phê, theo kết quả nghiên cứu của tài liệu này thì có tới 99% số hộ điều tra có sử dụng phân bón, và chi phí phân bón chiếm tỷ lệ cao nhất: 41% tổng chi phí sản xuất cà phê. Do số liệu thu thập được hạn chế, nên trong mô hình em sử dụng chi phí đại diện cho giá phân bón, Bên cạnh đó, giá cà phê Việt Nam và giá cà phê thế giới 1 năm trước thì không ảnh hưởng đến sản lượng cà phê. Điều này được giải thích do: vòng đời của cây cà phê kéo dài trong 25 năm. Trong đó, 3-4 năm đầu là thời kỳ kiến thiết, cây chưa ra quả. Cây bắt đầu cho thu hoạch từ năm thứ 4 và năng suất tăng dần cho đến năm thứ 8. Từ năm thú 8 đến năm thứ 15 cây cho năng suất cao và ổn định. Từ sau năm thứ 16, cây cho năng suất giảm dần. Ước lượng mô hình khi cho giá Việt Nam và giá thê giới trễ 4 năm ta có: (Mô hình 7) Chỉ có diện tích có nghĩa thống kê. (Mô hình 8) Chỉ có diện tích và chi phí có nghĩa thống kê. Thực tế, ở các tỉnh Tây Nguyên, người dân có thể ghép cây cà phê để tiết kiệm thời gian cây con lớn lên, như vậy thời gian để cây cho quả chỉ trong khoảng 2 đến 3 năm. Ta ước lượng mô hình với giá trễ 2 đến 3 năm. (Mô hình 9) Giá cà phê không có ý nghĩa thống kê (Mô hình 10) Trong mô hình này: Giá cà phê không có ý nghĩa thống kê Nhìn chung các mô hình trên đều thể hiện giá cà phê Việt Nam và giá cà phê thế giới đều không ảnh hưởng đến sản lượng cà phê Việt Nam. Điều này là do: ở khu vực Tây Nguyên, người dân trồng cà phê dựa trên những điều kiện họ có như: điều kiện tự nhiên như đặc điểm thổ nhưỡng, tiềm năng về diện tích, kiến thức thói quen cũng như lợi thế về lao động dồi dào, giá rẻ. Bên cạnh đó, sự hạn chế về vốn, trình độ dân trí chưa cao, nên họ ít thay đổi theo sự biến động giá. 3.2.4 Kiểm dịnh 3.2.4.1 Kiểm định tính dừng Kiểm định tính dừng của chuỗi sản lượng 35 quan sát ta có: (Hình 11) Từ kiểm định nghiệm đơn vị ta thấy: do |ADF| >|CV| nên chuỗi dừng. 3.2.4.2 Kiểm định phương sai sai số thay đổi Sử dụng kiểm định White : Kiểm định giả thiết: H0: phương sai sai số không đổi H1: phương sai sai số thay đổi. Tiêu chuẩn bác bỏ: nR2~c2(2)(2)=5.99 (thì không có cơ sở bác bỏ H0 (2 là hệ số của mô hình không kể hệ số chặn) Giá trị thống kê F=0.29 có p_value=0.87956>0.05 (2)=5.99>nR2=1.32 có p_value=0.8579>0.05 Do đó ta không có cơ sở để bác bỏ giả thiết H0. Hay phương sai sai số là không đổi. 3.2.4.3 Kiểm định tự tương quan Do thống kê F có p_value =0.467886 > 0.05 nên mô hình không có tự tương quan. 3.2.4.4 Kiểm định hàm Ramsey RESET Test: F-statistic 3.553777 Probability 0.068814 Log likelihood ratio 3.798538 Probability 0.051297 Test Equation: Dependent Variable: SL Method: Least Squares Date: 04/27/09 Time: 13:05 Sample: 1 35 Included observations: 35 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C -8.316160 108.0155 -0.076990 0.9391 DT 0.723061 0.964826 0.749421 0.4593 CP 3.52E-06 6.16E-06 0.571737 0.5716 FITTED^2 0.001818 0.000964 1.885146 0.0688 R-squared 0.863953 Mean dependent var 153.1565 Adjusted R-squared 0.850787 S.D. dependent var 107.7342 S.E. of regression 41.61571 Akaike info criterion 10.40204 Sum squared resid 53687.90 Schwarz criterion 10.57980 Log likelihood -178.0358 F-statistic 65.62064 Durbin-Watson stat 1.868372 Prob(F-statistic) 0.000000 =>Dạng hàm đúng 3.3 Dự báo sản lượng cà phê Từ đồ thị ta thấy chuỗi không dừng Để có kết luận chính xác ta dùng kiểm định nghiệm đơn vị ADF Test Statistic 1.457724 1% Critical Value* -2.7158 5% Critical Value -1.9627 10% Critical Value -1.6262 *MacKinnon critical values for rejection of hypothesis of a unit root. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(SL) Method: Least Squares Date: 04/27/09 Time: 13:14 Sample(adjusted): 1991 2007 Included observations: 17 after adjusting endpoints Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. SL(-1) 0.064151 0.044008 1.457724 0.1643 R-squared -0.140503 Mean dependent var 51.12941 Adjusted R-squared -0.140503 S.D. dependent var 97.53579 S.E. of regression 104.1627 Akaike info criterion 12.18681 Sum squared resid 173597.9 Schwarz criterion 12.23582 Log likelihood -102.5879 Durbin-Watson stat 2.216311 => Không dừng Xét sai phân bậc nhất => thấy dừng ADF Test Statistic -3.565614 1% Critical Value* -2.7275 5% Critical Value -1.9642 10% Critical Value -1.6269 *MacKinnon critical values for rejection of hypothesis of a unit root. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(SL,2) Method: Least Squares Date: 04/27/09 Time: 13:15 Sample(adjusted): 1992 2007 Included observations: 16 after adjusting endpoints Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. D(SL(-1)) -0.918815 0.257688 -3.565614 0.0028 R-squared 0.458653 Mean dependent var -2.006250 Adjusted R-squared 0.458653 S.D. dependent var 155.0831 S.E. of regression 114.1044 Akaike info criterion 12.37257 Sum squared resid 195297.1 Schwarz criterion 12.42085 Log likelihood -97.98052 Durbin-Watson stat 1.985957 => Mô hình không có p,q mà chỉ có hệ số chặn ước lượng mô hình: Dependent Variable: D(SL) Method: Least Squares Date: 04/27/09 Time: 13:09 Sample(adjusted): 1991 2007 Included observations: 17 after adjusting endpoints Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 51.12941 23.65590 2.161381 0.0462 R-squared 0.000000 Mean dependent var 51.12941 Adjusted R-squared 0.000000 S.D. dependent var 97.53579 S.E. of regression 97.53579 Akaike info criterion 12.05534 Sum squared resid 152211.7 Schwarz criterion 12.10435 Log likelihood -101.4704 Durbin-Watson stat 2.370552 Mô hình phù hợp vì có phần dư nhiễu trắng Dự báo ngoài mẫu cho năm 2008-2010 : obs SL SL_D 1990 92 92 1991 100 100 1992 119.2 119.2 1993 136.1 136.1 1994 180 180 1995 218 218 1996 316.9 316.9 1997 420.5 420.5 1998 427.4 427.4 1999 553.2 553.2 2000 802.5 802.5 2001 840.6 840.6 2002 699.5 699.5 2003 793.7 793.7 2004 836 836 2005 752.1 752.1 2006 985.3 985.3 2007 961.2 961.2 2008 NA 1012.329 2009 NA 1063.459 2010 NA 1114.588 CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP 4.1 Mục tiêu 4.1.1 Căn cứ chủ yếu Xu hướng biến động và triển vọng thị trường cà phê quốc tế. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2008/09 dự báo đạt mức kỷ lục 138,4 triệu bao (1 bao=60 kg) tăng 17,5 triệu bao so với niên vụ 2007/08. Sản lượng của Brazil trong niên vụ 2008/09 dự báo đạt 51,1 triệu bao, tăng 13,5 triệu bao so với niên vụ trước do sự tăng trưởng sản lượng theo chu kỳ của cà phê Arabica. Sản lượng của Việt Nam trong vụ 2008/09 dự báo đạt 19,5 triệu bao, tăng 1,2 triệu bao so với niên vụ 2007/08 trong khi sản lượng của Colombia dự báo sẽ giảm từ 12,4 triệu bao của niên vụ 2007/08 xuống còn 12,2 triệu bao của niên vụ 2008/09. Xuất khẩu cà phê thế giới trong vụ 2008/09 dự báo sẽ đạt 94,5 triệu bao, tăng 5,4 triệu bao so với niên vụ trước. Xuất khẩu của Brazil dự báo sẽ tăng tử 23,8 triệu bao của niên vụ trước lên 24,5 triệu bao nhờ sản lượng tăng mạnh. Xuất khẩu của Việt Nam dự báo cũng sẽ tăng từ 16 triệu bao lên 18,5 triệu bao trong khi xuất khẩu của Colombia dự báo đạt 10,6 triệu bao, giảm 0,3 triệu bao so với niên vụ 2007/08. Mỹ vẫn là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới với lượng nhập khẩu dự báo đạt 22 triệu bao trong niên vụ 2008/09 tăng 0,2 triệu bao so với niên vụ trước. Nhập khẩu cà phê vào thị trường EU 27 dự báo cũng tăng từ 44,7 triệu bao lên 45,5 triệu bao. Cũng theo USDA, dự trữ cuối vụ 2008/09 của các nước sản xuất, xuất khẩu sẽ đạt 39,6 triệu bao, tăng 4,5 triệu bao so với niên vụ trước, chủ yếu do dự trữ của Brazil tăng mạnh. Từ tháng 9 năm 2008, giá cà phê thế giới đã bắt đầu giảm mạnh do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tài chính thế giới tới nhu cầu nhập khẩu và khả năng thanh toán của các hợp đồng thương mại. Dự báo giá cà phê sẽ tiếp tục giảm trong năm tới do triển vọng sản lượng cao của các nước sản xuất, xuất khẩu chính. Theo nhận định của Hiệp hội Cà phê – ca cao Việt Nam (Vicofa) mỗi năm nhu cầu thế giới tăng khoảng 2 triệu bao (120 nghìn tấn). Ông Nestor Oshorio, giám đốc điều hành Tổ chức Cà phê thế giới tăng liên tục đến năm 2015 với 150 triệu bao so với 125 triệu bao từ năm 2008. Chưa hết, với sự phát triển vượt bậc trong công nghệ chế biến, cà phê vối ngày càng được các nhà xay rang trên thế giới săn lùng vì giúp giảm giá thành sản phẩm cà phê hòa tan. Do đó, trong những năm tới, nhu cầu cà phê vối tiếp tục tăng khoảng 2%/năm, tức tăng khoảng 1,s4 triệu bao chiếm 70% tổng mức tăng hàng năm của các loại cà phê. Trong 17 nước dẫn đầu về sản lượng, Việt Nam đứng thứ 2. Trong đó có 9 nước trồng cà phê vối thì Việt Nam dẫn đầu về sản xuất và sản lượng xuất khẩu. Ít nhất trong vòng 15 năm tới, mọi con đường đều mở rộng với cà phê xuất khẩu Việt Nam. Hiện nay có nhiều ý kiến về dự đoán xu hướng của thị trường cà phê thế giới trong tương lai. Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khi gặp rủi ro về thời tiết như sương giá, hạn hán…Đồng Real của nước này cũng bị mất giá nghiêm trọng so với đồng USD nên xuất khẩu cà phê không mang lại nhiều lợi nhuận. Mặc dù vậy nhu cầu tiêu dùng cà phê của thị trường thế giới trung bình mỗi năm tăng 1-2% nên các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cà phê Việt Nam cần phải tìm hiểu, theo sát thị trường, tham gia vào thị trường để có biện pháp cung ứng sản phẩm một cách đều đặn, giữ mức giá ổn định không để rớt giá. Rút kinh nghiệm như trong thời gian qua, yếu tố đầu cơ ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng giảm giá cà phê một cách đột ngột. Khả năng phát triển cà phê nước ta: Việt Nam là quốc gia có lợi thế về chi phí đầu vào thấp nên mức giá cao hiện nay có thể dẫn tới hiện tượng tự phát của một số địa phương trồng cà phê. Chúng ta cần có những biện pháp khuyến cáo người nông dân giảm, không nên tang diện tích trồng cà phê một cách ồ ạt để tránh lặp lại kịch bản nhưn năm 1998-2001. Trong tình hình hiện nay, Việt Nam nên duy trì diện tích trồng cà phê ở mức 500.000 ha. Quan trọng hơn nữa là làm thế nào để cây cà phê được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật để đạt năng suất cao. Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này đến năm 2010 đạt trên 2,2 tỷ USD và tăng trưởng bình quân 4,9%/năm, mỗi năm xuất khẩu được 900 nghìn đến 1,1 triệu tấn, với mức giá bình quân khoảng 2.000 USD/tấn. Việt Nam hiện là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta. Giai đoạn 2008-2010, cà phê Việt Nam vẫn có những lợi thế trên thị trường xuất khẩu. Ngành cà phê Việt Nam cũng có những tín hiệu tốt lành trong những năm tới: Mới đây, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã thông qua đề án nâng cao sức cạnh tranh ngành cà phê đến 2015 tầm nhìn 2020. Theo đó, huy động khoảng 33 nghìn tỷ đồng từ ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn tự có của doanh nghiệp và hộ nông dân nhằm đưa toàn bộ sản phẩm cà phê Việt Nam được chế biến hợp chuẩn, giao dịch bình đẳng trên thị trường quốc tế. Điều đầu tiên mà đề án quan tâm là kiên quyết chuyển những diện tích cà phê trồng không đúng quy hoạch sang trồng cây khác, coi đây là điều kiện hàng đầu để tập trung nguồn lực vào nâng cấp chất lượng cà phê. Dự kiến, diện tích cà phê sẽ giữ ổn định tối đa 500 nghìn ha, trong đó cà phê chè Arabica chiếm 10%. Theo phân bổ ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ các dự án giao thông ở các vùng cà phê lớn như Tây Nguyên, Sơn La, Yên Bái; đầu tư các hồ chứa nước, hệ thống kênh mương, đảm bảo đến 2015 đạt 75% và 2020 đạt 100% diện tích được nước tưới chủ đọng. Nguồn vốn ODA với trên 13 nghìn tỷ đồng dành cho đầu tư cải tạo, thâm canh giống vùng trọng điểm. Còn nguồn vốn của doanh nghiệp và hộ nông dân dành cho đầu tư máy móc, thiết bị chế biến, hệ thống kho chứa và sân phơi. Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ đầu tư các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu cà phê Việt Nam tại những thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Trong đó, các chuyên gia đã nhấn mạnh đến 1 số đặc tính cần phải có cho thương hiệu cà phê Việt Nam gồm: chất lượng tốt, thân thiện với môi trường, sự kết nối giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa tiêu dùng thế giới, sử dụng công nghệ và năng lượng sạch. Trong bối cảnh thuận lợi đó, cuối tháng 9 vừa qua, Vicofa đã tổ chức hội thảo “Cà phê Việt Nam – thị trường đầy triển vọng” tại London. Tại hội thảo này ông G.Milsted, phụ trách trung tâm thu mua Crydon tại Anh của hãng Nestle cho biết, Crydon sẽ phối hợp với Vicofa và doanh nghiệp cà phê Việt Nam thúc đẩy sáng kiến nhằm nâng cấp chất lượng và đảm bảo nguồn cung cấp sản phẩm của Việt Nam được ổn đinh. Chủ tịch Vicofa Lương Văn Tự thông báo với các nhà nhập khẩu của Anh rằng nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực sản xuất cà phê hữu cơ phù hợp với xu hướng tiêu dùng mới. Đây là những bước đi đầu tiên cho việc xây dựng thương hiệu cà phê Việt Nam, qua đó góp phần xây dựng và phổ biến những giá trị văn hóa tiêu dùng mới. 4.1.2. Mục tiêu phát triển cà phê Chiến lược phát triển chung của ngành cà phê đến năm 2010 Chuyển dịch cơ cấu cây trồng: chuyển dịch toàn bộ diện tích trồng cà phê vối sang cà phê chè. Chủ trương mấy năm tới là không trồng thêm cà phê vối. Rà soát diện tích cà phê hiện có, thanh lý khoảng 100 ngàn ha cà phê vối năng suất thấp, chất lượng kém, trồng thay thế bằng cây khác như cà phê chè hoặc bông, cacao. Hạ giá thành sản xuất: đẩy mạnh áp dụng kỹ thuật tiến bộ để có năng suất cao với đầu tư đúng mức. Đặc biệt là giảm lượng sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, tận dụng các nguồn phân hữu cơ và các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp. Đổi mới công nghệ, thiết bị chế biến cà phê, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với đòi hỏi của thị trường. Đa dạng hóa sản phẩm cà phê Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê ở nước ngoài, khuyến khích tiêu thụ ở thị trường trong nước. Phát triển một ngành cà phê bền vững. Chiến lược phát triển đối với lĩnh vực xuất khẩu cà phê Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này đến năm 2010 đạt 958 triệu USD và tăng bình quân 4,3%/năm. Dự kiến mỗi năm xuất khẩu được 900 nghìn tấn. Với mức giá bình quân khoảng 850 USD/tấn. Hiện nay cà phê của ta đã xuất khẩu đến trên 50 nước thế giới. Trong giai đoạn 2006-2010 có thể tập trung khai thác các thị trường Hoa Kỳ, EU, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Canada, Nga… 4.2 Phương hướng  Theo dự kiến kim ngạch xuất khẩu cà phê đến năm 2010 đạt 220 triệu USD, tăng bình quân 15%/năm. Trong đó, EU là thị trường tiêu thụ lớn đối với cà phê Việt Nam, chiếm tỉ trọng 45% trong xuất khẩu của Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỉ USD, tăng bình quân 6,2%/năm trong giai đoạn 2008-2010. Tuy nhiên, để đạt được kim ngạch xuất khẩu nêu trên cần tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng đến vấn đề chất lượng để tăng thêm giá trị gia tăng. Theo quyết định của thủ tướng chính phủ phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 5 năm 2006 – 2010 thì: nghiên cứu ứng dụng các công nghệ sơ chế quy mô nhỏ và vừa, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế biến tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản, thực phẩm, đặc biệt là một số sản phẩm có lợi thế và triển vọng xuất khẩu như: Gạo, cà phê… Bên cạnh đó, chúng ta tập trung vào đẩy mạnh thâm canh, phát triển diện tích vùng trung du, miền núi, nâng cao chất lượng, giá thành… 4.3 Giải pháp chủ yếu Hiện nay cà phê của Việt Nam đã xuất khẩu sang khoảng 40 nước và vùng lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu chính của cà phê Việt Nam là các nước: Mỹ, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Anh, Pháp, Nhật Bản, ..trong đó Đức và Mỹ luân phiên là hai thị trường tiêu thụ cà phê nhiều nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam còn thấp và bị phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường quốc tế, sức cạnh tranh của cà phê xuất khẩu nước ta chưa cao. Do vậy, ngoài việc nâng cao chất lượng cà phê hạt xuất khẩu để có mức giá cao hơn, chúng ta cần gia tăng giá trị xuất khẩu của cà phê thông qua chế biến, thúc đẩy tiêu thụ trong nước, giảm sự phụ thuộc của ngành cà phê vào các nhà sản xuất, nhập khẩu nước ngoài, các nhà kinh doanh nước ngoài. Tuy nhiên ở thời điểm hiện tại, ngành cà phê của Việt Nam mới chỉ phát triển ở mức độ nhất định, nên chưa phát huy được hết lợi thế của mình. Một điểm hạn chế nữa là trong suốt hơn 10 năm qua, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn địn giá cà phê bằng việc dựa vào thông tin bán tại các hãng tin Reuters, trừ đi chi phí quy ra tiền Việt theo tỷ giá hối đoái rồi đưa ra mức giá mua bán tại địa phương. Trong khi từ cả trăm năm nay, doanh nghiệp cà phê thế giới chỉ giao dịch qua thị trường kỳ hạn lớn như LIFFE (London), NYMEX (New York)…Một số doanh nghiệp cà phê hiện nay vẫn còn e ngại về cách thức giao dịch trên thị trường này. Việc tham gia thị trường giao dịch quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp tiến cận nhanh với thị trường nước ngoài. Trên thực tế, nhờ vào sự phán đoán thị trường và dùng hợp đồng kỳ hạn như một công cụ phần nào hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp. Do vậy, Việt Nam rất cần có các biện pháp khắc phục những hạn chế để nâng cao năng suất, chất lượng cà phê cũng như sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 4.3.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Để sản phẩm cà phê được tốt cần phải chú ý từ khâu chọn giống, công tác chăm sóc, việc thu hoạch và quy trình xử lý sau thu hoạch. Chất lượng cà phê xuất khẩu phụ thuộc lớn vào sơ chế và chế biến thành thành phẩm. Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện nay thấp hơn các nước khác chủ yếu do hai nguyên nhân chính: đó là ở khâu thu hoạch và công nghệ sản xuất. Khâu thu hoạch cà phê. Hiện nay người trồng cà phê Việt Nam thường chỉ thu hoạch cà phê một lần cả quả xanh lẫn quả chín, điều này làm ảnh hưởng lớn tới chất lượng cà phê. Do vậy mà việc quan trọng hiện nay, Hiệp hội Cà phê – ca cao Việt Nam cần phải làm là đẩy mạnh việc tuyên truyền đến người trồng cà phê thay đổi cách thức thu hái, chế biến cà phê. Không được hái cà phê xanh, cà phê non, tổ chức hái thành 2 – 3 lần. Hiện cà phê chỉ tuốt một lần của Việt Nam chiếm tới 88%. Nếu thay đổi thói quen đó, theo ông Lương Văn Tự - Thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, mỗi năm chúng ta có thể thu thêm được 100 triệu USD. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cải thiện chất lượng, nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp cần áp dụng tiêu chuẩn TCVN 4193:2005. Đây là hệ thổng tiêu chuẩn mới, trong đó áp dụng cách tính lỗi khuyết tật để đánh giá chất lượng chung của Hội đồng cà phê thế giới (ICO). Việc áp dụng tiêu chuẩn mới còn được xem là bước đột phá để hướng dẫn nông dân thay đổi tập quán tư duy sản xuất và nâng cao chất lượng cà phê cũng là xu hướng tất yếu trong quá trình hội nhập. Trên thực tế, TCVN 4193:2005 đã ban hành từ năm 2006 nhưng đến nay mới có khoảng 10% số doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong nước áp dụng và chỉ chiếm 1-2% sản lượng cà phê xuất khẩu. Mặt khác, phần lớn các hợp đồng xuất khẩu cà phe của Việt Nam hiện nay vẫn theo hình thức thỏa thuận về chất lượng dựa theo cách phân loại cũ, chủ yếu dựa trên 3 tiêu chí: độ ẩm, tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ chưa theo tiêu chuẩn mới. Bộ tiêu chuẩn này rất phù hợp với ICO của thế giới nhưng cái khó của Việt Nam là phải chọn giải pháp nào để thay đổi cách canh tác của nông dân, đồng thời Nhà nước cần tạo điều kiện về sân bãi, thiết bị phục vụ cho việc quản lý và sơ chế. Mặt khác, Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ về tài chính đề phòng lúc thời tiết xấu, ảnh hưởng đến chất lượng cà phê. Nếu áp dụng tốt bộ tiêu chuẩn này sẽ là một biện pháp tốt để nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt nam trên thị trường quốc tế. 4.3.2 Đầu tư xây dựng, áp dụng công nghệ vào sản xuất, giảm giá thành sản phẩm Giá cà phê xuất khẩu phụ thuộc lớn vào chi phí sản xuất ra chúng. Chí phí sản xuất bao gồm chi phí về nhân công, chi phí cho dây chuyền sản xuất, chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công tác tưới tiêu. Để hạ thấp giá thành sản xuất, doanh nghiệp và các hộ sản xuất cần phải tiết kiệm ở tất cả các khẩu của quá trình sản xuất và chế biến. Trước hết đó là phải giảm chi phí nhân công bằng cách đầu tư công nghệ sản xuất hiện đại, hệ thống tưới tiêu tự động, dây chuyền sản xuất với những thiết bị máy móc mới, tiên tiến, có năng suất cao, cần ít người điều khiển dây chuyền sản xuất. Một khi dây chuyền sản xuất hiện đại rồi thì ta có được chất lượng cà phê xuất khẩu tốt, đồng đều. Do vậy mà cũng giảm được chi phí về phân loại cà phê, kiểm tra đánh giá chất lượng cà phê. Năng suất cũng ảnh hưởng lớn tới giá cả. Năng suất cao thì giá trên một đơn vị sản phẩm sẽ giảm đi và ngược lại. Do đó, chúng ta không chỉ chú ý đầu tư công nghệ vào khâu chăm sóc, chế biến cà phê mà còn phải chú ý tới việc đầu tư cho công tác nghiên cứu giống cây cà phê. Làm sao tạo được giống cà phê có năng suất, chất lượng ngày càng cao, có khả năng chống choi tốt với điều kiện môi trường: sâu bệnh, khí hậu, nước…Để làm được điều này phải có sự phối hợp của 3 nhà: nhà nông (người dân trồng cà phê), Nhà nước, nhà khoa học. Phải có sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê với các trung tâm, viện để thực hiện việc nghiên cứu này, Nhà nước có thể hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp. Các chuyên gia của Vicofa cho rằng, chất lượng cà phê phụ thuộc chủ yếu vào công đoạn trồng và thu hoạch. Ở công đoạn trồng, có đến 80% diện tích được trồng bằng hạt do nông dân tự chọn. Do đó, cà phê cho năng suất thấp, hạt nhỏ, không đồng đều và nhanh bị thoái hóa giống. Để cải thiện chất lượng, cần thay những cây cho năng suất thấp bằng những cách cưa cây nuôi chồi gốc gốc và ghép các dòng vô tính chọn lọc bằng phương pháp đọt nối ngọn. Hiện các nhà khoa học của Vicofa đã tạo được giống vô tính cho cỡ hạt to, kháng bệnh gỉ sắt rất tốt. Những dòng vô tính này được nhân rộng ở Gia Lai, Buôn Ma Thuột, Lâm Đồng. Hàng năm có thể cung cấp trên 1 triệu chồi đủ để ghép cho 300.000 cây. Sau khi cải tạo cây 2 năm, cây ghép cho thu hoạch 2-5 kg quả tươi/cây, đến thời kỳ kinh doanh, cây cho năng suất ổn định 20-30kg/cây. Trong canh tác, hầu hết các vùng trồng cà phê hiện nay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên bộc lộ nhiều nhược điểm. Tỷ lệ cây không hiệu quả cho kích cỡ hạt nhỏ chiếm 15% . Kỹ thuật chăm sóc, canh tác của các hộ dân cũng không đúng kỹ thuật, thường đầu tư phân bón cao hơn từ 10-23%, chỉ có khoảng 50% hộ nông dân bón phân NPK phù hợp với quy trình sản xuất. Vì vậy, bên cạnh việc tuyên truyền áp dụng đúng kỹ thuật canh tác, cần hình thành những trung tâm giống và dịch vụ kỹ thuật cao đáp ứng nhu cầu người trồng. Bên cạnh đó, cần tăng cường cây che bóng trong vườn cà phê. Hiện nay, các vườn thường được thâm canh cao độ, lượng phân bón và nước tưới rất cao và hầu như không có cây che bóng làm cho cà phê bị kiệt sức sau vài vụ. Cây che bóng giúp điều hòa khí hậu, giảm lượng nước tưới, tái lập sự cân bằng tự nhiên. Mô hình trồng tiêu xen vào vườn cà phê có thể cho thêm thu nhập 15-20%, mô hình trồng xen sầu riêng tăng thêm thu nhập 24-30%. Quan trọng hơn, trồng cây che bóng có tác dụng nâng cao chất lượng cà phê vì cà phê thích hợp với ánh nắng tán xạ. Ở khâu thu hoạch, tuyệt đối không thu hoạch quả còn xanh vì vừa giảm chất lượng vừa thất thu sản lượng. Các hộ nông dân cần thực hiện đúng quy trình thu hái theo tiêu chuẩn TCN 100-88, theo đó, chỉ hái khi quả cà phê đã chín 80-90% và bó thói quen thu hái kiểu “tuốt cành”. 4.3.3 Quy hoạch, quản lý nguồn nguyên liệu, điều tiết nguồn cung. Nhà nước cần có những chính sách để quy hoạch, quản lý nguồn nguyên liệu, thực hiện việc điều tiết cung cầu cà phe. Nhà nước cùng với những người trồng cà phê phải ngồi lại làm việc với nhau nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất cho cây cà phê. Không để người nông dân tự phát tăng giảm diện tích trồng cà phê mà Nhà nước phải định hướng cho họ trên cơ sở nghiên cứu cung cầu thị trường thế giới, cung cấp cho nông dân để họ có những phản ứng phù hợp. Nhà nước phải quy hoạch trong việc trồng cây cà phe như: Vùng trồng, diện tích, loại cà phê… Bên cạnh đó Nhà nước có thể điều tiết cung bằng cách nới rộng hoặc thắt chặt việc cho vay vốn để trồng thêm diện tích cà phe mới. Hỗ trợ vốn cho người dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Ngoài ra, Nhà nước cũng phải hỗ trợ người trồng cà phê khi điều kiện làm ăn không thuận lợi. 4.3.4 Nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội Cà phê – ca cao Trong xu thế hiện nay, khi nhà nước không còn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thì vai trò của các hiệp hội trong việc định hướng sản xuất kinh doanh là rất quan trọng và cần thiết. Hiệp hội là cầu nối giữa giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Qua hiệp hội, hoạt động của doanh nghiệp sẽ được phản ánh nhanh chóng và chính xác tới các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời hiệp hội cũng có thể tham mưu cho Nhà nước trong việc hoạch định và ban hành các chính sách phù hợp, kịp thời. Hiệp hội hoạt động tốt sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, cần củng cố, nâng cao vai trò của Hiệp hội Cà phê – ca cao. Hiệp hội phải phối hợp với các các chi hội, đánh giá khả năng thị trường, sản lượng, có tính đến các yếu tố về thời điểm để định hướng cho các hội viên. Bên cạnh đó, nước ta cũng tích cực tổ chức lại sản xuất, xây dựng ngành hàng cà phê và quản lý ngành hàng có hiệu quả cao, ngăn ngừa rủi ro tác động xấu đến sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam. - Tổ chức nông dân ngành cà phê tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật tiên tiến, thực hiện các thực hành nông nghiệp tốt và thực hành chế biến tốt, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả. Lâu nay có tới trên 90% diện tích và sản lượng cà phê là thuộc về các chủ trang trại, chủ vườn, các hộ nông dân làm ăn riêng lẻ. Với trên 500 ngàn hộ nông dân trồng cà phê, việc chuyển giao kỹ thuật, giới thiệu thông tin… đều rất khó khăn. Và cả việc ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm theo quyết định 80 cũng gặp nhiều trở ngại. ở các mô hình trinh diễn về sản xuất cà phê bền vững, người ta đã tổ chức các nhóm nông hộ và đã mang lại hiệu quả tốt. Từ các nhóm nông hộ, các câu lạc bộ, các tổ hợp tác rồi hợp tác xã dịch vụ… chúng ta có thể dễ dàng hơn trong việc đầu tư cho nông dân. Là thành viên của WTO chúng ta cần có tổ chức đầu tư cho nông dân đúng với quy định của tổ chức này. Những người trồng cà phê cần được hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất như giao thông, thuỷ lợi, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu... Họ cũng cần hoạt động của các tổ chức khuyến nông, cung cấp thông tin về giá cả thị trường... Những điều này nhà nước hoàn toàn có thể làm được với chính sách hỗ trợ theo “hộp xanh” hoặc hỗ trợ theo “chương trình phát triển” của Việt Nam. - Ngành cà phê cũng cần được tổ chức để có thể tự hỗ trợ cho mình bằng quỹ bảo hiểm cà phê giống như các quỹ cà phê Coffee Fund của Colombia hay thông qua các quỹ hỗ trợ như BCC ( Bourse du cafe et cacao ) của Cot Divoa. - Tăng cường hoạt động của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam để Hiệp hội thực sự là tổ chức đại diện cho lợi ích của ngành cà phê, phục vụ sự nghiệp xây dựng một ngành cà phê Việt Nam phát triển bền vững. Nghiên cứu kinh nghiệm ngành cà phê nhiều nước trên thế giới có thể thấy các nước khác có tổ chức ngành cà phê từ hàng trăm năm nay và có nhiều vai trò hết sức quan trọng trong quản lý sản xuất kinh doanh như Liên đoàn những người trồng cà phê Colombia thành lập từ năm 1927 hay Hiệp hội những người xuất khẩu cà phê Indonesia thành lập năm 1979. Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam ra đời ngày 04/1/1990 đến nay đã được 18 năm. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và có những tiến bộ nhưng Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam còn chưa làm được nhiều trong việc cung cấp thông tin cho hội viên, đào tạo hội viên nâng cao trình độ nghiệp vụ sản xuất kinh doanh…. Nhưng có một vấn đề cũng cần phải nói rõ là muốn Hiệp hội làm được tốt hơn chức năng nhiệm vụ của mình cần có sự quan tâm hỗ trợ, hợp tác của các cơ quan nhà nước, và tổ chức Hiệp hội phải được thể chế hóa bằng một văn bản luật chính thức của nhà nước. Những vấn đề nêu trên có thể nói là chưa đủ để ngành cà phê Việt Nam nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình, phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng dù sao qua bản tham luận này chúng tôi cũng muốn đề cập đến một số vấn đề cần được quan tâm của ngành cà phê trong bối cảnh hiện nay. KẾT LUẬN Trong nhiều năm qua cây cà phê trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đứng sau gạo. Xuất khẩu cà phê hàng năm đem lại cho đất nước khoản ngoại tệ lớn. Trong vòng mấy năm nữa kim ngạch xuất khẩu vấn còn tăng. Hiện nay Việt Nam xuất khẩu cà phê thứ hai thế giới sau Brazil. Thương hiệu cà phê đang dần được thế giới biết đến như : cà phê Trung Nguyên, Vinacafe, Nescafe... Mặc dù vậy, chất lượng của chúng ta cũng cần phải nâng cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bằng những kiến thức đã học em đã dùng mô hình kinh tế lượng để phân tích ảnh hưởng của một số yếu tố đến sản lượng cà phê nước ta và đưa ra những dự báo cho những năm gần đây. Mô hình kinh tế lượng em đưa ra trong khoá luận này có thể còn nhiều khuyết điểm, em rất mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến để khoá luận được hoàn thiện hơn nữa. Trong quá trình thực tập, em đã được các cán bộ trong Trung tâm tư vấn chính sách Nông nghiệp thuộc Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn tận tình giúp đỡ, em xin chân thành cảm ơn. Em xin gửi tới thầy giáo Ngô Văn Mỹ và thầy Nguyễn Hải Dương người đã hướng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều lòng biết ơn sâu TÀI LIỆU THAM KHẢO Trần Thị Quỳnh Chi, Muriel Figue, Trần Thị Thanh Nhàn thuộc Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Nghiên cứu tiêu thụ cà phê tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, (2006) Trần Thị Quỳnh Chi, Dave D’haeze thuộc Trung tâm tư vấn Chính sách Nông nghiệp, Báo cáo nghiên cứu: Đánh giá tác động của thực tiễn sử dụng yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk. Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Báo cáo thường niên ngành hàng cà phê 2008 & triển vọng 2009 của Trần Thị Quỳnh Chi, Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Nguyễn Nghĩa Lân, (2009) Nghiên cứu ứng dụng dự báo cung dài hạn cho 5 vùng sản xuất cà phê chính ở Việt Nam (2007)của Trần Thị Quỳnh Chi, Trung tâm Tư vấn chính sách nông nghiệp. Tạp chí thương mại số 3+4+5/2009 tr 34 Tạp chí thương mại số 1+2/2009 trang 41 Website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22166.doc
Tài liệu liên quan