Chuyên đề Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bộ Công Thương triển khai thành lập Công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Hình thức bảo hiểm xuất khẩu (hỗ trợ của Chính phủ) được áp dụng phổ biến tại các nước phát triển, trong khi thực tiễn kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều rủi ro. Do vậy, áp dụng biện pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là cần thiết và phù hợp với các quy định của WTO. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng báo cáo đánh giá ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian qua và dự báo tỷ giá giai đoạn 2009-2010. Tỷ giá hối đoái có tác dụng tích cực hoặc hạn chế đến công tác xuất nhập khẩu. Do đó, điều tiết tỷ giá hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý là cần thiết. Ngân hàng Nhà nước ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho người nông dân và các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu với lãi suất hợp lý. Các mặt hàng cần ưu tiên trước mắt là thủy sản, gạo, cà phê, hạt điều, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa. Đẩy mạnh tuyên truyền và khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa đồng tiền thanh toán và phòng ngừa rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu.

doc157 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại thị trường này, trong đó đặc biệt là giá cả.Cần đẩy nhanh, mạnh và vững chắc hàng sang Cămpuchia. Xây dựng thật tốt mạng lưới nhập khẩu và tiêu thụ hàng tại Cămpuchia. Thái Lan Tuy có tính tương đồng về cơ cấu hàng hóa, ta vẫn có thể xuất khẩu nhiều loại mặt hàng sang Thái Lan như máy vi tính và linh kiện điện tử, dầu thô, than đá, linh kiện, phụ tùng và một số sản phẩm kỹ thuật cao. Cần tìm ra được kênh tiêu thụ và liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm xuất khẩu sang Thái Lan. Một số biện pháp cụ thể: Hiện nay do tình hình chính trị và kinh tế Thái Lan không ổn định, nhiều nhà máy phải thu hẹp đầu tư, sản xuất nên nhu cầu nhập khẩu hàng của Thái Lan tăng hơn trước. Do đó, để tranh thủ lợi thế này, ta nên tăng cường công tác xúc tiến xuất khẩu hàng Việt Nam sang Thái Lan. Hàng năm Thái Lan có nhiều triển lãm quốc tế, nhiều nước tham gia. Phần lớn các nước đều xây dựng gian hàng quốc gia rất chu đáo, thể hiện tầm cỡ của nước mình. Đối với Việt Nam việc này rất yếu (phần lớn do các hiệp hội tự tổ chức). Do đó, Bộ ta cần chỉ đạo đơn vị đầu mối trong nước nghiên cứu phương án triển khai hoạt động này được tốt hơn. Chính phủ Thái Lan đang thúc đẩy các công ty ở Thái Lan đầu tư ra nước ngoài, trong đó Việt Nam được coi là thị trường hấp dẫn nhất Châu Á. Đây là cơ hội tốt, do đó cần có giải pháp, biện pháp kịp thời nhằm thu hút đầu tư Thái Lan vào Việt Nam. Trong nhiều năm nay, Việt Nam nhập khẩu nhiều Clinker từ Thái Lan để đáp ứng nhu cầu sản xuất xi măng trong nước. Đây chính là mặt hàng làm tăng nhập siêu của Việt Nam. Do đó, cần kiến nghị Chính phủ chỉ đạo xây dựng nhà máy sản xuất clinker thay thế nhập khẩu.Trong khuôn khổ đa phương, do Việt Nam đang nhập siêu lớn từ Thái Lan, trong khuôn khổ đàm phán ASEAN, ta cần đề nghị Thái Lan thực hiện cam kết dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan với một số hàng Việt Nam (tơ tằm, cà phê, tỏi, hành…), tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu Việt Nam vào Thái Lan. Malaixia Ngoài dầu thô, các mặt hàng gạo, thủy sản, dệt may, đồ nhựa, đồ gỗ, giày dép có thể tăng xuất khẩu sang Malaixia. Cần tổ chức tốt công tác xây dựng thị trường cho hàng xuất khẩu, trong đó chú trọng tìm kiếm bạn hàng để tăng xuất khẩu và nhập khẩu ổn định, lâu dài. Ở cấp độ nhà nước, cần tích cực thúc đẩy việc ký Hiệp định công nhận kết quả kiểm dịch của nhau. Đối với công tác xúc tiến thương mại, tương tự như đối với Thái Lan, Bộ Công Thương cần chỉ đạo, chấn chỉnh công tác tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, đưa công tác xúc tiến xuất khẩu vào quy củ.Ngoài ra, cần chuẩn hoá hàng XK để phù hợp nhu cầu thị trường, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn hàng hoá. Malaysia quản lý hàng xuất nhập khẩu theo các tiêu chuẩn cụ thể và do vậy hàng nhập khẩu vào nước họ cũng phải phù hợp các tiêu chuẩn này. Xinhgapo Giống như Hồng Kông, Xinhgapo có nhu cầu đa dạng và có vai trò chuyển khẩu rất lớn. Những năm tới cần tập trung vào xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng là thủy sản, nông sản, rau quả, dệt may, giày dép, đồ gỗ, dây và cáp điện, linh kiện điện tử và vi tính.Cần giải quyết có kết quả vấn đề SPS. Tổ chức cho doanh nghiệp xâm nhập thị trường; tận dụng thực sự mặt thương mại của Hợp tác kết nối hai nền kinh tế Việt Nam-Xinhgapo để đẩy mạnh xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu. Philíppin Philíppin là một trong những thị trường trọng điểm về gạo của ta. Cần giữ vững thị trường gạo, tham gia đấu thầu hiệu quả. Ngoài gạo, có thể xuất khẩu các mặt hàng khác là máy vi tính và linh kiện điện tử và một số loại hàng tiêu dùng khác. Cần tổ chức cho doanh nghiệp tiếp cận nhiều hơn, sâu hơn thị trường này, từ đó tìm kiếm khả năng xuất khẩu ổn định, lâu dài. Trong quan hệ với Philíppin cần xử lý có lợi cho ta các vụ việc Philíppin áp dụng biện pháp tự vệ đối với gạch ốp lát và một số loại hóa chất nhập khẩu từ Việt Nam. Inđônêxia Điểm nổi bật là những năm tới Inđônêxia sẽ phải tiếp tục nhập khẩu lương thực, mở ra triển vọng rất lớn cho gạo xuất khẩu của ta. Cần đặt mục tiêu chiến lược là chiếm lĩnh lại vị trí hàng đầu trong xuất khẩu gạo vào Inđônêxia. Ngoài gạo, cần quan tâm và đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng khác như lạc, linh kiện điện tử và vi tính. Cần giải quyết tốt vấn đề chất lượng lạc xuất khẩu, lấy lại tín nhiệm cho mặt hàng này của ta tại thị trường. Úc Úc là thị trường đang có tốc độ tăng kim ngạch rất lớn do xuất khẩu dầu thô tăng mạnh. Tuy nhiên các mặt hàng ngoài dầu thô cũng tăng khá. Trong đó đáng kể là thủy sản, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ. Tiềm năng thị trường còn nhiều để ta khai thác xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép, linh kiện điện tử và vi tính, các mặt hàng nông sản như cà phê, chè.Cần tổ chức nhiều hơn hoạt động XTTM, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận sâu, rộng hơn thị trường.Cần lưu ý xử lý vấn đề SPS đối với tôm và cá basa xuất khẩu vào Úc để giữ vững, tăng xuất khẩu các mặt hàng này vào thị trường. 3.2.2. Thị trường Châu Âu Ở cấp độ Chính phủ: Ta chủ trương củng cố và không ngừng phát triển quan hệ chính trị -kinh tế tốt đẹp truyền thống giữa Việt Nam với các nước Châu Âu để đẩy mạnh xuất khẩu và ổn định thị trường nhập khẩu. Cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý đối với tất cả các mối quan hệ cấp Chính phủ về tiêu chuẩn hóa, đo lường, về kiểm dịch động vật và thực vật.Tiếp tục cải cách hành chính, đẩy mạnh công tác xây dựng chính phủ điện tử nhằm tạo thuận lợi cho kinh doanh và tìm kiếm thông tin của các doanh nghiệp trong, ngoài nước và hỗ trợ thông tin cho hoạt động của các cơ quan đại diện ở nước ngoài. Xây dựng một website xuất khẩu tổng hợp gồm tất cả các mục hàng hóa tiềm năng của Việt Nam và/hoặc có kết nối với website của các hiệp hội ngành hàng nhằm nâng cao hiệu quả giới thiệu sản phẩm xuất khẩu và doanh nghiệp xuất khẩu Việt nam với đối tác nước ngoài. Khi cần thông tin chi tiết hơn thì các đối tác nước ngoài có thể truy cập các website liên kết từ cổng này. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tuyên truyền thương hiệu, giới thiệu khả năng và tiềm năng sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như VTV4, Internet, báo chí, tạp chí, đĩa CD-ROM. Xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất và cập nhật về doanh nghiệp Việt Nam nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp đối tác và/hoặc doanh nghiệp nước ngoài tìm hiểu đối tác Việt Nam, minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động phát triển kinh doanh trong nước và quốc tế. Vận động các nước thành viên EU sớm công nhận, hoặc công nhận từng bước quy chế kinh tế thị trường (MES) cho Việt Nam (theo 5 tiêu chí mà EU đưa ra). Theo đó hàng hoá của chúng ta không bị phân biệt đối xử và hưởng quy chế công bằng vì có xuất xứ sản xuất từ một nước thành viên chính thức của WTO, đồng thời giảm thiểu nguy cơ bị kiện tụng, tranh chấp thương mại. Tổ chức nghiên cứu, cập nhật về luật pháp và chính sách kinh tế - thương mại của các đối tác Châu Âu, các rào cản phi thuế quan, quy tắc vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn chất lượng, mẫu mã của từng nước hoặc của khu vực kinh tế, đặc biệt là của EU và có dự báo chính xác về những tác động xấu có thể xảy ra với xuất khẩu của ta. Phổ biến rộng rãi đến cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp để có điều chỉnh định hướng phù hợp cho hoạt động xuất, nhập khẩu tương ứng. Để có được tiềm năng xuất khẩu tốt trên tất cả các lĩnh vực như nông sản, thuỷ sản dệt may, các sản phẩm điện tử và cơ khí.... việc hoạch định, phân vùng, qui hoạch tổng thể nhằm phối hợp tốt giữa tất cả các khâu nuôi, trồng, sản xuất, chế biến, xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm cần được sự quan tâm và chỉ đạo có định hướng thống nhất của Chính phủ và các Bộ ngành liên quan .Nhà nước cần tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ việc xây dựng các Trung tâm thương mại Việt Nam tại một số thị trường trọng điểm, tổ chức các hoạt động nhằm quảng bá hình ảnh của Việt Nam tới tất cả các nước. Mô hình của các hoạt động như “Ngày Việt Nam” ở nước ngoài, “Ngày mua hàng Việt Nam” đã được tổ chức thành công ở một số nước như Pháp, Đức, Tây Ba Nha… cần được nhân rộng và có sự điều chỉnh, phù hợp với đặc thù của từng nước. Xây dựng Phòng trưng bầy mẫu (show-room) với cơ số hàng phong phú, số lượng lớn, đủ để đáp ứng nhu cầu dùng thử của khách hàng. Tận dụng tối đa nguồn lực của đội ngũ Việt kiều đang làm ăn sinh sống tại các nước châu Âu để xúc tiến thương mại, tiếp cận hệ thống phân phối và tìm kiếm các phương thức bán hàng mới ở các thị trường này.Đề nghị chính phủ ta đặt vấn đề với các nước bạn quan tâm mở rộng quan hệ kinh tế sang các lĩnh vực dịch vụ như du lịch, đào tạo, xuất khẩu lao động, giao thông vận tải. Trước mắt hai bên có thể ký các hiệp định hợp tác về lĩnh vực này để mở đường cho giới doanh nghiệp hai nước thiết lập quan hệ kinh doanh với nhau. Kiện toàn cơ quan đại diện thương mại tại các nước nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiều ngành kinh tế khác trong bối cảnh quan hệ kinh tế đối ngoại đang mở rộng nhanh chóng. Các hiệp hội ngành hàng Tăng cường quan hệ giữa các hiệp hội ngành hàng của Việt Nam và các nuớc trong khu vực. Công tác này không chỉ dừng ở việc trao đổi các đoàn mà còn thông qua việc duy trì, cung cấp thông tin thường xuyên cho nhau (cung cấp bản tin định kỳ, tạo đường link trên website của hiệp hội các nước để các doanh nghiệp tìm hiểu về đối tác của mình) và giới thiệu các doanh nghiệp thành viên của nhau hợp tác làm ăn. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, chuyên nghiệp hóa hoạt động xúc tiến thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp thành viên thâm nhập sâu hơn vào thị trường họ quan tâm. Tiếp tục có chính sách đẩy mạnh và hỗ trợ nâng cao vị trí, vai trò của các hiệp hội ngành hàng. Thông qua việc kết nối và tăng cường có hiệu quả sự hợp tác giữa hiệp hội ngành hàng của nước sở tại với hiệp hội ngành hàng trong nước, cơ quan đại diện (ĐSQ, Thương vụ) sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động chắp mối đối tác và thu hút đầu tư FDI và công nghiệp- thương mại, góp phần đẩy mạnh và đa dạng hóa hoạt động xuất khẩu. Ở cấp độ doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần tích cực tham gia các hội chợ chuyên ngành.Châu Âu là khu vực có nhiều hội chợ, vì vậy việc tham dự hội chợ tại chỗ là cơ hội tốt để giới thiệu, bán sản phẩm và tìm đối tác phân phối hàng hóa lâu dài ở nước sở tại. Bên cạnh các hội chợ bán lẻ là nơi doanh nghiệp bán hàng trực tiếp đến tay ngưòi tiêu dùng, các hội chợ chuyên ngành cũng là điểm mạnh của khu vực này để tạo dựng đối tác lâu dài. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác khảo sát thị trường thông qua việc tìm hiểu thông tin trước về ngành hàng mình quan tâm và đối tác sẽ tiếp xúc. Sau khi khảo sát, cần duy trì quan hệ thường xuyên, thậm chí cần đôn đốc doanh nghiệp bạn để triển khai các cam kết đạt được. Nên tập trung vào những đoàn khảo sát chuyên ngành của một lĩnh vực riêng biệt mới có thể nâng cao hiệu quả khảo sát. Tránh hình thức khảo sát đa ngành, rất khó đáp ứng hết các yêu cầu mà hiệu quả với từng doanh nghiệp không cao. Mạnh dạn tìm cơ hội xuất khẩu, thậm chí đầu tư vào thị trường nước ngoài để tận dụng các lợi thế về công nghệ, thương hiệu của đối tác. Tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại có trọng điểm, không giới thiệu tràn lan các mặt hàng mà nên tập trung vào một số mặt hang chủ lực nhất định của địa phương hoặc Công ty mình (trước khi tổ chức đi nên tham khảo ý kiến các Thương vụ xem mặt hàng của Công ty có phù hợp với nhu cầu thị trường không). Các Công ty cần tạo nguồn hàng cung cấp ổn định tránh tình trạng khi có đơn hàng lớn thường đi thu gom nơi khác về, lơ là hoặc coi nhẹ khâu kiểm tra chất lượng để giao hàng cho nhanh, kịp thời do vậy dễ dẫn đến chất lượng không đồng đều, hàng bị hư hỏng , kém chất lượng khi đến cảng. Các Công ty Việt nam cần chủ động tuyên truyền quảng bá thương hiệu, giới thiệu về Công ty mình qua các phương tiện thông tin như Internet, báo chí, tạp chí, tờ rơi, CD-ROM, và qua trang Web của Công ty, thường xuyên cập nhật thông tin trên trang Web của Công ty. Vụ Châu Âu sẽ phấn đấu để trở thành một điểm đến tin cậy của các doanh nghiệp Việt Nam đói thông tin xuất khẩu hoặc nhập khâủ tại thị trường Châu Âu; giúp đỡ hiệu quả các doanh nghiệp phát triển xuất khẩu , ổn định mạng lưới thông tin hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Vụ Châu Âu cũng sẽ là một Cơ quan có dự báo sớm các cơ hội làm ăn hoặc rủi ro tại EU và các nước Châu Âu khác. 3.2.3. Thị trường Châu Mỹ Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cùng với quan hệ chính trị và ngoại giao giữa nước ta và các nước nói chung và khu vực Châu Mỹ nói riêng không ngừng được cải thiện và đang phát triển tốt trên tất cả các lĩnh vực, các doanh nghiệp khu vực ngày càng quan tâm đến thị trường Việt Nam; do vậy, hoạt động xúc tiến thương mại cần phải đi vào chiều sâu hơn là chiều rộng. Ngoài việc quảng bá xây dựng hình ảnh Việt Nam là thị trường đang nổi và cung cấp thông tin chung giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài hiểu môi trường và nắm bắt cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại của ta ở trong và ngoài nước cần phải đi sâu hướng dẫn và giúp đỡ cụ thể có chọn lọc các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm năng trong khu vực tiếp cận và giao dịch thành công với các đối tác Việt Nam. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường nước ngoài nói chung và các nước Châu Mỹ cũng cần phải lựa chọn đúng thị trường, đúng mặt hàng, đúng doanh nghiệp và đúng đối tác thay vì cho hỗ trợ tràn lan mang tính phong trào hoặc chia phần. Chẳng hạn, nếu ta lựa chọn một số doanh nghiệp sản xuất giầy dép có qui mô tương đối lớn, có khả năng tự cung ứng nguyên phụ liệu, có khả năng thiết kế mẫu mã hoặc triển khai sản xuất theo mẫu mã của người mua đi Hoa Kỳ tiếp cận các công ty kinh doanh giầy dép có khả năng thiết mẫu mã để thiết lập quan hệ đối tác sản xuất chiến lược thì sẽ có hiệu quả hơn là tổ chức cho các doanh nghiệp gia công đơn thuần phụ thuộc vào nguyên phụ liệu do người đặt gia công cung cấp đi gặp các nhà phân phối giầy dép chuyên mua hàng theo đề tài mẫu mã của nhà sản xuất. Việc tổ chức các đoàn khảo sát thị trường đa ngành đi mỗi nơi vài ba ngày lại càng không có hiệu quả, nếu không muốn nói là lãng phí. Các doanh nghiêp xuất khẩu lớn của Việt Nam cần có chiến lược thâm nhập thị trường nước ngoài dài hạn. Một trong những chiến lược đó là tham gia là hội viên của các hiệp hội ngành hàng tại các thị trường lớn và tham dự thường xuyên các hoạt động do các hiệp hội ngành hàng tổ chức. Chẳng hạn, các hội nghị thường niên do các hiệp hội ngành hàng ở Hoa Kỳ tổ chức thường qui tụ rất nhiều các doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng trên khắp thế giới tham gia. Tham dự những hội thường niên như vậy doanh nghiệp sẽ thu thập được nhiều thông tin chuyên ngành và nắm bắt được xu hướng thị trường và quan trọng nhất là tiếp cận và thiết lập được quan hệ với các doanh nghiệp đối tác. Vai trò của các hiệp hội ngành hàng cần phải được tăng cường để vừa đại diện cho các lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp trong ngành vừa là đầu mối cung cấp thông tin và hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp trong ngành. Hiệp hội ngành hàng sẽ là một trong những đầu môi quan trọng để các thương vụ ở nước ngoài liên hệ giới thiệu đối tác cho các doanh nghiệp Việt nam và ngược lại. Mối quan hệ trong ngoài giữa các thương vụ của ta ở nước ngoài và các tổ chức xúc tiến thương mại và doanh nghiệp ở trong nước cần phải được tăng cường để các thương vụ thực sự trở thành tai mắt của trong nước và trong nước thực sự là hậu phương của các thương vụ. Các tổ chức xúc tiến thương mại ở trong nước, trước hết là Cục XTTM thuộc Bộ Công Thương cần có bộ phận chuyên chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ, và đáp ứng các yêu cầu về XTTM của các thương vụ. Bộ Công thương cần phải cụ thể hóa nhiệm vụ và hoạt động của các thương vụ ở nước ngoài, nhất là phạm vi trách nhiệm phục vụ công đồng doanh nghiệp, chẳng hạn như phân loại những thông tin mà các thương vụ có trách nhiệm phải cung cấp miễn phí cho các doanh nghiệp và các thông tin mà thương vụ chỉ tiến hành trên cơ sở thỏa thuận với donh nghiệp và các doanh nghiệp phải trả chi phí. Hệ thống thương vụ ở nước ngoài cần phải được tăng cường về chất và mở rộng thêm ở một số địa bàn. Ở những nước mà thủ đô không phải là trung tâm kinh tế và thương mại thì cần phải xem xét khả năng di chuyển trụ sở của thương vụ từ thủ đô hành chính đến các trung tâm kinh tế và thương mại để có thể tiếp cận trực tiếp với các doanh nghiệp sở tại. Đặc biệt, trong bối cảnh các đại sứ quán của ta ở nước ngoài hiện nay cũng hoạt động nhiều trong lĩnh vực kinh tế và thương mại, việc tập trung hết nguồn lực hạn chế vào một chỗ nhất là chỗ đó không phải là trung tâm kinh tế và thương mại thì hoàn toàn không nên. Nhiều nước duy trì hệ thống XTTM ở nước ngoài không phải là cơ quan ngoại giao và hoàn toàn độc lập với đại sứ quán nên không phụ thuộc vào biên chế đối đẳng ngoại giao. Một số biện pháp cần lưu ý với một số thị trường Hoa Kỳ. Đối với dệt may, quan trọng nhất là điều hành xuẩt khẩu dệt may và xử lý kịp thời với Hoa Kỳ các vấn đề phát sinh từ Chương trình giám sát của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may của ta, tuyệt đối không để xẩy ra Bộ Thương mại Hoa Kỳ tự khởi điều tra bán phá giá. Biện pháp quan trọng nhất là có cơ chế nắm bắt kịp thời tình hình xuất khẩu, nhất là diễn biến giá xuất khẩu, đồng thời có chế tài để hạn chế các đơn hàng giá rẻ. Các doanh nghiệp dệt may của ta cũng nên chủ động khai thác các đơn hàng cao cấp giá cao để vừa tránh giảm giá xuất khẩu dẫn đến bị điều tra bán phá giá vừa tận dụng lợi thế cạnh tranh của ta ở phân khúc thị trường này. Đối với mặt hàng đồ gỗ, hiện cũng có một vài nguồn tin cho rằng một số doanh nghiệp Hoa Kỳ đang tính đến việc khởi kiện Việt Nam bán phá giá hàng đồ gỗ trong phòng ngủ. Tuy theo đánh giá của Thương vụ ta ở Hoa Kỳ khả năng này rất ít xẩy ra trong năm 2008, song cũng cần phải theo rõi sát sao. Các doanh nghiệp đồ gỗ của ta nên chủ động đa dạng hóa chủng loại hàng hóa xuất sang Hoa Kỳ, không nên tập trung quá nhiều vào đồ gỗ trong phong ngủ. Chương trình Xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia nếu có hỗ trợ ngành đồ gỗ xúc tiến xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì cũng nên tập trung vào các nhóm hàng khác ngoài đồ gỗ trong phong ngủ. Đối với thuỷ sản, quan trọng nhất là xử lý dứt điểm vấn đề dư lượng kháng sinh vượt quá mức cho phép trong sản phẩm, đặc biệt là trong bối cảnh Quốc hội Hoa Kỳ có thể sẽ thông qua dự luật an toàn sản phẩm mới, đặt ra các yêu cầu khắt khe hơn về an toàn sản phẩm tiêu dùng, nhất là đối với thực phẩm. Tiếp đến là yêu cầu phía Hoa Kỳ bỏ yêu cầu ký quĩ liên tục để đảm bảo khả năng nộp thuế chống bán phá giá đối với các loại tôm đông lạnh của ta đang phải chịu thuế chống bán phá giá. Đối với nhóm hàng rau quả. Bộ Nông nghiệp cần đẩy nhanh tiến trình làm các thủ tục đăng ký cho một số loại quả có tiềm năng thâm nhập thị trường để Hoa Kỳ cho phép nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Về vấn đề GSP. Cần triển khai nhanh và mạnh việc đề nghị Hoa Kỳ dành ưu đãi thuế quan (GSP) cho Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh cho một số hàng hóa của ta được hưởng ưu đãi này. Trước mắt, Bộ ta cần hoàn chỉnh và gửi sớm cho phía Hoa Kỳ hồ sơ chứng minh đủ các tiêu chuẩn được hưởng GSP. Tiếp theo đó, Bộ Ngoại giao và cụ thể là Đại sứ quán của ta tại Washington DC cần đẩy mạnh vận động hành lang với Quốc hội và Chính quyền Hoa Kỳ để họ sớm dành cho ta. Đối với các nước Mỹ La Tinh. Để đẩy mạnh xuất khẩu vào Mỹ La Tinh trong thời gian tới về mặt nhà nước cần phải có chiến lược tổng thể, dài hạn, đầu tư nhiều hơn cho việc nghiên cứu thị trường khu vực, đào tạo nguồn nhân lực cho các thương vụ và văn phòng đại diện của ta ở khu vực này. Hiện nay, ta đã có Thương vụ ở Mexico, Cuba, Achentina, Chile, Brasil nhưng biên chế còn rất hạn hẹp, phần lớn đều chưa được đào tạo tiếng Tây Ban Nha nên gặp rất nhiều khó khăn trong triển khai công việc nhất là phần xúc tiến thương mại và nghiên cứu thị trường cũng như việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thiết lập các mối quan hệ bạn hàng. Do vậy song song với việc tăng thêm biên chế cho các thương vụ hiện có cần phải mở thêm các thương vụ mới ở những nước quan trọng trong khu vực như Panama, Venezuela và Colombia. Mỗi thương vụ ít nhất nên có 2 biên chế. Khu vực Mỹ La Tinh đa phần sử dụng tiếng Tây Ban Nha, (Trừ Brasil sử dụnh tiếng Bồ Đào Nha) - ngôn ngữ mà các doanh nghiệp ta ít biết; do vậy, việc giao dịch cũng bị hạn chế. Số người biết tiếng Tây Ban Nha của Bộ cũng rất ít và đa phần đã sắp đến tuổi nghỉ. Đối với tiếng Bồ Đào Nha, tình trạng còn khó khăn hơn. Do vậy, việc đào tạo 2 ngôn ngữ này cho các cán bộ làm việc ở khu vực này là điều hết sức cần thiết. Các nước Mỹ La Tinh rất coi trọng quan hệ cá nhân, đặc biệt là quan hệ giữa các lãnh đạo cấp cao, do vậy nên cần phải thiết lập được mối quan hệ này bởi vì hầu như tất cả các Tổng thống của các nước Mỹ La Tinh đều là Nguyên thủ Quốc gia, đồng thời đứng đầu Nội các. Việc có được các quan hệ cá nhân thân thiện với họ là chìa khoá giúp giải quyết nhanh chóng các vấn đề lớn thuộc về lợi ích quốc gia. Lãnh đạo Bộ cũng cần phải có chương trình thăm và làm việc với cấp tương đương của các nước sở tại để thiết lập các mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại song phương và đề xuất các vấn đề mang tính chiến lược cũng như tìm tiếng nói chung góp phần giải quyết các bất đồng trong buôn bán toàn cầu và đề xuất các giải pháp khả thi thúc đẩy tăng trưởng thương mại và đầu tư phù hợp với điều kiện thực tế giữa ta và các nước trong khu vực. Về phía vụ Thị trường và các vụ chức năng khác như Vụ XNK, Vụ Đa biên, Cục XTTM, Cục QLCT cũng cần thiết phải kết hợp tổ chức các chuyến công tác sang các nước quan trọng trong khu vực như Brasil, Colombia, Argentina, Chile, Peru, Venezuela ỏ Nam Mỹ và các nước khác như Mexico, Panama. để khảo sát thị trường, tìm hiểu tập quán buôn bán, các biện pháp tốt nhất giúp công tác xúc tiến thương mại vào các nước này đạt hiệu quả cao nhất, cũng như tham khảo chính sách của các nước sở tại trong việc áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá. Xem xét khả năng ký kết các thoả thuận song phương, cắt giảm thuế quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi cho việc phát triển buôn bán và đầu tư giữa ta và họ. Việc thực hiện các chuyến thăm chắc chắn sẽ giúp các vụ chức năng nêu trên có cách nhìn thực tế hơn về Mỹ La tinh, về nhu cầu hàng hoá, khả năng cung cấp, các kênh phân phối, các chính sách và tập quán thương mại mà họ đang thực thi, các cơ hội cho hàng hoá Việt Nam có thể xâm nhập thị trường khu vực. Đặc biệt là để xác định được những mặt hàng nào ta có thể xuất khẩu được vào khu vực và ngược lại. Trên cơ sở đó giúp cải tiến các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia vào khu vực linh hoạt và hiệu quả hơn. Đồng thời giúp các doanh nghiệp xác định được những mặt hàng mà thị trường khu vực có nhu cầu và những sản phẩm mà họ có khả năng cung cấp. Mặt khác, hàng năm vụ Thị trường nên xem xét kết hợp với các vụ chức năng nêu trên và có thể cả với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Đại sứ quán các nước Mỹ La Tinh tại Việt Nam tổ chức các hội thảo chuyên đề buôn bán với Mỹ La Tinh cho các doanh nghiệp ta nhằm giúp họ các thông tin cần thiết và thực tế về Mỹ La Tinh. Công tác xúc tiến thương mại của ta thời gian qua vào khu vực đã có những tiến bộ đáng kể, tuy nhiên xét về mặt hiệu quả thì còn chuyện phải bàn. Cục xúc tiến Thương mại nên phối hợp với các hiệp hội ngành hàng chọn trong số họ nhũng doanh nghiệp có khả năng sản xuất, cung cấp và phân phối các sản phẩm mà ta có thế mạnh như dệt may, da giày, cao su, đồ gỗ, các sản phẩm điện và điện tử, hải sản đã chế biến, vật liệu xây dựng (chủ yếu là gạch lát nền, gạch ốp tường)… Thị trường các nước Mỹ La Tinh từ lâu đã được phân chia. Đa số các sản phẩm từ trước tới nay ta xuất khẩu được vào thị trường khu vực đều là các sản phẩm có chất lượng khá và giá cả hợp lý. Các mặt hàng giá rẻ, chất lượng thấp hàng của ta không cạnh tranh được với hàng Trung Quốc, hàng Ấn Độ, Uruguay và Brasil. Đặc biệt, trong lĩnh vực dệt may, giày dép, hàng của ta xuất sang họ chủ yếu là những mặt hàng ta sản xuất theo đơn đặt hàng của các các tập đoàn lớn như NIKE, ADIDDA, REB. SAMSONITTE, SARA hoặc mang nhãn hiệu của các Cty xuyên quốc gia khác. Ta chưa có được nhãn hiệu của riêng mình ngoại trừ gạo cà phê cao su tự nhiên và hạt tiêu mang nhãn hiệu “sản xuất tại Việt Nam”. Do vậy, các Thương vụ ta tại khu vực này phải tìm các biện pháp tiếp cận được với các tập đoàn siêu thị quốc tế đang hoạt động ở Mỹ La Tinh, kéo họ vào Viêt Nam, hợp tác với họ trong việc sản xuất và cung cấp hàng tiêu dùng thì mới có cơ hội để tăng trưởng nhanh xuất khẩu hàng hoá của ta sang các nước này. Trong số các nước Mỹ La Tinh hiện nay có 4 nước ta nên tập trung ưu tiên mở rộng quan hệ buôn bán và đầu tư với họ đó là Mexico, Brasil, Chile và Panama, đây là 4 nước có nền thương mại mở cửa nhất. Chile, Brasil và Mexico là ba nước có vốn đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất trong khu vực. Panama là trung tâm và cửa ngõ vào các nước Trung Mỹ. Chile là nước có biểu thuế nhập khẩu thấp nhất hiện nay trong khu vực Mỹ La Tinh và họ cũng là nước đã ký nhiều hiệp định thương mại tự do và hiệp định kinh tế bổ sung với các nước này. Mặt khác Chile hiện là nước có các tập đoàn siêu thị đang hoạt động rất hiệu quả tại hầu hết các nước Nam Mỹ và là cửa ngõ thuận lợi cho hàng hoá vào các nước như Peru, Bolivia, Achentina. Việc triển khai đàm phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Chile sẽ tác mở ra cơ hội mới và tác động tích cực tới việc tăng trưởng xuất khẩu cũng như việc phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá của ta vào khu vực. 3.2.4. Thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á 3.2.4.1. Một số thuận lợi và khó khăn tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Thuận lợi: Một là, nền kinh tế châu Phi và Nam Á đã có những chuyển biến đầy hứa hẹn do nhiều nước đã thực hiện triệt để chương trình cải cách các chính sách kinh tế vĩ mô tập trung ở nhiều ngành và lĩnh vực. Hai là, nhu cầu thế giới với các sản phẩm xuất khẩu của châu Phi đang ngày càng gia tăng như xăng dầu, kim loại, khoáng sản… Ba là, các nước Nam Á đã thực hiện thành công chính sách thúc đẩy tăng trưởng khu vực tư nhân và tư nhân hóa (Ấn Độ, Pakistan) Bốn là, tích cực hội nhập sâu hơn giữa các nền kinh tế trong khu vực và với nền kinh tế toàn cầu Năm là, chính sách tài chính, ngân hàng của các nước Nam Á, đặc biệt là Ấn Độ cũng ngày càng cởi mở hơn trong nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài. Sáu là, đặc biệt với khu vực Tây Á (Trung Đông), giá dầu thô tăng cao đã đem lại một khoản thu nhập ngoại tệ lớn đối với các quốc gia khu vực này. Những bất lợi tiềm ẩn: Thứ nhất, bất ổn về chính trị, chiến tranh, cướp bóc, nội chiến và phân biệt sắc tộc vẫn chưa được giải quyết triệt để (bạo loạn ở Nigeria, mâu thuẫn nội bộ ở Pakistan, nội chiến ở Sudan hay Liberia) Thứ hai, cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Iran đến nay vẫn chưa có hồi kết khiến cho giá dầu ngày một leo thang, ảnh hưởng đến nền kinh tế nhiều quốc gia. 3.2.4.2. Giải pháp Khu vực thị trường Trung Đông – Nam Á – Châu Phi có những đặc thù riêng. Trung Đông có những yếu tố tôn giáo chặt chẽ. Châu Phi có khoảng cách địa lý xa xôi và thông tin về thị trường còn hạn chế và chưa được các doanh nghiệp chú trọng nhiều. Nam Á, ngoại trừ Ấn Độ, gồm các quốc gia thu nhập thấp và tình hình chưa thực sự ổn định. Ngoài ra, một vấn đề lớn đặt ra trong quan hệ thương mại với các nước Nam Á là mức thâm hụt thương mại ngày càng lớn với Ấn Độ. Vì vậy, việc tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Ấn Độ nhằm giảm tỷ lệ nhập siêu với quốc gia này là rất cần thiết. Đối với nhà nước a. Tăng cường trao đổi các đoàn lãnh đạo cấp cao, đoàn cấp Bộ ngành để thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với các nước, trước mắt là các thị trường trọng điểm như : Nam Phi, Ai Cập, Angieri, Maroc, UAE, Thổ Nhĩ Kỳ… b. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý thông qua việc ký kết các Hiệp định như Hiệp định Thương mại, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực hàng không, hàng hải, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Cụ thể : tiếp tục thực hiện Hiệp định Hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp với Marốc, giải tỏa những vướng mắc trong hoạt động thanh toán qua hệ thống ngân hàng với Iran, xây dựng cơ chế xử lý các hành vi không đúng chuẩn mực thương mại, gian lận thương mại, các hành vi lừa đảo của một bộ phận doanh nghiệp (như ở Pakistan). c. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại. Một mặt tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại như chương trình XTTM quốc gia, tham dự triển lãm, hội chợ. Mặt khác, cần có sự điều chỉnh đối với các chương trình XTTMQG như Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí xúc tiến cho các đoàn XTTM hoặc khảo sát thị trường tại những nước châu Phi chậm phát triển. Các chương trình XTTM cần được đổi mới, hạn chế các đoàn khảo sát, nghiên cứu chung chung. d. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các nước châu Phi để sản xuất hàng hoá tiêu thụ tại chỗ hoặc phục vụ xuất khẩu sang nước thứ ba trong các lĩnh vực như sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cơ khí, điện tử, viễn thông, công nghiệp xe máy, chế biến nông lâm thủy sản. e. Mở rộng Thương vụ: hiện tại, ở Châu Phi ta mới có 05 Thương vụ trong tổng số 54 nước Châu Phi. Tại Trung Đông mới chỉ có 4 trong 15 nước. Cần triển khai thành lập mới Thương vụ tại các thị trường điểm như: Tanzania, Ăngôla, Cote d’Ivoire, Arap Xêut, Israel. f. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thu thập và phổ biến thông tin thị trường: - Đối với Thương vụ : tư vấn cho doanh nghiệp cách thức thâm nhập vào các kênh phân phối hoặc cách thức để đưa hàng hoá nhập khẩu vào thị trường. - Đối với Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp và các Hiệp hội Ngành hàng: rà soát và đổi mới cách thức tổ chức các Chương trình XTTMQG và các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài nhằm tận dụng tối đa cơ hội để thu thập thông tin về cơ chế chính sách, tập quán buôn bán, nhu cầu mặt hàng… - Phổ biến thông tin: Cần tranh thủ ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập cũng như phổ biến thông tin thị trường trên trang web của Bộ Thương mại, Phòng TMCN, Cục XTTM, Trung tâm XTTM và ĐT TPHCM, Diễn đàn doanh nghiệp Việt nam – Châu Phi… - Diễn đàn doanh nghiệp Việt nam – Châu Phi cần đẩy mạnh công tác giới thiệu và hướng dẫn doanh nghiệp tham gia và khai thác thông tin qua cổng giao dịch này một cách hữu ích. Viện Nghiên cứu Trung Đông và Châu Phi cần phối hợp với Diễn đàn trong việc đăng tải các tài liệu nghiên cứu thị trường có tính thực tế. - Tổ chức Hội thảo trong nước giới thiệu về thị trường Châu Phi và Trung Đông cho các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp a. Tích cực và kiên trì hơn trong công tác nghiên cứu thông tin thị trường Doanh nghiệp cần xác định mặt hàng trọng điểm, thị trường trọng điểm, từng bước xây dựng bàn đạp để mở rộng hoạt động xuất khẩu vào khu vực thị trường này, chẳng hạn: An-giê-ri (gạo, cà ph ê và hạt ti êu), Ăng-gô-la và Kê-nya (gạo và sản phẩm dệt may), Ai Cập (máy vi tính và linh kiện, hạt tiêu, rau quả và sợi), Nam Phi (gạo, giày dép, cà phê, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, sản phẩm gỗ, Thổ Nhĩ Kỳ (sản phẩm nhựa, giày dép, hàng điện tử, dệt may), UAE (hạt tiêu, hải sản, đồ gỗ và nội thất, chè, cà phê, dệt may, giày dép)… b. Khảo sát thị trường, tham dự hội chợ, hội thảo doanh nghiệp Một trong những kinh nghiệm của các doanh nghiệp đang trực tiếp làm ăn với Châu Phi là cần trực tiếp gặp gỡ đối tác kinh doanh. Để những hoạt động này đem lại hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng đối với từng hoạt động, từng chuyển đi, tránh tham gia một cách hời hợt. c. Tăng cường liên hệ với các Thương vụ tại các nước sở tại Thương vụ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các khó khăn. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể gửi hàng mẫu đề nghị Thương vụ giúp chào hàng và tìm hiểu thủ tục của bạn về những vấn đề khác liên quan. d. Lựa chọn phương thức kinh doanh phù hợp : Doanh nghiệp cần lựa chọn một trong các hình thức kinh doanh sau cho phù hợp với khả năng tài chính cũng như mục tiêu của mình: xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu tại chỗ hay đầu tư. e. Tập trung đào tạo và xây dựng đội ngũ tiếp thị hàng hóa chuyên nghiệp Các hiệp hội ngành hàng cần tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đào tạo xây dựng đội ngũ tiếp thị thị theo từng nhóm, ngành hàng để nâng cao chất lượng giao dịch kinh doanh và quảng bá sản phẩm.Tạo lập môi trường điều kiện để phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. 4. Tạo lập môi trường điều kiện để phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 4.1. Trong ngắn hạn Đề nghị Chính phủ: Giao Bộ Công Thương xây dựng Chương trình xúc tiến thương mại năm 2009 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý I/2009 theo hướng vừa phát huy biện pháp xúc tiến thương mại truyền thống, vừa áp dụng xúc tiến thương mại theo từng ngành hàng, từng hợp đồng xuất khẩu lớn; thu hút các tập đoàn lớn nước ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Dự kiến nguồn vốn dành cho chương trình khoảng 200 tỷ đồng. Ngân hàng Nhà nước: Tiếp tục xem xét điều chỉnh lãi suất cơ bản phù hợp với diễn biến thị trường trong năm 2009 có tính đến lãi suất các nước trong khu vực và thế giới. Đây là biện pháp hữu hiệu để kích cầu và thúc đẩy sản xuất. Đồng thời, đảm bảo duy trì tỷ giá ổn định theo hướng có lợi cho xuất khẩu. Nghiên cứu cơ chế khuyến khích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay xuất khẩu với lãi suất ưu đãi thông qua việc giảm lãi suất tái cấp vốn, hỗ trợ lãi suất và các hình thức hỗ trợ khác… Ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho nông dân và các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất, xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản xuất khẩu. Bộ Tài chính Tăng cường sử dụng công cụ Ngân hàng Phát triển để thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu: Xem xét tiếp tục giảm mức lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu phù hợp với tình hình thực tế và thực sự có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn (điều chỉnh giảm từ mức 10,8%/năm hiện nay xuống khoảng 5-6%/năm, tương đương lãi suất được bù theo gói Kích cầu 17.500 tỷ đồng). Bổ sung, sửa đổi Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu theo hướng tập trung ưu tiên cho tín dụng xuất khẩu và tín dụng đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bổ sung danh mục mặt hàng và lĩnh vực được vay vốn đầu tư sản xuất gồm: gạo, dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, xe đạp và phụ tùng, cao su, nhóm hàng cơ khí, sắt thép, các sản phẩm từ gang thép, vật liệu xây dựng và túi xách va ly ô dù. Triển khai nghiệp vụ cấp tín dụng nhập khẩu cho nhà nhập khẩu nước ngoài nhằm đẩy mạnh xuất khẩu đối với một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, nông sản… Mở rộng định mức vay và giãn thời gian trả nợ vay ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản, công nghiệp, chế biến (gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, dệt may, giầy dép, nhựa) và các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp đã nhập khẩu thép. Kịp thời giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp về thủ tục hành chính, hải quan liên quan đến hoạt động xuất khẩu. d. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chủ trì phối hợp với Bộ Công Thương nghiên cứu các hình thức hỗ trợ nông dân theo cam kết của Việt Nam với WTO về hỗ trợ nông nghiệp (10% trị giá sản phẩm nông nghiệp), hỗ trợ thiết bị và kinh phí kiểm tra dư lượng kháng sinh, vệ sinh an toàn thực phẩm, hỗ trợ bảo quản hàng nông sản (gạo, cà phê) sau thu hoạch như đầu tư sân phơi, lò sấy, kho chứa… Chủ trì phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương nghiên cứu đề xuất các biện pháp từng bước hoàn chỉnh các cơ chế đảm bảo sản xuất và tiêu thụ ổn định các nông sản, thủy sản chính như gạo, cá tra, tôm và cà phê. Triển khai xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn các mặt hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu mua nông lâm thủy sản, trước mắt, như tôm, cá xuất khẩu. đ. Bộ Công Thương Nghiên cứu và báo cáo Thủ tướng Chính phủ các hình thức hỗ trợ tài chính cho các hợp đồng xuất khẩu giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, giảm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.Tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các thương vụ tập trung tìm đầu ra để tiêu thụ gạo, thủy sản và các nông sản khác. Theo dõi sát, có biện pháp đề phòng tích cực trước tình hình khủng hoảng tài chính của Mỹ và thế giới. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin dự báo, phát hiện kịp thời và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật do các nước đưa ra để hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tập trung đầu tư nâng công tác dự báo về thị trường, về hàng hàng hóa và các điều kiện thương mại… làm cơ sở cho việc chỉ đạo phát triển sản xuất, xuất khẩu vào những thời điểm có hiệu quả nhất. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam tìm hiểu thông tin, có chiến lược vận động Chính phủ, Bộ Nông nghiệp, Bộ Thương mại và các cơ quan có liên quan của Mỹ nhằm hạn chế việc Dự luật nông nghiệp 2008 gây khó khăn cho xuất khẩu cá tra.Tập trung thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại theo phương thức tập trung hỗ trợ trực tiếp cho các mặt hàng và các hợp đồng xuất khẩu lớn, quan tâm đến các thị trường lớn, truyền thống lẫn các thị trường tiềm năng như Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ La Tinh ở cả cấp Chính phủ và doanh nghiệp. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư kêu gọi và thu hút các tập đoàn lớn nước ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Phối hợp với các Bộ ngành liên quan phân tích và đánh giá hiệu quả của việc tham gia các FTA và đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, đào tạo về lĩnh vực hội nhập khu vực nói chung và về các Quy tắc xuất xứ (trong các FTA) nói riêng để giúp các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời những quy định mới, áp dụng hiệu quả các cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường các nước nhập khẩu do các Hiệp định FTA mang lại. Chủ trì cùng Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua hình thức thuê kho ngoại quan ở nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam gửi hàng và bán trực tiếp cho doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối của các thị trường ở Châu Phi, Trung Đông, Nam Mỹ và một số nước khác nhằm giúp hàng hoá của Việt Nam có có hội thâm nhập trực tiếp vào các thị trường này và giảm thiểu các rủi ro về thanh toán. Quản lý chặt chẽ thị trường nội địa, bảo đảm nhu cầu lành mạnh, hợp lý, đi đôi với việc xử lý nghiêm vi phạm đối với các hành vi đầu cơ gây biến động giá cả, cung cầu. e. Các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp: Cần có cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành quản lý và các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành. Nhà nước cần có sự hỗ trợ nhất về tài chính cho hoạt động của Hiệp hội. Các Bộ, ngành và Hiệp hội cần phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng hoá ở thị trường trong nước và nước ngoài cung cấp cho các hội viên và doanh nghiệp. Phối hợp với các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài trong việc thông tin về tình trạng pháp lý và khả năng thanh toán của đối tác, nhằm giảm thiểu rủi ro trong giao kết hợp đồng xuất khẩu, nhất là ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang chịu tác động ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng tài chính. Khuyến cáo doanh nghiệp trong việc rà soát các hợp đồng xuất khẩu đã ký, nhất là các hợp đồng dài hạn, hợp đồng kỳ hạn. Đặc biệt chú ý vấn đề khả năng thanh toán của đối tác. Cẩn trọng trong việc sử dụng các công cụ thanh toán, điều kiện thanh toán trong các giao dịch có khả năng tiềm ẩn rủi ro trong việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán của đối tác. 4.2. Trong trung và dài hạn a. Xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu Bộ Công Thương triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, dày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa... nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn. Vấn đề này mặc dù đã được đặt ra nhiều năm nay đối với nhiều mặt hàng ngành hàng nhưng cho đến nay kết quả vẫn rất khiêm tốn. Trong thời gian tới đề nghị nhà nước cho phép triển khai các khu tập trung như những khu công nghiệp, khu bảo thuế, trung tâm buôn bán nguyên phụ liệu (dệt may, giầy dép…) và cho phép các nhà đầu tư phân phối hàng hoá trong nước và nước ngoài vào hoạt động. b. Thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan, Bộ Tài chính xây dựng lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu để giảm thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa... Trước mắt cần xem xét bãi bỏ một số thủ tục đối với việc nhập khẩu nông sản từ các nước có chung biên giới với Việt Nam, tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu nguyên liệu sản xuất xuất khẩu và xem xét cho thông quan hàng xuất khẩu từ các cửa khẩu phụ. c. Đẩy mạnh đàm phán với các nước Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai ký kết các thỏa thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, New Zealand… để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thanh toán cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thuỷ sản. Hợp tác với các nước khác có cùng mặt hàng xuất khẩu (gạo với Thái Lan, cà phê với Indonesia, Braxin, đồ gỗ với Malaysia…) để tăng cường hiệu quả xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản có thế mạnh của Việt Nam. d. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng phục vụ xuất khẩu Bộ Công Thương triển khai thành lập Công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Hình thức bảo hiểm xuất khẩu (hỗ trợ của Chính phủ) được áp dụng phổ biến tại các nước phát triển, trong khi thực tiễn kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều rủi ro. Do vậy, áp dụng biện pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là cần thiết và phù hợp với các quy định của WTO. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng báo cáo đánh giá ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian qua và dự báo tỷ giá giai đoạn 2009-2010. Tỷ giá hối đoái có tác dụng tích cực hoặc hạn chế đến công tác xuất nhập khẩu. Do đó, điều tiết tỷ giá hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý là cần thiết. Ngân hàng Nhà nước ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho người nông dân và các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu với lãi suất hợp lý. Các mặt hàng cần ưu tiên trước mắt là thủy sản, gạo, cà phê, hạt điều, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa. Đẩy mạnh tuyên truyền và khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa đồng tiền thanh toán và phòng ngừa rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu. đ. Bộ Công Thương nâng cao hiệu quả và tăng cường công tác xúc tiến thương mại Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam để từ đó tạo nên những làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng. Đổi mới cách thức tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm có kim ngạch nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, một số nước EU…, và các mặt hàng trọng điểm mà khả năng sản xuất trong nước không bị hạn chế nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc tiến thương mại đối với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tham tán thương mại tại các nước theo hướng hỗ trợ tích cực hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua cơ chế phối hợp giữa các Hiệp hội ngành hàng và các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài. Nghiên cứu và phát triển hình thức xúc tiến doanh nghiệp nhằm kêu gọi các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới vào đầu tư sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu tại Việt Nam… g. Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất xuất khẩu Bộ Lao động Thương binh và xã hội: Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí…Đồng thời, chú trọng khâu thiết kế, tạo dáng sản phẩm; Tổ chức nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân viên thiết kế để đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành quản lý với các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành, phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng hoá ở thị trường trong nước và nước ngoài cung cấp cho các hội viên và doanh nghiệp.. Nhà nước cần có sự hỗ trợ nhất về tài chính cho hoạt động của Hiệp hội. KẾT LUẬN Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc, xuất khẩu tiếp tục được khẳng định là động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế Việt Nam những năm tới, khi mà giá trị kim ngạch xuất khẩu hiện nay chiếm tới 70-80% GDP. Mục tiêu của Việt Nam là hướng đến xuất siêu, muốn thế phải đẩy mạnh xuất khẩu, giảm dần nhập siêu và hướng tới xuất siêu để tích luỹ ngoại tệ. Kinh ngiệm Trung Quốc cho thấy, sau 20 năm xuất siêu liên tục, nước này đã có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Vì vậy, Việt Nam cũng cần hướng tới xuất siêu để có nguồn lực để tăng nhanh dự trữ ngoại tệ quốc gia và đây chính là công cụ hiệu quả để đối phó với những biến động trên thị trường thế giới, nhất là khi tình hình kinh tế thế giới đang có những diễn biến khó lường ảnh hưởng từ cuộc khủng hoàng tài chính đã lan ra toàn cầu. Muốn vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động chuẩn bị biện pháp phù hợp để thâm nhập, mở rộng thị trường, nâng cao kim ngạch xuất khẩu theo định hướng bền vững và hiệu quả. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã có độ mở rất lớn, dựa tới 70% vào xuất khẩu, thậm chí cả nhập khẩu (vì Việt Nam vẫn phải nhập khá lớn nguyên liệu cho hàng hóa xuất khẩu), thì trong bối cảnh xuất khẩu giảm sút, giá cả thị trường thế giới biến động mạnh, các yếu tố phát triển bền vững sẽ bị đe dọa. Nếu chỉ quan tâm tới xuất khẩu, mà không coi trọng đúng mức thị trường nội địa, tiêu dùng trong nước và không kết hợp hài hoà giữa sản xuất cho xuất khẩu với sản xuất thay thế nhập khẩu, thì không thể duy trì sự phát triển ổn định và bền vững. Bởi vậy, cần quán triệt thị trường trong nước là cơ sở, thị trường nước ngoài là quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp và cả trong chiến lược phát triển của đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách Giáo trình Kinh tế thương mại. GS.TS. Đặng Đình Đào - GS.TS Hoàng Đức Thân - NXB Thống kê 2003. Giáo trình Marketing Thương mại. PGS.TS. Nguyễn Xuân Quang - NXB Lao động xã hội 2006 Thương mại Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế - Bộ Thương mại 8/2004 Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu. PGS.TS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống kê 2003 Xúc tiến thương mại.Ủy ban Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc Khu vực Châu Á Thái Bình Dương - Viện nghiên cứu Thương mại. NXB Chính trị quốc gia 4/2005 Các chiến lược và các kế hoạch Marketing xuất khẩu. GS.TS Dương Hữu Hạnh - NXB Thống kê Quý 3/2005 Thị trường Việt Nam thời kỳ hội nhập AFTA - Trung tâm thương mại - NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2003 Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. NXB thống kê 2001. Báo và Website www.vnep.ort.vn - Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện Quản lý kinh tế Trung ương www.moit.gov.vn - Trang tin điện tử Bộ Công thương - www.baocongthuong.com.vn - Báo Công thương điện tử - Tổng cục thống kê Thời báo Kinh tế Việt Nam Tạp chí kinh tế số 25/2008 C. Các báo cáo, đề án của Bộ Công thương 1. Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 2. Báo cáo tổng kết 2008 3. Đề án xuất nhập khẩu giai đoạn 2008-2010 4. Đề án xuất nhập khẩu giai đoạn 2009-2010 5. Báo cáo chung về công tác thị trường ngoài nước 2007 MỤC LỤC Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2006 43 Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2004-2006(Nguồn: Bộ Công thương) 45 Bảng 3: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2006 (%) 45 Bảng 4: Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985 - 200 46 Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu 52 Bảng 6: Cơ cấu thị trường xuất khẩu (%) 53 Bảng 7. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam 2 năm gia nhập vT 66 Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường khi Việt Nam gia nhập WTO 67 Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2 năm Việt Nam gia nhập WTO 69 Bảng 10: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 73 Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 phân theo nhóm hàng 76 Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 theo nhóm chủ thể tham gia xuất khẩu 78 Bảng 12: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm chủ thể tham gia giai đoạn 2001-2008 78 Bảng 13: Phương án 2 - Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2009-2010 89

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21554.doc
Tài liệu liên quan