Chuyên đề Thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương chi nhánh Ba Đình

Tình hình đầu tư và phát triển của Việt Nam ngày càng gia tăng, nền kinh tế đang trên đà phát triển. Trong khi đó, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động, việc tài trợ dự án đầu tư chủ yếu dựa vào vốn vay Ngân hàng. Do đó, việc mở rộng tín dụng đối với các dự án đầu tư là một hướng đi cần thiết đối với mỗi Ngân hàng. Mở rộng qui mô đầu tư cho các dự án phải luôn đi đôi với tăng cường hiệu quả công tác thẩm định thì mới bảo toàn vốn và thu được lợi nhuận cho Ngân hàng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thẩm định dự án vay vốn là một công việc hết sức phức tạp, nó đòi hỏi phải luôn hoàn thiện qua thức tế chứ không chỉ dừng lại ở lí thuyết vì trên thực tế, đầu tư luôn biến động. Việc sớm hoàn thiện một qui trình thẩm định hoàn chỉnh, đưa ra một số chỉ tiêu mà các nước phát triển đang sử dụng cùng với những giải pháp tích cực về qui chế, cán bộ là thực sự cần thiết đối với một Ngân hàng. Trong chuyên đề này, em đã khái quát hoá được những vấn đề có tính lý luận về thẩm định dự án, phân tích và làm rõ được thực trạng về công tác thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương chi nhánh Ba Đình và đưa ra được một số đề xuất nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định dự án vay vốn tại chi nhánh. Đây là một nội dung rộng, nên bài viết của em chỉ xin đóng góp thêm một cách tiếp cận, đánh giá mới và do đó khó có thể tránh khỏi những thiếu sót.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương chi nhánh Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.231.918 Quỹ phát trỉên KD 447.655.560 535.189.196 672.512.890 IV Tình hình công nợ Dư nợ ngắn hạn Dư nợ dài hạn Các khoản phải thu 9.353.412.662 21.741.164.814 20.288.911.451 Các khoản phải trả 35.452.179.099 (Nguồn tài liệu báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của công ty cơ khí A). Nhìn chung doanh thu của các năm là tương đối ổn định. Năm 2008 có thấp hơn năm 2007 nhưng tỷ lệ vẫn cao. Điều này cho thấy hoạt động SXKD của công ty là có hiệu quả. Doanh nghiệp đã biết điều tiết và tiết kiệm các khoản chi phí về nguyên nhiên vật liệu, chi phí quản lý. Bảng 2.2: Bảng cơ cấu vốn của công ty cơ khí A Đơn v ị: % Năm 2006 2007 2008 TSCĐ/Tổng TS 15 18 26 TSLĐ/Tổng TS 85 82 74 (Nguồn tài liệu:Báo cáo cơ cấu nguồn vốn do công ty cơ khí A lập.) Có thể nhận thấy một cách rõ ràng rằng: Giá trị TSCĐ của công ty là thấp so với quy mô hoạt động SXKD của công ty. Chính vì vậy dự án cải tạo và mở rộng công ty cổ phần cơ khí A là rất cần thiết. Mục đích đầu tư: Đầu tư xây dựng mở rộng năng lực sản xuất ôtô khách. Quy mô công suất :500 xe/năm Sản phẩm chủ yếu :Xe ca loại 25-30 chỗ ngồi Xe ca loại 46-50 chỗ ngồi Các hạng mục đầu tư: Xây dựng mở rộng mặt bằng nhà xưởng Đầu tư bổ sung thiết bị công nghệ Tổng vốn đầu tư cho dự án :27.780 triệu đồng. Trong đó: Xây lắp :8.580 triệu đồng Thiết bị :19.200 triệu đồng Nguồn vốn Vốn vay+vốn huy động từ nguồn khác :26780 triệu đồng Thời gian hoàn vốn đầu tư: 10năm Đối với dự án vay vốn như trên thì chi nhánh thẩm định như sau: Thẩm định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp vay vốn: Quyết định thành lập doanh nghiệp 1041/QĐ/TCCB-LĐ ngày 27/5/1993 của Bộ Giao thông Vận tải về việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước Nhà máy ôtô X trực thuộc liên hiệp xí nghiệp cơ khí GTVT. Quyết định đổi tên doanh nghiệp Nhà nước số 1465/QĐ/TCCB-LĐ ngày 15/6/1996 của Bộ Giao thông Vận tải về việc đổi tên Nhà máy cơ khí ôtô X thành công ty cơ khí A trực thuộc Tổng công ty cơ khí GTVT. Công ty cơ khí ôtô có giấy phép đăng ký kinh doanh số 108863 ngày 18/6/1993 do Trọng tài kinh tế Thành phố Hà nội cấp. Là một doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước,hạch toán độc lập,công ty cơ khí A có đủ pháp nhân vay vốn. 2) Thẩm định hồ sơ xin vay: Dự án khả thi”Đầu tư mở rộng năng lực sản xuất ôtô khách”với quyết định phê duyệt dự án số119/2008-KHĐT ngày 30 tháng 11 năm 2008 của chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty cơ khí GTVT . Nội dung cụ thể như sau: Chủ đầu tư :Công ty cơ khí A Địa điểm :Số 10 Trường Chinh Quy mô: công suất 500xe/năm(sản phảm chủ yếu là xe ca loại 25-30 CN và 46-50 CN Tổng vốn đầu tư :27.780.000.000 đồng Thiết bị:19.200.000.000 đồng Xây lắp : 8.580.000.000 đồng Đơn xin vay vốn đầu tư phát triển kiêm kế hoạch rút vốn và trả nợ của công ty cơ khí X ngày 15-1-2008. Tổng số tiền xin vay:26.780.000.000(hai mươi sáu tỷ, bảy trăm tám mươi triệu đồng) Thời gian xin vay:114 tháng(9,5năm) ân hạn 9 tháng. Lãi suất xin vay :0,78%/tháng. Hình thức xin bảo đảm tiền vay:Thế chấp,cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay và các tài sản hợp pháp khác. Sau khi xem xét dự án khả thi, bên thẩm định có ý kiến như sau: Về hồ sơ pháp lý: Hồ sơ do chi nhánh gửi lên để xem xét dự án là bản photo copy(không có công chứng) Về mục đích đầu tư : Thị trường ôtô trở khách hiện nay tại thủ đô còn thiếu, giá thành xe nhập ngoại cao, do vậy các cơ quan kinh doanh xe khách gặp nhiều khó khăn. Sản phẩm dự kiến đầu tư của dự án là xe ôtô trở khách từ 25-30 chỗ và loại 45-50 chỗ, khí A.àng và phiên báo giáhì chi nhánh thẩm định như sau:máy nhập ngoại vỏ gia công tại công ty sẽ đáp ứng được sản phẩm chất lượng ngoại nhưng giá thành nội. Tổng mức vốn đầu tư cho 1 DA để đạt được sản phẩm có chất lượng tốt như vậy là phù hợp với thực tiến của công ty nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy mục đích đầu tư dự án là hợp lý 3) Thẩm định về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của công ty cơ khí A: Về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh Dựa trên số liệu báo cáo tài chính năm 2006,2007,2008 ta thấy: Về kết quả kinh doanh : Bảng 2.3: Báo cáo tài chính doanh nghiệp Đơn vị :triệu đồng STT CHỈ TIÊU 2006 2007 2008 1 Tổng doanh thu 35.126 28.242 30.987 2 Doanh thu thuần 34.914 28.242 30.987 3 Lợi nhuận từ hoạt động SXKD 1.054 175 620 4 Tổng lợi nhuận trước thuế 1.054 175 620 5 Lợi nhuận sau thuế 790 131 465 Trong nhiều năm liên tục công ty cơ khí A đã có những bước đi đúng đắn,sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường, nên trong lúc ngành cơ khí nói chung của nước ta gặp nhiều khó khăn thì công ty cơ khí ôtô 1-5 hoạt động SXKD luôn có lãi, doanh thu năm sau cao hơn năm trước. Tình hình thực hiện nhiệm vụ với ngân sách Nhà nước: Bảng 2.4:Thực hiện nhiệm vụ ngân sách với Nhà nước STT Năm Số thuế phải nộp Số thuế đã nộp 1 2006 962.228.658 1.029.374.512 2 2007 2.507.499.624 2.439.490.925 3 2008 3.151.512.010 3.428.677.867 Doanh nghiệp đã thực hiện nộp nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước là đầy đủ và kịp thời, số nộp năm sau cao hơn năm trước. Về tình hình tài chính của công ty cơ khí A: Bảng 2.5: Tình hình tài chính của doanh nghiệp Đơn vị :VNĐ Stt Chỉ tiêu 2006 2007 2008 A TSLĐ và ĐTNH 17.942.226.840 26.955.888.989 37.238.954.707 I Tiền 365.734.711 1.143.376.920 248.788.954 II Các khoản PT 8.877.909.471 16.322.836.049 18.478.933.269 1 Phải thu của KH 8.184.077.346 12.499.048.928 14.181.066.418 2 Trả trc cho NB 626.203.990 3.763.527.107 4.058.373.377 3 Phải thu khác 67.628.135 60.260.014 239.493.514 III Hàng tồn kho 8.180.084.040 7.994.152.385 16.700.254.302 1 NL,VL tồn kho 3.439.336.640 3.139.829.953 5.377.711.294 2 CC,DC tồn kho 8.885.397 14.761.616 11.684.131 3 CP SXKDDD 4.731.862.003 4.839.523.635 11.350.858.877 IV Tài sản LĐ khác 518.498.618 1.088.812.092 1.810.978.182 1 Tạm ứng 501.509.536 406.711.543 1.810.978.182 2 Khoản thế chấp 16.989.082 5.947.278.777 1.000.000 B TSCĐ và ĐTDH 5.687.997.363 5.497.278.777 7.980.122.893 I TSCĐ 5.687.997.363 5.492.653.153 5.475.925.086 1 TSCĐ hữu hình Nguyên giá Giá trị HM luỹ kế 12.094.518.996 6.046.521.633 12.491.334.796 6.998.681.643 12.924.606.729 7.448.681.643 2 TSCĐ vô hình II Các khoản đầu tư tài chính DH 30.000.000 30.000.000 III CP XDCB DD 424.625.624 2.474.197.807 Tổng tài sản 23.630.224.203 62.903.167.766 45.219.077.600 A Nợ phải trả 14.740.843.641 23.949.652.659 36.221.278.730 I Nợ ngắn hạn 13.288697.606 22.322.527.935 31.008.360.639 1 Vay ngắn hạn 8.194.852.618 14.095.769.181 22.169.679.827 2 Phải trả cho NB 3.379.396.706 5.276.841.031 4.794.248.902 3 NM trả tiền trc 768.060.600 2.005.067.860 3.577.987.327 4 Thuế và các khoản phải nộp 275.089.609 323.307.722 46.811.865 5 Phải trả CBCNV 291.707.950 354.692.740 35.215.657 6 Phải trả.phải nôp khác 379.590.123 266.849.401 384.417.061 II Nợ dài hạn 1.441.136.360 1.554.024.360 4.443.818.460 1 Vay dài hạn 2.766.041.000 2 Nợ dài hạn khác 1.441.136.360 1.554.024.360 1.677.777.460 III Nợ khác 11.009.675 73.100.364 769.099.631 Chi phí phải trả 11.009.675 73.100.369 769.099.631 B NV chủ sở hữu 8.889.380.562 8.953.515.107 8.997.798.870 I NV và quỹ 8.889.380.562 8.953.515.107 8.997.798.870 1 NVKD 7.972.246.495 8.147.895.382 8.147.895.382 2 Quỹ ĐTPT 535.189.190 8.147.895.382 672.512.890 3 Lãi chưa PP 535.189.190 131.136.150 4 Quỹ khen thưởng phúc lợi 381.944.877 139.294.150 46.254.448 Tổng nguồn vốn 23.630224.203 32.903.167.766 45.219.077.600 Bảng 2.6: Các hệ số đánh giá tình hình tài chính STT Chỉ tiêu 2006 2007 2008 1 Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu 5% 0.62% 2% 2 Tỷ lệ TSCĐ/Tổng TS 24% 18% 18% 3 Tỷ lệ TSLĐ/Tổng TS 76% 82% 82% 4 Khả năng thanh toán NH Khả năng thanh toán nhanh 135% 0.95 121% 0.92 120% 0.66 5 Tỷ lệ nợ phải trả /Tổng TS 62% 73% 80% 6 Tỷ lệ vốn CSH/Nợ phải trả 60% 37% 25% Qua số liệu trên cho thấy tỷ trọng TSCĐ trong tổng tài sản là 24% năm 2006, 18% năm 2007 và năm 2008 là 18% còn thấp, mất cân đối, tỷ lệ này chưa tương xứng với một doanh nghiệp cơ khí. Doanhghiệp có nhu cầu vốn lưu động khá lớn để phục vụ cho SXKD, TSLĐ tập trung chủ yếu ở hàng tồn kho và phải thu khách hàng, doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn. Khả năng thanh toán hiện hành của doanh nghiệp có giảm từ 135% năm 2006 xuống 120% năm 2008, song đây vẫn là một tỷ lệ đảm bảo và ổn định. Khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp là chưa cao, nhưng so với tình hình tài chính của một số công ty cơ khí hiện nay thì hệ số này là tương đối đảm bảo. 25% là tỷ lệ vốn CSH/Nợ phải trả tính tại thời điểm năm 2008 mặc dù có giảm so với tỷ lệ 60% tại thời điểm năm 2006 nhưng đây là một tỷ lệ khá cao so với các doanh nghiệp cơ khí nói riêng và các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Hàng năm doanh nghiệp có bổ sung được nguồn vốn kinh doanh để tăng trưởng sản xuất. 4) Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư: Nhu cầu ôtô vận tải hành khách đến năm 2010. Dự báo nhu cầu ôtô khách: Căn cứ để dự báo nhu cầu ôtô sẽ áp dụng trong dự án này là số liệu trong báo cáo Chiến lược quốc gia phát triển GTVT đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 của bộ GTVT như sau: Tăng trưởng hành năm 9.1% cho giai đoạn 2001-2010 và 7,8% cho giai đoạn 2010-2020. Thay thế số ôtô phải thanh lý hàng năm là 5%(tức là ôtô có tuổi từ 20 năm trở lên) Bên cạnh các yếu tố đó cần tính toán đến nhu cầu du lịch ngày càng tăng mạnh vì chế độ làm việc giảm xuống còn 5 ngày/tuần, khi công nghiệp du lịch được đẩy nhanh và cùng với chủ trương kích cầu của Nhà nước. Các yếu tố đó sẽ đóng góp phần đẩy nhanh nhu cầu đi lại trong phạm vi thành phố và ngoại ô, liên tỉnh từ đó nhu cầu mua sắm bổ sung ôtô khách sẽ tăng theo. Nguồn cung cấp ôtô khách: Trước đây nguồn cung cấp ôtô chủ yếu nhập từ Liên Xô cũ, hoặc nhập ôtô từ CHDC Đức(ôtôIFA-W50L)để tự đóng thành ôtô khách 46-50 chỗ ngồi. Số ôtô này hiện chiếm tới 70% tổng lượng ôtô đang lưu hành,sau một thời gian dài ngừng sản xuất vì không còn nguồn cung cấp ôtô chasi nên nguồn này không còn nữa. Chất lượng đóng ôtô cũng chưa đạt yêu cầu kỹ thuật trong tình hình thị trường hiện tại. Một vài công ty liên doanh ôtô cũng đã thử lắp ôtô khách dạng CKD như IVECO,ôtô DAIWOO, ôtô MERCEDES-BENS...nhưng giá thành quá cao,chưa phù hợp với sức mua của thị trường. Giá xe mà thị trường trong nước có thể chấp nhận chỉ ở mức 300 triệu đồng/ôtô25 CN và khoảng 400 triệu đồng/ôtô trên 466 CN(tương đương 20.000USDvà 28.000USD) Nguồn nhập ôtô đã qua sử dụng của Hàn Quốc còn rất ít và giá cũng rất cao nên không phải là giải pháp tích cực và thị trường cũng khó chấp nhận. Rõ ràng để có cơ sở vật chất đảm bảo cung cấp ôtô khách như đã nêu, Công ty cơ khí A cần phải đầu tư mở rộng sản xuất ôtô khách dạng IKD để đáp ứng nhu cầu của thị trường vận tải khách công cộng và chủ động phát triển công nghiệp đóng ôtô khách trong nước. Kinh nghiệm rút ra từ thực tế đóng ôtô khách trong thời gian qua đã giúp ta khẳng định được một điều cơ bản là công nghệ đóng ôtô khách là loại hình rất quen thuộc ở nước ta và đảm bảo sẽ đạt tỷ lệ nội địa hoá cao. 5)Thẩm định về phương diện thị trường tiêu thụ sản phẩm: Xuất phát từ thực tế nước ta tại các thành phố lớn và các tuyến đương huyết mạch, thì phương diện vận tải hành khách chiếm một tỷ trọng chưa cao (chỉ đáp ứng được nhu cầu 30-35% nhu cầu của xã hội về vận tải hành khách), chất lượng xe đã được cải thiện rất nhiều, tuy nhiên vẫn còn một số xe đã quá thời hạn sử dụng.Theo quyết định 890/1999QĐ-GTVT, Bộ GTVT quy định tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng ôtô trở khách nên nhiều doanh nghiệp vận tải hành khách trong cả nước có nhu cầu mua sắm phương tiện mới (để thay thế và bổ sung). Theo số liệu thống kê của Cục Đường Bộ Việt nam trong thời hạn 3 năm(2006-2008)số lượng xe khách phải ngừng hoạt động do qua thời hạn được phép sử dụng và không bảo đảm chất lượng an toàn phục vụ là gần 1000 chiếc. Thiếu phương tiện vận tải hành khách (xe khách) do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có một nguyên nhân quan trọng đó là do thiếu vốn để đầu tư mua sắm xe mới của Nhà nước cũng như các doanh nghiệp khác làm công tác vận tải hành khách. Thực tế trên thị trường hiện nay một số loại xe đang được tiêu thụ là DAWOO,MERCEDES-BENS,IVECO,HUYNDAI...,đây là một số loại xe do các công ty liên doanh lắp ráp trong nước dưới hình thức CKD với giá bán tuy đã hạ so với những năm trước nhưng vẫn còn khá cao chưa phù hợp với khả năng thanh toán của thị trường. Như vậy hướng đầu tư lắp ráp xe khách của Công ty cơ khí A theo hướng chủ động của một công ty trong nghề, với giá bán dự kiến chỉ bằng50-60% giá bán của các hàng xe cùng kích cỡ (chỗ ngồi) xong vẫn đảm bảo theo đúng quy định về chất lượng do Nhà nước quy định là hướng đi phù hợp. Trong chiến lược quốc gia phát triển GTVT đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 do Bộ giao thông vận tải đề ra thì: Tăng trưởng hàng năm 9,1%cho giai đoạn 2001-2010 và khoảng 7,8% cho giai đoạn 2010-2020. Thay thế ôtô thanh lý hàng năm khoảng 5%(tức là ôtô có tuổi đời trên 10 năm,so với số ôtô trên 12 chỗ hiện nay cả nước có khoảng gần 100.000 xe). Đây là nhân tố định hướng mang tính vĩ mô của Nhà nước . Với nhu cầu của thị trường về xe ôtô vận tải hành khách trên, nhưng sức mua thực tế hiện nay của thị trừơng (khả năng thanh toán) còn bị hạn chế về giá cả, thì việc công ty cơ khí A tung ra thị trường loại xe khách đảm bảo chất lượng ngoại và giá cả nội hợp lý trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới là thời điểm thích hợp đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Giá thành xe hợp lý, giá bán chỉ bằng 50% đến 60%của các xe cùng loại trên thị trường, là do công ty đã tận dụng mặt bằng sẵn có, trình độ cán bộ, công nhânviên hịên có của công ty có khả năng đáp ứng tốt khi triển khai dự án và chi phí nhân công thấp.. Tóm lại,thị trường của dự án và khả năng thực hiện (nội lực) của doanh nghiệp là có, kết hợp với chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước trên con đường CNH-HĐH đất nước thì dự án”đầu tư mở rộng năng lực sản xuất ôtô khách” là một dự án có tính khả thi. 6) Thẩm định hiệu quả của dự án: Sau khi xem xét bảng tính toán hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp và của chi nhánh, xuất phát từ nội dung của dự án ”Đầu tư mở rộng năng lực sản xuất ôtô khách của công ty cơ khí A” đã được phê duyệt, căn cứ vào các số liệu thực tế của dự án về chi phí sản xuất, lãi suất vay, nguồn vốn vay, về dự kiến mức tiêu thụ, dự kiến giá thành sản phẩm để tính toán cũng như phân tích, đánh giá theo bảng tính của chi nhánh có thể nhận thấy: Dự án “Đầu tư mở rộng năng lực sản xuất ôtô khách”có tính khả thi, có hiệu quả nếu được triển khai đầu tư tại thời điểm hiện nay với giá bán 400 triệu đồng/chiếc, lãi suất vay vốn thương mại ưu đãi 0.78%/tháng Theo tính toán của chi nhánh thì năm thứ 10 của dự án NPV đạt 825.72 triệu đồng: IRR đạt 11%, hiệu quả của dự án đối với doanh nghiệp là có tuy không cao, đạt kết quả này là do việc kết hợp đầu tư dự án chủ yếu sử dụng vốn vay thương mại(91,7%). Mặt khác nhu cầu vôn lưu động để dự án hoạt động quá lớn do vậy lãi vay vốn lưu động hàng năm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của dự án. Hiệu quả của dự án phụ thuộc vào giá bán của sản phẩm mà việc xác định giá bán dự kiến trong dự án (xe quy chuẩn25-30CN) lại được căn cứ vào kết quả tính toán vào giá thành bình quân cho một xe khi xuất xưởng. Do vậy chủ đầu tư khi tính lãi xuất vay vốn là 0.75%/tháng thậm chí còn thấp hơn thì dự kiến giá bình quân chỉ là 385 triệu đồng/1 xe.Chi nhánh khi tính lãi suất vay vốn đầu tư lên 0,787%/tháng và tính nhu cầu vốn lưu động dựa trên chi phí sản xuất trong bảng tính toán thì giá bán dự kiến bình quân phải là 400triệu đồng/1xe. Như vậy, dự án có khả năng hoàn trả vôn vay đầu tư trong 9,5 năm và đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp nếu gía thành bán xe tăng lên với dự kiến của doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp được hỗ trợ về vốn lưu động khi đầu tư dự án. Việc đánh giá bình quân giao động từ 385 triệu đồng/1xe đến 400 triệu đồng/1xe so với giá thị trường hiện tại là vẫn hợp lý, vẫn đảm bảo được tính cạnh tranh về giá thành của sản phẩm. Phân tích hiệu quả của dự án trong việc đóng góp vào ngân sách và hiệu quả xã hội: Khi dự án đi vào hoạt động sẽ đóng góp khá lớn cho ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, bình quân 3 năm đầu là 2 tỷ đồng và các năm tiếp theo là 4 tỉ đồng. Tạo điều kiện và duy trì ổn định việc làm cho 370 lao động và so với hiện nay thì đã tạo thêm được chỗ làm cho 70 lao động mới tại công ty cơ khí A, ngoài ra còn góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động trong các ngành và lĩnh vực có liên quan. Khi dự án đi vào hoạt động sẽ dần đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách của xã hội, hiệu quả của dự án mang lại cho xã hội khó có thể định lượng, định tính được, song chắc chắn nó sẽ là nhân tố kích cầu trong tiêu dùng,kích thích sản xuất phát triển, tăng cường giao lưu, phát triển kinh tế giữa nhiều địa phương trong cả nước,góp phần đẩy nhanh, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước 7) Đánh giá rủi ro và biện pháp bảo đảm an toàn vốn Về rủi ro của dự án: Chủ trương đầu tư là phù hợp, song tính hiệu quả của dự án là trên lý thuyết (mặc dù đã có sự tính toán khoa học và dựa vào kinh nghiệm thực tế) phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trước,trong và sau đầu tư sau: Việc đầu tư lắp ráp xe khách không mang tính chuyển giao công nghệ mà do công ty cơ khí A (chủ đầu tư) chủ động thực hiện mua sắm, lắp đặt và vận hành dây chuyền. Hiện tại sản phẩm của dự án chưa có trên thị trường do vậy chưa đánh giá được chất lượng thực tế để có thể khẳng định được uy tín của sản phẩm.Việc này sẽ phụ thuộc vào công tác kiểm tra, giám sát và triển khai dự án để dự án đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của dây chuyền sản xuất từ đó dẫn đến tránh lãng phí trong đầu tư, đem lại hiệu quả dự án theo mong muốn. Công ty cơ khí A chỉ là đơn vị lắp ráp các chi tiết được chính công ty gia công hoặc mua ngoài trên cơ sở khung xe được nhập từ nước ngoài (tỷ lệ nội địa hoá khoảng 20-30%), do vậy giá bán xe trên thị trường sẽ phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhập khẩu khung xe (từ trung quốc và Hàn Quốc). Đây cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến tính cạnh tranh về giá bán sản phẩm của dự án, do vậy đòi hỏi công tác nhập khẩu mua ôtô và các linh kiện lắp ôtô phải được đảm bảo và quản lý chặt chẽ. Giá trị thiết bị trong tổng vốn đầu tư của dự án chiếm 70% là 19,2 tỉ đồng, song chủ yếu nhập ngoại, do đó nếu dự án không được triển khai nhanh, thì có thể dẫn đến sự ảnh hưởng xấu của sự biến động tỉ giá ngoại tệ, từ đó chi phí của dự án lên cao. Về biện pháp bảo đảm an toàn vốn: Việc giải ngân phải được thực hiện theo quy định về quản lý Đầu tư xây dựng và các quy định hiện hành khác Khi sản phẩm đưa vào thị trường tiêu thụ phải có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng của cơ quan có thẩm quyền Ngân hàng bám sát tién độ thực hiện của dự án, cùng chủ đầu tư chủ động tháo gỡ những vướng mắc và đôn đốc chủ đầu tư trong việc triển khai dự án khi có các căn cứ cần thiết. Thực hịên biện pháp bảo đảm tiền vay là thế chất tài sản hình thành từ vốn vay theo quy định. Đề nghị công ty cơ khí A mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh ngân hàng 3.6. Những kết quả đạt được và những vấn đề tồn tại trong công tác thẩm định dự án vay vốn của chi nhánh: 3.6.1. Những kết quả đạt được: Chúng ta đều biết rằng về nguyên tắc tất cả các dự án xin vay đều phải qua bước thẩm định kỹ càng trước khi duyệt cho vay. Tuy nhiên đối với các món cho vay ngắn hạn thì việc thẩm định sẽ đơn giản hơn so với các dự án cho vay dài hạn. Sở dĩ như vậy là vì các đầu tư trung dài hạn thường đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài, do đó khó xác định các yếu tố liên quan quyết định đến hiệu quả vốn vay trong tương lai như phương diện thị trường, độ nhạy của dự án.. . Trong những năm gần đây, hoạt động thẩm định dự án đầu tư đã được Ngân hàng coi trọng. Cán bộ tín dụng đã đi sâu, kiểm tra xem xét mọi mặt, mọi phương diện của dự án xin vay vốn đầu tư. Từ đó phân tích, đánh giá kỹ càng để đưa ra kết luận cuối cùng là có đầu tư hay không? Nỗ lực của cán bộ đã góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động thẩm định dự án tại Ngân hàng, loại bỏ các dự án không có hiệu quả hay không chắc chắn, có nhiều tính rủi ro và đưa ra quyết định đầu tư đối với các dự án được đánh giá khả thi, mang lại lợi nhuận cho cả chủ dự án lẫn Ngân hàng. Cũng nhờ những nỗ lực của cán bộ tín dụng trong việc nâng cao chất lượng của quá trình thẩm định dự án mà mức độ an toàn vốn của Ngân hàng theo đó cũng được nâng lên. Hay nói cách khác việc phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng cũng có cơ sở vững chắc hơn và có hiệu quả hơn. Trong vòng 5 năm trở lại đây, nhờ những cố gắng nâng cao chất lượng thẩm định mà số nợ quá hạn của chi nhánh có xu hướng giảm xuống, không có nợ quá hạn mới phát sinh kể từ sau khi chấn chỉnh hoạt động của Ngân hàng. Dư nợ quá hạn của năm 2006 là 18,3 tỷ chiếm 12,1% trên tổng dư nợ. Nhưng năm 2008 dư nợ đã giảm xuống 15,01 tỷ chiếm 9,4% trên tổng dư nợ. Tuy số nợ quá hạn này còn lớn nhưng chủ yếu là do nợ quá hạn từ năm trước chuyển sang. Mặt khác việc nghiên cứu xem xét thẩm định dự án theo từng bước một cách kỹ càng cũng khiến cho doanh nghiệp xin vay vốn đầu tư trung dài hạn từ khi lập dự án đến khi đi vào hoạt động luôn phải chú ý đến hiệu quả sử dụng vốn của mình. Trong việc kiểm tra phân tích các phương diện của dự án cán bộ thẩm định sẽ một lần nữa giúp chủ đầu tư đánh giá mức độ hợp lý của tổng vốn đầu tư, thời điểm rót vốn, tiến độ của dự án .. . được sử dụng sao cho có hiệu quả nhất, tiết kiệm vốn, đặc điểm là tiết kiệm nguồn ngoại tệ, chỉ ra các phần vốn sử dụng lãng phí kém hiệu quả trong đời hoạt động dự án. Nhờ đó chi nhánh đã giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm hàng tỷ đồng vốn đầu tư. Các dự án đầu tư trung và dài hạn của Ngân hàng từ những năm trước đây đã phát huy hiệu quả và đang trong giai đoạn hoàn vốn. Tuy công tác đầu tư mới cho các doanh nghiệp thực sự là khó khăn trong điều kiện nền kinh tế thế giới khủng hoảng nhưng chi nhánh đã tìm biện pháp khắc phục nhằm nâng dần vốn đầu tư trung và dài hạn trong tổng dư nợ .. . Đây là những thành tựu mà hoạt động thẩm định dự án vay vón tại chi nhánh đã đạt được. Tuy còn nhỏ bé và cũng chưa phải là tất cả những gì mà chi nhánh mong đợi nhưng những thành công trên đây cũng là đáng mừng. Để đạt được những thành công hơn nữa về mọi mặt đòi hỏi phải không ngừng đổi mới, tăng cường hiệu quả thẩm định dự án đầu tư, góp phần nâng cao hơn nữa về chất lượng kinh doanh của chi nhánh. 3.6.2. Những vấn đề tồn tại: Qua thực trạng công tác thẩm định dự án được tiến hành ở trên, đồng thời căn cứ vào những chính sách, cơ chế hiện đang áp dụng, bên cạnh những thành tựu đạt được, em xin đưa ra các vấn đề cần phải xem xét trong công tác thẩm định dự án vay vốn tại chi nhánh như sau Đa số chưa phân tích kỹ càng trên mọi phương diện của dự án. Một dự án để đánh giá có khả thi hay không thì phải phân tích trên 6 phương diện chính sau: Phân tích về sự cần thiết phải đầu tư, thẩm định về phương diện thị trường, thẩm định về phương diện kỹ thuật, thẩm định về phương diện tài chính, thẩm định về phương diện tổ chức quản lý, thẩm định về phương diện hiệu quả kinh tế xã hội. Việc phân tích cả 6 nội dung này sẽ đem lại sự nhìn nhận, đánh giá những ưu điểm nhược điểm của dự án một cách chính xác, toàn diện và đưa ra kết luận về tính khả thi của dự án một cách chắc chắn nhất. Muốn đánh giá một dự án thì phải đánh giá nhiều khía cạnh, vì các khía cạnh này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Do vậy không được coi nhẹ bất kỳ phương diện nào khi đánh giá một dự án. Do đó ở chi nhánh nói riêng và ở các Ngân hàng nói chung thường không tránh khỏi những thiếu sót sau: Thứ nhất: Việc phân tích không kỹ càng trên mọi phương diện của dự án đã dẫn tới việc khẳng định đánh giá tính khả thi của dự án đầu tư chủ yếu dựa vào kết quả phân tích, tính toán phần phương diện tài chính của dự án là chủ yếu. Như vậy kết luận về một dự án lại chỉ phụ thuộc chủ yếu vào việc phân tích một phương diện của dự án. Chắc chắn việc phân tích này sẽ cho một kết luận không chính xác, nhiều khi lại sai lầm phiến diện. Thứ hai: Việc phân tích thị trường đánh giá khả năng cạnh tranh khả năng thâm nhập thị trường đối với sản phẩm của dự án liên qua đến nhiều vấn đề đòi hỏi phải có một kiến thức tổng hợp và sự nhậy bén về dự đoán trong tương lai. Vì hạn chế về trình độ của một cán bộ thẩm định nên nhiều khi việc phân tích này chưa đánh giá được khả năng cạnh tranh của sản phẩm, chưa đánh giá được mức độ thâm nhập thị trường của sản phẩm cũng như thị hiếu tiềm năng của người tiêu dùng trong tương lai đối với sản phẩm. Vì vậy trong nhiều trường hợp việc thẩm định về phương diện thị trường còn sơ sài mang tính lấy lệ là chủ yếu.. . đặc biệt đối với những sản phẩm mới, trên thị trường mới hay những sản phẩm đã được phát triển ồ ạt không có sự quản lý. Do đó dự án khi bắt đầu sản xuất mới nhận ra những bất ổn trong khâu tiêu thụ, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của dự án. Thứ ba: Về phương diện kỹ thuật cũng sảy ra tình trạng tương tự. Do trình độ của cán bộ thẩm định tín dụng hạn chế, đồng thời ở nước ta việc có các trung tâm tư vấn về vấn đề này chưa có nhiều và chưa đạt chất lượng tốt nên về vấn đề kỹ thuật bản thân cán bộ tín dụng cũng như Ngân hàng chưa đánh giá được tính tiên tiến của các máy móc, thiết bị của dự án. Máy móc thuộc thế hệ nào lạc hậu không .. . có đảm bảo với công suất của nhà máy không? có đảm bảo vận hành tốt trong môi trường khí hậu của ta không.. . mà mọi vấn đề này Ngân hàng đều bắt chủ dự án đảm bảo. Việc bắt chủ dự án đảm bảo nhiều khi không đáng tin cậy vì chủ quan của họ chỉ muốn vay được vốn của Ngân hàng. Thứ tư: Cán bộ tín dụng nhiều khi chưa phân tích cụ thể khả năng sử dụng thiết bị, vận hành công nghệ mới của dự án như trình độ của đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật.. . xem có đủ khả năng vận hành máy không? .. kết quả là một số dự án duyệt trong tình trạng tính khả thi của dự án và phương diện kỹ thuật không đạt, gây ảnh hưởng đến hoạt động của dự án khi dự án thực sự đi vào hoạt động. Chưa có sự vận dụng các phương pháp hiện đại để tính toán và đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư. Việc vận dụng các phương pháp hiện đại ( như các chỉ tiêu NPV,IRR.. .) để tính toán, đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án còn mang tính hình thức chưa thực sự thiết thực, nhiều khi áp dụng vào cho có hình thức, cho đúng. Chính vì vậy những nhận xét từ kết quả của các cách tính từ các phương pháp đó ra chưa được cán bộ tín dụng quán triệt theo đúng ý nghĩa của nó, vì vậy có khi tính nó ra trong quá trình thẩm định dự án nhưng sự nhận xét về tính khả thi của dự án vẫn dựa trên phương pháp giản đơn và kinh nghiệm của cán bộ trong quá trình công tác. Do bản chất của việc đầu tư là rủi ro nên trước khi quyết định đầu tư phải tiến hành phân tích những yếu tố rủi ro, lường trước những tình huống bất trắc sẽ nảy sinh trong tương lai, trên cơ sở đó tính toán lại hiệu quả đầu tư. Vì lý do trên nên việc phân tích tài chính theo phương pháp giản đơn sẽ đem lại một kết quả hoàn toàn không chính xác, nhiều khi sai lệch nghiêm trọng. Việc phân tích hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn còn sơ sài, thiếu chính xác. Khi thẩm định về doanh nghiệp vay vốn bên cạnh những xác minh về tư cách pháp nhân, sơ lược các giai đoạn phát triển từ khi thành lập tới thời điểm hiện tại thì Ngân hàng phải phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tối thiểu 3 năm gần đây. Việc phân tích này căn cứ vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp, mà các báo cáo này thường là các con số trong quá khứ, chính vì vậy nó đã bị lạc hậu so với hiện tại, nhiều khi các báo cáo này còn thiếu chính xác so với thực tế. Bên cạnh đó các chỉ tiêu cần tính toán để đánh giá khả năng tự cân đối tài chính của doanh nghiệp rất quan trọng nhưng có dự án chỉ tính vài chỉ tiêu chứ không tính hết 5 chỉ tiêu: Hệ số tài trợ, năng lực đi vay, khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán cuối cùng. Về tình hình công nợ thì Ngân hàng đôi khi còn chưa nắm được hết các thông tin hiện nay doanh nghiệp còn vay nợ ở những tổ chức tín dụng nào, dư nợ bao nhiêu và hiện mở bao nhiêu tài khoản ở các Ngân hàng nào.. . Việc thẩm định về khả năng tổ chức quản lý, điều hành dự án, thẩm định về môi trường xã hội nhiều khi rất quan trọng, nó có tác động lớn tới hiệu quả của dự án nhưng đôi khi công việc này đã bị bỏ qua hoặc dựa vào mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp nên Ngân hàng đã chủ quan không chú ý đến. 3.6.3. Nguyên nhân của những tồn tại: Từ thực tế còn tồn tại trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, có thể nhận định rằng tình trạng còn tồn tại này do một số nguyên nhân sau: Đứng trên giác độ Ngân hàng Quy trình thực hiện dự án đầu tư bao gồm 2 giai đoạn: Thu thập thông tin cần thiết cho việc đánh giá phân tích. Sau khi thu thập thông tin, tiến hành sắp xếp các loại thông tin, áp dụng phương pháp đối chiếu, so sánh để xử lý, đánh giá phân tích một các có hệ thống theo các nội dung thẩm định. Hai công đoạn trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thẩm định. Nếu thông tin không đầy đủ và chính xác sẽ làm việc phân tích sử lý thông tin mang tính phiến diện và nhiều khi kết quả phân tích không có ý nghĩa dẫn đến kết luận sai về tính khả thi của dự án. Ngược lại mặc dù thông tin thu thập đầy đủ chính xác nhưng việc xử lý thông tin lại không theo một phương pháp đánh giá, phân tích một cách có hệ thống, khoa học cũng dẫn đến kết quả thẩm định không chính xác. Trong cơ chế thị trường vấn đề thông tin ngày càng quan trọng và được đưa lên hàng đầu. Trên thực tế vấn đề thông tin không đầy đủ, không chính xác đã gây ảnh hưởng không nhỏ và tạo ra những bất lợi đối với chi nhánh nói riêng và SGB nói chung. Bởi lẽ do mục đích của người đi vay là được vay vốn, vì vậy có trường hợp họ thường tìm đủ mọi cách để có đầy đủ các điều kiện vay vốn theo quy định của Ngân hàng. Họ sẵn sàng cung cấp các thông tin sai lệch với thực tế như: Khai tăng tài sản cố định, sửa đổi số liệu trong báo cáo tài chính.. . Cho nên nếu như cán bộ thẩm định mà không xem xét kỹ càng, tỷ mỷ hoặc không đủ trình độ để phát hiện gian lận sai sót đó rất dễ dẫn đến hậu quả không thu hồi được vốn cho vay, dẫn đến nợ quá hạn và gây rủi ro cho Ngân hàng. Mặt khác trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định chỉ có một nguồn thông tin do khách hàng cung cấp là chủ yếu, có rất ít nguồn để kiểm chứng, tuy rằng trên thực tế trung tâm phòng ngừa rửi ro đã ra đời nhưng sự cung cấp thông tin của nó cho Ngân hàng rất ít và chưa có sự giúp đỡ của các bên có liên quan tới dự án nên sai sót là điều khó tránh khỏi. Quá trình xử lý thông tin để đánh giá, phân tích về tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như dự án còn nhiều hạn chế, không đánh giá được đầy đủ mọi biến động của dự án trong thời gian hoạt động hay vòng đời của dự án mà nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng của quy trình thẩm định gây ra. Đứng trên giác độ chủ đầu tư: Nhiệm vụ của khách hàng là cung cấp đầy đủ, trung thực những thông tin cần thiết liên quan tới dự án. Nhưng trên thực tế có các doanh nghiệp khi vay vốn thường cung cấp cho Ngân hàng những báo cáo tài chính không trung thực, không phản ánh đủ chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh của mình, hoặc cung cấp không đầy đủ nếu có thể. Do vậy Ngân hàng khó có thể đi sâu vào những lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên mâu thuẫn trên là mang tính tự nhiên do các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hạch toán độc lập cho nên kết quả thu nhập sẽ là căn cứ để tính thuế mà doanh nghiệp phải nộp cho Ngân sách nhà nước, do vậy việc khai báo kết quả sản xuất kinh doanh sai thực tế để trốn thuế là điều mà các doanh nghiệp thường làm. Bên cạnh đó dự án muốn được vay vốn phải có hiệu quả và tính khả thi cao, vì vậy luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án thường khai tăng hiệu quả kinh tế, tăng sản lượng tiêu thụ dự kiến và giấu đi các rủi ro tiềm ẩn đối với khoản vay. Như vậy nếu khách hàng không cung cấp cho Ngân hàng những thông tin đầy đủ, chính xác sẽ dẫn đến kết quả thẩm định không phản ánh đúng thực tế và dễ đưa ra quyết định sai lầm. Ngoài ra nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường, nên các tài liệu về dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư đều của nước ngoài. Do đó các khái niệm, các thuật ngữ được đề cập trong các dự án vẫn còn khá nhiều mới mẻ với các chủ đầu tư và cán bộ thẩm định. Nên không tránh khỏi sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng. Thêm vào đó thị trường tư vấn ở nước ta còn chưa phát triển nên hầu hết các dự án đầu tư đều do chủ đầu tư với trình độ hạn chế lập ra. Kết quả là các dự án được lập ra còn sơ sài, không đạt tiêu chuẩn hoặc mất chi phí quá cao. Do vậy công tác thẩm định dự án đầu tư gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng đến độ an toàn của hoạt động tín dụng. Về phía nhà nước: Hiện nay cơ chế chính sách thiếu đồng bộ và còn nhiều điều bất hợp lý, đang tạo ra một trở ngại to lớn cho việc thẩm định dự án đầu tư: cụ thể: Trong những năm gần đây các bộ luật đất đai, về khuyến khích đầu tư đã được ban hành nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót. Những quy định cụ thể của chính phủ về việc giao đất hoặc thuê đất còn thiếu yếu tố thời gian - Một yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến đời dự án. Những quy hoạch đất đai liên quan đến các vùng kinh tế, vùng dân cư, hay công trình giao thông.. . lại thường xuyên bị thay đổi, gây ra tâm lý bất ổn cho các doanh nghiệp, khiến họ không yên tâm để đầu tư vốn kinh doanh. Và khi có sự thay đổi về quy hoạch đất đai hay chế độ thu phí thuê đất thì rủi ro lại thuộc về phía Ngân hàng và doanh nghiệp. Chính vì vậy trong quá trình thẩm định dự án cán bộ tín dụng thường mất rất nhiều thời gian cho vấn đề này. Công tác quản lý Nhà nước về chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) còn chưa được quan tâm đúng mức. Ở nước ta phạm vi hoạt động còn hẹp và số lượng các công ty kiểm toán độc lập còn ít mà chủ yếu trong thành phố HCM, với đặc điểm hoạt động kế toán của doanh nghiệp như vậy cán bộ tín dụng sẽ rất khó khăn trong việc lấy số liệu để tính toán các chỉ tiêu vì giữa hai chế độ kế toán cũ và mới tuy còn dựa trên một nguyên tắc song lại có những điểm khác nhau. Điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình thẩm định dự án. Các văn bản, các quy chế cho vay ban hành từ trung ương cũng chưa đảm bảo chặt chẽ. Đơn cử vấn đề tài sản thế chấp, trước đây hầu hết doanh nghiệp vay vốn tín chấp Ngân hàng. Chuyển sang cơ chế thị trường để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng Ngân hàng thì các khoản cho vay phải được cầm cố thế chấp, bảo lãnh. Ngoài ra việc cho vay sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì: Cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì việc thế chấp cầm cố là hợp lý. Nhưng hiện nay vấn đề về thế chấp cầm cố còn tồn tại nhiều vấn đề khiến cho công tác thẩm định dự án của chi nhánh còn khó khăn như: Do có qua nhiều luật, quy chế chồng chéo, sự phối hợp giữa cách ngành về lĩnh vực này chưa tốt… Chính vì vậy làm khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định phải mất nhiều thời gian để kiểm tra xác minh. Hơn nữa việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường mang đất, nhà xưởng, hay trụ sở làm việc.. . để thế chấp. Nhưng trên thị trường bất động sản hiện nay giá cả biến động rất mạnh do vậy việc đánh giá tài sản thế chấp là rất khó khăn, cơ sở thẩm định rất bấp bênh, chủ yếu là định giá trên sự thoả thuận giữa người vay và Ngân hàng cho nên dễ dẫn đến sai sót. Tóm lại: Ngoài những nguyên nhân cơ bản trên đây thì những tồn tại trong quá trình thẩm định dự án đầu tư còn bị ảnh hưởng nhiều nguyên nhân khác (trong khuôn khổ 1 luận văn có giới hạn về số lượng em không trình bày hết được). Vậy việc tìm ra các biện pháp khắc phục và hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư đang đòi hỏi cấp bách. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH BA ĐÌNH Đất nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nói theo quan điểm triết học thì chúng ta đang ở giai đoạn tích luỹ về lượng để đến một “điểm mút” nhảy vọt đưa Việt Nam trở thành con rồng mới trong khu vực kinh tế năng động nhất thế giới. Trong giai đoạn quá độ này, cái cũ chưa tắt hẳn, cái mới thì chưa tới, mọi giá trị dường như bị đảo lộn, vậy để vật lộn với tình hình này nhằm đưa chất lượng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lên cao không còn cách nào khác Ngân hàng cần phải khắc phục những tồn tại của những năm vừa qua và định hướng hoạt động cho năm tới. Chất lượng, hiệu quả, an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là điều kiện để tồn tại, phát triển và hội nhập.Vì vậy, hơn lúc nào hết công tác thẩm định phải được đặt đúng vị trí, có cơ chế, quy trình công nghệ toàn diện và đồng bộ với quy trình công nghệ của các nghiệp vụ khác, tạo thành một tổng thể giải pháp mang tính chiến lược trong định hướng phát triển của Ngân hàng. Đó là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Thực tế, công tác thẩm định dự án đầu tư của chi nhánh chỉ có thể đạt hiệu quả hơn nếu những khó khăn hạn chế được khắc phục bằng chính những nỗ lực của Ngân hàng. Ngân hàng phải là người chủ động trong việc khắc phục những khó khăn và hạn chế đang gặp phải, thông qua một số đề xuất sau: 1. Nâng cao chất lượng của công tác thu thập thông tin trong thẩm định dự án đầu tư: Khi nền kinh tế phát triển, mâu thuẫn ngày càng phát sinh thì hoạt động thẩm định dự án đòi hỏi ngày càng phải hoàn thiện hơn. Hiệu quả các hoạt động dự án đầu tư lại phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác của thông tin. Cho nên nâng cao chất lượng thông tin là một đòi hỏi khách quan và cấp bách. Nhưng phải làm gì để nâng cao chất lượng thông tin ? Chúng ta biết rằng thông tin sẽ càng chính xác hơn khi được kiểm tra từ nhiều nguồn. Do đó vấn đề đặt ra và cần phải giải quyết trước mắt là tránh sử dụng thông tin phiến diện, mang tính một chiều, nghĩa là ngoài những dữ liệu, thông tin do doanh nghiệp cung cấp cán bộ tín dụng cần phải triệt để khai thác từ nhiều nguồn. 1.1. Phỏng vấn trực tiếp người xin vay vốn và điều tra trực tiếp cơ sở sản xuất kinh doanh Việc điều tra trực tiếp này mang lại hiệu quả rất lớn cho cán bộ tín dụng trong công tác thu thập thông tin. Tuy rằng thông tin này với các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp là cùng một nguồn, nhưng nhờ tính chất linh hoạt của việc phỏng vấn mà nhiều khi cán bộ tín dụng có thể tìm ra các điểm yếu, những gian lận sai sót mà trong hồ sơ xin vay của doanh nghiệp không đề cập đến, hoặc sai. Thông thường cuộc phỏng vấn sẽ diễn ra rất nhanh nhằm thu được các thông tin: Biết rõ hơn về mục đích, yêu cầu vay vốn. Biết rõ hơn về khả năng trả nợ, tín nhiệm của người xin vay Tìm hiểu thêm thông tin về lịch sử, xu hướng phát triển, đội ngũ cán bộ, trình độ quản lý, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Cụ thể thêm trong cuộc phỏng vấn có thể đặt ra các câu hỏi sau: Tên hãng, của công ty, tên đối ngoại, tên viết tắt, bảng hiệu đang dùng, giấy phép đăng ký kinh doanh. Trình độ học vấn cũng như trình độ quản lý của chủ đầu tư. Lĩnh vực hoạt động, sản phẩm chủ yếu, phương thức tiêu thụ. Tổng số nhân viên trực tiếp và gián tiếp. Cách thức tổ chức và quản lý sản xuất, chi phí lương bổng của công nhân viên từ đó để ước lượng được thu nhập của công ty. Mối quan hệ tín dụng của công ty, công ty hiện quan hệ tín dụng với bao Ngân hàng và là khách hàng thường xuyên của Ngân hàng nào. Các nhà cung cấp chính của công ty, cách thức và phương thức thanh toán giữ công ty và nhà cung cấp.. . Công việc phỏng vấn đòi hỏi phải được chuẩn bị kỹ càng và cán bộ tín dụng phải làm chủ được cuộc đàm thoại. Muốn vậy người phỏng vấn phải xem xét kỹ trước tất cả các dữ liệu đã có về công ty và tìm hiểu những vấn đề chưa thoả đáng. Sau khi phỏng vấn người xin vay cán bộ tín dụng phải trực tiếp xuống thăm cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc để đánh giá khả năng và hiệu quả quản lý. 1.2. Tiến hành thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài: Sử dụng các thông tin về doanh nghiệp xin vay vốn do bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro cung cấp, gồm các phần chủ yếu sau: Họ tên, địa chỉ doanh nghiệp, số liệu tiêu chuẩn công nghiệp, loại hình doanh nghiệp, đánh giá tín dụng tổng hợp, năm thành lập, doanh số bán, vốn tự có, số lượng lao động, lịch sử doanh nghiệp. Thông tin về tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Các số liệu mới nhất về bảng tổng kết tài sản, dự trù thu chi tiền mặt trong 2 năm tới, doanh thu, lợi nhuận, dự kiến đầy đủ chi phí cho mở rộng SXKD, bảng giá máy móc mới, danh sách chủ nợ, con nợ theo thứ tự thời gian. Nếu bảng TKTS và số liệu kinh doanh đã lạc hậu từ 6 tháng trở lên thì phải yêu cầu cung cấp số liệu giữa kỳ và được cập nhật mới nhất.. . Thông tin về tiểu sử của doanh nghiệp, kinh nghiệm làm ăn, các mối quan hệ kinh doanh, các khó khăn trong quá khứ và hiện tại. Sử dụng thông tin từ việc điều tra trực tiếp các đơn vị có liên quan. Kiểm tra các khách hàng của doanh nghiệp để xem sản phẩm của doanh nghiệp có đủ độ tin cậy không, phương thức thanh toán mà doanh nghiệp sử dụng. Điều tra các bạn hàng chính của doanh nghiệp để xem xét quan hệ thanh toán. Đây là nguồn thông tin có vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu quả dự án. Ngân hàng phải nắm được thông tin từ những doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đang được thẩm định để đánh giá hiệu quả thực hiện của dự án. Các chuyên gia kỹ thuật có thể cung cấp những thông số kỹ thuật chuẩn xác về máy móc thiết bị. Ngân hàng có thể thuê những công ty Kiểm toán để kiểm tra độ chính xác, trung thực của báo cáo tài chính mà doanh nghiệp xin vay vốn, hoặc yêu cầu tất cả các doanh nghiệp khi xin vay vốn và trình báo cáo tài chính phải có sự nhận xét về trung thực và hợp lý của kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Cán bộ tín dụng có thể tham gia tham khảo thêm các tài liệu về chủ trương chính sách của Nhà nước về báo cáo thống kê có liên quan đến dự án Trên thực tế do thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài đòi hỏi khá nhiều thời gian nên phương pháp này ít được sử dụng, hạn chế nhiều khả năng kiểm tra độ chính xác của các thông tin. Do đó không ít số liệu được dùng làm căn cứ thẩm định dự án còn sai lệch, giảm chất lượng công tác thẩm định. Cho nên để nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng thì công việc thu thập thông tin từ các nguồn bên ngoài rất cần thiết, đảm bảo tính khách quan và chính xác của số liệu. 1.3.Phương pháp thu thập thông tin từ quan hệ khách hàng lâu dài Quan hệ khách hàng lâu dài cũng có thể cung cấp những thông tin cần thiết cho thẩm định dự án. Một khách hàng truyền thống của Ngân hàng luôn có các quan hệ tín dụng như vay vốn, nhờ thanh toán, mở L/C, nhờ thu…sẽ là những thông tin đầy đủ và chính xác nhất. Bởi vì chính những hồ sơ xin vay, những số liệu trong tài khoản thanh toán…đã tự nói lên tất cả tình hình tài chính công nợ…của doanh nghiệp. Như thế có thể nói thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài sẽ giảm chi phí và thời gian tập hợp và làm cho việc xử lý các thông tin đó được dễ dàng hơn, từ đó đưa ra các kết luận cho vay chính xác hơn. Tuy nhiên việc thiết lập các mối quan hệ kiểu này rất cần nhiều thời gian và không phải bao giờ cũng làm được, do tính chất và địa bàn hoạt động của các doanh nghiệp khác nhau, lại hay thay đổi. Cho nên việc thu thập thông tin kiểu này chỉ áp dụng được với một số ít doanh nghiệp mà thôi, không mang tính phổ biến. Tóm lại: Thông tin là vấn đề quan trọng sống còn của hiệu quả thẩm định dự án đầu tư trong thời đại hiện nay. Nâng cao chất lượng thẩm định không thể tách rời việc nâng cao chất lượng thông tin, để độ chính xác của các số liệu sử dụng trong tính toán thẩm định tăng lên, cán bộ tín dụng phải triệt để tận dụng các nguồn có khả năng cung cấp chúng. Có như vậy số liệu thu thập được mới mang tính khách quan không bị bóp méo vì mục đích của doanh nghiệp xin vay vốn. 2. Nâng cao trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ thẩm định: Trên thực tế các cán bộ tín dụng đều có xu hướng coi trọng một số phương diện này hơn là các phương diện khác trong quá trình thẩm định. Mà từng khía cạnh, từng vấn đề liên quan đến dự án đều rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, Ngân hàng và xã hội. Cho nên việc hoàn thiện hơn nữa tính toàn diện trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư hiện đang là một yêu cầu cấp bách, đòi hỏi một sự nỗ lực hơn nữa từ phía các cán bộ tín dụng. Khách quan mà nói với những gì được trang bị tại một trường đại học các cán bộ tín dụng không thể có được một hệ thống các kiến thức toàn diện bao gồm nhiều vấn đề để có thể đáp ứng được các đòi hỏi của công tác thẩm định dự án đầu tư. Thông thường các cán bộ tín dụng mới chỉ được biết về mặt tài chính của dự án còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá hiệu quả của dự án đối với toàn xã hội và đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến kỹ thuật thì rất ít được đề cập đến hoặc có thì chỉ lướt qua thôi. Chính vì vậy việc chọn phương án tài chính làm căn cứ chủ yếu để thẩm định cũng là điều có thể hiểu được. Tuy nhiên đòi hỏi về chất lượng hoạt động thẩm định vẫn cứ là đòi hỏi nên đã dẫn đến sự khập khiễng không hợp lý giữ lý thuyết và thực tế. Trong thực tế quá trình thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có các kiến thức ở trình độ cao về kinh tế, pháp luật ( trong nước và quốc tế ), về công nghệ, kỹ thuật về thông tin thị trường, về thanh toán quốc tế…có liên quan đến phương diện của dự án. Sẽ rất khó nếu đòi hỏi ngay lập tức cán bộ tín dụng phải có ngay trình độ trên. Bởi vậy để đảm bảo cho chất lượng của hoạt động tín dụng đòi hỏi Ngân hàng phải dần dần từng bước nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng bằng cách, mở các lớp đào tạo, đào tạo lại, tổ chức các buổi hội thảo mời chuyên gia về nói chuyện, giao lưu trao đổi kinh nghiệm với Ngân hàng bạn, tìm các nguồn tài liệu trong nước và nước ngoài cho cán bộ tín dụng tham khảo.. . Đây là những thách thức không mấy khó khăn, hoàn toàn nằm trong tầm tay của Ngân hàng. 3. Về công tác tổ chức cán bộ: Hiện nay đối với đất nước ta đang từng ngày một phát triển, khối lượng dự án cần được vay vốn đầu tư càng nhiều. Chính vì vậy công tác thẩm định dự án và quyết định cho vay vốn là rất quan trọng, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Bên cạnh đó trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế. Chính vì vậy việc tổ chức thẩm định như hiện nay không còn đáp ứng được yêu cầu nữa. Vậy cần phải thành lập một phòng thẩm định từ 10 đến 15 người chuyên làm công tác thẩm định các phần quan trọng của dự án mà một cán bộ thẩm định làm rất khó khăn như: Thẩm định về phương diện kỹ thuật, thị trường .. . và các vấn đề khác.. . Nhờ có sự chuyên môn như vậy mà các cán bộ ở phòng thẩm định có điều kiện để bổ sung kiến thức, chuyên môn cho mình hơn, hai nữa Ngân hàng có tổ chức nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ thẩm định cũng dễ dàng hơn, chi phí ít hơn… 4. Lập ra quỹ thẩm định Thẩm định dự án đầu tư không phải chỉ một sớm một chiều mà giải quyết được. Ngân hàng phải tổ chức gặp gỡ khách hàng, thường xuyên xuống cơ sở để kiểm tra. Thẩm định dự án đầu tư không chỉ tiến hành khống chế ở một số giai đoạn kiểm tra trước mà còn tiến hành kiểm tra cả trong và sau khi vay vốn. Như vậy quá trình đó là liên tục, gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng nên lập ra một quỹ riêng để chi phí cho hoạt động thẩm định dự án. Nó sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho việc thẩm định dự án đầu tư được dễ dàng hơn. Đồng thời nó cũng góp phần để đào tạo cán bộ, tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng tin học cho quá trình thẩm định để sớm đưa vào việc tính toán các chỉ tiêu tài chính phức tạp vào quy trình thẩm định KẾT LUẬN Tình hình đầu tư và phát triển của Việt Nam ngày càng gia tăng, nền kinh tế đang trên đà phát triển. Trong khi đó, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động, việc tài trợ dự án đầu tư chủ yếu dựa vào vốn vay Ngân hàng. Do đó, việc mở rộng tín dụng đối với các dự án đầu tư là một hướng đi cần thiết đối với mỗi Ngân hàng. Mở rộng qui mô đầu tư cho các dự án phải luôn đi đôi với tăng cường hiệu quả công tác thẩm định thì mới bảo toàn vốn và thu được lợi nhuận cho Ngân hàng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thẩm định dự án vay vốn là một công việc hết sức phức tạp, nó đòi hỏi phải luôn hoàn thiện qua thức tế chứ không chỉ dừng lại ở lí thuyết vì trên thực tế, đầu tư luôn biến động. Việc sớm hoàn thiện một qui trình thẩm định hoàn chỉnh, đưa ra một số chỉ tiêu mà các nước phát triển đang sử dụng cùng với những giải pháp tích cực về qui chế, cán bộ… là thực sự cần thiết đối với một Ngân hàng. Trong chuyên đề này, em đã khái quát hoá được những vấn đề có tính lý luận về thẩm định dự án, phân tích và làm rõ được thực trạng về công tác thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương chi nhánh Ba Đình và đưa ra được một số đề xuất nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định dự án vay vốn tại chi nhánh. Đây là một nội dung rộng, nên bài viết của em chỉ xin đóng góp thêm một cách tiếp cận, đánh giá mới và do đó khó có thể tránh khỏi những thiếu sót. Em xin cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo cùng các anh, chị đang làm việc trong các phòng ban của chi nhánh đã giúp em hoàn thành bài viết này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giaó trình lập dự án đầu tư năm 2008 Giaó trình kinh tế đầu tư năm 2008 Qui trình nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư của NH SGB Việt Nam. Tài liệu về bộ môn thẩm định dự án Các số liệu thu thập được tại chi nhánh Tạp chí: Thời báo kinh tế Việt Nam Tạp chí Ngân hàng SGB các năm, 2006, 2007,2008. Các trang website: Năng lực cạnh tranh của các NHTM trong xu thế hội nhập – NXB Lý luận Chính trị (2005) Một số tài liệu khác MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21755.doc
Tài liệu liên quan