Chuyên đề Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói riêng nhiều cơ hội phát triển thị trường nhưng cũng đẩy họ đối mặt với nhiều thách thức. Để nhanh chóng bắt kịp và hội nhập thành công với các nước trên thế giới, thì yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam là phải nhanh chóng năm bắt cơ hội thị trường để tăng cường xuất khẩu nông sản – một nguồn lớn thu nhập quốc dân. Đồng thời nhờ đó vị thế của nước ta trên trường quốc tế cũng được củng cố thêm. Thực tế thời gian qua cho thấy Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nông sản có khối lượng lớn trên thế giới nhưng bất cập là kim ngạch xuất khẩu lại đứng thứ hạng thấp, thị trường xuất khẩu tập trung nên rất phụ thuộc vào một số thị trường nên nhiều khi gặp khó khăn, thua thiệt trong thương mại. Vấn đề đặt ra “Làm thế nào để phát triển thị trường xuất khẩu Việt Nam?” là câu hỏi không chỉ đặt ra với riêng các doanh nghiệp ngành xuất khẩu mà còn là câu hỏi đặt ra cho toàn bộ các cấp ngành lãnh đạo và toàn xã hội. Bài chuyên đề xin đưa ra một số giải pháp có tính chất đồng bộ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển hơn nữa thị trường xuất khẩu mặt hàng nông sản Việt Nam. Đây là những giải pháp một phần dựa vào ý kiến chủ quan của người viết, do đó bài chuyên đề còn rất nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn đọc để khoá luận hoàn thiện hơn, đặc biệt là có ý nghĩa thực tiễn hơn

doc101 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1801 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Có nghĩa là vừa tăng số lượng thị trường xuất khẩu nông sản vừa tăng thị phần trên từng thị trường xuất khẩu. Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã thâm nhập được thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ nhưng đầy tiềm năng mở rộng, phát triển và bước đầu đã tạo được chỗ đứng trên thị trường đó. Chẳng hạn một số thương hiệu nông sản Việt Nam đã được người tiêu dùng nước ngoài Mỹ, Nhật Bản, Úc…biết đến và tin dùng như cà phê Trung Nguyên, Vinacafé, Thắng Lợi, Thu Hà, và lớn hơn là cà phê Buôn Mê Thuột, rau quả của công ty VEGETEXCO, chè của Tổng công ty chè Việt Nam VINATEA, tiêu Việt Nam, điều Việt…. Các kênh phân phối nông sản ra thị trường nước ngoài được đa dạng hóa. Phương thức xuất khẩu qua trung gian nước ngoài giảm dần, thay vào đó là các hình thức bán trực tiếp cho các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ nước ngoài và cả hình thức liên kết với đối tác nước ngoài tổ chức kênh phân phối trực tiếp trên thị trường nước ngoài đang tỏ ra phù hợp và sẽ là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển thị trường trong tương lai. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỚI 3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 VÀ TẦM NHÌN 2020 3.1.1. Quan điểm. Tại Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần IX năm 2001, chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 và tầm nhìn 2020 nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở rộng thị trường mới”. Như vậy, quan điểm chủ đạo là tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu vào các thị trường. Các quan điểm cụ thể như sau: Bối cảnh mới đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trong hoạt động xuất khẩu nông sản: Sau một thời kỳ phát triển nhanh, theo chiều rộng, thương mại nông sản đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với nhiều thách thức đó là kinh tê toàn cầu rơi vào khủng hoảng, trì trệ trung hạn và có nhiều khả năng chỉ hồi phục sau 2012. Bối cảnh này đòi hỏi cần có sự chuyển đối căn bản trong phát triển thương mại về chất, từ chiều rộng hướng vào chiều sâu, thúc đẩy sự phát triển của những ngành hàng mới và khai thác các thị trường tiềm năng, khuyến khích phát triển sản phẩm qua chế biến, nâng cao giá trị gia tăng, tham gia ngày càng mạnh và tiến lên nấc thang cao của chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển xuất khẩu nông sản tập trung đầu tư có trọng điểm tránh tràn lan phân tán nguồn lực, hướng mạnh vào các mặt hàng chiến lược có lợi thế so sánh như lúa gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều. Đối với các thị trường xuất khẩu, bên cạnh tập trung củng cố giữ vững thị trường lớn trọng điểm và tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc; cần tích cực mở rộng khai thác thị trường mới như Trung Đông, Châu Phi, Mỹ Latinh để tránh lệ thuộc, rủi ro trong xuất khẩu. Phát triển xuất khẩu nông sản trên cơ sở phát triển hài hòa thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa quan tâm mở rộng thị trường xuất khẩu, đảm bảo lưu thông hàng hóa thông suốt. Phát triển xuất khẩu nông sản trên cơ sở tham sự tham gia của các có quan quản lý từ trung ương đến địa phương, khuyến khích và tạo điều kiện khai thác tối đa tiểm năng của Phát huy vai trò tích cực của các mô hình thương mại tiên tiến, các loại hình thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong hoạt động nhập khẩu nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp. 3.1.2. Mục tiêu 3.1.2.1. Mục tiêu tổng quát Phát triển thị trường xuất khẩu nông sản dựa trên phương thức kinh doanh hiện đại theo cơ chế thị trường, qua đó phát huy vai trò dẫn dắt của xuất khẩu với hoạt động sản xuất và kinh doanh nông sản, góp phần tác động chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa và sản xuất hàng hóa lớn, tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Xếp sắp, mở rộng thị trường trong nước gắn với thị trường ngoài nước, bảo đảm lưu thông hàng hóa thông suốt, với mức giá có lợi cho người nông dân, phát huy vai trò tích cực của các mô hình tiên tiến, các thương nhân thuộc các thành phần kinh tế tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, an toàn và thuận lợi góp phần thực hiện lộ trình hội nhập khu vực và thế giới 3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể Giai đoạn cầu suy giảm và bước đầu phục hồi, cố gắng duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông lâm thủy sản ở mức 20%/năm; giai đoạn 2015-2020 kinh tế toàn cầu tăng trưởng trở lại, nỗ lực đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông lâm thủy sản ở mức 27%/năm Tăng tỷ trọng cơ cấu hàng chế biến chuyên sâu trong xuất khẩu, đạt mức từ 40-60% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản. Nâng cao tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đẩy mạnh đầu tư cho các ngành có tiếm năng lớn để có đột phá trong kim ngạch xuất khẩu, phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất thêm 5 ngành hàng nông sản đạt mức kim ngạch trên 1 tỷ USD. 3.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỚI. Để phát triển thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam hiện nay thì cần phải có sự kết hợp của cả doanh nghiệp và Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học – Công nghệ, Bộ Y tế, phòng quản lý thị trường… cùng phối hợp giải quyết những vướng mắc còn tồn tại. Xuất phát từ thực trạng xuất khẩu nông sản của các doanh nghiệp Việt Nam, chuyên đề xin mạnh dạn đưa ra gợi mở về một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam như sau: 3.3.1. Ở cấp độ nhà nước. 3.3.1.1. Các giải pháp bổ trợ. Hỗ trợ môi trường kinh doanh Việt Nam phải xây dựng thành công nền kinh tế thị trường Hiện nay, Việt Nam chưa được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận là có nền kinh tế thị trường. Ngay cả khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương ại thế giới (WTO) vào cuối năm 2006 thì Việt Nam vẫn chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường trong 12 năm tới. Đây sẽ là một công cụ mà các nước phát triển tiếp tục áp đặt điều kiện, hạn ngạch, thưa kiện nhằm hạn chế DN VN.) Vì vậy, trong 12 năm tới, DN VN phải chuẩn bị tinh thần để đối mặt với các vụ tranh chấp thương mại tốn kém. TS Lê Đăng Doanh hiến kế: Bên cạnh việc nhanh chóng đào tạo luật sư, chi tiền thuê luật sư để theo kiện thì VN phải vận động hành lang, phải thực sự đẩy mạnh cải cách từng bước để chứng minh VN là một nền kinh tế thị trường càng sớm càng tốt. Việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường là điều kiện quan trọng nhất bởi vì nền kinh tế thị trường sẽ làm cho lượng cung cầu về hàng hóa tăng cao, hàng hóa trong nước đáp ứng nhu cầu và tiêu dùng và có thể xuất khẩu những mặt hàng chủ lực. Nhà nước phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh hơn, các thể chế kinh tế nới chung, các thị trường nói riêng mới được hình thành và bảo đảm từ phía nhà nước, từ phía pháp luật. Mở rộng quyền kinh doanh và mở cửa thị trường kinh doanh, phân phối hàng hoá, dịch vụ theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong hoạt động kinh doanh cung ứng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tại Việt Nam; từng bước xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh dịch vụ về bưu chính - viễn thông, năng lượng, bảo hiểm, giao thông, cảng biển, Logistics... để nâng cao hiệu quả hoạt động, góp phần giảm chi phí kinh doanh cho cộng đồng doanh nghiệp Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi hoạt động xuất khẩu theo hướng kinh tế thị trường, phù hợp với các cam kết của WTO và hội nhập kinh tế quốc tế khác nhằm tạo môi trường thông thoáng, minh bạch, dễ tiên đoán. Để thực hiện chủ trương cải cách hành chính là khâu đột phá, ngoài việc ban hành, bổ sung các quy chế, quy trình tác nghiệp cần phải tổ chức lại bộ máy làm việc, thiết lập kỷ cương nghiêm đối với người thừa hành, cùng với việc áp dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi cho hàng hóa lưu trong kho bãi, trên đường vận chuyển, qua cửa khẩu nhằm giảm chi phí tiền bạc, thời gian của doanh nghiệp và coi việc làm khó dễ đến họ là hành vi cản trở sự nghiệp chấn hưng quốc gia. Tạo thuận lợi cho việc hình thành và sự hoạt động của các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Cải cách thủ tục và hiện đại hoá hải quan, rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục thông quan hàng hoá xuất - nhập khẩu. Triển khai ký kết các thỏa thuận về thanh toán quốc tế qua ngân hàng với các thị trường xuất khẩu hiện đang gặp khó khăn trong giao dịch và bảo đảm thanh toán; ký kết các thỏa thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch động, thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm với các nước đối tác Việt Nam nên tích cực và chủ động tiến hành đàm phán và ký kết các hiệp định song phương, tham gia tích cực vào các hiệp định khu vực thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế đầy đủ và sâu rộng để tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam. Tăng cường củng cố các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai phá mạnh các thị trường mới ở Trung Đông, châu Phi và Mỹ La-tinh cho phát triển xuất khẩu; Mở cửa sớm các thị trường dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tiên tiến, hiện đại cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu; Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xuất khẩu: Nhà nước cần huy động các nguồn vốn trong dân cư kết hợp với thu hút đầu tư nước ngoài để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động thương mại. Đồng thời khai thác hiệu quả hệ thống hạ tầng hiện có phục vụ tốt nhất cho xuất khẩu. Đẩy mạnh ứng dụng các phương thức thương mại hiện đại, thương mại điện tử, công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu Đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường; hoàn thiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu phù hợp quan điểm, mục tiêu các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên; mở rộng các hình thức tín dụng, bảo đảm các điều kiện tiếp cận vốn và các hình thức bảo lãnh thuận lợi hơn tại các ngân hàng thương mại; từng bước thực hiện cho vay đối với nhà nhập khẩu có kim ngạch ổn định và thị phần lớn, trước hết đối với hàng nông sản. Tổ chức thực hiện tốt cơ chế hoàn thuế đối với các nhà nhập khẩu nguyên liệu cung cấp cho các nhà sản xuất hàng xuất khẩu. Cải cách, hoàn thiện các định chế tài chính theo hướng tập trung cho các yếu tố đầu vào của sản xuất hàng xuất khẩu và xúc tiến thương mại, tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu; tiếp tục cải thiện các sắc thuế, phí và lệ phí; đẩy mạnh kinh doanh bảo hiểm tài sản, hàng hoá trong sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Điều hành tỷ giá sát tỷ giá thực tế, phù hợp sức mua của đồng Việt Nam, đồng thời có chính sách gắn đồng Việt Nam với một số ngoại tệ chuyển đổi có lợi để tránh rủi ro cho xuất khẩu. Đào tạo phát triển nguồn lao động cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng lao động trong các ngành hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động; đẩy mạnh xã hội hoá các dịch vụ dạy nghề và đào tạo lao động; cân đối nguồn ngân sách hỗ trợ đào tạo nghề cho một số danh mục nghề phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu theo các địa chỉ cụ thể. Tiếp tục chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho xuất khẩu, chú ý đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề, nâng cao hiểu biết về luật pháp kinh tế quốc tế và của các nước... Việc đào tạo cần theo hai hướng, trước mắt, đối với người lao động cần thuần thục về kỹ năng và chuyên môn hóa sâu. Mặt khác, phải chú trọng đặc biệt tới đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của nhân loại cho phát triển của Việt Nam về lâu dài... Chú trọng xây dựng và tăng cường năng lực ứng phó với các vụ kiện chống phá giá, các rào cản thuế quan, rào cản kỹ thuật thương mại mới phi thuế quan như biện pháp bảo hộ ngành nông nghiệp chế biến trong nước (hạn ngạch nhập khẩu và thuế tiêu thụ cao…) Đây là những hàng rào rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập trực tiếp vào thị trường này và buộc phải xuất khẩu qua các công ty trung gian các nước được hưởng thuế quan ưu đãi hơn. 3.3.1.2. Các giải pháp trọng tâm. Chính sách đầu tư hỗ trợ sản xuất nông nghiệp Dù áp dụng mọi biện pháp cạnh tác hiện đại thì thu nhập của nông dân vẫn rất thấp so với công nhân ở các ngành kinh tế khác. Bởi vậy, muốn cho nông nghiệp và nông thôn phát triển trong quỹ đạo của nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước cần có chính sách đầu tư cho nông nghiệp qua rất nhiều hình thức như: qua nghiên cứu giống mới và phổ biến kỹ thuật canh tác hiệu quả: chọn giống, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế, bảo quản, nâng cao năng lực thị trường cho các người sản xuất nông sản. Mục tiêu của đầu tư hỗ trợ là tạo cho nông dân một khoản thu nhập cần thiết để họ yên tâm sản xuất. Từ đó góp phần ổn định được vùng nguyên liệu có chất lượng cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu nông sản và hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Mặc dù hiện nay các doanh nghiệp nhà nước, thường là các tổng công ty của các ngành hàng thực hiện phần lớn các giao dịch xuất khẩu nông sản và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản mang lại nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của các doanh nghiệp tư nhân trong hoạt động xuất khẩu và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản. Một số doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu nông sản đã bước đầu thâm nhập được vào thị trường quốc tế và tạo được lòng tin, sự ưa thích cho khách hàng nước ngoài. Chẳng hạn như trong ngành cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có Trung Nguyên là doanh nghiệp đầu tiên tiến hành nhượng quyền sử dụng thương hiệu ra nước ngoài. Với chiến lược mở rộng thị trường thông qua nhượng quyền sử dụng và khai thác thương hiệu, Trung Nguyên đã tiến hành tại rất nhiều nước khác nhau. Hiện nay Trung Nguyên đã triển khai kế hoạch này cho hàng chục thương nhân tại Hoa Kì, Nhật Bản, một số quốc gia EU và Đông Nam Á. Với những hợp đồng như vậy, Trung Nguyên đã thu về hàng chục triệu USD trong khi thương hiệu Trung Nguyên ngày càng phát triển mạnh mẽ và được bảo vệ khá chắc chắn nhờ sự “ra tay” của các đối tác nhận chuyển nhượng. Liên kết và phối hợp các nhà xuất khẩu: Việc xây dựng một biểu tượng tốt đẹp về hàng hoá trong con mắt khách hàng là một vấn đề khó khăn đòi hỏi phải đầu tư công sức và thời gian mà riêng lẻ một nhà xuất khẩu khó có thể thực hiện được. Nhà nước nên đóng vai trò định hướng và hướng dẫn liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu trong cùng ngành hàng xây dựng cho ngành mình cái nhìn tốt đẹp trong mắt người tiêu dùng thông qua việc các doanh nghiệp cùng xây dựng thương hiệu chung cho nông sản Việt Nam. Chỉ những sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng mới được gắn thương hiệu đó. Xây dựng nên những doanh nghiệp, thương gia lớn chuyên xuất khẩu và các hiệp hội ngành hàng. Điểm yếu của chúng ta hiện nay là từng doanh nghiệp đi ra nước ngoài để tìm đầu ra. Không có những doanh nghiệp, những thương gia đi làm đầu mối cho xuất khẩu, tập hợp sức mạnh của nhiều doanh nghiệp để tạo ra một sức mạnh chung. Vì thế, Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng nên những doanh nhân, thương gia lớn chuyên xuất khẩu. Tuy nhiên điều này đòi hỏi cả một quá trình. Trước mắt phải khuyến khích sự liên kết từng ngành hàng, phát huy mạnh vai trò của hiệp hội. Nhà nước sẽ hỗ trợ các hiệp hội về kinh phí về điều kiện hoạt động. Chỉ khi hiệp hội có chương trình cụ thể, khả thi để tạo thế mạnh cho ngành hàng, phát triển ngành hàng thì mới được Nhà nước hỗ trợ. Tổ chức quản lý chất lượng nông sản xuất khẩu Nhình chung, thị trường tiêu thụ nông sản của Việt Nam ở nước ngoài còn nhỏ lẻ, thiếu ổn định. Một phần lớn nguyên nhân là do chất lượng chưa đảm bảo. Chúng ta cần tuân thủ nghiêm ngặt các qui định quốc tế về tiêu chuẩn hàng hóa, Bởi vì, chỉ có những hàng hóa đáp ứng đủ tiêu chuẩn quốc tế thì mới tồn tại được, mới được các sở giao hợp đồng tương lai trên thế giới chấp nhận, mà thị trường Việt Nam không thể tách khỏi thị trường quốc tế trong thời đại hiện nay. Hiện nay, việc quản lý chất lượng các hàng nông sản xuất khẩu chưa có tổ chức nào chịu trách nhiệm trước nhà nước, việc chứng nhận chất lượng nông sản xuất khẩu còn nhiều bất cập, sản phẩm chất lượng kém vẫn cứ đưa ra thị trường làm giảm uy tín của nông sản Việt Nam. Do đó cần thống nhất quản lý ngành nông nghiệp về quản lý chất lượng sản phẩm nông sản xuất khẩu, cụ thể: Nhanh chóng chuyển đổi bộ tiêu chuẩn ngành thành tiêu chuẩn và xây dựng mới các qui chuẩn quốc gia về chất lượng nông sản. Các qui chuẩn quốc gia này phải tiếp cận được những qui chuẩn của thị trường quốc tế, đúng nguên tắc hàng rào trong thương mại cho từng ngành hàng của ngành nông nghiệp. Nhanh chóng đẩy mạnh việc thực hiện theo tiêu chuẩn đó. Bên cạnh đó, cần phải phối hợp các cơ quan quản lý ngành hàng như Tổng công ty của từng ngành hàng nông sản Việt Nam với các cơ quan chuyên môn như công ty Giám định hàng hoá xuất nhập khẩu - Bộ thương mại, trung tâm kiểm tra chất lượng - tổng công ty ngành hàng đó để ngăn chặn tình trạng nông sản không đạt tiêu chuẩn vẫn lọt ra thị trường thế giới. Do vậy, để thống nhất quản lý ngành về chất lượng nên giao cho Hiệp hội của từng ngành hàng thay mặt nhà nước quản lý chặt chất lượng xuất khẩu ngành hàng đó. Hiệp hội sẽ phối hợp cùng Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng và các bộ phận chất lượng ở các đơn vị để làm tốt nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các ban ngành liên quan cần tích cực triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế và kịp thời giải quyết các vướng mắc của thị trường nước ngoài về hàng hóa Việt Nam, đảm bảo giữ vững ổn định chiến lược hàng xuất khẩu. Đồng thời cần có sự hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý những lô hàng nông sản bị thị trường nhập khẩu cảnh báo vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm và kịp thời phổ biến cho doanh nghiệp những yêu cầu mới về kiểm soát chất lượng nông sản của thị trường, đặc biệt tại các thịt trường trọng điểm Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Nga, Brazil, Hồng Kông, Ma Cau, Newzeland Tăng cường công tác dự báo và thông tin thị trường: Thị trường nông sản thế giới có nhiều niến động khá phức tạp mà nhiều khi các doanh nghiệp của chúng ta thiếu kinh nghiêm không thể dự báo và ứng phó kịp thời trước biến động đó. Do vậy nhà nước cũng như các bộ ngành liên quan nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo thị trường thế giới, nắm vững biến động của thị trường trong và ngoài nước nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp, các địa phương có thông tin về thị trường để tìm kiếm thị trường, đồng thời có khả năng ứng phó kịp thời với các biến động phức tạp của thị trường nông sản thế giới. Phát triển hệ thống thông tin về thị trường, giá cả. Chỉ khi nào bản thân người kinh doanh hàng hoá có hiểu biết về thị trường và các quan hệ thị trường họ mới biết cách điều chỉnh hoạt động của mình theo yêu cầu của thị trường. Nhà nước cũng cần xây dựng sàn giao dịch cho hàng nông sản Việt hoặc cố gắng đưa hàng nông sản lên các sàn giao dịch quốc tế Đối với các hàng nông sản Việt Nam có khối lượng giao dịch lớn, chiếm vị trí cao trên thị trường quốc tế cố gắng đưa lên các sàn giao dịch quốc tế để giúp cung cầu nông sản gặp nhau và tận dụng bán nông sản với giá quốc tế và trên cơ sở thông tin về cung cầu thị trường xây dựng kế hoạch sản xuất, chế biến, xuất khẩu đảm bảo khai thác triệt để cơ hội thị trường mang về lợi nhuận tối đa. Đồng thời, trên cơ sở một số sàn giao dịch đã có (sàn gia dịch cà phê tại Đắc Lắc) tổng kết thành công, hạn chế để nghiên cứu khả năng vận dụng cho một số ngành hàng như: Lúa gạo (Cần Thơ), Hồ tiêu (Bình Phước), Cao su (Đắc Lắc), Rau quả (Vĩnh Long). Tăng cường áp dụng các chính sách thúc đẩy xuất khẩu truyền thống và phù hợp với thông lệ quốc tế như miễn, giảm và hoàn thuế, đồng thời chuyển sang đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Chẳng hạn như chính sách cung cấp tín dụng cho người mua nước ngoài, cho vay ưu đãi theo hiệp định cấp chính phủ, bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng, thưởng xuất khẩu thay vì trợ cấp, trợ giá. Đây là một hướng đi đúng đắn và có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường cạnh tranh năng động cho các hoạt động xuất khẩu, tạo động lực cho các nhà xuất khẩu, tránh bị cáo buộc trong các vụ kiện trợ giá quá mức. Cụ thể các biện pháp thưởng xuất khẩu được đề ra như sau Thưởng nếu kim ngạch xuất khẩu năm này cao hơn năm trước Thưởng cho mặt hàng mới vào thị trường mới Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch của doanh nghiệp cao hơn mức tăng trưởng bình quân của ngành. Doanh nghiệp nào có mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn thì sẽ được hưởng mức thưởng cao hơn Các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao hơn sẽ có mức thưởng cao hơn (ví dụ: mức thưởng cho sản phẩm nông sản chế biến hoặc giá trị gia tăng cao sẽ cao hơn mức thưởng cho sản phẩm nông sản thô, nguyên liệu) Quy định cụ thể về những ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh nông sản mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường kinh doanh như: ưu đãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để các doanh nghiệp tái đầu tư, cho trích lại một phần thuế xuất khẩu để trợ giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất Áp dụng một số giải pháp tài chính, tín dụng khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu như: miễn hoặc giảm các loại thuế sản xuất và xuất khẩu cũng như nhập khẩu nguyên liệu đầu vào Tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu như: tài trợ trước khi giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu bởi vì những lý do như: hàng nông sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên, có tính chất thời vụ, rủi ro rất lớn và giá cả biến động thất thường. Các chính sách hỗ trợ này rất có hiệu quả trong việc khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vững chắc với thị trường xuất khẩu chủ yếu, đồng thời thâm nhập được các thị trường mới tiềm năng. Hỗ trợ doanh nghiệp trong tuyên truyền quảng bá, xúc tiến thương mại. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn, lại chưa có nhiều điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin qua mạng toàn cầu, vì lẽ đó Nhà nước cần trợ giúp các doanh nghiệp trong hoạt động quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra thị trường nước ngoài, giúp các doanh nghiệp hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới. Các cơ quan chức năng cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, tư vấn xây dựng nhãn hiệu và quảng bá thương hiệu nông sản ở thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, theo ý kiến các doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần tăng cường công tác quản lý, thực hiện nghiêm các chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm về nhãn hiệu hàng hóa.       Hình thức phổ biến mà hiện tại các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam áp dụng để quảng bá cho thương hiệu của mình là tham gia hội chợ và triển lãm tại nước ngoài, theo chương trình của Cục Xúc tiến thương mại. Thông thường các doanh nghiệp tham gia đã được hỗ trợ tới 50% chi phí gian hàng, nhưng số tiền mà các doanh nghiệp phải bỏ ra để tham gia hội chợ vẫn còn rất cao (thậm chí đến 15.000 – 20.000 USD cho toàn bộ chi phí). Nếu cứ thực hiện chương trình hỗ trợ như vậy, e rằng sẽ có rất nhiều doanh nghiệp không bao giờ có thể tham gia hội chợ và triển lãm tại nước ngoài. Vì thế, đề xuất được đưa ra là Chính phủ nên thành lập Quỹ hộ trợ xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu. Quỹ này sẽ giúp các doanh nghiệp tham gia quảng bá hình ảnh thương hiệu tại nước ngoài trên những phương tiện khác nhau. Để giúp đỡ và hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá hình ảnh ra nước ngoài, không thể tiến hành một cách đại trà mà cần phải xác định từng từng giai đoạn hai năm một để đầu tư quảng bá, hạn chế tình trạng quảng bá tràn lan không có trọng điểm để nâng cao hiệu quả trong tuyên truyền và quảng bá. 3.3.2. Ở cấp độ doanh nghiệp Trong quá trình thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu nông sản thì bản thân doanh nghiệp là người quyết định. Thị trường là yếu tố kiên quyết quyết định sự tồn tại và phát triển cho chính bản thân doanh nghiệp đó và đảm bảo các mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, do đó không thể ỷ lại hoặc trông chờ quá nhiều vào Nhà nước mà phải bằng chính khả năng của mình, dựa vào sức mình là chính để xây dựng, phát triển thị trường cho chính bản thân doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược tiếp cận và phát triển thị trường một cách rõ ràng và chiến lược nhằm khuếch trương thương hiệu của mình trên thị trường thế giới. Hoạt động chiến lược phải dựa trên kết quả của việc nghiên cứu, đánh giá thị trường và bản thân doanh nghiệp. Cơ hội và điểm mạnh phải được tối ưu hoá trong khi nguy cơ và điểm yếu phải biến thành điểm mạnh. Khi biến điểm yếu thành điểm mạnh, nguy cơ tự nó biến thành cơ hội. Ví dụ như các yêu cầu về môi trường của thị trường Châu Âu có thể là nguy cơ đối với các doanh nghiệp chưa biết đến yêu cầu đó hay không muốn thay đổi bao bì và quy trình sản xuất. Đối với các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14001, thì đây lại là cơ hội. Trong trường hợp điểm mạnh và cơ hội chiếm ưu thế so với điểm yếu và nguy cơ thì doanh nghiệp đã sẵn sàng hình thành chiến lược xuất khẩu đối với thị trường cụ thể và lập kế hoạch cho các sản phẩm xuất khẩu. Chú ý việc nghiên cứu thị trường cần tập trung vào một số điểm trọng tâm sau: Nghiên cứu xu hướng vận động của nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng nông sản của khách hàng mục tiêu, những xu thế phát triển hiện tại và trong tương lai của tình hình ngoại thương nông sản tại thị trường đó. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp có những quyết định đầu tư sản xuất những mặt hàng mà thị trường cần, phát hiện ra những phân đoạn thị trường chưa được phủ đầy, từ đó có biện pháp tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu. Nghiên cứu hệ thống phân phối nông sản trên từng thị trường xuất khẩu. Nghiên cứu các kênh đưa hàng trực tiếp vào siêu thị, các kênh đưa hàng gián tiếp qua các trung gian thương mại... Nghiên cứu tâm lý khách hàng là một trong những khâu rất quan trọng quyết định đến sự thành bại của sản phẩm trên thị trường. Cần đặc biệt giải quyết vấn đề thiều hiểu biết về pháp luật thương mại và kinh doanh đối với mặt hàng nông sản tại các thị trường khó tính nhưng nhiều tiềm năng. Nhanh chóng thích nghi với văn hoá kinh doanh của thị trường mục tiêu. Văn hoá kinh doanh tại các thị trường khác nhau thì không giống nhau và không giống với ngay cả nét kinh doanh của người Việt. Do đó các doanh nghiệp cần hết sức quan tâm và chủ động tìm hiểu các nét văn hóa đó và nỗ lực tạo ra sự hòa hợp với các nét văn hóa đó để đem lại kết quả tốt đẹp trong giao dịch kinh doanh. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản: Phát triển công nghiệp chế biến là cách thức nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô. Việc phát triển công nghiệp chế biến còn tạo nên thị trường nội địa to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp (chè: 55%; rau quả: 55%, thịt: 1%...). Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu là: Nâng cao chất lượng đầu vào Hiện tại chất lượng đầu vào của nông sản nguyên liệu Việt Nam còn rất thấp do dư lượng thuốc trừ sâu trong nông sản còn quá cao. Mặc dù vấn đề này được nói đến nhiều lần nhưng vẫn chưa hề có biện pháp cụ thể. Trong khi các thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam là EU và Mỹ đã áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh đối với nhiều nông sản Việt Nam . Do vậy, việc nâng cao hiệu quả khâu nhập nguyên liệu đầu vào mang tính cấp thiết. Trước hết doanh nghiệp cần phải giải quyết vấn đề tranh chấp nguyên liệu đầu vào dẫn đến chất lượng không đảm bảo thông qua một số biện pháp sau: Thứ nhất, qui hoạch vùng nguyên liệu cho chính doanh nghiệp mình: Cái khó của các doanh nghiệp chế biến hàng nông sản Việt Nam không phải là năng lực chế biến mà chính là vùng nguyên liệu. Vùng nguyên liệu đã manh mún rồi lại thường xuyên thay đổi cây trồng thâm canh trên cùng một vùng nguyên liệu. Trên một cánh đồng, khuyến nông dân trồng nhiều thứ quá không hiệu quả. Kết quả là vùng nguyên liệu không ổn định, giá nguyên liệu lên xuống bấp bênh. Người nông dân vẫn chưa có thói quen sản xuất theo kiểu công nghiệp, chăm sóc rau quả không đúng theo qui chuẩn kỹ thuật, phun thuốc hóa học tràn lan nên chất lượng nông sản không đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Một khó khăn nữa là các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu thường xuyên bị ép giá cao khi giá trị trường lên. Điều đó ảnh hưởng lớn tới việc giao hàng theo quy định của hợp đồng. Vì vậy công tác qui hoạch vùng nguyên liệu là việc cần sớm giải quyết. Khi có quy hoạch tổng thể vùng nguyên liệu, công tác thu mua bảo quản sẽ diễn ra nhanh hơn, thuận lợi, hiệu quả hơn giảm bớt được chi phí trung gian, đồng thời doanh nghiệp có điều kiện tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu. Cụ thể doanh nghiệp cần: Thứ nhất, Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thế sản xuất nguyên liệu và chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Các doanh nghiệp chế biến nên ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với người nuôi trồng, giúp đỡ nông dân về kỹ thuật nuôi trồng, về giống và công tác bảo quản sau thu hoạch theo Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về tiêu thụ nông sản hàng hoá qua hợp đồng. Vấn đề quan trọng là đề cao trách nhiệm và sự hợp tác của các bên trong việc thực hiện những điều đã cam kết. Trên cơ sở đó doanh nghiệp tạo vùng nguyên liệu cụ thể của mình. Doanh nghiệp có thể tự trồng hoặc kết hợp mua của nông dân, nhưng vùng nông sản của nông dân phải được địa phương qui hoạch, giao cho doanh nghiệp trực tiếp đầu tư và thu mua sản phẩm. Tuyệt đối không được xâm phạm, lấn chiếm vùng nguyên liệu của doanh nghiệp khác Thứ hai, xác định phương án sản phẩm cụ thể của từng cơ sở chế biến trên cơ sở thu thập thông tin về thị trường và khả năng đáp ứng của vùng nguyên liệu một cách cụ thể. Từ đó, đầu tư hoàn thiện thiết bị, nhà xưởng, công nghệ, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và công nhân với qui mô hợp lý, đáp ứng theo yêu cầu tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Đồng thời, cần phải tiến hành xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000/2000 và hệ thống phân tích, xác định, kiểm soát nguy cơ có khả năng nhiễm bẩn nông sản (hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm) theo tiêu chuẩn HACCP. Thứ ba, các doanh nghiệp trên cùng một địa bàn, dưới sự chủ trì của Hiệp hội ngành hàng, cần hợp tác chia sẻ thông tin, trước hết là phẩm cấp, tiêu chuẩn kỹ thuật, phương thức đầu tư cho vùng nguyên liệu, thống nhất giá cả mua nguyên liệu… Các doanh nghiệp có thể tạo lợi ích kinh tế trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm như áp dụng chế độ thưởng phạt rõ ràng, nhằm phát huy tinh thần trách nhiệm của các cơ sở cung cấp nguyên liệu. Đầu tư phát triển và hiện đại hoá công nghệ. Đầu tư phát triển và hiện đại hoá công nghệ không những trực tiếp nâng cao giá trị gia sản phẩm, tăng năng lực sử dụng đầu vào trung gian để tạo khối lượng sản phẩm đầu vảo lớn hơn mà còn là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao giá trị gia tăng ngoại sinh. Giải pháp hữu hiệu là kết hợp được qui mô vừa và nhỏ với qui mô lớn, hiện đại trong chế biến để có những sản phẩm chất lượng cao phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Xã hội ngày càng văn minh thì đòi hỏi chè có chất lượng ngày càng cao. Các doanh nghiệp phải nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, thiết bị mới, nhằm tạo ra sản phẩm có gía trị cao. Xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh công nghệ chế biến các loại nông sản để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm. Đồng thời các doanh nghiệp phải cải tạo, nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có. Việc lựa chọn dây truyền công nghệ phải phù hợp với vùng nguyên liệu, năng lực của doanh nghiệp, nhu cầu của thị trường. Nâng cao chất lượng khâu chế biến: Doanh nghiệp tăng cường thực hiện qui trình theo các tiêu chuẩn quốc tế như hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000 hay HACCP, giám sát kỹ thuật công nghệ trên dây truyền chế biến, đảm bảo các thông số kỹ thuật chế biến, có chế độ chế biến thích hợp với điều kiện chế biến thích hợp từng loại nông sản, từng địa phương. Cán bộ kỹ thuật cần được tạo điều kiện để có phương tiện kiểm tra các thông số kỹ thuật trong cả quá trình chế biến ra sản phẩm cuối cùng. Cần tổ chức lại khâu hoàn thành sản phẩm Các doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu và tổ chức sản xuất đa dạng hóa củng loại và mẫu mã cho các sản phẩm nông sản chế biến Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của ta trên cơ sở các nguồn nguyên liệu sẵn có, cần nghiên cứu kĩ thị hiếu, khẩu vị và sở thích cũng như chủng loại nông sản mà người tiêu dùng tại thị trường mục tiêu thường dùng thông qua mời các chuyên gia về từng ngàng hàng nông sản tại thị trường đó sang tư vấn để có thể chế biến các loại nông sản có hương vị, đặc tính tương tự những loại nông sản được ưa chuộng tại thị trường đó và xuất khẩu tới thị trường đó. Bao bì sản phẩm cũng phải phù hợp với tính chất của hàng hoá cũng như sự tiện dụng. Cho nên bao bì của sản phẩm xuất khẩu cần phải đảm bảo tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế đã được nhiều nước thừa nhận. Chú trọng nghiên cứu thiết kế bao bì, nhãn hiệu hàng hoá cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng của khách hàng nước ngoài để tăng nhận biết của người tiêu dùng nước ngoài về thương hiệu của mình và phù hợp qui định luật pháp của thị trường nhập khẩu. Từng bước nâng cao mức độ chế biến sâu cho các nông sản: các hàng nông sản của Việt nam xuất khẩu chủ yếu ở dạng sơ chế nên giá trị gia tăng thấp và trải qua nhiều nhà nhập khẩu trung gian nên người tiêu dùng cuối cùng ở nước ngoài đa phần chưa biết đến các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Do đó các doanh nghiệp nên tập tâp trung vào xuất khẩu sản thành phẩm và giảm tỷ trọng hàng thô. Khi tăng được tỷ trọng này thì chẳng những thu được nhiều ngoại tệ hơn, sử dụng nhân công rẻ, khai thác lợi thế về thuế nhập khẩu, cho phép bảo quản chất lượng tốt hơn, hạ giá thành sản phẩm mà còn giảm thiểu được các nhà nhập khẩu trung gian, đến gần hơn người tiêu dùng cuối cùng của doanh nghiệp. Tăng cường áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động xuất khẩu: Cần nhận thức rõ vai trò to lớn của thương mại điện tử như một công cụ mới, hữu hiệu cho chiến lược xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu nông sản. Công nghệ thông tin và phương pháp tiếp cận thị trường thông qua thương mại điện tử đã mở rộng thị trường khách hàng, tiếp cận được thị trường hiện có tốt hơn cũng như việc tiếp cận thị trường mới trở nên thuận lợi hơn và nhanh chóng hơn. Chính điều này làm cho vấn đề khoảng cách và qui mô giảm đi phần quan trọng đối với thị trường và làm cho cùng một lúc các nhu cầu của khách hàng và cơ hội của nhà sản xuất, nhà xuất khẩu tăng nhanh hơn và chính xác hơn thông qua giao dịch thương mại điện tử. Ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần thích ứng nhanh chóng và vươn lên chiếm lĩnh xu thế kinh doanh mới mẻ này và phải chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, các cơ sở vật chất thông tin cũng như trình độ chuyên môn của nhân sự Tăng cường sử dụng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh: như các dịch vụ tư vấn, dịch vụ nghiên cứu và thăm dò thị trường, dịch vụ pháp lý…để nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoàn thiện phương thức xuất khẩu và phát triển mạng lưới phân phối nông sản: Thực trạng cho thấy đa các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu theo giá FOB cho các đối tác nước ngoài, cho nên toàn bộ việc giao hàng cho khách hàng là tại Việt Nam, toàn bộ hoạt động phân phối bán hàng ở thị trường nước nhập khẩu là do đối tác nắm giữ. Xuất khẩu thuần tuý như vậy về lâu dài khó duy trì và phát triển được một cách bền vững. Cần phải hoàn thiện phương thức xuất khẩu theo hướng từng bước tiến tới xuất khẩu trực tiếp, phân phối trực tiếp tại thị trường nhập khẩu. Bước đầu các doanh nghiệp nên mở văn phòng giao dịch đại diện tại các thị trường trọng điểm của mình, hoặc thực hiện liên doanh với các nhà phân phối đã có sẵn hệ thống phân phối tại nước nhập khẩu để học hỏi cách thức phân phối và hoạt động tại thị trường đó, đồng thời tranh thủ nắm bắt các thông tin để tìm hiểu thị trường như thói quen tiêu dùng của khách hàng, môi trường cạnh tranh, hệ thống luật pháp. Rồi dần dần tự mình thiệt lập kênh phân phối sản phẩn trực tiếp của riêng mình, có thể qua mở các chi nhánh đại diện hoặc xây dựng nhà máy chế biến ngay tại thị trường đó.Để làm được điều này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu và nắm vững hệ thống phân phối hàng nông sản trên từng thị trường cụ thể, học tập kinh nghiệm của các nước xuất khẩu nông sản thành công như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan…. Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần nhanh chóng lĩnh hội và gia tăng những phương thức đưa hàng mới vào thị trường nước ngoài như bán hàng ký gởi. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu: Xúc tiến thương mại là hoạt động hết sức đối với doanh nghiệp bởi nó giúp các doanh nghiệp phát triển mối quan hệ với các bạn hàng, nhất là khi các bạn hàng của chúng ta lại ở quốc gia khác với chúng ta, làm cho thông tin được trao đổi từ đó điều kiện phát triển buôn bán, quan hệ làm ăn và thâm nhập thị trường khu vực quốc tế một h nhanh chóng hiệu quả. Xúc tiến thương mại là công cụ hữu hiệu để chiếm lĩnh thị trường, duy trì và củng cố thị trường truyền thống của doanh nghiệp, tạo cơ hội chiếm lĩnh thị trường mới, khách hàng mới, cung cấp thêm thông tin cho khách hàng tiềm năng, tạo lòng tin cho khách hàng đối với doanh mghiệp và nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp (lợi nhuận, an toàn, vị thế), các doanh nghiệp phải làm tốt khâu tổ chức xúc tiến và xúc tiến tạo nên sự thay đổi trong kinh doanh thương mại. Doanh nghiệp tích cực triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, sử dụng có hiệu quả kinh phí hỗ trợ từ ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm và hỗ trợ xuất khẩu từ Qũy hỗ trợ xuất khẩu để mở rộng thị trương đã có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường thị trường có tỷ trọng xuất khẩ lớn. Các hình thức xúc tiến thương mại mà doanh nghiệp có thể áp dụng để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là: Hội chợ triển lãm thương mại: Hình thức xúc tiến phù hợp nhất đối với ngành nông sản chính là tham gia hội trợ. Đây là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp lớn, là cơ hội tiếp xúc với khách hàng. Xúc tiến thương mại qua hoạt động hội chợ triển lãm đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng trước khi trưng bày tại triển lãm. Gian hàng tại hội chợ sẽ tạo một giao diện thương hiệu thân thiện về sản phẩn công ty và vể hình ảnh của công ty. Quảng cáo: Trong điều kiện tài chính còn eo hẹp mà quảng cáo ở nước ngoài có chi phí cao các doanh nghiệp chưa nên quảng cáo sản phẩm mà nên chú trọng vào việc quảng bá về khả năng sản xuát ổn định về số lượng và chất lượng cho doanh nghiệp-tức là quảng cáo thương hiệu là doanh nghiệp. Một số phương tiện quảng cáo tỏ ra phù hợp với điều kiện tài chính các doanh nghiệp Việt Nam mang lại hiệu quả tốt mà các doanh nghiệp có thể xem xét, sử dụng như: Qua mạng Internet, đây là phương tiện tốn rất ít chi phí mà độ phủ lại rộng, với thời đại công nghệ thông tin xã hội hóa ngày nay thì rất nhiều khách hàng nước ngoài có thể tiếp cận và biệt đến sản phẩm của doanh nghiệp; hoặc các doanh nghiệp phối hợp với các ban ngành triển khai chiến dịch quảng cáo cho thương hiệu nông sản Việt Nam qua một số kênh đặc biệt như: quảng cáo trên các chuyến máy bay, kênh truyền thông quốc tế; hoặc quảng cáo các sản phẩm nông sản qua các chương trình ẩm thực quốc tế. Các hoạt động cộng đồng: Đây là những hoạt động rất đa dạng từ tham gia các hoạt động cứu trợ, chăm sóc cộng đồng đến các hoạt động từ thiện khác, tổ chức các tuần lễ văn hóa ở nước ngoài kết hợp giới thiệu các nông sản truyền thống Việt Nam để thâm nhập và củng cố thị trường đó Phát triển một thương hiệu và định vị hợp lý thương hiệu đó để chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế hiện đang là bài toán lớn đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Theo các chuyên gia, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự chú trọng đến vấn đề này, nếu có quan tâm cũng chỉ dừng lại ở mức độ đăng ký nhãn hiệu để phân biệt sản phẩm này với sản phẩm khác. Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ cần bán hàng gắn thương hiệu nổi tiếng là có thể thu về phần giá trị gia tăng khổng lồ. Nếu chúng ta nắm trong tay một thương hiệu mạnh thì cũng đồng nghĩa với việc có được những khách hàng trung thành cũng như có sự hợp tác mạnh mẽ từ phía các đại lý. Mặt khác, từ thương hiệu mạnh sẽ là cơ hội để phát triển thương hiệu phụ dưới sự bảo trợ của thương hiệu chính, từ đó tạo đà thuận lợi để phát triển thi trường. Hơn bao giờ hết, trong bối cảnh hội nhập, chúng ta cần có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng thương hiệu. Bởi vì nếu chúng ta ngừng phát triển và bành trướng sẽ đồng nghĩa với việc bị tiêu diệt. Việc xây dựng thương hiệu mới chỉ dừng lại trong nội bộ thì chưa đủ, doanh nghiệp phải thực hiện các hoạt động quảng bá thương hiệu với thị trường thì thương hiệu mới được nhận biết và chấp nhận. Bên cạnh đó, một doanh nghiệp muốn bảo vệ được các thương hiệu của mình thì điều đầu tiên là phải tìm mọi cách ngăn chặn tất cả các xâm phạm từ bên ngoài (như sự xâm phạm của hàng giả, hàng nhái; sự tạo nhầm lẫn cố tình hay hữu ý; hiện tượng gây khó hiểu của các thương hiệu gần giống) và sự sa sút từ ngay bên trong thương hiệu (giảm uy tín do chất lượng hàng hoá suy giảm; không duy trì được mối quan hệ tốt với khách hàng làm giảm lòng tin của khách hàng với hàng hoá và doanh nghiệp). Do đó việc cần làm là các doanh nghiệp Việt Nam phải đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, chứng chỉ xuất xứ trên thị trường quốc tê. Việc đăng ký kịp thời nhãn hiệu hàng hóa trên thị trường quốc tế sẽ giúp cho các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đững vững trên thị trường quốc tế. KẾT LUẬN Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói riêng nhiều cơ hội phát triển thị trường nhưng cũng đẩy họ đối mặt với nhiều thách thức. Để nhanh chóng bắt kịp và hội nhập thành công với các nước trên thế giới, thì yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam là phải nhanh chóng năm bắt cơ hội thị trường để tăng cường xuất khẩu nông sản – một nguồn lớn thu nhập quốc dân. Đồng thời nhờ đó vị thế của nước ta trên trường quốc tế cũng được củng cố thêm. Thực tế thời gian qua cho thấy Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nông sản có khối lượng lớn trên thế giới nhưng bất cập là kim ngạch xuất khẩu lại đứng thứ hạng thấp, thị trường xuất khẩu tập trung nên rất phụ thuộc vào một số thị trường nên nhiều khi gặp khó khăn, thua thiệt trong thương mại. Vấn đề đặt ra “Làm thế nào để phát triển thị trường xuất khẩu Việt Nam?” là câu hỏi không chỉ đặt ra với riêng các doanh nghiệp ngành xuất khẩu mà còn là câu hỏi đặt ra cho toàn bộ các cấp ngành lãnh đạo và toàn xã hội. Bài chuyên đề xin đưa ra một số giải pháp có tính chất đồng bộ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển hơn nữa thị trường xuất khẩu mặt hàng nông sản Việt Nam. Đây là những giải pháp một phần dựa vào ý kiến chủ quan của người viết, do đó bài chuyên đề còn rất nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn đọc để khoá luận hoàn thiện hơn, đặc biệt là có ý nghĩa thực tiễn hơn. Trong thời gian thực hiện khoá luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện rất nhiều từ Trung tâm thông tin – Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT, từ phía nhà trường và thầy giáo hướng dẫn chuyên đề. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới nhà trường và đặc biệt là thầy giáo, GS.TS Đặng Đình Đào đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình chỉ bảo, giúp em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ công thương. Đề án phát triển xuất khẩu 2006-2010 (2005) và Đề án đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu giai đoạn 2008-2010 (2008) Chu Khôi, Giám định chất lượng nông lâm thủy sản- nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 68 ngày 20/3/2009 Chu khôi, Xuất khẩu hạt tiêu vẫn tăng mạnh, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 103+104 năm 2009 Chung Nguyên, Thế mạnh nông nghiệp, báo Thế giới và Việt Nam, số 113 năm 2009 GS.TS Bùi Xuân Lưu và CN. Vũ Đức Cường. Chính sách bảo hộ nông nghiệp của Thái Lan trong quá trình hội nhập. Tạp chí kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, số 3 năm 2003 GS.TS Nguyễn Văn Thường, Quan hệ thương mại Việt Nam-Châu Phi: thực trạng và giải pháp, (2007), NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân Hồng Thoan; Cơ hội gia tăng xuât khẩu vào châu Phi; www.vnEconomy Ngành cà phê Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế sau 2 năm gia nhập WTO, Đoàn Triệu Nhạn, Tham luận hội thảo đánh giá 2 năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam ngành cà phê, ca cao, hồ tiêu, hạt điều. Quang Diệu, Giữ đà xuất siêu nông sản sang Trung Quốc, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 90 ngày 15/4/2009 Tạp chí Kinh tế Việt Nam, Số 6, 10/2/2004 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, số 12, năm 2001 Tạp chí ngoại thương số 9, từ 21/3-31/3 năm 2009 Th.S Đoàn thị Mỹ Hạnh. Can thiệp của chính phủ vào thị trường nông sản Từ lý thuyết đến thực tiễn. Tạp chí phát triển kinh tế, 2003, số 158 TH.S Lê Tố Hoa, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ nông sản. Tạp chí kinh tế và phát triển, 2002, số64. Th.S Vũ Hoàng Chương. Những định hướng diều chỉnh trong chính sách nông nghiệp của Mỹ, , Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, 2003, số 1 Thanh Niêm. Cạnh tranh quốc tế: Đâu là lợi thế Việt Nam .www.Vinatech.org.vn. tin ngày 18/10/2006 Thời báo kinh tế Việt Nam. Kinh tế 2007-2008 Việt Nam và thế giới, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nóng. Thương mại Nông Lâm Thủy Sản Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2009 – Sẽ còn nhiều khó khăn, tin ngày 19/3/2009; www.agro.gov.vn Trang web của Trung tâm xúc tiến thương mại hải phòng (HPTRADE). Doanh nghiệp cần biết lựa chọn thị trường xuất khẩu vào EU. Trung tâm thông tin-Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Bản tin phục vụ lãnh đạo (2003). Trung tân thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn-Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT. Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp Việt Nam 2007 và triển vọng 2008. Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp Việt Nam 2008 và triển vọng 2009. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Giáo trình Kinh tế phát triển (2006) Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Giáo trình Nguyên lý Kinh tế học vi mô (2006). Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội. Giáo trình Kinh tế ngoại thương, (2005) Vấn đề bảo hộ đối với sản phẩm nông, lâm, thủy sản ở thi trường Liên Minh Châu Âu, Đinh Công Tuấn, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, 2003-số 3 Viện chính sách và Chiến lược PTNNNT. Đề án phát triển nông-lâm-thuỷ sản đến năm 2015 và tầm nhìn 2020 www.agro.gov.vn www.imf.org www.irv.moi.gov.vn Xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi, tin ngày 9/2/2009; www.lefaso.org MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế 13 Bảng 1.2: Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam một số năm gần đây 14 Bảng 1.4: Tổng nhập khẩu của thế giới một số mặt hàng (USD) 18 Bảng 1.5: Giá của một số mặt hàng nông sản trên thế giới (USD/tấn) 20 Bảng 2.1. Khối lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam của một số nước hàng đầu trong năm 2007- 2008 36 Bảng 2.2: Thị trường cà phê Việt Nam bình quân của niên vụ từ 2000/01 36 đến 2007/08 (tấn) 36 Bảng 2.3: Thị trường nhập khẩu cao su Việt Nam chính giai đoạn 2001-2008 38 Bảng 2.4: 5 thị trường xuất khẩu chè chính của Việt Nam năm 2008 44 Bảng 2.5: Giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam và thế giới giai đoạn 2001-2008 (USD/tấn) 45 Bảng 2.6: 10 thị trường có kim ngạch nhập khẩu nông-lâm-thủy sản lớn nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2008 46 Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản vào ASEAN giai đoạn 2007-2010 46 Bảng 2.8: Tình hình xuất khẩu nông lâm thuỷ sản Việt Nam Sang Hoa Kỳ và thế giới 54 Bảng 2.9: Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn nhất sang Châu Phi năm 2008 55 Bảng 2.10: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu nông sản Việt Nam của một số quốc gia châu Phi 57 Bảng 2.14: Dự báo thương mại nông lâm thuỷ sản giai đoạn 2009-2020 (triệu USD) 58 Bảng 2.15: Dự báo xuất khẩu một số mặt hang nông sản giai đoạn 2010-2020 58 Bảng 2.11: Qui mô xuất khẩu nông sản thời gian 2001-2008 (triệu USD) 62 Bảng 2.12: Tăng trưởng xuất khẩu nông sản 2001-2008 (%) 63 Bảng 2.13: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu ( triệu USD) 63 Bảng 2.14: Các thị trường chính và thị trường tiểm năng của một số hàng nông sản Việt Nam 69 DANH MỤC HÌNH Hình 2.1: Kim ngạch xuât khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008 (%) 33 Hình 2.2: Thị trường chính nhập khẩu gạo Việt Nam ( USD) 34 Hình 2.3: Giá gạo 5% tấm 2001-2008 35 Hình 2.5: Kim ngạch nhập khẩu hạt tiêu Việt Nam của một số thị trường chính giai đoạn 2001-2008 (USD) 41 Hình 2.7: Kim ngạch nhập khẩu Điều Việt Nam của một số thị trường chính giai đoạn 2001-2008 (USD) 43 Hình 2.8: Thị phần bình quân của các nước nhập khẩu điều chính từ Việt Nam giai đoạn 2001-2008 43 Hình 2.10: Kim ngạch xuất nhập khẩu 49 Hình 2.11: Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng kim ngạch (%) 5 mặt hàng nôngsản Việt Nam xuất sang Trung Quốc 2008 49 Hình 2.12: Dự báo về kim ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng sang Hoa Kỳ năm 2009 54

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21559.doc
Tài liệu liên quan