Chuyên đề Xây dựng triết lý kinh doanh của Ngân hàng Công thương Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Triết lý kinh doanh có vai trò to lớn trong hoạt động kinh doanh hiện nay. Nó giúp cho doanh nghiệp có được định hướng rõ ràng về hoạt động, đồng thời là hình ảnh của doanh nghiệp trong khách hành và khẳng định mình trước đối thủ cạnh tranh. Triết lý kinh doanh ngày càng được xã hội hóa và mang tính khả thi hơn. Ở Ngân hàng Công thương Việt Nam, là một trong bốn ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất Việt Nam, đã xây dựng cho mình một bản triết lý kinh doanh để khẳng định thương hiệu và bản sắc NHCTVN. Với sự quan tâm của ban lãnh đạo, sự đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển để xây dựng triết lý và hình ảnh cho mình nên triết lý kinh doanh của NHCTVN mang nội dung phù hợp với xu hướng phát triển chung của ngành ngân hàng trong tương lai là hiện đại, hiệu quả cao, tin cậy hơn đồng thời triết lý của ngân hàng cũng mang tính thực thi hơn, ngày càng gần gũi với khách hàng mà vẫn khẳng định tên tuổi, thương hiệu Ngân hàng Công thương trước đối thủ cạnh tranh. Trong môi trường mở cửa của Việt Nam hiện nay, ngành ngân hàng phát triển rất nóng, nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụng tài chính mới được thành lập, ngân hàng nước ngoài cũng nhảy vào cuộc đua thì yếu tố cạnh tranh càng trở nên gay gay hơn. Lúc này, NHCTVN ngoài việc chuẩn bị về các hoạt động kinh doanh tín dụng, truyền thông, quảng bá, tạo vốn còn rất cần xây dựng cho mình một triết lý kinh doanh phù hợp với khách hàng, có tính thực thi cao, chống lại đối thủ cạnh tranh và phù hợp với chính sách, quy định của Nhà nước để định hướng chiến lược và như một bản tuyên bố sứ mệnh, khẳng định giá trị của NHCTVN. Việc xây dựng triết lý kinh doanh của NHCTVN đã được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm và xây dựng sửa đổi trong quá trình hoạt động. Quy trình xây dựng triết lý kinh doanh ở NHCTVN đòi hỏi phải được đầu tư hơn nữa. Nội dung của bản triết lý kinh doanh cũng phải được xem xét đặt trong sự tác động của các yếu tố môi trường bên trong, bên ngoài, môi trường ngành để nó có thể phát huy được điểm mạnh, cơ hội từ môi trường và hạn chế được thách thức cũng như khắc phục được điểm yếu. Để làm được điều đó, NHCTVN phải đầu tư về cả tài chính và nhân lực cho hoạt động nghiên cứu xây dựng triết lý kinh doanh kết hợp với tuyên truyền phổ biến lấy ý kiến, sự xây dựng đóng góp của cán bộ nhân viên trong ngân hàng và khách hàng

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3122 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xây dựng triết lý kinh doanh của Ngân hàng Công thương Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ú ý tới đối tượng khách hàng doanh nghiệp này và có những chính sách thu hút bằng triết lý kinh doanh có hiệu hiệu quả. Đối thủ cạnh tranh Các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, dưới góc độ kinh tế, cũng chỉ là các doanh nghiệp kinh doanh với mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Để tồn tại và phát triển các ngân hàng này cũng phải cạnh tranh với nhau. Kể từ khi được tách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước vào năm 1988, NHCTVN đã không ngừng lớn mạnh. Gia nhập WTO, mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng có nghĩa là các ngân hàng sẽ bước vào một “sân chơi” hoàn toàn mới. Ở sân chơi quốc tế này, luật chơi công bằng hơn. Sự cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn. Đặc biệt, trong giai đoạn mà ngành ngân hàng đang phát triển nóng tại Việt Nam thì sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn. Các ngân hàng trong nước nói chung đều đã xây dựng được triết lý kinh doanh cho mình rất rõ ràng. Các NHTMCP như MpBank, Vpbank… đã xây dựng triết lý kinh doanh cho mình rất tốt. Logo của VPBank nổi bật với hai màu xanh đậm và đỏ tươi. Trong ý nghĩa truyền thống, màu xanh tượng trưng cho sự trù phú, sinh sôi, thịnh vượng còn màu đỏ tượng trưng cho sự mạnh mẽ, sự nổi bật và sự thành công. Hai vòng cung màu xanh trên biểu tượng VPBank thể hiện sự luân chuyển liên tục của dòng tiền, tạo cảm giác về sự thuận lợi, trôi chảy, hứa hẹn một sự phát triển trong tầm tay. Vòng cung cũng thể hiện mối quan hệ khăng khít, bền chặt giữa VPBank và khách hàng. Màu đỏ tươi giữa hai vòng cung tạo điểm nhấn thị giác, tạo sự nổi bật cho logo VPBank dù ở bất kỳ nơi nào. Nhìn tổng thể, nó đem đến cho khách hàng cảm nhận về sự bền vững, niềm tin tưởng vững chắc vào thành công của VPBank và những gì gắn với VPBank. Lựa chọn 2 màu xanh – đỏ muốn khẳng định với khách hàng: Gửi tiền vào VPBank, đồng tiền của khách hàng sẽ sinh sôi nảy nở, đồng vốn của VPBank sẽ đem LỘC đến cho cá nhân và doanh nghiệp. Nói cách khác VPBank đem đến sự thành công và thịnh vượng. Các ngân hàng mới thành lập cũng có triết lý kinh doanh cho mình như FPTBank, ABBank… Sự cạnh tranh này đòi hỏi NHCTVN phải xây dựng triết lý kinh doanh của mình sao cho thu hút được khách hàng, khẳng định thương hiệu, nét đặc sắc riêng, khẳng định sự mạnh mẽ trước các đối thủ cạnh tranh của mình. Nhà phân phối Hoạt động của ngân hàng tiếp xúc với khách hàng chủ yếu là thông qua trụ sở hoạt động, các chi nhánh đặt tại địa điểm khác nhau và hợp tác với nước ngoài thường thông qua ngân hàng đại lý. Do đó, nhà phân phối của NHCTVN chính là các chi nhánh hoạt động. Các chi nhánh này chịu sự chi phối của trụ sở chính nhưng có vai trò vô cùng quan trọng và là mắt xích không thể thiếu trong hoạt động của ngân hàng. Ở mỗi chi nhánh hoạt động đặt ở một địa điểm khách nhau nên đặc điểm về khách hàng, về văn hóa, về môi trường kinh tế xã hội khác nhau nên mỗi chi nhánh lại có những hoạt động riêng của mình để kinh doanh thu hút khách hàng. Vì vậy, ngoài việc tuân thủ chung triết lý kinh doanh, thương hiệu, cách bài trí thiết kế không gian làm việc giống như quy định chung của NHCTVN thì các chi nhánh trong giới hạn đã được xem xét và chấp nhận của cấp trên có thể đưa ra triết lý kinh doanh riêng cho chi nhánh mình để thu hút khách hàng hiệu quả. Các yếu tố môi trường bên trong. Nguồn lực và tiềm năng ảnh hưởng tới việc xây dựng triết lý kinh doanh của NHCTVN. NHCTVN là một trong 4 ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam, có tiềm lực tài chính mạnh, công nghệ khá phát triển, nguồn nhân lực chất lượng cao… Đây là những nhân tố rất thuận lợi cho việc xây dựng triết lý kinh doanh ở NHCTVN. Việc xây dựng triết lý kinh doanh là một quy trình nghiên cứu phải được đầu tư về tài chính, công nghệ và con người. Nếu NHCTVN đầu tư thích đáng cho hoạt động này thì việc xây dựng được một bản triết lý sẽ mang tính thực thi và hiệu quả hơn. Các hoạt động ảnh hưởng tới việc xây dựng triết lý kinh doanh của NHCTVN. Vì là một ngân hàng nên lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ: huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bảo hiểm… đây là hoạt động chứa rủi ro cao, nếu đổ vỡ có thể gây đổ vỡ cả hệ thống, đem lại sự khủng hoảng về tài chính tới toàn bộ nền kinh tế. Lĩnh vực kinh doanh này cũng rất nhạy cảm, thay đổi theo tâm lý của khách hàng. Vì vậy, để kinh doanh có hiệu quả tránh rủi ro, và tạo niềm tin cho khách hàng là điều vô cùng cần thiết. Cho nên trong triết lý kinh doanh của mình, NHCTVN với triết lý kinh doanh của mình cũng phải nói lên được độ tin cậy mà ngân hàng sẽ tạo ra. Mặt khác, khi đã có được triết lý kinh doanh rồi thì để triết lý này phát huy được hiệu quả thì hoạt động Marketing sẽ hỗ trợ rất nhiều. Những người làm Marketing sẽ truyền bá triết lý này tới khách hàng và có làm một công tác đó là thu nhận những phản hồi từ phía khách hàng để kiến nghị lên lãnh đạo làm cho triết lý kinh doanh của ngân hàng ngày càng hoàn thiện. Thái độ, quan điểm của các nhà quản lý cao. Ban lãnh đạo của NHCTVN rất chú trọng tới việc xây dựng triết lý kinh doanh và thương hiệu riêng của NHCTVN. Ban lãnh đạo của NHCTVN luôn khẳng định rằng NHCTVN là sẽ giữ vững là NHTM hàng đầu của Việt Nam, là ngân hàng có thị phần lớn, khách hàng của NHCTVN không chỉ là những doanh nghiệp truyền thống mà còn hướng tới khách hàng cá nhân, NHCTVN sẽ tạo dựng một bản sắc riêng mang đậm bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, mà khi những người trực tiếp làm công tác nghiên cứu xây dựng triết lý kinh doanh ở NHCTVN cũng luôn phải xem xét ý kiến chỉ đạo của ban lãnh đạo cấp cao, những ý kiến của ban lãnh đạo như là định hướng bước đầu cho triết lý doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp. Những năm qua, cùng với việc chuyển đổi mô hình tổ chức đầu tư công nghệ hiện đại các hoạt động, sản phẩm, dịch vụ, Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam luôn chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cán bộ nâng cao chất lượng phục vụ. Các phong trào thi đua nâng cao chất lượng phục vụ mang phong cách, bản sắc riêng của NHCT được phát động đi đôi với kiểm tra, quản lý việc chấp hành nội quy lao động đối với cán bộ. Ban lãnh đạo NHCT đã và đang xây dựng đề án "văn hoá doanh nghiệp" trong hệ thống NHCT. Thường trực Công đoàn NHCT Việt Nam cũng phối hợp với phòng Dịch vụ Ngân hàng Điện tử mở chuyên mục trao đổi, diễn đàn "4 hoá" trên website NHCT. Thành viên NHCTVN cần đạt được văn hoá trong giao tiếp như: + Nhân viên ngân hàng phải có trình độ chuyên môn nghiệp, phương pháp làm việc khoa học, xử lý nghiệp vụ kịp thời, chính xác, đúng chế độ, giao dịch với khách hàng trong thời gian ngắn nhất, tạo được niềm tin đối với khách hàng. + Nhân viên ngân hàng phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao, không cửa quyền, phiền hà, tránh các biểu hiện tiêu cực như lợi dụng chức năng quyền hạn để mưu cầu lợi ích riêng… làm mất danh dự phẩm chất, đạo đức của người làm cán bộ và làm ảnh hưởng tới uy tín ngân hàng, + Trang phục giao dịch phải gọn gàng lịch sự, có phong cách; tác phong giao dịch phải niềm nở, thân thiện, nhiệt tình chu đáo. Bên cạnh đó, NHCTVN còn triển khai chương trình trụ sở ngân hàng "mẫu" để hình thành nên một nét đặc sắc mang mầu sắc NHCTVN riêng. Ngoài ra, NHCT Việt Nam còn tham gia các công tác từ thiện, xã hội được đẩy mạnh hơn với những hoạt động văn hoá và nghĩa cử cao đẹp. NHCT Việt Nam đã đóng góp tích cực vào sự phát triển của phát triển cộng đồng, thực hiện tốt công tác xã hội. Rất nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa, mang đậm tính nhân văn sâu sắc và thiết thực được tổ chức: Phụng dưỡng 100 mẹ Việt nam Anh hùng, tặng 1,1 tỷ đồng cho quỹ tấm lòng vàng, tặng hàng trăm phần quà cho trẻ em học sinh khuyết tật, trẻ em nghèo hiếu học… Với truyền thống tốt đẹp đó và để phát huy được văn hoá doanh nghiệp, triết lý kinh doanh của NHCTVN chịu ảnh hưởng không nhỏ của văn hoá doanh nghiệp. Triết lý mang tính nhân văn hơn, hướng tới giá trị cuộc sống, những hành động, nghĩa cử cao cả. Cũng vì vậy mà trong triết lý kinh doanh của NHCTVN đã lấy khẩu hiệu là: Nâng giá trị cuộc sống. CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY TRIẾT LÝ KINH DOANH Ở NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM HIỆN NAY. Việc xây dựng một triết lý kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng. Để xây dựng được một triết lý kinh doanh là một công việc rất khó khăn, đòi hỏi một quá trình dài và phải đầu tư phù hợp cũng như cần có những bước đi đúng đắn. Bởi để có một bản triết lý kinh doanh bao gồm nhiều yếu tố, là định hướng dài hạn cho doanh nghiệp đồng thời cũng chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau như: khách hàng, đối thủ cạnh tranh, pháp luật, văn hoá... Dưới đây là một số biện pháp nhằm xây dựng và phát huy triết lý kinh doanh ở Ngân hàng Công thương Việt Nam. 3.1. Nghiên cứu môi trường trước khi xây dựng triết lý kinh doanh. Điều kiện đầu tiên để sử dụng, phát huy được triết lý kinh doanh là phải có được một bản triết lý kinh doanh đồng thời cũng phải nhận thức đúng và đầy đủ về nó, bao gồm cả mặt mạnh, mặt yếu, ưu điểm và khuyết điểm. Để có được điều được đó thì phải đầu tư vào công việc nghiên cứu. Không chỉ đầu tư về thời gian mà còn đầu tư vào nhân lực và tài chính. Công việc nghiên cứu cần thực hiện theo các bước sau: Tìm hiểu về triết lý kinh doanh của nước ngoài, tập trung vào triết lý kinh doanh của các công ty, tập đoàn xuất sắc thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm thiết thực cho ta. Nghiên cứu triết lý kinh doanh truyền thống dân tộc ta trong lịch sử, tìm ra những nét bản sắc phong cách kinh doanh truyền thống cần phát huy trong điều kiện hoàn cảnh của chúng ta bây giờ. Nghiên cứu về thực trạng của triết lý kinh doanh các doanh nghiệp nước ta hiện nay tìm ra mặt tích cực để phát huy và loại bỏ những mặt tiêu cực để hoàn thiện triết lý của mình. Sau khi đã nghiên cứu và đưa ra được bản triết lý kinh doanh, Ngân hàng cần quy định và thể chế hoá yêu cầu bắt buộc thực hiện đối với toàn bộ cán bộ nhân viên. Dưới đây là những phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của Ngân hàng Công thương Việt Nam hiện nay: *Điểm mạnh. - Có hệ thống mạng lưới rộng khắp Trong hệ thống các ngân hàng Việt Nam hiện tại thì Ngân hàng Công thương cùng với AgriBank, VietcomBank là một trong những ngân hàng có mạng lưới kinh doanh rộng khắp. Hệ thống mạng lưới của Ngân hàng đã phủ khắp các tỉnh, thành phố. Hiện tại, có mạng lưới kinh doanh trải rộng khắp toàn quốc với 02 trụ sở chính, 02 sở giao dịch, 02 văn phòng đại diện, trên 138 chi nhánh, 150 Phòng giao dịch và trên 700 điểm giao dịch. và Quỹ tiết kiệm hoạt động khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước. Có 3 công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê tài chính, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý nợ và Khai thác Tài sản và 2 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Công nghệ Thông tin và Trung tâm Đào tạo. Hiện nay, Incombank có quan hệ ngân hàng đại lý với 776 ngân hàng trên khắp toàn cầu. Trong năm 2007, NHCT Việt Nam tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động đến những địa bàn chiến lược là các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, làng nghề, đô thị mới, trung tâm thương mại… Và đã mở rộng thêm một số Chi nhánh cùng nhiều phòng, điểm giao dịch được thiết lập đón đầu xu hướng phát triển kinh tế của vùng miền, khu công nghiệp, chế xuất, khu thị, thương mại dịch vụ, đáp ứng nhanh và hiệu quả nhất nhu cầu dịch vụ ngân hàng của khách hàng và xã hội. - Am hiểu về thị trường trong nước Với hơn 20 năm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, NHCTVN đã tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm về đặc điểm khách hàng trong nước, về nhu cầu loại hình dịch vụ, tâm lý khách hàng. NHCTVN đã tạo lập nhiều mối quan hệ thân thiết với khách hàng, tạo cho mình những khách hàng trung thành và đối tác tin cậy trong nước. NHCTVN thường tham gia vào cá dự án, công trình trọng điểm trong nước thuộc những ngành kinh tế quan trọng của đất nước như: chương trình tài trợ, đồng tài trợ, cấp tín dụng cho những dự án lớn của dây chuyền mới Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, Nhà máy thủy điển Sông Tranh, Bản Vẽ, cam kết tín dụng cho Thủy điện Sơn La. Hơn nữa, lợi thế của NHCTVN chính là việc đặt địa điểm các trung tâm, văn phòng giao dịch sao cho ở vị trí đẹp, thuận lợi, dễ dàng cho cả khách hàng lẫn ngân hàng. - NHCT Việt Nam có nguồn vốn tương đối lớn. NHCTVN là một trong 4 ngân hàng thương mại Việt Nam mạnh nhất hiện nay. Nguồn vốn huy động đến 31/12/2007 đạt trên 148 200 tỷ đồng, tăng 18,4% so với năm 2006, chiếm 10,4% thị phần ngành ngân hàng. Trong năm 2007. Tổng cho vay và đầu tư đến cuối năm 2007 có số dư trên 153 400 tỷ đồng, tăng 22,6% so với trước. Trong đó Cho vay nền kinh tế đến 31/12/2007 đạt trên 101 000 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng 28% so với đầu năm, chiếm 10% thị phần cho vay toàn ngành. Về chất lượng cơ cấu tín dụng tiếp tục được cải thiện và đổi mới theo hướng đảm bảo các tỷ lệ an toàn về vốn, hiệu quả hơn. Đến nay, NHCTVN đã tham gia vào 84 dự án đồng tài trợ với số dư nợ chiếm 10% tổng cho vay, là những dự án lớn thuộc ngành quan trọng của đất nước. Năm 2007, NHCTVN được đánh giá là ngân hàng cho vay mạnh nhất. Năm 2007, NHCTVN đã hoàn thành xây dựng lộ trình để cổ phần hoá NHCTVN và được chính phủ chấp thuận cấp bổ sung và vốn điều lệ gần 4 ngàn tỷ. - VietinBank chiếm thị phần lớn về khách hàng NHCTVN vốn là một ngân hàng truyền thống phục vụ các tập đoàn, tổng công ty lớn , NHCTVN đã đạt được thoả thuận hợp tác toàn diện với các khách hàng này. NHCTVN đã ký kết với 8 đối tác là những tập đoàn lớn như: Tổng công ty Xi măng Việt Nam, Bitexco, Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam, Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Lương thực Miền Bắc và Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. IncomBank hiện chiếm hơn 1/4 thị phần toàn ngành ngân hàng. Đây là một con số cho thấy lợi thế về thị phần của NHCT VN. Một lợi thế nữa là, khách hàng của ngân hàng nước ngoài hiện cũng chỉ loay hoay ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà những doanh nghiệp này cũng đã nằm trong thị phần của các ngân hàng khác rồi. Hơn nữa các ngân hàng nước ngoài vốn rất thận trọng trong việc mở rộng thị phần, họ phải có lộ trình chuẩn bị một vài năm trước khi đặt chân vào thị trường mới. - Ban lãnh đạo giỏi và đội ngũ nhân viên tận tụy ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức kỹ thuật hiện đại Đội ngũ cán bộ ngân hàng: Incombank luôn chú trọng tới phát triển nguồn nhân lực. Lúc mới hình thành Incombank chỉ có 30% số cán bộ nhân viên (CBNV) có trình độ đại học thì đến năm 2000 là 40% và nay là 60%. Trung cấp và cao đẳng chỉ dưới 30% và số người có trình độ trên đại học học trong số gần 14 nghìn CBNV của Incombank khoảng 500 người. Công tác đào tạo cũng chuyển biến mạnh nhận thức của mỗi thành viên trong ngân hàng, thấm sâu vào ý thức ngân hàng là phục vụ. IncomBank đã và đang tạo dựng tác phong cho đội ngũ cán bộ ngân hàng. Đó là hình ảnh những người cán bộ tận tụy, năng động, tâm huyết với nghề, tận tâm với khách hàng. Bảng cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn của một số NHTM trong nước (%) Trình đồ chuyên môn Ngân hàng Đại học và trên đại học Trung cấp và sơ cấp Trên ĐH ĐH & CĐ NH Ngoại thương VN 3 63 34 NH Công thương VN 1,2 40,8 58 NH Nông nghiệp & PTNT 0,63 39,37 60 NH Đầu tư và phát triển VN 0,51 69,49 30 Nguồn: Tập hội thảo “những vấn đề cơ bản về tài chính tiền VN” của NHNNVN, tháng 12/2004. - Ban lãnh đạo ngân hàng đều là những người có trình độ cao, thấp nhất là thạc sĩ, am hiểu về lĩnh vực ngân hàng cũng như kiến thức kinh tế xã hội. Đồng thời, là những nhà quản lý giỏi, có tầm nhìn chiến lược. Ngày 31/10/2007, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã có sự kiện toàn về nhân sự cao cấp. NHCTVN đã bổ nhiệm cán bộ quản trị và điều hành cao cấp nhất hệ thống. Tổng giám đốc của ngân hàng liên tục được bầu chọn là doanh nhân tiêu biểu của Việt Nam. Họ góp phần không nhỏ vào sự phát triển của NHCTVN trong thời gian qua và trong tương lai sắp tới. . Bổ nhiệm cán bộ quản trị, điều hành cấp cao nhất trong hệ thống. - Đang thực hiện hiện đại hoá ngân hàng Theo chủ trương chung hiện đại hóa ngành ngân hàng của NHNNVN, để tăng cường sức cạnh tranh và hội nhập thành công, NHCTVN đã và đang thực hiện chương trình hiện đại hóa ngành ngân hàng. Trong định hướng mục tiêu hoạt động kinh doanh năm 2008, NHCTVN khẳng định: sẽ tiếp tục cơ cấu lại toàn diện hoạt động, thực hiện 4 hóa: Hiện đại hóa; Cổ phần hóa; Chuẩn hóa nghiệp vụ, quản trị ngân hàng, nhân sự cán bộ: Công khai minh bạch hóa, lành mạnh tài chính. Nội dung của hiện đại hóa ngân hàng là quá trình thiết lập hàng loạt các modul quản lý, bao gồm: hệ thống quản lý hồ sơ khách hàng; hệ thống xử lý tiền gửi; hệ thống xử lý nghiệp vụ tín dụng và tài trợ; hệ thống xử lý nghiệp vụ thanh toán quốc tế; hệ thống xử lý nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ; hệ thống xử lý nghiệp vụ chuyển tiền trong nước; hệ thống xử lý nghiệp vụ hối đoái; hệ thống quản lý tài sản cố định; hệ thống sổ cái; hệ thống thông tin quản lý; hệ thống xử lý giao diện với hệ thống khác; hệ thống quản lý dịch vụ chung. Điểm chung của hệ thống này là được xử lý hoàn toàn tự động, dựa trên nền tảng thông tin thống nhất, nhưng có phần phân chia trách nhiệm rõ ràng và thiết lập được hệ thống xử lý dữ liệu online trên toàn hệ thống, giúp giao dịch viên ở bất kỳ nơi nào cũng có thể truy suất dữ liệu từ hệ thống dữ liệu của trung tâm. Khi ngân hàng hoàn tất chương trình hiện đại hóa sẽ mang lại cho ngân hàng một tầm cạnh tranh mới, công nghệ ngân hàng hiện đại và nhiều tiện ích. Có thể nói hiện đại hóa là bước đi đúng và vô cùng quan trọng mà ngân hàng đã và đang thực hiện tranh thủ thời gian trước khi các ngân hàng nước ngoài nhảy vào sân chơi chung. Đây là một lợi thế về thời gian mà ngân hàng cần tận dụng. - Văn hoá doanh nghiệp NHCTVN với hơn 20 năm xây dựng và phát triển trong lĩnh vực ngân hàng đã xây dựng cho mình nét văn hoá riêng mang bản sắc NHCTVN. *Điểm yếu - NHTM hiện đại, bộ máy quản lý cồng kềnh không hiệu quả. Bộ máy điều hành và hoạt động còn quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên một mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn kém xa so với khu vực. Các chi phí về nghiệp vụ và khả năng sinh lời còn thua kém các ngân hàng trong khu vực. - Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém. - Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa thoả đáng, dễ dẫn đến chảy máu chất xám. Ngân hàng hiện là ngành có tốc độ tăng trưởng rất mạnh. Trong năm 2007 vừa qua đã có thêm 4 ngân hàng mới được thành lập, và hiện đang có ít nhất 10 hồ sơ của ngân hàng nước ngoài xin thành lập 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Với tốc độ mở rộng phát triển ngành ngân hàng như hiện nay, thì ước tính chúng ta thiếu tới 6000 lao động cho ngành này. Nhân viên ngân hàng chủ yếu đào tạo ở các trường đại học không đủ đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Việc làm sao để thu hút và giữ chân được nhân viên giỏi là một vấn đề cần được chú trọng. Mặc dù đội ngũ nhân viên của Ngân hàng Công thương Việt Nam đa số có trình độ đại học trở lên, song, họ vẫn có những hạn chế nhất định về trình độ ngoại ngữ, trình độ công nghệ mới. Mức lương của ngành ngân hàng là khá cao, mức lương trung bình của một nhân viên khoảng 3 triệu đến 4.5 triệu VND. Nhưng so với mức lương của nước ngoài thì còn thua xa đến 4,5 lần. Vì vậy, nếu không có chính sách tốt để giữ chân nhân viên giỏi thì đội ngũ này sẽ chuyển sang đầu quân cho các ngân hàng nước ngoài. Hiện tượng chảy máu chất xám là không thể tránh khỏi. - Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khác hàng. Các ngân hàng quốc tế đang thực hiện khoảng 6000 nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và tín dụng ngân hàng. Trong khi đó, hiện tại Ngân hàng Công thương Việt Nam mới chỉ cung cấp tối đa khoảng 300 nghiệp vụ và mới chỉ cung cấp những dịch vụ truyền thống, còn các dịch vụ hiện đại như ngân hàng điện tử, môi giới kinh doanh, tư vấn, ngân hàng đầu tư… thì mức độ sử dụng vẫn còn mới hoặc hạn chế. - Thiếu sự liên kết giữa các Ngân hàng Thương Mại với nhau Hiện nay NHNN Việt Nam có chủ trương cho phép các ngân hàng nội địa mua lại các ngân hàng nhỏ hoặc liên minh với nhau giúp các ngân hàng từng bước hình thành các tập đoàn tài chính lớn. Ở Việt Nam khi nói đến sáp nhập, mua lại người ta thường hay lo ngại, nhưng nó là tiến trình bình thường của nền kinh tế thị trường. Việc hình thành các tập đoàn tài chính thông qua liên minh vững mạnh là một trong những định hướng nhằm giúp cho các ngân hàng Việt Nam có được lợi thế cạnh tranh, được hỗ trợ kịp thời, có cơ hội tiếp cận với những dự án đầu tư khả thi, tiếp đến là làm chủ thị trường. Việc liên kết giúp tận dụng được mạng lưới giao dịch, giảm chi phí hoạt động. Tuy vậy, việc liên kết hoặc sáp nhập giữa các ngân hàng đang diễn ra chậm chạp, mới chỉ được đặt vấn đề chứ chưa có một động thái cụ thể nào để thực hiện. Ngay trong cả trong công việc thiết yếu nhất là liên kết sử dụng máy ATM cũng không có nhiều sự liên kết hiệu quả. Tổng số máy ATM của tất cả ngân hàng Việt Nam chưa đến 6000 máy. Trong thời gian tới số lượng máy đòi hỏi nhiều máy hơn nữa mới đáp ứng được sự phát triển của dịch vụ gửi, rút tiền tự động này. Việc đầu tư mua máy ATM có chi phí rất lớn, và hệ thống máy ATM trên địa bàn còn thưa thớt, thậm chí ở những nơi không phải là thành thị phải đi hàng chục km mới rút được tiền. Song, việc liên kết lại diễn ra chậm chạp vì mỗi ngân hàng có cách quản lý tài chính riêng, sợ bị lộ thông tin… Điều này làm giảm sức cạnh tranh của ngân hàng. - Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn, nhiều rủi ro NHCTVB cho vay đối với tất cả các thành phần, ngành kinh tế, đặc biệt tập trung vào những ngành trọng điểm như điện, bưu chính viễn thông, xi măng, than, dầu khí, các doanh nghiệp vừa và nhỏ… Tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn là một trong định hướng phát triển tín dụng của IncomBank nhằm giúp các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư chiều sâu, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng và năng lực sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. NHCTVN tập trung mạnh vào các nghiệp vụ đầu tư kinh doanh phát triển trên thị trường trái phiếu, tín phiếu kho bạc, thị trường liên ngành ngân hàng. Hệ số an toàn của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp thường duới 5%, chưa đạt yêu cầu của ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế là 8%. Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản còn thấp (1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép. Do hoạt động trên thị trường này, nên NHCTVN góp phần không nhỏ vào các công trình trọng điểm của Nhà nước. Tuy nhiên đầu tư này dẫn tới nợ xấu tại IncomBank có lúc lên 30%.(Tuy nhiên trong cơ cấu toàn bộ hoạt động của ngân hàng thì những khoản nợ xấu chỉ còn 2% vào năm 2006 và hiện tỷ lệ này chưa tới 1%). Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả đồng nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Nếu duy trì tình trạng này quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn, thậm chí xó nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống. Đây cũng là khó khăn đòi hỏi phải vừa tìm ra hướng đi vừa củng cố lại hoạt động, vừa đảm bảo tăng trưởng, giữ thị phần và định hướng lại hoạt động để đảm bảo, an toàn, hiệu quả và bền vững - Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được các mục tiêu kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Vốn tự có của Ngân hàng Công thương là 2940 tỷ đồng; trong khi các ngân hàng khác như Ngân hàng đầu tư là 3746 tỷ đồng, Ngân hàng Nhà nước có vốn tự cao nhất là 5919 tỷ đồng - tương đương với khoảng 320 triệu USD. Nước Mỹ có 8000 ngân hàng thương mại, trong đó có khoảng 10 ngân hàng có vốn tự có trên 10 tỷ USD, 62 ngân hàng trên 1 tỷ USD, 215 ngân hàng trên 150 triệu USD. Mức vốn tự có trung bình của các ngân hàng thương mại nhà nước khoảng 200 đến 250 triệu USD, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại nhà nước cộng lại chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Theo bản đồ hệ thống ngân hàng, hiện nay, nước ta có 4 ngân hàng thương mại, 1 ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng phát triển, 37 ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 63,9% tổng số ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam. Các ngân hàng thương mại trong nước hiện đang nắm giữ khoảng 90% thị phần (cả tiền gửi và tiền vay), trong đó riêng ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 70%. Các ngân hàng nước ngoài hiện có 4 ngân hàng liên doanh, 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 43 văn phòng đại diện, chiếm dưới 10% thị phần nhưng chiếm khoảng 30% nguồn vốn chủ sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại hoạt tại Việt Nam. - Việc thực hiện hiện đại hoá ngân hàng còn gặp khó khăn về công nghệ ngành ngân hàng. IncomBank đang thực hiện dự án "hiện đại hoá" ngành ngân hàng. Đây cũng là một trong 4 "hoá" mà IncomBank đang thực hiện. Cho đến tháng 6/2006 IncomBank đã hoàn thành giai đoạn I dự án Hiện đại hoá ngân hàng, xây dựng hoàn thiện hệ thống ngân hàng lõi, kết nối trực tuyến từ trụ sở chính đến 137 chi nhánh, 145 phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trên toàn quốc. Hệ thống INCAS cho phép trụ sở chính có thể giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy trình nghiệp vụ tại từng chi nhánh. Hiện tại và trong thời gian tới IncomBank tiếp tục triển khai giai đoạn II, phát triển thêm một số module nghiệp vụ mới, chỉnh sửa nâng cấp module hiện có, tìm kiếm đầu tư thêm các chương trình quản lý rủi ro và cập nhật những công nghệ mới nhất của khu vực và thế giới. Liên tục cải tiến các sản phẩm cho phù hợp với thị trường và đảm bảo lợi thế cạnh tranh với các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng của công nghệ hiện đại, phù hợp với xu thế thương mại điện tử và nền kinh tế tri thức, chuẩn bị điều kiện và khả năng hội nhập sâu với thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng thế giới và khu vực. Tuy nhiên, dù đã và đang gần được cải tiến, nhưng công nghệ ngân hàng vẫn còn kém, lạc hậu so với các nước trong khu vực trên thế giới. Nhiều người vẫn cho rằng đây là cuộc chiến không cân sức giữa các ngân hàng trong nước và nước ngoài, đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam phải cố gắng tháo gỡ vướng mắc này. *Cơ hội. - Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Các chuyên gia tài chính quốc tế và lãnh đạo một số ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) lớn của Việt Nam cũng rất lạc quan về sự tăng trưởng của khối ngân hàng trong tương lai. Ông Lý Xuân Hải, tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), cho biết, việc ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam sẽ có tác động tích cực tới hệ thống ngân hàng trong nước, bởi họ mang đến phương pháp tiếp cận mới, làm thị trường hoàn hảo hơn, gắn kết hơn. Chẳng hạn như, hiện nay, nước ta mới bắt đầu phát triển quỹ đầu tư, trong khi ngân hàng nước ngoài đã tích luỹ nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực này, Việt Nam học hỏi được nhiều kinh nghiệm về quỹ đầu tư của họ. Hiện nay, giữa các ngân hàng Việt Nam có xu hướng trao đổi nhân lực, nên việc tham gia vào thị trường của ngân hàng nước ngoài sẽ là cơ hội cho ngân hàng trong nước, nhưng tận dụng được cơ hội này đến đâu lại phụ thuộc vào khả năng của từng ngân hàng. - Cơ hội có được từ việc hội nhập kinh tế quốc tế. Khi Việt Nam là thành viên của WTO, môi trường kinh doanh của ngành ngân hàng có sự thay đổi lớn, bởi chúng ta phải thực hiện những cam kết quốc tế theo lộ trình ký kết. Sẽ có nhiều ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại thị trường Việt Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng trong nước. Với sự thay đổi đó, ngành ngân hàng Việt Nam cũng được hưởng nhiều cơ hội. - Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, buộc ngân hàng Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị nợ tài sản nợ, tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng vào Việt Nam. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách, nâng cao năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp NHCT VN nói riêng và các NH Việt Nam nói chung học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước sẽ phải nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối với khách hàng. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực cho cả ngành ngân hàng VN phát triển về thị trường tài chính, phát triển nhiều loại hình dịch vụ mới. Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng, có điều kiện tiếp cận với các nhà kinh doanh nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng như tăng doanh thu hoạt động. Nếu nắm bắt cơ hội tốt, ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của mình trong các sàn giao dich tài chính quốc - Khoa học công nghệ ngày càng phát triển Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đặc biệt là công nghệ thông tin. Hệ thống kế toán máy, kế toán tài chính ngành ngân hàng ngày càng hiện đại. Đó là lợi thế để ngân hàng đi sau về công nghệ có thể đi tắt đón đầu trong sử dụng công nghệ. Tuy nhiên chi phí ban đầu cho việc này là rất lớn. - Môi trường pháp lý thuận lợi Mục tiêu hiện diện của ngân hàng nước ngoài ở nước ta trong thời điểm này thể hiện theo 2 xu hướng: đầu tư thương mại hoặc đầu tư thôn tính. Tuy nhiên, chiến lược này của ngân hàng nước ngoài đang bị "cánh cửa" cuối cùng ngăn cản, đó là các quy định chỉ cho phép các ngân hàng nước ngoài đầu tư không quá 50% vốn điều lệ của một ngân hàng trong nước và một ngân hàng nước ngoài không quá 10%. Với quy mô ngân hàng nội địa Việt Nam còn nhỏ, đầu tư theo kiểu thương mại thì không đáng kể đối với các "đại gia" như nước ngoài, nhưng để thôn tính thì tỷ lệ 50% là một trở ngại. Điều này tạo ra lợi thế về thời gian cho các ngân hàng trong nước, trong đó có cả NHCTVN, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong nước củng cố nội lực, tăng tốc độ phát triển. Có sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía Ngân hàng Trung ương. Nhiệm vụ của NHNN chủ yếu nhằm vào mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng, góp phần tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế - xã hội. NHNN dần chỉ thực hiện hoạt động mang tính chất vĩ mô, thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn, phù hợp với mở cửa thị trường tài chính. - Nhu cầu khách hàng về hoạt động ngân hàng rất lớn -> Khách hàng là doanh nghiệp NHCTVN là một ngân hàng truyền thống về thương mại, khách hàng của ngân hàng thường là những tập đoàn, tổng công ty lớn. Hiện tại, tốc độ phát triển thành lập các doanh nghiệp là rất lớn. Doanh nghiệp nào cũng cần có nhu cầu về các nghiệp vụ ngân hàng. Vì vậy NHCTVN cần có chính sách hợp lý đối với đối tượng khách hàng này. -> Khách hàng là những cá nhân: Theo nguồn số liệu của WB, số tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng đang tăng lên nhanh tróng; số tài khoản cá nhân hiện nây là hơn 6000 tài khoản. Tuy nhiên con số này chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với hơn 80 triệu dân Việt Nam. Trong tương lai con số này sẽ lớn hơn nhiều. Tất cả những yếu tố đó tạo ra cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng sản phẩm dịch vụ cho ngành ngân hàng. Tiềm năng về sản phẩm dịch vụ ngân hàng cá nhân là vô cùng lớn, phong phú và còn bỏ ngỏ. Không chỉ là thị trường trong nước, sự hội nhập còn tạo ra cho ngành ngân hàng Việt Nam cơ hội mở rộng thị trường ra nước ngoài theo các quy định của các cam kết quốc tế. Sự hội nhập tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước mở rộng ra thị trường nước ngoài thông qua các hình thức cung cấp dịch vụ trong khuôn khổ WTO, đặc biệt là hiện diện của thương mại và cung cấp qua biên giới. *Thách thức. - Đối thủ cạnh tranh mạnh Hội nhập đồng nghĩa với việc xoá bỏ hoàn toàn hàng rào bảo hộ từ phía nhà nước. Tất cả các ngân hàng trong và ngoài nước đều tham gia trên một sân chơi kinh doanh bình đẳng. Các ngân hàng nước ngoài thường mạnh về vốn, công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý, sản phẩm dịch vụ đa dạng làm cho áp lực cạnh tranh tăng dần. Họ sẽ thu hút khách hàng một cách đáng nể. Theo số liệu điều tra cuối năm 2005 của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) chỉ ra rằng: 45% khách hàng được hỏi, kể cả doanh nghiệp và cá nhân, đều trả lời sẽ chuyển sang vay vốn của ngân hàng nước ngoài chứ không vay vốn của ngân hàng trong nước; 50% số người còn lại lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại tệ. Như vậy, không chỉ riêng Ngân hàng Công thương Việt Nam mà các ngân hàng Việt Nam cũng phải cạnh tranh mạnh mẽ với các ngân hàng nước ngoài để thu hút khách hàng và có nguy cơ phải chia thị phần với các ngân hàng nước ngoài. Để có thể tồn tại và phát triển bền vững, Incombank cần chuẩn bị những bước đi ngay từ bây giờ. Khả năng sinh lời còn thấp hơn so với ngân hàng trong khu vực, do đó hạn về khả năng thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động nguồn vốn mới từ nhiều nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang đến một thách thức không nhỏ là làm thế nào để huy động vốn hiệu quả, do công nghệ lạc hậu, chất lượng dịch vụ chưa cao khó thu hút được khách hàng hơn trước. - Áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài. Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, từ ngày 01.04.2007, ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được phép thành lập. Sự kiện này tác động rất lớn tới ngành ngân hàng trong nước. Sau khi gia nhập WTO, nền tài chính ngân hàng Việt Nam đã và đang chấp nhận tham gia vào một thị trường tài chính toàn cầu, nơi thị trường không còn hạn chế về vị trí địa lý. Do đó, đầu tư cho công nghệ và đặc biệt là chuẩn hoá kiến thức công nghệ thông tin sẽ giúp ngân hàng vượt qua những thách thức của WTO. Các ngân hàng nước ngoài rất hạn chế giao dịch trực tiếp, khách hàng đều có thể ở xa mà vẫn có thể thực hiện cả một hệ thống dịch vụ tài chính đa dạng, phong phú và tiện lợi. Tình hình cũng xảy ra tương tự ở thị trường chứng khoán. Hoặc một vấn đề khác, là hệ thống chuẩn mực kế toán ngành ngân hàng hiện nay cân phải phù hợp với hạch toán của kiểm toán quốc tế. Có thể nói áp lực lớn nhất mà NHCTVN phải đối mặt đó chính là phải đổi mới công nghệ đáp ứng tình hình, điều kiện mới. Việc đổi mới công nghệ ngân hàng đòi hỏi phải có thời gian, đầu tư về mặt tài chính lớn nhưng nếu không đổi mới sẽ khó có thể phát triển bền vững. - Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán Một yếu tố quan trọng tác động đến sự cạnh tranh của ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO là việc hoàn thiện cơ chế chính sách về lĩnh vực ngân hàng. Không chỉ riêng lĩnh vực ngân hàng mà các lĩnh vực khác cũng rơi vào tình trạng thiếu một cơ chế chính sách đồng bộ và nhất quán đáp ứng được điều kiện mới. Thực trạng của hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam còn rất nhiều vấn đề chưa đáp ứng được những thay đổi của môi trường kinh doanh, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Nhiều cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng không phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Như vậy, xây dựng được cơ chế chính sách trong bối cảnh hội nhập đối với ngành ngân hàng cũng là một thách thức không nhỏ. - Trong quá trình hội nhập Incombank chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới Tất cả các ngân hàng tham gia thị trường chung đều chịu sự tác động của thị trường tài chính thế giới, không loại trừ NHCTVN. Hệ thống ngân hàng thế giới nói chung trong giai đoạn này có sự sụt giảm của lãi suất thế giới, dưới sự tác động của Cục dự trữ liên bang Mỹ trên 11 lần cắt giảm lãi suất ngăn chặn sự suy thoái nền kinh tế thì ngân hàng ở bên này địa cầu cung phải điều chỉnh lãi suất ngoại tệ theo. Làm sụt giảm huy động tiền gửi ngoại tệ. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng giao dịch về vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. - Khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước có năng lực yếu. Cũng như các NHTM khác,Vietinbank đầu tư nhiều vào doanh nghiệp nhà nước, trong khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng rất lớn. - Nguồn nhân lực. Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bền ngoài mà đến từ chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng. Vấn đề mà ngân hàng cần phải quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và các cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Hiện tại, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam gồm 32 ngân hàng liên doanh và 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đó là chưa kể đang có ít nhất 9 bộ hồ sơ xin thành lập ngân hàng mới của các ngân hàng ngoại. Vì vậy chưa bao giờ nhu cầu nhân lực của ngành ngân hàng lớn như hiện nay. Đồng thời, sự cạnh tranh lôi kéo, giữa các ngành ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động của ngành ngân hàng bị dội lên. Vì thiếu nguồn nhân lực, nhất là những ngân hàng mới ra buộc phải đẩy chi phí này lên, thậm chí sẽ dẫn đến sự cạnh tranh hỗn loạn trên thị trường nguồn nhân lực.Chảy máu chất xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Đòi hỏi ngân hàng phải có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân nhân viên giỏi. (**) Một số giải pháp cơ bản đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam - Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại ngân hàng, cải cách ngân hàng theo hướng nâng cao năn lực cạnh tranh quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh. Thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp. - Phát hành cổ phiếu mới để tăng thêm vốn tự có và nâng cao năng lực tài chính của mình. - Cần có một chiến lược kinh doanh trung và dài hạn, đặc biệt là chiến lược nhân sự và khách hàng. - Củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh, đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng - Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút được khách hàng trong nước. - Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm đảm bảo tính an toàn cho hệ thống và tạo niềm tin cho khách hàng, nâng cao thương hiệu của mình. (***) Kết luận Như vậy NHCTVN với lịch sử hình thành và hoạt động hơn 20 năm đã tạo cho mình những lợi thế về thị phần, mạng lưới giao dịch, đội ngũ nguồn nhân lực, nguồn vốn tương đối lớn… Tuy vẫn có những khó khăn, vướng mắc cần tháo tháo gỡ như công nghệ, hạn chế về trình độ quản lý, sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng…Nhưng với sự lãnh đạo của ban lãnh đạo NHCTVN, sự cố gắng của đội ngũ cán bộ nhân viên và sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, NHCTVN đã trở thành một trong bốn NHTM Việt Nam mạnh nhất hiện nay. Song với xu thế hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, ngành ngân hàng nói chung và NHCTVN nói riêng đều chịu những tác động không nhỏ từ môi trường bên ngoài. Xu hướng hội nhập này là tất yếu, nó mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức. Trong đó có cơ hội về học hỏi kinh nghiệm trình độ, kỹ năng quản lý, học hỏi về công nghệ, mở rộng thêm nhiều đối tác khách hàng, lĩnh vực và sản phẩm dịch vụ kinh doanh, có thể huy động thêm nguồn vốn từ bên ngoài… thì cũng có không ít những khó khăn, thách thức đặt ra. Những thách thức mà NH lo lắng nhất phải kể đến là đối thủ cạnh tranh là những ngân hàng nước ngoài có nguồn vốn lớn, hơn hẳn về trình độ quản lý, công nghệ ngân hàng lại có hệ thống dịch vụ phong phú đa dạng. Điều này dẫn đến nguy cơ các ngân hàng nước ngoài sẽ thu hút lượng khách hàng lớn về phía họ, đồng thời họ cũng có chế độ đãi ngộ nhân viên và mức lương hấp dẫn thì sẽ có các nhân viên đang làm trong ngân hàng Việt Nam chuyển sang làm cho họ. Để không bị thua ngay trên “sân nhà” thì ngay từ bây giờ NHCTVN phải chuẩn bị và hành động ngay những việc làm cần thiết như có định hướng chiến lược đúng đắn, thực hiện chương trình hiện đại hóa ngân hàng. Để thu hút và giữ chân khách hàng cũng như đội ngũ nhân viên giỏi. Có thể nói trong thời buổi cạnh tranh khó khăn như hiện nay thì ngân hàng nào có chiến lược đúng đắn, biết tận dụng cơ hội và biết cách đối phó với những thách thức sẽ thắng cuộc và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường tài chính ngân hàng thế giới. 3.2. Tích cực quảng bá về triết lý kinh doanh Truyền thông là một phương thức quan trọng vì là hoạt động nhằm cung cấp thông tin, giới thiệu hình ảnh của ngân hàng tới khách hàng. Để việc quảng bá triết lý kinh doanh có hiệu quả thì việc cung cấp thông tin phải tiến hành với cả ba đối tượng là nội bộ ngân hàng, giới truyền thông và khách hàng. - Đối với nội bộ ngân hàng: phổ biến nội dung triết lý kinh doanh cho toàn bộ cán bộ nhân viên (CBNV). Bởi hơn ai hết, CBNV là những người trực tiếp thực hiện triết lý kinh doanh trong hoạt động, nhiệm vụ cụ thể của họ đóng góp vào sự phát triển của ngân hàng. Nhiều CBNV là những người trực tiếp giao dịch với khách hàng vì vậy họ chính là những người truyền tải thông điệp của ngân hàng đế khách hàng. Hơn nữa, chính sự hiểu biết sâu sắc về triết lý kinh doanh giúp họ tích cực tham gia vào hoạt động quảng bá và hiểu về doanh nghiệp, tin vào đường lối mà doanh nghiệp đang theo. - Đối với giới truyền thông: Việc cung cấp thông tin cho báo giới cần chính xác, kịp thời, đầy đủ. Truyền thông ở đây có rất nhiều hình thức có thể thông qua các kênh truyền hình, đài, báo, internet, băng rôn, áp phích… - Đối với khách hàng: để khách hàng biết tới triết lý kinh doanh của ngân hàng ngoài việc thông qua chính nhân viên ngân hàng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng hoặcn thông qua giới truyền thông thì để khách hàng có thể biết và nhớ đến thì rất cần triết lý kinh doanh Qua đó có thể thấy hoạt động truyền thông sẽ góp phần quan trọng truyền tải hình ảnh và triết lý doanh nghiệp tới khách hàng. 3.3. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện “4 hoá”. Hiện tại NHCTVN đang đẩy mạnh việc thực hiện 4 hoá: hiện đại hoá - Cổ phần hoá - Chuẩn hoá các nghiệp vụ, quản trị ngân hàng và nhân sự cán bộ - Công khai minh bạch hoá, lành mạnh hoá tài chính, nhằm xây dựng thương hiệu NHCT đủ mạnh và hiện đại cạnh tranh với các ngân hàng khác. 3.4. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp riêng mang bản sắc Ngân hàng Công thương. Triết lý kinh doanh là trụ cột cốt lõi của văn hoá doanh nghiệp. Nên để xây dựng được triết lý kinh doanh thì cần phải xây dựng được môi trường văn hoá doanh nghiệp tốt. Trước tiên để xây dựng được phong cách văn hoá kinh doanh riêng có của NHCTVN, mỗi CBCNV cần phải phát huy tính sáng tạo, cần cù và lương tâm đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời, không ngừng nâng cao văn hoá ứng xử trong giao dịch cũng như thái độ, trách nhiệm của mình trước công việc và nhiệm vụ được giao nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng suất trong hoạt động kinh doanh. Văn hoá doanh nghiệp của Ngân hàng Công thương phải được thực hiện có các nhân tố sau: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực: CBNV Ngân hàng Công thương không chỉ là những người giỏi về chuyên môn nghiệp, ngoại ngữ, tin học mà còn có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Bên cạnh đó, mỗi CBNV phải đoàn kết để tạo thành sức mạnh tập thể, cùng gắn bó, hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, gia đình, xã hội Chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ: phải là những sản phẩm có chất lượng cao. Sản phẩm thẻ phải có đầy đủ các tính năng, tiện ích vượt trội, có tính bảo mật cao, an toàn, hiệu quả. Lãi suất tiền gửi và tiền vay cần linh hoạt để thu hút khách hàng (có thể áp dụng chương trình khuyến mại, dự thưởng hấp dẫn…). Tín dụng phải trở thành kênh hấp dẫn đối với khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tình hình tài chính lành mạnh và các khách hàng cá nhân vay để mua nhà,buôn bán nhỏ, mua ôtô, xe máy…; đồng thời thủ tục, hồ sơ cho vay phải đơn giản, gọn nhẹ, thẩm định chính xác nhưng phải đảm bảo tính nhanh tróng, tức thì. Phong cách giao tiếp ứng xử: Cán bộ NHCTVN nói chung phải thể hiện được nét đẹp trong giao tiếp với khách hàng và đồng nghiệp thể hiện qua hành vi lịch sự, văn minh, có tinh thần cầu thị. Ăn mặc lịch sự vẫn giữ được vẻ duyên dáng, văn minh và phải đeo logo, biển hiệu của NHCT. Cơ sở hạ tầng, trụ sở phải khang trang, sạch đẹp, lịch sự. Về hình dáng kiến trúc cảnh quan chi nhánh phải có mô hình giống hoặc gần giống với trụ sở chính. Phải có logo và tên NHCT cùng màu sắc, biểu tưởng, hình dáng để gây được ấn tượng cho khách hàng. Đó là xây dựng môi trường văn hoá doanh nghiệp hoà chung với bản săc văn hoá Việt Nam. Để xây dựng và phát huy sức mạnh triết lý kinh doanh, Ngân hàng cần thực hiện một số biện pháp cụ thể sau: Tổ chức thường xuyên các nghiên cứu về triết lý kinh doanh và đánh giá hiệu quả của việc thực hiện triết lý kinh doanh. Từ việc nghiên cứu và đánh giá đưa ra các điểm đã làm được và chưa làm được, những khó khăn, thuận lợi trong việc thực hiện từ đó đưa ra những chính sách kịp thời, hợp lý cho xây dựng và thực hiện triết lý kinh doanh. Ngân hàng triển khai các chiến lược Marketing và hoạt đông truyền thông nhằm khuyếch trương thương hiệu, thường xuyên tham gia các chương trình triển lãm, hội chợ, diễn đàn, tài trợ cho các hoạt động lớn qua đó lồng ghép giới thiệu về triết lý kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng Công thương Việt Nam sử dụng triết lý kinh doanh như một bệ đỡ tư tưởng cho văn hoá kinh hoá; nồng ghép nhiều nội dung, tinh thần của triết lý kinh doanh vào sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của ngân hàng như các chương trình phát triển nguồn nhân lực, phát triển dịch vụ… Lãnh đạo doanh nghiệp phải là người tích cực truyến bá triết lý kinh doanh ở trong và ngoài doanh nghiệp; đội ngũ cán bộ chủ chốt của ngân hàng cần là những người thực sự tôn trọng, gương mẫu thực hiện nó. KẾT LUẬN Triết lý kinh doanh có vai trò to lớn trong hoạt động kinh doanh hiện nay. Nó giúp cho doanh nghiệp có được định hướng rõ ràng về hoạt động, đồng thời là hình ảnh của doanh nghiệp trong khách hành và khẳng định mình trước đối thủ cạnh tranh. Triết lý kinh doanh ngày càng được xã hội hóa và mang tính khả thi hơn. Ở Ngân hàng Công thương Việt Nam, là một trong bốn ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất Việt Nam, đã xây dựng cho mình một bản triết lý kinh doanh để khẳng định thương hiệu và bản sắc NHCTVN. Với sự quan tâm của ban lãnh đạo, sự đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển để xây dựng triết lý và hình ảnh cho mình nên triết lý kinh doanh của NHCTVN mang nội dung phù hợp với xu hướng phát triển chung của ngành ngân hàng trong tương lai là hiện đại, hiệu quả cao, tin cậy hơn… đồng thời triết lý của ngân hàng cũng mang tính thực thi hơn, ngày càng gần gũi với khách hàng mà vẫn khẳng định tên tuổi, thương hiệu Ngân hàng Công thương trước đối thủ cạnh tranh. Trong môi trường mở cửa của Việt Nam hiện nay, ngành ngân hàng phát triển rất nóng, nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụng tài chính mới được thành lập, ngân hàng nước ngoài cũng nhảy vào cuộc đua thì yếu tố cạnh tranh càng trở nên gay gay hơn. Lúc này, NHCTVN ngoài việc chuẩn bị về các hoạt động kinh doanh tín dụng, truyền thông, quảng bá, tạo vốn… còn rất cần xây dựng cho mình một triết lý kinh doanh phù hợp với khách hàng, có tính thực thi cao, chống lại đối thủ cạnh tranh và phù hợp với chính sách, quy định của Nhà nước để định hướng chiến lược và như một bản tuyên bố sứ mệnh, khẳng định giá trị của NHCTVN. Việc xây dựng triết lý kinh doanh của NHCTVN đã được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm và xây dựng sửa đổi trong quá trình hoạt động. Quy trình xây dựng triết lý kinh doanh ở NHCTVN đòi hỏi phải được đầu tư hơn nữa. Nội dung của bản triết lý kinh doanh cũng phải được xem xét đặt trong sự tác động của các yếu tố môi trường bên trong, bên ngoài, môi trường ngành… để nó có thể phát huy được điểm mạnh, cơ hội từ môi trường và hạn chế được thách thức cũng như khắc phục được điểm yếu. Để làm được điều đó, NHCTVN phải đầu tư về cả tài chính và nhân lực cho hoạt động nghiên cứu xây dựng triết lý kinh doanh kết hợp với tuyên truyền phổ biến lấy ý kiến, sự xây dựng đóng góp của cán bộ nhân viên trong ngân hàng và khách hàng… DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bài giảng văn hóa kinh doanh _ Nxb Đại học kinh tế quốc dân. 2. Doanh nhân, nghiệp Việt Nam thời kỳ mới _ Phạm Chi Lan _ Thời báo kinh tế Việt Nam. 3. Giáo trình đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp _ Nxb Lao động xã hội. 4. Giáo trình: Khoa học quản lý I_ Nxb Khoa học kỹ thuật, 2004. 5. Tạp chí khoa học đào tạo ngân hàng tháng 1+2/2007, tháng 08/2006, tháng 1+2/2006. 6. Tạp chí Ngân hàng số 5, tháng 5/2006; số 24, tháng 12/2006; số 1,2 tháng 1/2007; số 16, tháng 8/2007. 7. Báo thị trường tài chính tiền tệ số 21, tháng 11/2006. 8. Triết lý và triết học của doanh nhân _ TG Phạm Huy Khuê _ Hội KTS Việt Nam. 9. Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp _ Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cương _ Nxb Hành chính Quốc gia. 10. Vai trò của nhà nước trong quản lý xây dựng văn hóa quản lý mới _ Th.s Đào Văn Bình _ Tạp chí cộng sản. 11. Văn hóa và kinh doanh _ Phạm Xuân Nam _ Nxb Khoa học xã hội. Và các website: www.chungta.com www.chinhphu.vn www.dddn.com.vn www.vneconomy.vn www.icb.com www.sbv.gov.vn BẢNG HỆ THỐNG CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT CBNV : cán bộ nhân viên NHCTVN : Ngân hàng Công thương Việt Nam NHNNVN : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHTM : Ngân hàng Thương mại NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần TLKD : triết lý kinh doanh MỤC LỤC BẢNG HỆ THỐNG CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1: hệ thống tổ chức của Ngân hàng Công Thương Việt Nam 38 Sơ đồ 2: Cơ cấu bộ máy và điều hành trụ sở chính 38 Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Sở giao dịch, Chi nhánh cấp 1, Chi nhánh cấp 2. 39 Sơ đồ 4: Tăng trưởng tài sản có, tài sản nợ NHCT qua các giai đoạn từ 1988 - 2003 40 Sơ đồ 5: Hoạt động thanh toán quốc tế 40 Sơ đồ 6: Dư nợ cho vay thời kỳ 1988 - 2003 41

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12350.doc
Tài liệu liên quan