Đặc điểm sinh trưởng của cá ngựa vằn (hippocampus comes cantor, 1850) in situ và ex situ ở vùng biển Khánh Hòa

Tốc độ tăng trưởng của cá ngựa thay đổi tùy theo mỗi đợt nuôi, phụ thuộc vào chất lượng cá bố mẹ, các yếu tố môi trường, dinh dưỡng., tuy nhiên, sự khác biệt so với cá ngựa là không quá lớn. Trong điều kiện nuôi nhân tạo, một số loài cá ngựa ở Việt Nam sinh trưởng khá nhanh nếu so với các loài cá kinh tế khác như cá mú (Epinephelus spp.), cá chẽm (Lates calcarifer). a. Tăng trưởng của cá ngựa vằn ex situ: Cá ngựa vằn mới đẻ có chiều cao dao động từ 7 - 9 mm, sau tháng nuôi đầu tiên cá đạt kích thước 42 - 45 mm. Cá giống 1 tháng tuổi, sau 3 tháng 13 ngày nuôi đạt kích thước 90 - 92mm, khối lượng 2 - 2,5 gam (hình 5 và 6). Như vậy, cá nuôi 4 tháng 13 ngày đạt chiều cao 90 - 92 mm, so với cá tự nhiên 6 tháng tuổi (lý thuyết) đạt 105,24 mm. Như vậy, không có sự khác biệt lớn về chiều cao của cá nuôi và cá tự nhiên. Kết quả này cho thấy điều kiện nuôi (môi trường sống, thức ăn, chế độ chăm sóc quản lý) là phù hợp với yêu cầu của cá ngựa vằn ở ngoài tự nhiên. b. Tương quan chiều cao và trọng lượng của cá nuôi: Tương tự như cá tự nhiên, có sự khác biệt giữa chiều cao và trọng lượng theo giới tính của cá nuôi. Hệ số mũ b của cá đực lớn hơn 3, cá cái nhỏ hơn 3, cùng một95 kích thước thì cá đực nặng hơn cá cái (hình 7), do cá đực mang trứng và phôi trong túi ấp. Điều này ngược với các loài cá kinh tế khác, cá cái thường nặng hơn cá đực. Đồng thuận với nhận xét này là ý kiến của Meeuwig và cs. (2003).

pdf9 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 580 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sinh trưởng của cá ngựa vằn (hippocampus comes cantor, 1850) in situ và ex situ ở vùng biển Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
89 Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2012, XVIII: 89 - 97 ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG CỦA CÁ NGỰA VẰN (Hippocampus comes Cantor, 1850) IN SITU VÀ EX SITU Ở VÙNG BIỂN KHÁNH HÒA Trương Sĩ Kỳ, Hoàng Đức Lư, Hồ Thị Hoa Viện Hải dương học Tóm tắt Mẫu nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng được thu thập từ tháng 04 năm 2008 đến tháng 11 năm 2008 ở vùng biển Khánh Hòa bằng lưới giã cào và lặn, tổng số mẫu phân tích là 583 mẫu. Kích thước cá khai thác dao động từ 65 mm - 160 mm, tập trung chủ yếu vào nhóm kích thước 110 mm - 140 mm. Tương quan chiều cao khối lượng cá có dạng hàm mũ W = 0,00000224 H3,102. Đây là loài cá không đồng sinh trưởng, có hệ số b > 3. Tính phương trình sinh trưởng von Bertalanffy theo tần số kích thước cá khai thác cho kết quả H∞ = 165,9 mm, k = 0,78. Cá ngựa vằn mới đẻ có chiều cao dao động từ 7 - 9 mm, trong tháng nuôi đầu tiên cá đạt kích thước 42 - 45 mm. Cá giống 1 tháng tuổi, sau 3 tháng 13 ngày nuôi đạt kích thước 90 - 92 mm, so với cá tự nhiên 6 tháng tuổi (lý thuyết) đạt 105,24 mm. Như vậy, không có sự khác biệt lớn về chiều cao của cá nuôi và cá tự nhiên GROWTH RATE OF TIGER TAIL SEAHORSE (Hippocampus comes Cantor, 1850) IN SITU AND EX SITU IN THE COASTAL WATERS OF KHANH HOA PROVINCE Truong Si Ky, Hoang Duc Lu, Ho Thi Hoa Institute of Oceanography Abstract 583 samples were collected from April 2008 to November 2008 in the coastal waters of Khanh Hoa province by diving and trawlers. Height of caught seahorse ranges between 65 - 160 mm, concentrated mainly at sizes of 110 - 140 mm. The correlation between mass and height was shown by exponential function W = 0.00000224 H 3,102 reflecting negative allometric growth. The von Bertalanffy growth parameters were estimated at H∞ = 165.9 mm, k = 0.78. Seahorse from the wild reaches 105.24 mm in height at 6 month age. The height of new born seahorse was 7 - 9 mm. After 4 month 13 days of growth culture (ex situ), seahorse reached 90 - 92 mm, so there is no big differences in growth rates of tiger tail seahorse in situ and ex situ. 90 I. MỞ ĐẦU Cá ngựa vằn phân bố ở miền Trung Việt Nam, chủ yếu ở những vùng có rạn san hô ở Khánh Hòa và Phú Yên. Đây là loài cá ngựa mới phát hiện từ năm 1998 (Trương Sĩ Kỳ, 1998, Lourie và cs., 1999), nên chưa có nghiên cứu nào được thực hiện cho đối tượng này. Đây cũng là loài cá có giá trị kinh tế cao, đồng thời nguồn lợi của chúng có nguy cơ bị giảm sút (Perante và cs., 1998). Cho đến nay, theo các tài liệu mà chúng tôi có được thì trên thế giới, chưa có ai nuôi được loài cá ngựa vằn (Foster và Vincent, 2004). Nghiên cứu về đặc điểm sinh học và phân loại loài cá này chưa nhiều. Năm 1996, Perante và cs. (1998) nghiên cứu đặc điểm sinh học của chúng ở đảo Jadayan (Philippines), kết quả cho thấy L∞ đạt 203 mm và hệ số tăng trưởng k = 1,7/năm. Đây là loài cá đẻ quanh năm, nhưng sản lượng khai thác cá con cao từ tháng 03 đến tháng 04. Cá trưởng thành bị khai thác nhiều ở rạn san hô, và hiện nay nghề cá đáy ven bờ đang là mối đe dọa cho nguồn lợi này (Morgan và Vincent, 2007). Các thông số sinh học của cá ngựa vằn ở Philippines được trình bày ở bảng 1. Mục tiêu của bài viết này là cung cấp các số liệu sinh trưởng in situ và ex situ làm cơ sở cho việc đánh giá nguồn lợi cá ngựa vằn. Số liệu về sinh trưởng ex situ sẽ phục vụ cho việc nuôi trồng loài cá quí hiếm này. Bảng 1. Các thông số sinh học của cá ngựa vằn ở Philippines (Perante và cs., 1998, 2002; Meeuwig và cs., 2003) Table 1. The biological parameters of tiger tail seahorse in Philippines (Perante et al., 1998, 2002; Meeuwig et al., 2003) Phân bố Trung Philippines, Singapore, Việt Nam và Malaysia Kích thước và khối lượng khai thác cực đại SL 205 mm, W 21g Tương quan chiều cao và chiều dài chuẩn SL(mm) =1,16*H +1,2 Khác biệt giới tính Cá đực có túi ấp và số mũ (b) trong phương trình W = a SLb lớn hơn cá cái Sinh cảnh Rạn san hô, san hô mềm, bọt biển, cỏ biển, Sargassum Độ sâu 0 - > 20 m Kích thước thành thục lần đầu SL 102 mm Mùa sinh sản Tháng 9 đến tháng 12 Khả năng ấp của cá đực (phôi) 223 - 758: trung bình 498 Thời gian ấp 14 - 21 ngày L∞ (von Bertalanffy) 260 mm Mức chết tự nhiên (M) 0,8 - 1,6 năm-1 Tuổi thọ 2,7 - 3,6 năm II. PHƯƠNG PHÁP Mẫu nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng được thu thập từ tháng 04 đến tháng 11 năm 2008 ở vùng biển Khánh Hòa, bằng lưới giã cào và lặn, tổng số mẫu phân tích là 583 mẫu. Phân tích sinh học theo phương pháp của Lourie và cs. (1999). Đo chiều cao của cá, sử dụng phần mềm FiSat để tính chiều cao vô cùng (H∞) và hệ số k trong phương trình sinh trưởng của von Bertalanffy, từ đó suy ra tuổi lý thuyết của cá theo công thức: Ht = H∞ (1 – exp {- k(t –to)} Ht: Chiều cao của cá k: Hệ số dị hóa protein t: Thời gian to: Tuổi lý thuyết khi chiều dài cá bằng 0 91 Tính phương trình tương quan chiều cao và khối lượng theo hàm W = a H b. Nghiên cứu sự tăng trưởng của cá nuôi được thực hiện trong hệ thống bể kính 60 lít, lặp lại 3 lần với mật độ nuôi 1con/2 lít. 10 ngày đo cá một lần với số lượng là 10 con cho mỗi bể. Phương pháp nuôi theo qui trình của Truong S. K. (2010). III. KẾT QUẢ 1. Kích thước cá khai thác: Kích thước cá khai thác dao động từ 65 mm - 160 mm, tập trung chủ yếu vào nhóm kích thước 110 mm - 140 mm. Do đặc thù về cách thức khai thác bằng nghề lặn, hầu hết cá đánh bắt đều có kích thước lớn, không thấy có cá nhỏ dưới 60 mm (hình 1). Không có sự chênh lệch đáng kể về chiều cao cá khai thác theo thời gian. Hầu hết cá bị khai thác đều đang tham gia sinh sản (Trương Sĩ Kỳ và cs., 2010), điều này ảnh hưởng đến khả năng bổ sung và phục hồi nguồn lợi của cá ngựa ở tự nhiên. 2.Tương quan chiều cao và trọng lượng: Tương quan chiều cao trọng lượng cá có dạng hàm W = 0,00000224 H 3,102 (hình 2). Đây là loài cá không đồng sinh trưởng, có hệ số b > 3. Tuy nhiên, phân tích mối tương quan này theo giới tính thì cá đực có hệ số b > 3 và cá cái thì ngược lại b < 3, (hình 3). 3. Các tham số của phương trình sinh trưởng von Bertalanffy: Tính phương trình sinh trưởng von Bertalanffy theo tần số kích thước cá khai thác (hình 4) cho kết quả H∞ = 165,9 mm, k = 0,78. Theo Peranter và cs. (1998), Meeuwig và cs. (2003) chiều dài vô cùng (L∞) của cá ngựa vằn là 203 mm - 205 mm và hệ số tăng trưởng k = 1,7/năm. Sự khác biệt này là do các tác giả này tính chiều dài chuẩn (SL), thường dài hơn chiều cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy kích thước cực đại của cá ngựa vằn ở Việt Nam nhỏ hơn so với cùng loài ở Philippines. Phân tích sự khác biệt này không được trình bày ở đây vì chưa đủ cơ sở số liệu của loài cá này ở Philippines. Có khả năng, sự khai thác quá mức cá ngựa vằn ở Việt Nam là một trong những nguyên nhân dẫn đến kích thước cực đại của cá ở nước ta nhỏ hơn kích thước cá cực đại ở Philippines. 4. Tuổi lý thuyết của cá ngựa: Dựa vào phương trình sinh trưởng ở trên, có thể tính được tuổi của cá ngựa như sau: cá 1+ có chiều cao đạt 144 mm, cá 2+ có chiều cao là 163 mm (bảng 2). Chiều cao cá 2 năm tuổi đạt gần kích thước cực đại. Có thể thấy đây là loài cá có vòng đời ngắn, thành thục sớm, đặc trưng cho cá biển nhiệt đới. Nếu so sánh kết quả này với tăng trưởng của cá nuôi thì không có sự khác biệt nhiều (Mục III.5). 92 11/2008 0 10 20 30 65- 70 71- 75 76- 80 81- 85 86- 90 91 - 95 96 - 100 101- 105 106- 110 111- 115 116- 120 121- 125 126- 130 131- 135 136- 140 141- 145 146- 150 151- 155 156- 160 % Nhóm kích thước (mm) Hình 1. Tần số kích thước cá khai thác theo thời gian Fig. 1. Temporal frequency of exploited fish size 4/2008 0 10 20 30 % 5/2008 0 10 20 30 % 7/2008 0 10 20 30 % 8/2008 0 10 20 30 % 9/2008 0 10 20 30 % 10/2008 0 10 20 30 % 93 W = 0.00000224H3.10209387 R2 = 0.91747745 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 50 70 90 110 130 150 170 Chiều cao (mm) W (g) Hình 2. Tương quan chiều cao và trọng lượng của cá ngựa vằn Fig. 2. Correlation of height and weight of tiger tail seahorse yd = 0.0000013x3.2228238 yc = 0.0000055x2.9012702 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 60 80 100 120 140 160 180 Cái Đực W (g) H (mm) Hình 3. Tương quan chiều cao trọng lượng của cá đực (yd) và cá cái (yc) Fig. 3. Correlation of height and weight of male fish (yd) and female fish (yc) 94 Hình 4. Đồ thị sinh trưởng von Bertalanffy theo tần số chiều cao cá khai thác Fig. 4. The growth graph von Bertalanffy according to the lenght frequency of exploited fish Bảng 2. Tuổi lý thuyết cá ngựa vằn Table 2. Theoretic age of tiger tail seahorse Tuổi H (mm) 0,5 105,24 1,0 143,76 1,5 157,86 2,0 163,02 5. Tăng trưởng của cá ngựa nuôi: Tốc độ tăng trưởng của cá ngựa thay đổi tùy theo mỗi đợt nuôi, phụ thuộc vào chất lượng cá bố mẹ, các yếu tố môi trường, dinh dưỡng..., tuy nhiên, sự khác biệt so với cá ngựa là không quá lớn. Trong điều kiện nuôi nhân tạo, một số loài cá ngựa ở Việt Nam sinh trưởng khá nhanh nếu so với các loài cá kinh tế khác như cá mú (Epinephelus spp.), cá chẽm (Lates calcarifer). a. Tăng trưởng của cá ngựa vằn ex situ: Cá ngựa vằn mới đẻ có chiều cao dao động từ 7 - 9 mm, sau tháng nuôi đầu tiên cá đạt kích thước 42 - 45 mm. Cá giống 1 tháng tuổi, sau 3 tháng 13 ngày nuôi đạt kích thước 90 - 92mm, khối lượng 2 - 2,5 gam (hình 5 và 6). Như vậy, cá nuôi 4 tháng 13 ngày đạt chiều cao 90 - 92 mm, so với cá tự nhiên 6 tháng tuổi (lý thuyết) đạt 105,24 mm. Như vậy, không có sự khác biệt lớn về chiều cao của cá nuôi và cá tự nhiên. Kết quả này cho thấy điều kiện nuôi (môi trường sống, thức ăn, chế độ chăm sóc quản lý) là phù hợp với yêu cầu của cá ngựa vằn ở ngoài tự nhiên. b. Tương quan chiều cao và trọng lượng của cá nuôi: Tương tự như cá tự nhiên, có sự khác biệt giữa chiều cao và trọng lượng theo giới tính của cá nuôi. Hệ số mũ b của cá đực lớn hơn 3, cá cái nhỏ hơn 3, cùng một 95 kích thước thì cá đực nặng hơn cá cái (hình 7), do cá đực mang trứng và phôi trong túi ấp. Điều này ngược với các loài cá kinh tế khác, cá cái thường nặng hơn cá đực. Đồng thuận với nhận xét này là ý kiến của Meeuwig và cs. (2003). 30 40 50 60 70 80 90 100 110 19/4/2007 4/5/2007 19/5/2007 3/6/2007 18/6/2007 3/7/2007 18/7/2007 2/8/2007 Bể 1 Bể 2 Bể 3 Thời gian C hi ều c ao (m m ) Hình 5. Tăng trưởng về chiều cao của cá trong điều kiện nuôi thí nghiệm Fig. 5. The fish height in the condition of experimental culture 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 19/4/2007 4/5/2007 19/5/2007 3/6/2007 18/6/2007 3/7/2007 18/7/2007 2/8/2007 Bể 1 Bể 2 Bể 3 Tr ọn g lư ợ ng (g ) Thời gian Hình 6. Tăng trưởng về trọng lượng của cá trong điều kiện nuôi thí nghiệm Fig. 6. The fish weight in the condition of experimental culture 96 y2 = 9E-06x2.7703 R2 = 0.8565 y1 = 2E-06x3.1576 R2 = 0.9245 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 4.5 5 60 70 80 90 100 110 120 Đực Cái y1: Đực y2: Cái Kích thước (mm) Khối lượng (g) Hình 7. Tương quan chiều dài và khối lượng của cá nuôi Fig. 7. Correlation between the length and mass of fish IV. KẾT LUẬN Kích thước cá ngựa vằn khai thác tự nhiên dao động từ 65 mm - 160 mm, tập trung chủ yếu vào nhóm kích thước 110 mm - 140 mm. Hầu hết cá bị khai thác đều đang tham gia sinh sản, điều này ảnh hưởng đến khả năng bổ sung và phục hồi nguồn lợi của cá ngựa ở tự nhiên. Tương quan chiều cao khối lượng cá có dạng W = 0,00000224 H3,102. Đây là loài cá không đồng sinh trưởng, có hệ số b > 3. Tuy nhiên, phân tích mối tương quan này theo giới tính thì cá đực có hệ số b > 3 và cá cái thì ngược lại b < 3. Tính phương trình sinh trưởng von Bertalanffy theo tần số kích thước cá khai thác cho kết quả H∞ = 165,9 mm, k = 0,78. Cá 1 năm tuổi đạt chiều cao 144mm, cá 2+ có chiều cao là 163 mm và đạt gần kích thước cực đại. Cá nuôi khoảng 4 tháng 13 ngày tuổi đạt chiều cao 90 - 92 mm, so với cá tự nhiên 6 tháng tuổi (lý thuyết) đạt 105 mm. Như vậy, không có sự khác biệt lớn về chiều cao của cá nuôi và cá tự nhiên. LỜI CÁM ƠN Nhân đây, xin cám ơn ban chủ nhiệm chương trình đề tài nhà nước Cá cảnh KC 06.05/06-10 đã tạo điều kiện để chúng tôi thực hiện các nội dung nghiên cứu này. Chúng tôi cám ơn KS. Hứa Thái Tuyến đã xử lý số liệu và tính toán phương trình sinh trưởng cho bài báo này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Foster S. J. & A. C. J. Vincent, 2004. Life history and ecology of seahorses. The Fisheries Society of the British Isles, Journal of Fish Biology, 65: 1 - 61. Lourie S. A., J. C. Pritchard, S. P. Casey, T. S. Ky, H. J. Hall, A. C. J. Vincent, 1999. The taxonomy of Vietnam’s exploited seahorses (family Syngna- thidae). Biological Journal of the Linnean Society, 66: 231 - 256. Meeuwig J., M. A. Samoilys, J. Erediano, H. Hall, 2003. Fishers' perceptions on the seahorse fishery in Central Philippines: Interactive approaches and an evaluation of results. In: Putting 97 Fishers' Knowledge to Work. Haggan, N., Brignall, C. and Wood, L. (eds). FCRR, 11(1): 188 - 204. Morgan S. K. and A. C. Vincent, 2007. The ontogeny of habitat associations in the tropical tiger tail seahorse Hippocampus comes Cantor 1850. Journal of Fish Biology, 71: 701 - 724. Perante N. C., A. C. J. Vincent, M. G. Pajaro, 1998. Demographics of the seahorse Hippocampus comes in the Central Philippines. In Proceedings of the 3rd International Conference on the Marine Biology of the South China Sea, pp. 439 - 448. Hong Kong, China: Hong Kong University Press. Perante N. C., M. G. Pajaro, J. J. Meeuwig, A. C. J. Vincent, 2002. Biology of a seahorse species Hippocampus comes in the Central Philippines. Journal of Fish Biology, 60: 821 - 837. Trương Sĩ Kỳ, 1998. Thành phần loài cá ngựa ở biển Việt Nam. Tuyển tập nghiên cứu biển. Tập VIII: 154 - 165. Trương Sĩ Kỳ, Hoàng Đức Lư, Hồ Thị Hoa và Nguyễn Thị Nga, 2010. Đặc điểm sinh học sinh sản cá ngựa vằn (Hippocampus comes, Cantor 1850) ở vùng biển Khánh Hòa. Tuyển tập Nghiên cứu Biển. Tập XVII: 90 - 98. Truong S. K., 2010. Cultured aquatic species information programme Hippocampus comes (Cantor, 1850). www.fao.org. Người nhận xét: - TS. Nguyễn Văn Long - TS. Huỳnh Minh Sang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf10_truong_si_ky_trang_89_97_4942_2070867.pdf