Đề án Chế độ pháp lý về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: quá trình phát triển, thực trạng và giải pháp hoàn thiện

- Vì vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới. Doanh nghiệp Nhà Nước luôn tồn tại ở các quốc gia và tỷ lệ doanh nghiệp Nhà Nước trong nền kinh tế ở các quốc gia đó luôn thay đổi. Vấn đề không phải là tỷ lệ doanh nghiệp Nhà Nước trong nền kinh tế cao hay thấp mà là các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động kém hiệu quả nên phải đổi mới quản lý để doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động có hiệu quả. Do đó cổ phần hoá chỉ là một trong các biện pháp đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà Nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước làm cho các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động có hiệu quả hơn.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chế độ pháp lý về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: quá trình phát triển, thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế khan hiếm. Doanh nghiệp Nhà Nước nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Nhưng phần lớn các doanh nghiệp này làm ăn kém và không có hiệu quả. -Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà Nước và doanh nghiệp Nhà Nước đều không rõ ràng. Nhà Nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm, tổng số doanh nghiệp của mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp. -Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu cổ phần hoá còn xuất phát từ việc cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác trong quá trình hội nhập doanh nghiệp Nhà Nước không những phải cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh ở nước ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà Nước giữ độc quyền cho các doanh nghiệp của mình. Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thi trường đặt dấu chấm hỏi lớn cho các doanh nghiệp Nhà Nước.Cho nên việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước là sự cần thiết, là yêu cầu cấp thiết đối với doanh nghiệp Nhà Nước. 2. Một số khái niệm. 2.1. Doanh nghiệp Nhà Nước - Doanh nghiệp Nhà Nước là tổ chức kinh tế do Nhà Nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thưc công ty Nhà Nước, công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn. - Doanh nghiệp Nhà Nước gồm: + Công ty Nhà Nước : Là doanh nghiệp do Nhà Nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng kí hoạt động theo quy định của pháp luật. + Công ty cổ phần Nhà Nước : Là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty Nhà Nước hoặc tổ chức được Nhà Nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp. + Công ty trách nhiệm hữu han Nhà Nước có hai thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty Nhà Nước và thành viên khác được Nhà Nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp. 2.2. Công ty cổ phần : Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng nhau quản lý công ty, cùng nhau chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ và trách nhiệm về các khoản nợ tương ứng với phần góp vốn trong doanh nghiệp. 2.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước: Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước là quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần. 3. Quả trình phát triển, thực trạng của chế độ cổ phần hoá ở nước ta. Mặc dù Đảng và Nhà Nước có chủ trương rất sớm về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước và đã được cụ thể hoá bằng những thông tư, nghị định, quyết định, đồng thời có thí điểm trước khi tiến hành rộng rãi, nhưng kết quả rất khiêm tốn. Nếu tính từ năm 1992 đến năm 1997 cả nước cổ phần hoá được 15 doanh nghiệp. Chỉ sau khi Chính Phủ ban hành nghị định số 44/NĐ-CP năm 1998 thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước mới có bước tiến nhanh, mà đỉnh cao là năm 1999 đã cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp, sau đó lại có xu hướng giảm dần. Năm 2002 Chính Phủ ban hành nghị định số 64/NĐ-CP và một loạt thông tư hướng dẫn thực hiện song cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước vẫn tiến triển rất chậm. Đến năm 2003 cổ phần hoá được 536 doanh nghiệp Nhà Nước. Dù chưa có công trình nào đánh giá một cách toàn diện song các đánh giá đưa ra đều cho thấy nhìn chung doanh nghiệp Nhà Nước sau cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả và kết quả cao hơn so với trước khi cổ phần hoá. Thành công lớn nhất đối với các doanh nghiệp này là mục tiêu tăng vốn Nhà Nước, huy động thêm vốn xã hội để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đã thực hiện được. Cùng với quá trình cổ phần hoá ngày càng có nhiều công nhân viên chức trở thành chủ nhân có sở hữu cổ phần ở các doanh nghiệp Nhà Nước đã cổ phần hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp đã đạt được những kết quả sau khi cổ phần hoá thì còn có những bất cập nảy sinh mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp này chưa được ban hành đồng bộ hoặc chưa phù hợp với thực tế mà nhận thức sai lệch, thiếu đầy đủ về công ty cổ phần. Giải pháp hoàn thiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Thứ nhất : Cần rà soát lại các tiêu chí, danh mục phân loại sắp xếp doanh nghiệp Nhà Nước và tổng công ty Nhà Nước được quy định tại quyết định số 58/2002 – QĐ - TTg ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ để mở rộng đối tượng các DNNN thực hiện chuyển đổi sở hữu. Theo đó Nhà Nước chỉ nên giữ các DNNN có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến an ninh quốc phòng, phục vụ quốc kế dân sinh; hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền như sản xuất cung ứng vật liệu nổ; sản xuất cung ứng hoá chất độc; sản xuất cung ứng chất phóng xạ; trong một số lĩnh vực quan trọng như hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế; các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động kinh doanh ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn chiến lược quan trọng....; các DNNN hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù như các nhà xuất bản, sách báo chính trị,....; DNNN hoạt động công ích, một số doanh nghiệp hoạt động có tính chất đặc thù thì theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Thứ hai : Sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 64 ngày 19/6/2002 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần và Nghị định 41 của Chính phủ ngày 11/4/2002 vể chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà Nước. Theo chúng tôi, những nội dung cần được sửa đổi nghiên cứu là : Về đối tượng cổ phần hoá: Cần sửa đổi theo hướng mở rộng đối tượng cổ phần hoá, không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với Nhà Nước, trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp lớn, các Tổng công ty Nhà Nước hoạt động trên các lĩnh vực như điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, xi măng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm..... Về hình thức cổ phần hoá : Ngoài các hình thức đã quy định, cần nhấn mạnh hình thức cổ phần hoá theo hướng giữ nguyên giá trị, phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn từ bên ngoài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp, Tổng công ty có nhu cầu đầu tư để phát triển và có nhu cầu tăng vốn lớn. Về quy định đấu giá cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp: Theo quy định hiện hành thì người lao động trong doanh nghiệp ngoài số cổ phiếu được mua theo giá ưu đãi còn được mua cổ phiếu theo giá sàn. Quy định này cần được sửa đổi để khắc phục tình trạng cổ phần hoá trong nội bộ doanh nghiệp theo hướng: tổng cổ phần của công ty sau khi trừ số cổ phần nhà nước nắm giữ, số cổ phần bán ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp, số còn lại được bán đấu giá công khai. Bỏ quy định người lao động được mua cổ phiếu theo giá sàn. Đồng thời, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhằm góp phần phát triển thị trường chứng khoán, phù hợp với tinh thần nghị quyết trung ương là huy động thêm vốn xã hội vào doanh nghiệp để phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần có quy định việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải gắn với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Về xác định giá trị quyền sử dụng đất trong doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá: Nghị quyết trung ương III cho phép thí điểm tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Nhưng do chưa sửa luật đất đai và thực tế trong cơ chế quản lý đất đai hiện tại còn có nhiều vấn đề bất cập giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá nên nghị định số 64/CP chưa đưa quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp.Trong khi đó, hiện nay các địa phương đang sử dụng khung giá đất do Chính phủ ban hành năm 1994 nên không sát với thực tế và quá thấp so với giá thị trường. Vì vậy, đề nghị trước mắt nếu chưa điều chỉnh khung giá đất có thể căn cứ vào giá thị trường để xác định giá trị quyền sử dụng đất trong xác định giá trị doanh nghiệp. Về cơ chế tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp và tổ chức đấu giá cổ phần: Nhằm đẩy nhanh việc thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp và hạn chế sự tham gia của cơ quan hành chính Nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch và tính chuyên nghiệp trong hoạt động đấu giá, định giá và gắn cổ phần hoá với việc niêm yết chứng khoán để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, Nhà nước cần khuyến khích hoạt động định giá và đấu giá bán cổ phần thông qua định chế trung gian (chỉ thành lập hội đồng đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính phức tạp hoặc có giá trị lớn hoặc có tính đặc thù). Đối với doanh nghiệp có quy mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đủ điều kiện niêm yết thì tổ chức bán cổ phần qua thị trường chứng khoán đồng thời gắn với việc thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán. II. Mục tiêu, đối tượng áp dụng, hình thức, nội dung cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước : 1. Mục tiêu, đối tượng áp dụng, hình thức cổ phần hoá : 1.1. Mục tiêu: - Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng hiệu quả vốn, tài sản của Nhà Nước và của doanh nghiệp. - Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm : Cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. - Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư với doanh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà Nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động. 1.2. Đối tượng áp dụng: - áp dụng đối với những doanh nghiệp Nhà Nước và các đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp được quy định tại điều 1 Luật doanh nghiệp Nhà Nước(trừ những doanh nghiệp Nhà Nước cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ) không phụ thuộc vào thực trạng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Việc cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc vào các doanh nghiệp quy định ở trên chỉ được tiến hành khi: +Đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch toán độc lập. +Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp. - Những doanh nghiệp hạch toán độc lập thuộc đối tượng ở trên có vốn Nhà Nước trên sổ sách kế toán Nhà Nước dưới 5 tỉ VNĐ nếu không cổ phần hoá được thì thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê theo quy định của pháp luật. 1.3. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước: - Giữ nguyên vốn Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. - Bán một phần vốn Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp. - Bán toàn bộ vốn Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp. - Thực hiện bán toàn bộ vốn Nhà Nước hoặc một phần vốn của Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp với phát hành cổ phiếu thu thêm vốn. 1.4. Những doanh nghiệp được tiến hành cổ phần hoá: a. Những công ty khi tiến hành cổ phần hoá Nhà Nước nắm giữ trên 50% cổ phần. - Những công ty có vốn Nhà Nước từ 20 tỉ VNĐ trở lên, mức nộp ngân sách Nhà Nước bình quân 3 năm liền kề từ 2 tỉ VNĐ trở lên, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực sau đây: + Chế biến dầu mỏ. + Khai thác quặng có chất phóng xạ. + Đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường không. + In sách, báo chính trị. + Bán thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, hoá dược. + Bán buôn lương thực. + Bán buôn xăng dầu. +Vận tải đường không, đường sắt. +Sản xuất điện. + Khai thác các khoáng sản quan trọng: than, bôxit, quặng đồng, quặng sắt, quặng thiếc, vàng, đá quý. +Sản xuất cơ khí: thiết bị kỹ thuật điện và vật liệu điện, máy công nghiệp chuyên dùng, máy móc, thiết bị phục vụ nông, lâm, ngư nghiệp, đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường sông, đường sắt. +Cung cấp hạ tầng mạng viễn thông. +Sản xuất kim loại đen: gang, thép trên 100.000 tấn/ năm. +Sản xuất xi măng công nghệ hiện đại, chất lượng cao, có công suất thiết kế 1,5 triệu tấn/năm. +Sản xuất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật. +Sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm: muối ăn, sữa, bia trên 50 triệu lít/năm. +Khai thác, lọc và cung cấp nước sạch của các thành phố lớn. +Vận tải đường biển. +Kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm. - Những công ty khác. + Sản xuất giấy, cây trồng, vật nuôi và tinh đông. + Dịch vụ đánh bắt cá, hải sản xa bờ. + Quản lý bảo trì hệ thống đường bộ, đường thuỷ quan trọng. + Quản lý khai thác các công trình thuỷ nông. + Dịch vụ hợp tác lao động. + Kinh doanh mặt bằng hỗ trợ triển lãm. b. Những công ty không thuộc ở trên : Những công ty không thuộc ở trên khi tiến hành cổ phần hoá, cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền căn cứ vào những trường hợp cụ thể, quyết định việc Nhà Nước giữ cổ phần ở mức thấp hoặc không giữ cổ phần. 2. Nội dung cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước : 2.1. Những vấn đề về cổ phần, cổ phiếu, cổ đông sáng lập, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cổ phần. a. Cổ phần: - Là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty. Giá trị mỗi cổ phần do công ty quyết định và ghi vào cổ phần. - Cổ phần của công ty gồm hai loại: Cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm. + Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Là cổ phần có só phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ của công ty quy định. + Cổ phiếu ưu đãi cổ tức : Là cổ phần được trả với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức được chia hàng năm bao gồm cổ tức cố định và cổ tức thường. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. + Cổ phần ưu đãi hoàn lại: là cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ lúc nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo điều kiện ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. + Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định. b. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần. - Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân người nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần ở các doanh nghiệp Nhà Nước, kể cả người Việt Nam (nhà đầu tư nước ngoài) - Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân người Việt Nam ở trong nước(nhà đầu tư trong nước). - Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần ở các doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá phải mở tài khoản tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Mọi hoạt động mua bán cổ phần, nhân, sử dụng cổ tức và các khoản thu khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải thông qua tài khoản này. c. Quyền được mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. - Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều có quyền mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá với số lượng không hạn chế nhưng phải đảm bảo các quy định hiện hành của Nhà Nước về số lượng, cổ đông tối thiểu, cổ phần chi phối của Nhà Nước tại các doanh nghiệp mà Nhà Nước nắm giữ cổ phần chi phối. -Các nhà đầu tư nước ngoài được mua số lượng cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điều lệ của các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề do Thủ Tướng quy định. d. Cổ phiếu và cổ đông sáng lập. - Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của cổ đông đóng góp vốn trong công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên nhưng phải có đủ nội dung chủ yếu quy định tại điều 59 của Luật doanh nghiệp. Bộ tài chính hướng dẫn mẫu cổ phiếu thống nhất để các doanh nghiệp in và quản lý theo quy định. - Cổ đông sáng lập của doanh nghiệp cổ phần hoá là những cổ đông có đủ các điều kiện sau. +Tham gia thông qua điều lệ lần đầu của công ty cổ phần. + Cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. +Sở hữu số lượng cổ phần bảo đảm mức tối thiểu theo điều lệ quy định của công ty. e. Quyền và nghĩa vụ của công ty cổ phần hoá. - Doanh nghiệp cổ phần hoá có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số lượng lao động có tại thời điểm cổ phần hoá và giải quyết các chế độ theo quy định bộ luật hiện hành. Công ty cổ phần có trách nhiệm thừa kế mọi nghĩa vụ đối với người lao động từ doanh nghiệp Nhà Nước chuyển sang, có quyền tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao động và phối hợp với cơ quan chức năng giải quyết chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật hiện hành. - Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản tiền vốn đã cổ phần hoá để tổ chức sản xuất kinh doanh, kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà Nước trước khi cổ phần hoá và có quyền và nghĩa vụ khác theo pháp luật hiện hành. - Doanh nghiệp thành viên của tổng công ty Nhà Nước cổ phần hoá mà Nhà Nước giữ cổ phần chi phối (trên 50% vốn điều lệ) thì vẫn là thành viên của tổng công ty. f. Bảo hộ của Nhà Nước đối với chủ đầu tư. Quyền sở hữu và mọi quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước mua cổ phần tại các doanh nghiệp cổ phần hoá được nhà nước bảo hộ theo quy định của pháp luật. 2.2. Xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá: 2.2.1. Xử lý tài chính : a. Tài sản thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không cần dùng, tài sản được đầu tư bằng Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi. Trước khi tiến hành cổ phần hoá, doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê, phân loại và chủ động xử lý theo quy định sau: - Đối với tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết với các tài sản khác không phải tài sản của doanh nghiệp : Doanh nghiệp phải thanh lý hợp đồng hoặc thoả thuận với chủ sở hữu tài sản để công ty cổ phần kế thừa các hợp đồng đã kí trước đây hoặc kí lại các hợp đồng mới. - Đối với những tài sản của doanh nghiệp không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý: Doanh nghiệp thanh lý nhượng bán hoặc báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để điều chuyển cho đơn vị khác theo quy định hiện hành. Trường hợp đến thời điểm cổ phần hoá chưa kịp xử lý thì không tính vào giá trị của doanh nghiệp và uỷ quyền cho công ty cổ phần tiếp tục bảo quản, xử lý hoặc chuyển cho tổ chức của Nhà Nước có chức năng tiếp nhận giải quyết. - Đối với những tài sản thuộc công trình phúc lợi, nhà trẻ, mẫu giáo, bệnh xá và các tài sản phúc lợi đầu tư bằnng nguồn Quỹ khen thưởng. Quỹ phúc lợi thì chuyển giao cho tập thể người lao động trong công ty cổ phần quản lý thông qua tổ chức công đoàn. Riêng đối với nhà ở của cán bộ, công nhân viên kể cả nhà ở được đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà Nước thì chuyển giao cho cơ quan nhà đất của địa phương để quản lý hoặc bán cho người đang sử dụng theo quy định hiện hành. - Đối với tài sản đang dùng trong sản xuất kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng.Quỹ phúc lợi thì chuyển giao cho tập thể người lao động trong công ty cổ phần quản lý, sử dụng thông qua tổ chức công đoàn. Riêng đối với nhà ở của cán bộ, công nhân viên nên kể cả nhà ở được đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước thì chuyển giao cho cơ quan nhà đất của địa phương để quản lý hoặc bán cho người đang sử dụng theo quy định hiện hành. - Đối với tài sản đang dùng trong sản xuất kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp thì tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá và chuyển thành cổ phần thuộc sở hữu của người lao động trong doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá theo thời gian thực tế đã làm việc của từng người tại doanh nghiệp. b. Các khoản nợ phải thu. Doanh nghiệp có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, thu hồi và sử lý các khoản nợ phải thu trước khi cổ phần hoá theo chế độ hiện hành. Trường hợp đến thời điểm cổ phần hoá còn tồn đọng nợ phải thu khó đòi thì xử lý như sau: - Đối với các khoản nợ đã có đủ chứng cứ là không có khả năng thu hồi, không xác định được trách nhiệm cá nhân, tổ chức thì dùng nguồn dự phòng để bù đắp, nếu thiếu thì phần chênh lệch được trừ vào kết quả kinh doanh, giảm lãi tại thời điểm cổ phần hoá. Trường hợp các nguồn thu không đủ bù thì phần chênh lệch trừ vào phần vốn Nhà nước tại doanh nghệp trước khi cổ phần hoá. - Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi do nguyên nhân chủ quan và đã quy định trách nhiệm thì xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức để bồi thường. Phần tổn thất sau khi đã trừ phần thu hồi được thì xử lý theo quy định của pháp luật. - Đối với các khoản nợ phải thu đã qúa hạn thanh toán từ 3 năm trở lên, con nợ đang tồn tại nhưng không có khả năng trả nợ, doanh nghiệp đã áp dụng nhiều giải pháp nhưng vẫn không thu hồi được thì xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với các khoản nợ phải thu quá hạn thì doanh nghiệp có thể bán cho các tổ chức kinh tế có chức năng mua bán nợ. Theo phần tổn thất từ việc bán nợ được xử lý theo quy định của pháp luật. c. Các khoản nợ phải trả: - Các doanh nghiệp phải huy động các nguồn để thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả trước khi thực hiện cổ phần hoá hoặc thoả thuận thêm với các chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần. - Việc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần được xác định thông qua kết quả đấu giá bán cổ phần hoặc do doanh nghiệp và chủ nợ thoả thuận nhưng không thấp hơn giá bán cổ phần cho các đối tượng khác ngoài doanh nghiệp. - Trường hợp doanh nghiệp có khó khăn về khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn thì xử lý như sau: + Đối với các khoản nợ thuế và nợ ngân sách : doanh nghiệp được khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ hoặc hỗ trợ vốn đầu tư theo quy định của Chính Phủ. + Đối với các khoản nợ đọng vay Ngân hàng thương mại: doanh nghiệp thoả thuận với ngân hàng cho vay để được giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ, giảm lãi xuất vay hoặc chuyển vốn vay thành vốn góp cổ phần. Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm xử lý các khoản nợ đọng theo quy định hiện hành. Đối với các khoản nợ nước ngoài có bảo hành thì người bảo lãnh và doanh nghiệp phải thoả thuận với chủ nợ để khoanh nợ,giãn nợ, giảm nợ và bố trí nguồn để trả nợ, nếu không thoả thuận được, người bảo lãnh phải trả nợ cho chủ nợ. Và trách nhiệm hoàn trả cho người bảo lãnh hoặc thoả thuận với người bảo lãnh chuyển thành vốn góp trong công ty cổ phần. Đối với các khoản nợ nước ngoài do doanh nghiệp tự vay không có bảo lãnh thì doanh nghiệp có trách nhiệm bố trí nguồn để thanh toán hoặc thoả thuận với chủ nợ để xử lý hoặc chuyển nợ thành vốn góp trong công ty cổ phần theo quy định của pháp luật. d. Các khoản dự phòng và lãi chưa phân phối: Các khoản nợ dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi, giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá, dự phòng trợ cấp việc làm, dự phòng tài chính,...Và các khoản lãi chưa phân phối phải được xử lý theo quy định hiện hành trước khi xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Kết hợp doanh nghiệp còn số lỗ luỹ kế của các năm trước thì được dùng thu nhập trước thuế có đến thời điểm cổ phần hoá để bù đắp trước khi thực hiện các quy định của pháp luật. e. Tài sản góp vốn theo hướng liên doanh với nước ngoài: Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá kế thừa hoạt động liên doanh thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đem góp vốn liên doanh được xác định theo nguyên tắc quy định tại điều 18, nghị định 64/ 2002/ ND-CP của Chính phủ để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Trượng hợp các doanh nghiệp cổ phần hoá không kế thừa các hoạt động liên doanh thì báo cáo cơ quan có thẩm quyền bị xử lý dể xử lý tài sản góp vốn liên doanh như sau: + Thoả thuận để mua hoặc bán tại vốn góp liên doanh. + Chuyển giao cho doanh nghiệp làm đối tác. f. Số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi: Số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi được chia cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp để mua cổ phần. Người lao động không phải nộp thuế với các khoản thu nhập này. 2.2.2. Xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá: a. Giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá: - Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi. - Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hoá không bao gồm: + Giá trị những tài sản tại khoản 1, điều 9 Nghị định 64/2000/NĐ-CP của Chính phủ. + Giá trị những tài sản không cần dùng, chờ thanh lí. + Các khoản nợ phải thu khó đòi đã được trừ vào giá trị doanh nghiệp. + Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã bị đình hoãn trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. + Các khoản đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác được cơ quan có thẩm quyền quyết định chuyển cho đối tác khác. + Tài sản của công trình phúc lợi được đầu tư bằng nguồn quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp và nhà ở của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp. b. Các căn cứ để xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp: - Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá. - Số lượng và chất lượng tài sản theo biểu kê phân loại tại thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá. - Tính năng kĩ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá. - Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lí, uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có). - Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỉ xuất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. c. Xác định chất lượng tài sản, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp: - Xác định chất lượng tài sản của doanh nghiệp căn cứ vào khả năng bảo đảm an toàn trong vận hành và sử dụng tài sản, bảo đảm chất lượng sản phẩm và môi trường. - Giá trị quyền sử dụng đất: + Trước mắt vẫn áp dụng thuế đất và giao đất theo quy định uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm tính lại giá thuế đất ở những vị trí thuận lợi để áp dụng chung cho mọi loại hình doanh nghiệp. + Đối với diện tích đất do Nhà Nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị quyền sử dụng đất nói trên được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất cho cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư như: đền bù giải phóng, san lấp mặt bằng... Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỉ xuất lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi xuất của trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường. d. Xác định giá trị tài sản góp vốn liên doanh: - Giá trị tài sản góp vốn liên doanh tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định trên cơ sở: + Giá trị vốn chủ sở hữu được thể hiện trong báo cáo tài chính của công ty liên doanh tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá, đã được tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán. + Tỉ lệ vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hoá vào liên doanh. + Tỉ giá chuyển đổi giữa ngoại tệ góp vốn với đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do ngân hàng Nhà Nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá đối với các công ty liên doanh hạch toán bằng ngoại tệ. Giá trị tài sản góp vốn liên doanh xác định trên cơ sở nêu trên là căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá, không điều chỉnh giá trị vốn góp liên doanh trên giấy phép đầu tư. e. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp: Tuỳ theo đặc điểm của ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp, cho phép áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng dẫn của Bộ tài chính. f. Tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá: - Cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp, quyết định thành lập Hội đồng giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá hoặc lựa chọn Công ty kiểm toán, tổ chức kinh tế có chức năng định giá để doanh nghiệp cổ phần hoá kí hợp đồng xác định giá trị doanh nghiệp. - Thành phần Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp bao gồm: + Đại diện cơ quan quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp làm Chủ tịch hội đồng. + Đại diện cơ quan tài chính. + Lãnh đạo doanh nghiệp cổ phần hoá và đại diện Tổng công ty Nhà Nước (nếu doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty). Căn cứ vào thực trạng của doanh nghiệp và yêu cầu cụ thể. Hội đồng được mời thêm các tổ chức hoặc các chuyên gia kĩ thuật, kinh tế tài chính trong và ngoài doanh nghiệp cần thiết cho việc đánh giá chất lượng và xác định giá trị thực tế của từng loại tài sản trong doanh nghiệp. Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp có trách nhiệm: + Thẩm định kết quả kiểm kê, phân loại, đánh giá tài sản và xác định giá trị doanh nghiệp Cổ phần hoá theo các quy định hiện hành trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định thành lập Hội đồng. Kết quả thẩm định Hội đồng được thành lập biên bản, có đầy đủ chữ kí của thành viên chính thức. + Xác định lại kết quả giá trị doanh nghiệp nếu cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp yêu cầu. Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính chính xác của kết quả xác định giá trị doanh nghiệp. Công ty kiểm toán và tổ chức kinh tế thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp phải bảo đảm các quy định hiện hành và hoàn thành đúng thời hạn theo hợp đồng đã kí, phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của kết quả định giá. Tiền thuê xác định giá trị doanh nghiệp được tính vào chi phí cổ phần hoá của doanh nghiệp. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp phải được gửi đến cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp để quyết định và công bố. h. Sử dụng kết quả xác định giá trị doanh nghiệp: Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp theo các quy định tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ là cơ sở để xác định cơ cấu cổ phần hoá lần đầu, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu, xác định mức giá “sàn” để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. i. Điều chỉnh giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá: Cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp xem xét và quyết định điều chỉnh giá trị doanh nghiệp trong các trường hợp: Doanh nghiệp có khó khăn trong việc bán cổ phần. Xác định lại giá trị doanh nghiệp từ thời điểm định giá đến thời điểm doanh nghiệp chính thức trở thành Công ty cổ phần. 2.3. Bán cổ phần và quản lí, sử dụng tiền thu từ bán phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá: a. Xác định cơ cấu cổ phần lần đầu: Cơ cấu cổ phần lần đầu của doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định theo thứ tự như sau: Giữ lại số lượng cổ phần của Nhà Nước ở những doanh nghiệp thuộc đối tượng mà Nhà Nước cần nắm giữ cổ phần. Dành cổ phần để bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Dành cổ phần để bán theo giá ưu đãi cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu ở những doanh nghiệp chế biến hàng nông, lâm, thuỷ sản theo quy định của pháp luật. Dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại (nếu có) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp, trong đó ưu tiên bán cho các nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, vốn và kinh nghiệm quản lí. b. Bán cổ phần lần đầu: - Cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp cổ phần hoá hoặc tại các tổ chức tài chính trung gian theo cơ cấu cổ phần lần đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong phương án cổ phần hoá. Trong đó: + Việc bán cổ phần và thực hiện chính sách ưu đãi về giá bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu do doanh nghiệp cổ phần hoá đảm nhận. + Việc bán cổ phần cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian do cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp lựa chọn và thực hiện bằng phương thức đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành theo hướng dẫn của Bộ tài chính. Nếu doanh nghiệp cổ phần hoá có số lượng cổ phần hoá bán ra ngoài thấp hơn hoặc điều kiện bán thông qua tài chính trung gian có khó khăn, chi phí bán cổ phần vượt quá mức hoa hồng cho phép thì cơ quan quyết định cổ phần hoá giao cho doanh nghiệp tổ chức bán cổ phần ra bên ngoài theo hình thức đấu giá. Các tổ chức tài chính được lựa chọn bán cổ phần lần đầu ra ngoài của các doanh nghiệp cổ phần hoá, trong thời hạn 30 ngày trước khi bán phải thực hiện thông báo công khai tại doanh nghiệp và trên các phương tiện thông tin đại chúng về thời gian, địa điểm, hình thức điều kiện tham gia, số lượng cổ phần dự kiến bán và các vấn đề khác có liên quan đến việc bán cổ phần. Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được thực hiện thống nhất bằng đồng Việt Nam. Trường hợp mua bằng ngoại tệ thì phải chuyển đổi thành đồng Việt Nam theo quy định về chuyển đổi ngoại hối của Nhà Nước Việt Nam. Việc bán cổ phần theo giá ưu đãi cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu đối với các doanh nghiệp chế biến hàng lâm, nông, thuỷ sản được thực hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Trường hợp các bên tham gia đấu giá cổ phần có giá trả bằng nhau thì các nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, vốn, kinh nghiệm quản lí và các đối tượng chuyển nợ thành cổ phần được ưu tiên mua cổ phần. Các nhà đầu tư nước ngoài không có điều kiện trực tiếp tham gia đấu giá được thoả thuận với bên bán về giá mua bán cổ phần nhưng không thấp hơn giá bán cho các nhà đầu tư trong nước và phải bảo đảm các điều kiện quy định tại khoản 2 điều 4 và điều 5 Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ. Doanh nghiệp cổ phần hoá có tình hình tài chính phù hợp với điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán thì phương án bán cổ phần ra bên ngoài phải bảo đảm các điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán sau khi chuyển thành công ty cổ phần. Sau 60 ngày, kể từ ngày phê duyệt phương án cổ phần hoá, nếu số lượng cổ phần dự kiến bán trong doanh nghiệp chưa bán hết (kể cả cổ phần bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu) thì cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá quyết định bán số cổ phần còn lại rộng rãi ra ngoài doanh nghiệp. Sau 30 ngày áp dụng biện pháp trên mà vẫn không bán hết thì cơ quan cổ phần hoá quyết định điều chỉnh giá trị doanh nghiệp và phương án bán cổ phần để chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần. c. Quản lí và sử dụng số tiền thu từ bán cổ phần: - Số tiền thu được từ bán cổ phần vốn Nhà Nước tại các doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá, sau khi trừ chi phí cổ phần hoá được chuyển về: + Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước của Trung ương đối với trường hợp cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp hoặc đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp độc lập trực thuộc Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. + Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với trường hợp cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp hoặc đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp độc lập trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. + Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước của Tổng công ty Nhà Nước đối với trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc hoặc toàn bộ doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty. Số tiền thu được từ bán phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá được sử dụng theo thứ tự ưu tiên sau: + Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất việc tại thời điểm cổ phần hoá. + Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất việc sau khi đã chuyển từ doanh nghiệp Nhà Nước sang làm việc tại công ty cổ phần. + Hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo lại lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá để bố trí việc làm mới tại công ty cổ phần. + Đầu tư cho doanh nghiệp đã cổ phần hoá để đảm bảo tỉ trọng vốn chi phối của Nhà Nước đối với loại doanh nghiệp mà Nhà Nước phải nắm giữ cổ phần chi phối. + Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà Nước trước khi cổ phần hoá có khó khăn về khả năng thanh toán để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ bảo hiểm xã hội. + Hỗ trợ thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp khi Nhà Nước bán doanh nghiệp có số thu từ việc bán doanh nghiệp không đủ để thanh toán. + Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà Nước để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp. 2.4. Chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá: a. Chính sách đối với doanh nghiệp cổ phần hoá: - Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước như đối với doanh nghiệp thành lập mới mà không cần phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư - Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lí và sử dụng của doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá thành sở hữu của công ty cổ phần. - Được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề đáng chú ý và miễn lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh khi chuyển từ doanh nghiệp Nhà Nước sang công ty cổ phần. - Được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa hiện vật, kiến trúc của các cơ quan Nhà Nước và các doanh nghiệp khác hoặc được ưu tiên mua lại theo giá trị thị trường tại thời điểm cổ phần hoá để ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. - Được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai trong trường hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất. - Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà Nước theo cơ chế và lãi xuất như đối với doanh nghiệp Nhà Nước. - Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như: các công trình văn hoá, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của một tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lí với sự tham gia của tổ chức công đoàn. - Được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà Nước các khoản chi phí thực tế, hợp lí và cần thiết cho quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần (bao gồm cả phí thuế tư vấn và định giá) theo mức quy định của Bộ tài chính. Trường hợp cổ phần hoá theo hình thức quy định tại khoản 1 điều 3 Nghị định 64/ 2002/ NĐ - CP của Chính phủ thì được trừ vào phần vốn Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp. b. Chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá: - Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp cổ phần hoá tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được Nhà Nước bán tối đa 10 cổ phiếu cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực Nhà Nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100 ngàn đồng. Trường hợp cổ phần hoá theo hình thức quy định tại khoản 1 điều 3 Nghị định 64/ 2002/ NĐ - CP của Chính phủ thì giá trị ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp được trừ vào phần vốn của Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp. Tổng giá trị ưu đãi, kể cả giá trị ưu đãi cho người sản xuất và cung ứng nguyên liệu không vượt quá giá trị phần vốn của Nhà Nước tại doanh nghiệp sau khi đã trừ vào giá trị cổ phần Nhà Nước nắm giữ. Người lao động sở hữu cổ phần được mua theo giá trị ưu đãi có quyền để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên và chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua. Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Hội đồng quản trị công ty chấp thuận. Công ty cổ phần ưu tiên mua lại theo giá trị thị trường tại thời điểm bán. Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá được mua chịu cổ phần theo giá trị ưu đãi, được hoàn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho ngưòi lao động nghèo không vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà Nước bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên. Người sở hữu cổ phần này chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua và đã trả hết nợ cho Nhà Nước. Người lao động chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành. Người lao động đã có đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí tại thời điểm cổ phần hoá được giải quyết quyền lợi theo chế độ hiện hành. Người lao động mất việc, thôi việc tại thời điểm cổ phần hoá được thanh toán trợ cấp mất việc theo quy định của pháp luật. Sau khi doanh nghiệp Nhà Nước chuyển thành công ty cổ phần, nếu có nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công nghệ dẫn đến người lao động trong doanh nghiệp Nhà Nước chuyển sang bị mất việc hoặc thôi việc, kể cả trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc, thì được giải quyết như sau: + Trong 12 tháng kể từ ngày công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, nếu người lao động bị mất việc do cơ cấu lại thuộc đối tượng chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà Nước theo Nghị định số 41/2002/NĐ - CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ thì được Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư hỗ trợ. Các đối tượng lao động mất việc, thôi việc trong 4 năm tiếp theo thì công ty có trách nhiệm thanh toán 50% tổng mức trợ cấp theo quy định của Bộ luật lao động, số còn lại Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước thanh toán. Hết thời hạn trên, công ty cổ phần chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ trợ cấp cho người lao động. Đối với số lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá cần được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần Nhà Nước thì Nhà Nước hỗ trợ một phần kinh phí cho công ty cổ phần để tổ chức đào tạo lại từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước theo hướng dẫn của Bộ tài chính. 2.5. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài và người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. a. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài: Được quyền tham gia quản lí công ty cổ phần theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần Được sử dụng cổ phiếu để cầm cố trong các quan hệ tín dụng ở Việt Nam. Được đổi các khoản thu về cổ tức, tiền chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam thành ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế theo quy định của pháp luật. Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài dùng cổ tức thu được để đầu tư tại Việt Nam thì được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Được quyền tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam và có nghĩa vụ tuân thủ theo quy định của Chính phủ Việt Nam về việc tham gia của bên nước ngoài vào thị trưòng chứng khoán Việt Nam sau khi công ty cổ phần đã thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán. Có quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều lệ tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần. b. Quyền và nghĩa vụ của người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. - Được mua cổ phần, kể cả cổ phần mua theo giá ưu đãi tại doanh nghiệp đã tham gia cung cấp nguyên liệu với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Tổng giá trị cổ phần ưu đãi không vượt quá 10 % giá trị phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp. Cổ phiếu của những cổ phần này là cổ phiếu ghi tên, chuyển nhượng có điều kiện như quy định đối với việc chuyển nhượng cổ phần mua theo giá ưu đãi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá. - Được sử dụng cổ phiếu để cầm cố trong các hoạt động tín dụng ở Việt Nam. - Có trách nhiệm cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp theo đúng hợp đồng đã kí kết. - Có các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần. III. Những chủ trương của Đảng và Nhà Nước: - Hiện nay, Đảng và Nhà Nước ta có nhiều chủ trương, chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp đặc biệt là các Nghị định, Quyết định, Nghị quyết, Thông tư,.... ở nước ta từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/ 1986) đã chủ trương đổi mới toàn bộ nền kinh tế đất nước. Tiếp đó vào tháng 11/1987, Hội đồng bộ trưởng đã chủ trương cổ phần hoá một số bộ phận của giai cấp nhà nước mà trước hết cần thực hiện ở một số ngành, lĩnh vực. Ngày 8/6/1992, Hội đồng bộ trưởng có chỉ thị số 202CT về thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần. Đến tháng 6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định “Cổ phần hoá không phải là tư nhân hoá” và nhấn mạnh “Phải triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực cho phát triển”. Ngày 29/6/1998 Chính phủ ban hành nghị định 44/1998/NĐ - CP về chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần. Nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IX (tháng 9/2001) lại khẳng định: “ Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động tham gia, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà Nước và huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển và sản xuất kinh doanh...”. Tiếp đó năm 2002, Chính phủ ban hành quyết định số 58/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 về phân loại doanh nghiệp Nhà Nước. Ngày 19/6/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ - CP thay Nghị định số 44/98/NĐ- CP về chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Ngày 9/9/2002 Bộ tài chính ra thông tư số 79 về hướng dẫn định giá tài sản doanh nghiệp và xác định cơ cấu cổ phần khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước. Ngày 12/7/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 69/ 2002 /NĐ- CP về hướng dẫn doanh nghiệp thanh toán nợ đọng. Thông tư 80 ngày 12/9/2002 của Bộ tài chính về ưu tiên bán cổ phần cho người lao động, nhà sản xuất, cung ứng vật tư trong các doanh nghiệp, nông, lâm, ngư ngiệp với giá ưu đãi. Ngày 2/9/2004 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 155/2004/ QĐ-TTg đã ban hành tiêu chí, danh mục phân loại Tổng công ty Nhà Nước trong đó có phân loại công ty Nhà Nước được cổ phần hoá. Ngày 15/1/2004 Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ IX khoá IX lại tiếp tục kiên quyết đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước cần cổ phần hoá kể cả những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty kinh doanh có hiệu quả, gắn với việc phát hành cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới. Doanh nghiệp Nhà Nước luôn tồn tại ở các quốc gia và tỷ lệ doanh nghiệp Nhà Nước trong nền kinh tế ở các quốc gia đó luôn thay đổi. Vấn đề không phải là tỷ lệ doanh nghiệp Nhà Nước trong nền kinh tế cao hay thấp mà là các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động kém hiệu quả nên phải đổi mới quản lý để doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động có hiệu quả. Do đó cổ phần hoá chỉ là một trong các biện pháp đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà Nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước làm cho các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động có hiệu quả hơn. Danh mục tài liệu tham khảo Luật doanh nghiệp – ngày 12/6/1999 Luật doanh nghiệp Nhà Nước – ngày 26/11/2003 Quyết định 143/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng – tháng 5/1990 về chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà Nước Quyết định 28/CP – ngày 7/5/1996 của Chính phủ vể chuyển một số doanh nghiệp của Nhà Nước thành công ty cổ phần Quyết định 58/QĐ - TTg ngày 16/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ về phân loại doanh nghiệp Nhà Nước Quyết định 155/2004/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí, danh mục, phân loại công ty Nhà Nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty Nhà Nước – 2/9/2004 Nghị quyết 44/1998/ NĐ - CP ngày 2/10/1998 của Chính phủ về chuyển đổi doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần Nghị định 03/2000/NĐ - CP – ngày 3/2/2000 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều luật doanh nghiệp Nghị định 64/2002/NĐ - CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần Nghị định 153/2004/NĐ - CP ngày 9/8/2004 của Chính phủ về tổ chức, quản lý tổng công ty Nhà Nước và chuyển đổi tổng công ty Nhà Nước, công ty Nhà Nước độc lập theo mô hình công ty mẹ, công ty con. Thông tư hướng dẫn số 104/1998/TT – BTC của Bộ tài chính – ngày 18/7/1998 về tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp Thông tư 79/2002/TT-BTC ngày 9/9/2002 của Bộ tài chính hướng dẫn định giá tài sản và xác định cơ cấu cổ phần hoá khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước. Chỉ thị 2002CT/ HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng – ngày 8/6/1992 về thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần Chỉ thị 658/TTg – ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước Giáo trình luật kinh tế – Trường Đại học Luật Hà Nội – nhà xuất bản Công an nhân dân 2002 Văn kiện Đại hội Đảng VI của Đảng cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1986 Văn kiện Đại hội Đảng VIII của Đảng cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1996 Nghị quyết TW III khoá IX của Đảng cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2003 Văn kiện hội nghị IX của ban chấp hành TW khoá IX nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2004 TS Nguyễn Ngọc Huyền : Giải pháp phát triển cổ phần hoá sau cổ phần hoá ở Việt Nam – tạp chí kinh tế và phát triển số 69/2003 TS Nguyễn Thị Phương : Doanh nghiệp Nhà Nước sau cổ phần hoá - Tạp chí kinh tế và phát triển số 73/ tháng 7/2003 GS – TS KH Vũ Huy Từ : Tiếp tục sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà Nước – Tạp chí kinh tế và phát triển số 74/ tháng 8/2003 Trần Văn Chử : Cổ phần hoá, đổi mới doanh nghiệp Nhà Nước – Tạp chí nghiên cứu kinh tế – số 299 tháng 4/2002 Nguyễn ái Toàn : Cổ phần hoá - phân tích kinh tế học – Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 314/tháng 7/2004 ThS Đàm Hải Sơn : Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam. Một vài suy nghĩ – Tạp chí kinh tế và dự báo – số 5/2004 Trần Hữu Tiến : Tiếp tục đẩy mạnh, sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước – Tạp chí tài chính doanh nghiệp – số 3/2004 Phó Trọng Hiếu : Tiếp tục hoàn thiện các chính sách đẩy mạnh, tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước –Tạp chí tài chính doanh nghiệp – số 5/2004. mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35640.doc
Tài liệu liên quan