Đề án Lạm phát và những giải pháp kiểm soát lạm phất đối với nền kinh tế Việt Nam

Như vậy, qua các phần đề án được trình bày trên đây , tôi đã trình bày những hiểu biết của mình về vấn đề lạm phát và việc kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam . Qua đó, phần nào đã phản ánh được những vấn đề cơ bản nhất của lạm phát , giúp chúng ta có thể hiểu một cách tương đối về lạm phát , đồng thời, đề án cũng đã phản ánh được tương đối đày đủ về vấn đề lạm phát ở Việt Nam . Trong đề án của mình, tôi viết theo một thứ tự có chủ ý nhằm giúp cho vấn đề mà mình đưa ra có tính logic : Chương I, tôi trình bày những lý thuyết cơ bản về lạm phát ,khái niệm, bản chất của lạm phát , nguyên nhân của lạm phát , các tác động của lạm phát . Từ cơ sở lý thuyết đã trình bày ở Chương I, Chương II tôi trình bày thực trạng lạm phát và kiểm soát lạm phát ở nước ta , tôi dựa vào những lý thuyết trong Chương I để phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát trong từng thời kỳ , các chính sách của Chính phủ nhằm kiểm soát lạm phát tương ứng với từng thời kỳ đó. Sau khi đã trình bày các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn trong Chương I và Chương II, trong Chương III tôi trình bày Phương hướng và biện pháp chung để kiểm soát và khắc phục lạm phát , đồng thời cũng đưa ra một số biện pháp góp phần kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam theo những hiểu biết của mình.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lạm phát và những giải pháp kiểm soát lạm phất đối với nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lên gấp đôi. Và theo Ricacdo, tổng giá trị hàng hóa trao đổi được xác định bằng khối lượng dự trữ đang có. Ông cho giá cả tăng chỉ do khối lượng dự trữ đó tăng hoặc tăng các phương tiện dự trữ mà mỗi phương tiện đại diện cho một khối lượng nhỏ vàng hoặc bảcTong trường hợp thứ nhất, giá cả hàng hóa tăng làm giảm sức mau của đồng tiền quá nhiều , còn trong trường hợp thứ hai ,sự mất giá của đồng tiền xác nhận rằng nó đại diện cho một đương lượng vàng rất thấp. Đến đây chúng ta có thể phân tích cung ứng tiền gây ra lạm phát như thế nào ? Các nhà kinh tế theo thuyết tiền tệ cho rằng khi cung tiền tệ tăng lên và kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát họ đã sử dụng công thức của Irving Fisher : MV= PY để giả thích hiện tượng như sau : Với M : khối lượng tiền tệ lưu thông P.Y : tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ P : giá cả Y : tống sản phẩm thực tế = tổng thu nhập thực tế V : tốc độ lưu thông tiền tệ ( có nghĩa là cùng một đơn vị tiền tệ có thể qua nhiều chu trình chi trả trong một thời gian nhất định ) Và theo họ : “ tốc độ lưu thông tiền tệ thay đổi theo thời gian một cách có thể đoán trước được và không liên quan đến những thay đổi trong cung tiền tệ”. Như vậy V thường ít biến đổi theo thời gian. Với điều này thì ứng với mỗi mức cung tiền tệ ta sẽ có một tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ P.Y là không đổi .Bởi vậy với mỗi mức giá , ta sẽ có một mức tổng sản phẩm thực tế . Giá càng tăng thì sản phẩm thực tế càng giảm và để thể hiện mối quan hệ này họ xây dựng đường tổng cầu trong nền kinh tế . Và theo thuyết tiền tệ thì để thay đổi đường tổng cầu này chỉ do một nguyên nhân duy nhất đó là cung ứng tiền thay đổi và như vậy lạm phát xảy ra khi cung ứng tiền tăng . Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta xét một ví dụ sau : P1 P2 P3 P 3 2’ 2 1 1’ Yn Yt AD1 AD2 AD3 y Tổng sản lượng AS1 AS2 AS3 Tổng mức giá Giả sử ban đầu nền kinh tế đang ở điểm cân bằng cung cầu (Điểm 1) khi cung ứng tiền tăng làm cho tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ P.Y tăng làm đường tổng cầu tăng dịch chuyển sang phải từ AD1 tới AD2 . Tại đây điểm cân bằng của nền kinh tế là 1’ với mức sản lượng lớn hơn mức sản lượng tự nhiên và mức giá P2 cao hơn mức giá P1 . Do nền kinh tế đạt mức sản lượng lớn hơn mức sản lượng tự nhiên nên tỉ lệ thất nghiệp nhỏ hơn tỉ lệ thấ nghiệp tự nhiên làm cho chi phí tăng dẫn tới đượng cung dịch phải vào trong từ AS1 tới AS2 với điểm cân bằng mới (Điểm3) .Mức sản lượng đạt mức sản lượng tự nhiên như cũ nhưng giá cả tăng từ P2 lên P3 .Nếu như cung ứng tiền tiếp tục tăng một quy trịnh như vậy lại diễn ra và làm cho giá cả tăng lên liên tục và gây ra lạm phát . Nhưng một vấn đề đặt ra là trường phái của Keynes lại cho rằng không chỉ có cung tiền tăng mới làm dịch chuyển đường cầu mà theo họ còn có rất nhiều các yếu tố khác cũng làm dịch chuyển nó , ví dụ như chính sách tài chính ,xuất khẩu ròng , lạc quan tiêu dùng , lạc quan kinh doanh... Song những vấn đề của chính sách tài chính lại có những giới hạn của nó , chính phủ không thể chi tiêu quá 100% GNP cũng như không thể cắt giảm thuế dưới 0% . và như vậy việc tăng lên của tỉ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ là tạm thời . Hay trong một lập luận khác của Keynes về các cú sốc cung bất lợi làm dịch trái đường tổng cung làm giá cả tăng lên , sản lượng giảm. Nhưng nếu cung tiền không tăng tức là AD không dịch phải thì theo thời gian dường AS sẽ lại dịch chuyển về vị trí ban đầu bởi một lẽ do sản lượng thực tế nhỏ hơn sản lượng tiềm năng ( tự nhiên) và làm cho chi phí sẽ rẻ trở lại .Và đây cũng là hiện tượng lạm phát tạm thời . Với những phân tích như vậy , quan điểm của Keynes cũng thống nhất với phái tiền tệ là lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. 1.2.2 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà hầu hết các chính phủ theo đuổi là chỉ tiêu công ăn việc làm cao nhưng đây cũng chính là một nguyên nhân gây nên lạm phát .Có hai loại lạm phát là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao : lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy . Lạm phát cầu kéo xảy ra khi những nhà hoạch định chính sách theo đuổi các chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển sang phải , còn lạm phát chi phí dẩy xảy ra khi có những cú sốc cung tiêu cực hoặc do công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên . Bây giờ chúng ta có thể sử dụng cách phân tích tổng cung và tổng cầu để xem xét một chỉ tiêu công ăn việc làm có thể đưa đến lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo như thế nào ? 1.2.2.1 Lạm phát cầu kéo Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt được mức sản lượng tiềm năng , tỉ lệ thất nghiệp đang ở mức thất nghiệp tự nhiên , nền kinh tế đạt mức cân bằng tại điểm 1. Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỉ lệ thất nghiệp dưới mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên . Để đạt được mục tiêu này , các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra các biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng , mức chỉ tiêu sản lượng cần đạt được đó là Yt (Yt>Yn). Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu và làm tăng tổng cầu , đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’ ( giao điểm giữa đường tổng cầu AD2 và đường tổng cung AS1). Sản lượng bây giờ đã đã đạt được tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục tiêu tỉ lệ thất nghiệp nhỏ hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được . P1 P2 P3 P 3 2’ 2 1 1’ Yn Yt AD1 AD2 AD3 y Tổng sản lượng AS1 AS2 AS3 Tổng mức giá Vì hiện nay tỉ lệ thất nghiệp thực tế trong nền kinh tế là thấp hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ dịch chuyển đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ đến điểm 2’. Nền kinh tế quay về mmức sản lượng tiềm năng và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1. Đến lúc này tỉ lệ lại cao hơn tỉ lệ mà các nhà hoạch định chính sách đã đề ra . Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục đảy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn. Như đã phân tích trên đây, do giới hạn của những chính sách tài chính nên việc tăng lên liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng cung ứng tiền liên tục. Do đó lạm phát cầu kéo là một hiện tượng tiền tệ . 1.2.2.2. Lạm phát chi phí đảy P1 P2 P3 P 3 2’ 2 1 1’ Yt Yn AD1 AD2 AD3 y Tổng sản lượng AS1 AS2 AS3 Tổng mức giá Giả sử lúc đầu nền kinh tế tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng Cung AS1, vói mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do mong muốn có một mức ssóng cao hơn hoặc do cho rằng tỉ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương. Vì tỉ lệ thất nghiệp đang ở mmức thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới chủ chấp nhận. ảnh của việc tăng lương ( cũng như anhhr hưởng của những cú sốc cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2. Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 đến điểm 1’- giao điểm của đường tổng cung mới AS2 với đường tổng cầu AD1. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y’(Y’<Yn) và tỉ lệ thất nghiệp cao hơn tỉ lệ thất nhgiệp tự nhiên, đồng thưòi mmức giá cả tăng lên đến P1’. Vì mụcc đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại, chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động nhằm tác động lên tổng cầu, làm tăng tổng cầu, lúc này đường tổng cầu A1 dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế quay trở lại mmức sản lượng tự nhiên tại điểm cân bằng mới- điểm 2, mức giá cả tăng lên P2. Các công nhân đã được nhượng bbộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi tăng lương lên cao hơn. Đồng thời, những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sụ chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân, tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn, kết quả là đường tổng cung lại chuyển vào đếnn AS3, thất nghiệp lại tăng lên mức cao hơn mức tỉ lệ tự nhiên và chính phủ lại tiếp tục phải thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu ra AD3 để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu quá trình này cứ tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng lên liên tục của giá cả , dây chính là tình trạng lạm phát chi phí đảy. Theo cách phân tích của Keynes, những chính sách tài chính luôn có những giới hạn của nó, nên mặc dù những chính sách này cũng gây ra những tác động làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là từng đợt không thể sử dụng trong thời gian dài. Như vậy, nó không thể được sử dụng để dịch chuyển liên tục đường tổng cầu. Việc dịch chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền liên tục, do đó lạm phát chi phí đẩy cũng là một hiện tượng tiền tệ . Lạm phát do thâm hụt ngân sách Trong những phân tích trước đây , chúng ta thấy rằng lạm phát chỉ có thể mở rộng khi lượng tiền tăng lên liên tục. Một thâm hụt ngân sách được trang trải bằng việc in thêm tiền có thể tạo ra lạm phát không ? câu trả lời là có nếu thâm hụt đó xảy ra trong một thời gian khá dài. Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bănngf niện pháp phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường để vay vốn trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không nhả hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát . Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước đó là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỉ lệ lạm phát . Tuy nhiên,ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt nngân sách nhà nước là rất khó thực hiện . Đối với các quốc gia này, con dường duy nhất đối với họ đó là “in thêm tiền”. Vì thế, khi tỉ lệ thâm hụt nhân sách nhà nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng . ở các nước kinh tế phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ có thể bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước thực hiện từ nguồn vốn vay của Chính phủ. Tuy nhiên nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng và do đó , lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất trên thị trường , ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các prái phiếu đó, điều này lại cho cung tiền tệ tăng . Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sáchnhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền gây ra lạm phát . Lạm phát theo tỉ giá hối đoái Tỉ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát . Khi tỉ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của người sản xuất trong nước , muốn kéo giá cả lên cao theo mức tăng của tỉ giá hối đoái. Thứ hai khi tỉ giá hối đoái tăng, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí đẩy như đã phân tích trên đây. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tác động của lạm phát Lạm phát và lãi suất Tác động đầu tiên của lạm phát lên dời sống kinh tế đó là nó làm thay đổi lãi suất . Và vì lãi suất ngày nay tác động nhiều mặt đến thu nhập , tiêu dùng và đầu tư, cho nên thông qua lãi suất , lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế vĩ mô và vi mô. Để giữ cho tài sản nợ và có hiệu quả không đổi, hệ thống ngân hàng sẽ luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế ổn định. Nhưng vì lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỉ lệ lạm phát . Nên muốn cho lãi suất thực tế không đổi, lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỉ lệ lạm phát . Nhưng, khi các ngân hàng và hệ thống tài chính tăng lãi suất danh nghĩa theo lạm phát , hậu quả mà nền kinh tế phải gannhs lấy là suy thoái và thất nghiệp gia tăng. Về mặt lâu dài, sự cân bằng trên thị trưòng hàng hóa và tiền tệ sẽ kéo cả lạm phát và lãi suất xuống khi không có sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương. Nhưng cái giá phải trả là tiềm năng sản xuất bị lãng phí. Số việc làm giảm và đời sống nhân dân khó khăn. Lạm phát và thu nhập thực tế Chúng ta đã biết là lạm phát làm mất đi tài sản. Làm giảm các loại giá trị một cách vô hình. Nếu nnhư năm nay bạn có thể mua một quyển sách với giá 10.000 VNĐthì giả sử tỉ lệ lạm phát của Việt Nam là 50% thì vào đúng một năm sau, 10.000VNĐ chỉ còn mua được 2/3 quyển sách và vô hình đã mất đi 1/3 quyển sách. Tron trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động. Với mức lương như cũ khi lạm phát xảy ra người lao động sẽ không có đủ khả năg mua được những hàng hóa như trước đó nữa. Lãi suất không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi(tức là tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực tế từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đố xảy ra là do Chính sách thuế của nhà nước được tính dựa trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỉ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng ). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), thực(sau khi đã loại trừ các tác động của lạm phát ) mà người cho vay nhận được giảm đi . Suy thoái kinh tế , thất nghiệp gia tăng , đời sống người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và những hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng Lạm phát cao gây ra sự bất bình đẳng giữa công nhân với chủ doanh nghiệp và giữa người giàu với người nghèo. Ta biết rằng tiền lương của người lao động được thỏa thuận trong hợp đồng giữa người lao động và chủ doanh nghiệp, do đó, rất khó có thể thay đổi được , vì vậy khi có lạm phát cao xảy ra sẽ làm cho đời sống của họ gặp khó khăn. Trong quan hệ kinh tế giữa người vho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao, người hco vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi. Đièu này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng htêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế , đẩy lãi suất lên cao. Lạm phát tăng cao còn khiến cho những người có tiền và giàu có, dùng tiền của mình vơ vét hàng hóa , tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng làm mất cân đối cung cầu hàng hóa trên thị trưòng , giá cả hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng những người nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm chí không mua nổi những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó những kẻ đầu cơ đã vơ vét hết hàng hóa và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có htể gây rãn rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập , mức sống giữa người giàu với người người nghèo. Lạm phát và nợ quốc gia ở phần lạm phát và thu nhập thực tế ,chúng ta được biết Chính phủ được lợi từ các khoản thu thuế thu nhập đánh vào nhân dân. Chính phần th thực tế mà nhân dân đã mất đi đã chạy vào ngân sách của Chính phủ ,thì ngược lại trong quan hệ kinh tế đối ngoại những khoản nợ quốc gia của Chính phủ đối với các nước sẽ trở nên trầm trọng hơn trước. Chính phủ được lợi trong nước nhưng bị thiệt với nợ nước ngoài. Trong khi Chính phủ được lợi từ cac khoản thuế đánh trong nước do lạm phát , Chính phủ nợ thâm nặng hơn đối với nước ngoài cũng do lạm phát . Nguyên nhân là vì lạm phát làm tỉ giá tăng cavà đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với tiền tệ nước ngoài tính trên các khoản nợ . Ngoài những hậu quả trên đây, cái giá phải trả cho lạm phát vẫn còn nhiều. Lạm phát cao và kéo dài thường làm cho nhân dân không dám giữ tiền lâu. Họ tranh nhau mua hàng hóa , chi phí, thì giờ và tâm trí vào việc sử dụng tiền nhanh và mmua sắm cái gì đó làm hao tổn rất nhiều sinh lực của nền kinh tế . Nhưng điều quan trọng hơn nữa là lạm phát cao kéo dài sẽ làm cho thuế trở thành gánh nặng, lãi suất cao hơn, cung ứng tiền thực tế rút hẹp hơn,...Kết quả là dẫn đến tình trạng suy thoái trong tổng sản lượng quốc gia. Chương ii : Thực trạng kiểm soát lạm phát ở Việt Nam 2.1 Giai đoạn 1986- 1993 2.1.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát Kinh tế Việt Nam từ những năm 1986 đến nay đã trải qua sự biến đổi sâu sắc : từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trưòng theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; từ tăng trưởng thấp những năm 80 sang tăng trưởng cao những năm 90; khủng hoảng rối loạn sang ổn định và phát triển. Năm 1985, Gorbacher đã nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự sụp đổ của các nước Đông Âu cũ, Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước ngoài và đến năm 1991 thì bị cắt hẳn.Do đó, gic nguyên vật liệu đầu vào như sắt thép, dầu hỏa, máy móc thiết bị....Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm cho chi phí sản xuất tăng nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra. Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra , càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn và để hỗ trợ nền sản xuất trong nước , đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, Chính phủ Việt Nam lại in thêm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong nền kinh tế lại dẫn đến lạm phát tiền tệ , điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao. Đồng thời năm 1985 , Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương, tiền mà đỉnh cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay sau đó. Năm 1986 chúng ta đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát với ba chữ số 775% vào năm 1986 trong khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%. Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn. Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hóa , lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%. Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995. Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó là do tăng mức cung ứng tiền , năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau đó lạm phát cầu kéo xảy ra. Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 Tăng trưởng(%) 2,33 3,78 5,1 8 0,1 6 8,6 Lạm phát(%) 748 223,1 394 34,7 67,4 67,6 17,6 Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-1999 2.1.2 Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này Theo bảng trên chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đã có những bước khả quan hơn, lạm phát đã giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số, đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . 2.1.2.1Chính sách tiền tệ Chính sách về lãi suất thực hiện chính sách lãi suất thực dương (lãi suất thực= lãi suất danh nghĩa-tỉ lệ lạm phát ), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn tỉ lệ lạm phát nhằm thu hồi lượng tiền trong lưu thôngvề. Tuy nhiên, do lãi suất tiết kiệm cao nên khối lượng tiền tệ thu về không tiêu thụ được vì các doanh nghiệp sản xuất không thể sản xuất kinh doanh với lãi suất cho vay cao như vậy. Do vậy sản xuất bị thu hẹp, nền kinh tế không phát triển, thất nghiệp tăng . Lúc này cách giải quyết thất nghiệp ở nước ta là NHNN từng bước giảm dần la cho vay thông qua việc giảm dần la huy động từ 12% xuống 9% rồi 6%/năm; 1,4% xuống 0,9% rồi 0,85%/ tháng. Chính sách về tỉ giá hối đoái NHNN có bước tiến quan trọng trong điều chỉnh tỉ giá hối đoái cho phù hợp với nhu cầu của thị trưòng . Tỉ giá hối đoái trước đây chỉ sử dụng cho mực đích kế toán chứ không phản ánh đúng các khoản chi phí thực tế . Việc áp dụng tỉ giá hối đoái thực tế đã làm cho người dân không còn tích trữ hàng hóa , vàng, đô la mà bắt đầu tích lũy bằng đồng nội tệ. Từ năm 1990, NHNN đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ . Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng nămphù hợp với múc tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát . Đồng thời, NHNN đã lựa hcọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tế , chủ động điều hành mức cung ứng tiền một cách linh hoạt. Do vậy đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất, lưu thông không bị ách tắc,kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi được siêu lạm phát . 2.1.2.2Chính sách tài chính Giảm chi tiêu của Chính phủ Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia đã làm giảm chi tiêu của Chính phủ vào quốc phòng. Cùng thời gian này các đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn không hiệu quả bị giải thể. Kết quả là chi tiêu của Chính phủ đã giảm nhiều, tổng cầu giảm , giá cả giảm , lạm phát giảm xuống. Giảm lượng tiền cung ứng cho thâm hụt ngân sách Bắt đầu từ năm 1991, thâm hụt ngân sách được trang trải bằng cách phát hành trái phiếu thay vì in thêm tiền như trước đây. Vì thế, mức cung ứng tiền giảm xuống, lạm phát cũng giảm đi. Năm 1992 tỉ lệ lạm phát chỉ là 17,6% so với năm 1991, đặc biệt là năm 1993 chỉ còn lại là 5,2%. 3.2 Giai đoạn 1994-1998 Vào năm 1993 , mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến bộ vượt bậc đó đã không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đén năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%. 3.2.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát Tình hình kinh tế trong giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể , vì vậy lạm phát xảy ra đã phản ánh được hậu quả tất yếu của tình hình lúc bấy giờ. Trước hết , lạm phát xảy ra là do hiện tượng cầu kéo : Đến năm 1993, cùng với việc đầu tư nước ngoài tăng cao (tăng 85,6% so với năm 1992) là việc các hãng nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước , do đó cầu ngoại tệ tăng cao làm cho giá USD tăng, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá từ 10.600 đồng/1USD vào năm 1993 đến 11.050đồng/1USD năm 1995. điều này tác động làm cán cân thương mại được cải thiện , do đó, tổng cầu trong nền kinh tế tăng. Đồng thời năm 1998 Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thông qua tương đối thông thoáng khiến cho đầu nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh . Chi tiêu của Chính phủ trong thời gian này cũng tăng mạnh, trong đó có chi thường xuyên và chi cơ bản. Cụ thể là: Ngày 26/1/1994 Chính phủ có Nghị định số 5 về cải cách chế độ tiền lương, trợ cấp đối với các đối tượng chính sách xã hội. Đồng thời trợ cấp cho các đối tượngbbộ đội chuyển ngành và nghỉ, trợ cấp thôi việc cho một số cán bộ công nhân viên chức do một số cơ quan nhà nước đóng cửa vì không thể thích ứng được với cơ chế thị trưòng. đòng thời chi thường xuyên của ngân sách tăng nhanh. Cũng từ năm 1992-1994, ngân sách nhà nước chi cho đường dây cao áp 500KV chiếm phần lớn chi tăng thêm cho xây dựng cơ bản. Từ năm 1993-1995 đầu tư xã hội tăng mạnh, trong đó có đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho nền kinh tế mới phát triển. Tất cả những điều này đẩy đường tổng cầu lên cao, làm giá cả tăng cao. Lạm phát thời kỳ này xảy ra còn do chi phí đảy : Vào thời kỳ này, giá cả n số mặt hàng được điều chỉnhnhư giá xi măng, giá điện, giá xăng, làm cho chi phí đầu vào tăng mạnh, mqcs cung giảm , đẩy giá cả lên cao, gây lên lạm phát chi phí dẩy. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này Trong giai đoạn này, các chính sách tiền tệ mà NHNN áp dụng để nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát đều nhằm mục đích giảm mức cung tiền tệ . Cụ thể NHNN đã áp dụng một số các biện pháp sau đây: Một là: NHNN đã bán trái phiếu , tín phiếu gần 2000 tỷ VNĐ kỳ hạn 2-3 thángmà người mua là các ngân hàng thương mại(NHTM) đồng thời cũng để khuyến khích các NHTM tích cực huy động vốn. Hai là: NHNN hạ mức tín dụng và kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụngtái cấp vốn đối với các NHTM và hạn mức của NHTM đối vx nền kinh tế . Ban hành Quyết định số 43QĐ- NHNN cho phép các tổ chức tín dụng(TCTD) được mua bán hạn mức tín dụng lẫn nhau trong phạm vi chỉ tiêu được giao.Biện pháp này của NHNN nhằm để hạn chế hệ số nhân tiền, qua đó kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán, kiềm chế lạm phát . Tuy nhiên hạn mức tín dụng chỉ được phân bổ đói với một số NHTM nên phần nầo hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Ba là: buộc các TCTD phải thực hiện dự trữ bắt buộc mở rộng, năm 1995 quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỉ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tất cả các TCTD là 10% cho các loại tiền gửi dưới một năm, và trong cơ cấu tièn gửi bắt buộc phải có 70% gửi tại NHNN và các TCTD phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc tại NHNN theo từng ngày, kiên quyết xử phạt đối với những TCTD không chấp hành theo quy định này. Bốn là: Trong hệ thống ngân hàng đã triển khai thực hiện tốt QĐ396/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý ngoại hối. NHNN điều hành tốt việc cung ứng tiền phục vụ cho mục tiêu mua bán ngoại tệ nên nhìn chung tỉ giá ngoại tệ ổn định, cầu giả tạo về ngoại tệ, vàng, một số mặt hàng khác giảm xuống làm chogc nhiều mặt hàng giảm xuống, lạm phát được kiểm soát . Năm là: nâng lãi suất chiết khấu làm giảm việc vay của các NHTM Tất cả đều làm mức tăng cung tiền tệ bị hạn chế mạnh mẽ và lãi suất tăng lên, chi tiêu giảm, cầu giảm , giá cả giảm . Đồng thời NHNN còn áp dụng một số biện pháp khác, nhờ vậy tốc độ lạm phát đã giảm xuống từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,65 năm 1998. Giai đoạn từ 1999 đến nay 2.3.1Giai đoạn 1999-2001 2.3.1.1Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát Cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ Châu á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liên tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm , sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hóa ứ đọngnhiều, tỉ lệ thất nghiệp ra tăng ... Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là hiện tượng giảm phát. Vậy giảm phát là gì? Giảm phát là sự giảm giá liên tục của mức giá chung theo thời gian. Tình hình kinh tế _ giá cả thị trưòng có xu hướng giảm + năm 1999 giá cả thị trưòng có nhiều diễn biến bất thường : giá cả liên tục giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998 , sự sụt giảm giá lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng ( do tỉ trọng của hàng lương thực trong rổ hàng hóa lớn). + Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999. + Sáu tháng đầu năm 2001 CPI vẫn giảm , CPI tháng 6/2001 giảm 0,3% so với tháng 6/2000 và giảm 0,7% so với tháng 12/2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp,tháng 3 giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. Kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều nỗ lực , chúng ta đã đẩy được tỉ lệ lạm phát lên 0,8%. _ Tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản phẩm và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà nước : + Số hàng tồn kho của Tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đã lên tới 60.000 tỷ đồng. + Theo báo cáo của IMF có đến 60% doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, trong đó 16% là thua lỗ triền miên. Tình trạng các công ty tư nhân cũng không có gì khá hơn. Trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 có hàng ngàn xí nghiệp thua lỗ phải đóng cửa, các xí nghiệp lớn thì hoạt động cầm chừng. + tỉ lệ thất nghiệp năm 1999 ở Hà Nội là 10,3% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 7,04%... _ Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm : từ tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là 9,34% xuống còn 8,15% năm 1997, 5,8% năm 1998, 4,8% năm 1999 và 6,75% năm 2000. Nguyên nhân: Một là : giá hàng nông sản giảm mạnh, đặc biệt là giá lương thực, cà phê, hạt tiêu, hạt điều làm giảm thu nhập của nông dân, ảnh hưởng tới sức mua hàng công nghiệp. Từ năm 1998 đến 6 tháng đầu năm 2001 chiư số giá lương thực liên tục giảm : năm 1999gm 7,8%, năm 2000 giảm 7,9%, 6 tháng đầu năm 2001 giảm 5,7%. Giá những hàng hóa trên giảm không chỉ làm cho CPI chung giảm mà nó còn gián tiếp làm cho sức mua và giá cả đầu vào các hàng hóa và dịch vụ khác giảm theo Hai là: nhìn chung hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam chất lượng thấp, giá thành cao nên không có điều kiện cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng nhập khẩu trốn lậu thuế, do đó giá cả hàng hóa công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng giảm giá để có thể cạnh tranh được với hàng hóa nhập khẩu. Ba là : cơ cấu tăng trưởng kinh tế giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp là không hợp lý, làm ch thu nhập và theo đó là sức mua của nông dân, là bộ phận dân cư lớn nhất nước không tăng lên được . Bốn là: tình trạng vốn ứ đọng ở các ngân hàng phản ánh người có tiền không muốn bỏ vốn vào đầu tư. Nợ khó đòi và nợ quá hạn ở các ngân hàng lớn. Năm là : đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tốc độ giảm trung bình khoảng 24%/ năm trong giai đoạn 1997-2000 Sáu là, tỉ lệ tăng trưởng giá trị xuất khẩu giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á . Bảy là: trong khi nước ta đang duy trì ổn định tỉ giá thì các đồi tác thương mại trong khu vực phá giá đồng tiền làm cho nhiều mặt hàng trong nước đắt hơn hàng ngoại, chúng ta lâm vào thế cạnh tranhko thuận lợi so với bên ngoài. Tám là : hậu quả của hiệu ứng lây lan do suy thoái và giảm phát khu vực. Chín là : sự chậm trễ trong việc cải tiến những chính sách vĩ mô của Chính phủ , làm cho nước ta đạt được ít kết quả trong cạnh tranh. Vai trò điều tiết của nhà nước còn rất nhiều hạn chế. 2.3.1.2 Những biện pháp nhằm nâng cao sức mua của các tầng lớp dân cư(tăng cầu) _ Chương trình giải quyết việc làm được đẩy mạnh Trong năm 2000, đã thu hút và tạo việc làm cho khoảng 1,3 triệu người , tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn khoảng 6,5% so với 7,4% năm 1999, sử dụng lao động ở nông thôn được nâng lên. _ Chương trình xóa đói giảm nghèo được triển khai Năm 1999 giảm được 34 vạn hộ nghèo, năm 2000 giảm được 30 vạn hộ. _ Hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Để khắc phục tình trạng trì trệ trong tiêu thụ hàng hóa , Chính phủ đã dưa ra những biện pháp tình thế như sau: + Cho áp dụng cơ chế vay vốn ngân hàng để mua sắm và việc thực hiện mua trả góp. + Đưa một số hàng hóa vào dự trữ quốc gia. + Hạ giá bán một số sản phẩm, nhất là các sản phẩm còn tồn đọnh lớnhc các sản phẩm thiết yếu có nhu cầu. + Chỉ đạo việc tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp. _ Tăng cường các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn _ Mở rộng dịch vụ du lịch trong cả nước và nước ngoài, chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch _ Tăng lương cho các cán bộ công nhân viên chức _ Thực hiện cấp ưu đãi một lần đối với người có công với cách mạng + Năm 2002, tình hình kinh tế của nước ta đã có những bước tiến vượt bậc , tỉ lệ tăng trưởng đạt 7,04%, tỉ lệ lạm phát đã tăng lên 4% 2.3.1.3 Những biện pháp tăng cường đầu tư, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh( tăng mức cung hàng hóa và dịch vụ ) _ Sử dụng chính sách tiền tệ Nếu lấy cuối năm 1997 làm mốc thì NHNN liên tục cắt giảm trần lãi suất cho vay. Năm 1999, NHNN 5 lần điều chỉnh lãi suất cho vay trung và dài hạn từ 1,25%/ tháng xuông còn 0,85%/ tháng, 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ 1,1%/ tháng xuống còn 0,55/ tháng, 2 lần điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%. Năm 2000, NHNNbỏ lãi suất trần, chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, tạo điều kiện cho cung- cầu về vốn theo cơ chế thị trưòng và các NHTM chủ động hơn trong kinh doanh. Ngày 24/5/2001 TTCP đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ_CP quy định lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giảm xuống còn 5,4%/ năm. Riêng lãi suất cho vayc ngân hàng phục vụ người nghèo đồi với khu vức III là 5,4%/năm và đối với khu vực khác là 6%/năm . Lãi xuất tiền gửi của hệ thống ngân hàng cũng liên tục giảm xuống đến mức thấp nhất từ trước đến nay. Chính phủ và NHNN ban hành các văn bản nhằm nới lỏng các điều kiện vay vốn cho khu vực nông thôn Cùng với việc ngân hàng hạ lãi suất cho vay, thì một loạt các tỉnh và thành phố dành một phần vốn ngân sách của mình hỗ trợ vay vốn ngân hàng cho một số dự án, một số doanh nghiệp, một số chương trình kinh tế trọng điểm của địa phương... _ Sử dụng chính sách tài chính Tập trung huy động và giải ngân vốn, đảm bảo các mức đầu tư đề ra. Trong 3 năm (1998-2000), nhà nước chú trọng đầu tư đúng mức cho khu vực doanh nghiệp trong đó bổ sungvốn lưu động trên 2000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp. _ Sử dụng chính sách thuế Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, với thuế suất VAT bằng 0% và hàng hóa xuất khẩu được hoàn thuế VAT đã nộp, đây thức chất là hình thức trợ giá của nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu. Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo mức ưu đãi, thấp nhất là 25% đối với các dự án đầu tư có giá trị xuất khẩu đạt trên 30% tổng giá trị hàng hóa và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung nếu có giá trị hàng hóa xuất khẩu trên 50%. Nhà nước cũng quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu cho các doanh nghiệp sản xuất , vận tải, xây dựng mới được thành lập và giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo. Chính phủ đã ban hành quy định: miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghệp năm 2001 cho tất cả các hộ nghèo trên cả nước và các hộ trong xã thuộc dự án 135 Nhà nước cũng bãi bỏ sát sinh, miễn thuế buôn chuyến với mặt hàng lương thực, thực phẩm phục vụ cho bữa ăn hàng ngày của nhân dân. Lệ phí trước bạ cũng giảm , nhà nước còn giảm thuế sử dụng đất. Những biện pháp trên đây đã góp phần khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế có lợi cho quốc tế dân sinh, góp phần khôi phục và ổn định kinh tế , kích thích tiêu dùng. _ Chính sách khuyến khích đầu tư Môi trường đầu tư đã được cải thiện rất nhiều nhờ những chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước .Hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta , trong đó có luật đầu tư nước ngoài, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam . Ngoài ra việc cải thiện cơ chế hành chính chồng chéo cũng góp phần tạo ra một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Giai đoạn 2002 đến nay Tình hình kinh tế năm 2002 có nhiều sự khởi sắc mới , nhờ có sự cố gắng , nỗ lực của các nghành, các cấp năm 2002 chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế . Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,04%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực Châu á chỉ sau có Trung Quốc(8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Lạm phát trong năm 2002 là 4%, một tỉ lệ lạm phát chấp nhận được mặc dù cao hơn so với mục tiêu 35 của chúng ta đã đề ra. Tình hình giá cả đầu năm 2002 của chúng ta đã tăng lên tương đối nhanh, 6 tháng đầu năm giá cả đã tăng 2,9%, khi đó rất nhiều nhà kinh tế đã lo ngại rằng nếu chúng ta không kiểm soát được lạm phát thì rất có thể tỉ lệ lạm phát của nước ta sẽ lên tới 6%. Trước tình hình đó nhà nước đã có những chính sách nhằm ổn định giá cả trên thị trưòngmột cách hợp lý , nhờ đó, đến cuối năm tỉ lệ lạm phát của chúng ta chỉ là 4%. Hơn hai tháng đầu năm 2003, tình hình kinh tế , chính trị trên thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là sự kiện Mỹ chủ trương lật đổ chính quyền đương thời để lập nên một chính quyền mới ở Irắc, nguy cơ một cuộc chiến tranh vùng vịnh xảy ra , đã khiến cho tình hình kinh tế thế giới rơi vào tình trạng hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều tăng cao. Đặc biệt là giá xăng dầu, giá vàng tăng mạnh.Một sự kiện xảy ra trong thời gian vừa quađó là việc một số cửa hàng xăng dầu ở các thành phố lớn đã đóng cửa không bán xăng cho người tiêu dùng, đó chính là dấu hiệu của sự đầu cơ, có thể gây những ảnh hưởng bất lợi cho nền kinh tế . Trước tình hình đó, Bộ thương mại đã có những chấn chỉnh kịp thời yêu cầu tât cả các cửa hàng xăng dầu phải mở cửa bán hàng trở lại và xử phạt các cửa hàng đã đóng cửa bán hàng trong khi vẫn có xăng trong cửa hàng. Giá vàng cũng tăng mạnh, thậm chí có ngày trong một buổi sáng giá vàng tăng ba lần. Trước tình hình đó, nguy cơ giá cả tăng cao rất đễ xảy ra, thực tế trong hai tháng đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%,vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đã đề ra là tỉ lệ lạm phát không quá 5%. Hiện tại, giá dầu và giá vàng, giá rất nhiều mặt hàng khác trên thế giới vẫn tiếp tục tăng, ở nước ta giá vàng còn cao hơn trên thế giới , vì vậy trong những ngày vừa qua chúng ta vẫn tiếp tục nhập vàng về để tìm cách ổn định thị trưòng vàng trong nước . Việc giá cả tiếp tăng trong thời gian tới là điều không tránh khỏi , vì vậy Chính phủ cần thiết phaỉo đưa ra được những chính sách nhằm mục đích có thể kiểm soát được tình hình lạm phát hiện nay. 2.4 Đánh giá tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 2.4.1 Những thành công Trong giai đoạn 1986-1993, nhờ những áp dụng các công cụ của chính sách tiền tệ và chính sách tài chính một cách hợp lý chúng ta đã từ việc không kiểm soát được siêu lạm phát sang hoàn toàn kiềm chế và kiểm soát được nó. Từ tỉ lệ siêu lạm phát 775% năm 1986 xuống tỉ lệ lạm phát 5,2% năm 1993 quả là một kỳ tích, điều đó đã thể hiện chính sách đúng đắn của nhà nước trong việc tìm kiếm biện pháp kiểm soát lạm phát . Trong giai đoạn 1994-1998, lạm phát bùng phát trở lại mức 14,4% năm 1994,trước tình hình đó , NHNN đã thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm làm giảm mức cung tiền, nhờ đó mà tỉ lệ lạm phát đã giảm , đặc biệt là trong giai đoạn 1996-1998 các công cụ này phát huy tác dụng, tỉ lệ lạm phát đã giảm từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,6% năm 1998. Trong giai đoạn 1999-2001 chúng ta lại rơi vào tình trạng giảm phát, giá cả liên tục giảm . Do vậy, chúng ta đã thực hiện các chính sách nhằm kích cầu và tăng mức cung ứng hàng hóa và dịch vụ trên thị trưòng . Và kết quả đạt được sau khi đã thực hiệ các biện pháp trên là: đã chặn được giảm sút về tăng trưiởng kinh tế ; mức tổng cầu đã tăng lên đáng kể, đầu tư cho phát triển kinh doanh đã được phục hồi nhanh: năm 2000 đã tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên 14,6% so với năm 1999;chi tiêu của Chính phủ thể hiện qua ngân sách nhà nước cũng tăng lên rõ rệt; nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên khá nhanhNếu 6 tháng đầu năm 1999 khi chưa thực thi chính sách thì tổng mức bán lẻ và dịch vụ chỉ tăng 1,5%thì năm 2000 chỉ tiêu này là 9,1%; Xuất khẩu đã tăng từ 2% năm 1998 lên 23,3% năm 1999 và 25% năm 2000, năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 15,1 tỷ đô la tăng 45% so với năm 2000; tình trạng ứ đọng hàng hóa , không tiêu thụ được trong năm 1998 dã được đảy lùi; sản xuất có bước chuyển biến tích cực cả trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ; vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu phục hồi, năm 2000có vốn đăng ký là 1,973 tỷ USD tăng so với 1,568 tỷ USD năm 1999, năm 2001 tổng số vốn đăng ký đã tăng lên con số 3 tỷ USD; tình trạng vốn ứ đọng trong các ngân hàng đã phần nào được giải quyết. Năm 2002 được coi là một năm khá thành công trong tất cả các lĩnh vực của đất nước .Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,04%, tất cả các nghành đều có mức tăng cao, trong đó phải kể đến ngành dịch vụ mà đặc biệt là ngành du lịch. Chúng ta cũng đã kiểm soát được lạm phát ở mức 4%. 2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân Mặc dù, nhìn một cách tổng thể trong thời gian vừa qua chúng ta đã có thể kiềm chế và từng bước kiểm soát lạm phát , nhưng bên cạnh đó các chính sách của chúng ta vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong giai đoạn 1986-1993 chúng ta đã thực thi các chính sách tiền tệ và chính sách tài chính một cách có hiệu quả , song, chúng ta cũng phải thừa nhận là sau đó chúng ta đã không thực hiện các chính sách đó một cách thận trọng và phù hợp với tình hình mới . Và hậu quả lạm phát lại bùng nổ trở lại vào năm 1994. Trong giai đoạn 1999-2001, việc thực hiện biện pháp kích cầu đã mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, xu hướng phát triển là tích cực, song chưa thực sự vững chắc, nền kinh tế còn bộc lộ nhiều tồn tại và yếu kém: đà sút giảm kinh tế đã chặn lại được , nhịp tăng lên khá nhưng vẫn còn thấp hơn mqcs tăng trưởng bình quân trong 10 năm qua; mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư còn thấp, chưa đủ tạo sức bật mới chõ và phát triển thị trưòng ; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện hơn nhưng chưa được lành mạnh một cách thực sự; lãi suất tiền gửi giảm song tiền gửi vẫn tăng ,người dân vẫn không muốn tăng tiêu dùng và đầu tư, kích cầu tiêu dùng đạt kết quả còn hạn chế . Một số nguyên nhân của những hạn chế trên : trước hết đó là do bộ máy quản lý còn kém hiệu quả; vai trò điều tiết của nhà nước còn nhiều hạn chế: chưa cung cấp những thông tin cần thiết về diễn biến cung cầu trên thị trưòng nội địa và quốc tế, dẫn đén sản xuất nhiều khi còn tự phát, không gắn với thị trưòng . các biện pháp nới lỏng tiền tệ kích cầu diễn ra trong thời kỳ đang chiếm lĩnh kỷ cương lành mạnh hóa các NHTM nên các NHTM tỏ ra thận trọng khi cho vay, người dân đa số có xu hướng tiết kiệm để chi tiêu vào việc gì đó chứ không phải nhằm mục đích đầu tư. CHƯƠNG III : Giải pháp kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam 3.Mục tiêu và biện pháp khắc phục, kiểm soát lạm phát Mục tiêu của tất cả các nước là muốn có một tỉ lệ lạm phát ổn địnhvà phù hợp. Muốn đạt được mục tiêu đó , Chính phủ phải có những chính sách phù hợp để có thể kiểm soát được lạm phát . Khi có lạm phát cao xảy ra, thoát khỏi vòng kiểm soát của Chính phủ thì Chính phủ phải có ngay các biện pháp tình thế để khắc phục tình trạng này, sau đó mới có thể áp dụng được những chính sách nhằm kiểm soát lạm phát mang tính chiến lược. Vì vậy, người ta chia các biện pháp khắc phục và kiểm soát lạm phát ra thành các biện pháp tình thế và các biện pháp chiến lược. Các biện pháp tình thế: Những biện pháp này được áp dụng mang tính cấp bách, với mục tiêu làm giảm bớt cơn sốt lạm phát , trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát . Một số các biện pháp được áp dụng như sau : Một là, phải giảm lượng tiền trong nền kinh tế bằng biện pháp như ngừng phát hành tiền vào lưu thông. Biện pháp này còn được gọi là biện pháp đóng băng tiền tệ . Tỷ lệ lạm phát tăng cao, ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các biện pháp có thể đưa đến làm tăng cung ứng tiền như ngừng thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu,chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trưòng tiền tệ , không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách nhà nước , áp dụng các biện pháp làm giảm cung ứng tiền trong nền kinh tế như : ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trưòng tiền tệ , bán ngoại tệ và vay, phát hành các công cụ nợ của Chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân, do đó giảm được sức ép của giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trưòng . Hai là : Thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn các khoản chi chưa cấn thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách , cắt giảm chi tiêu đến mức có thể. Ba là: Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hóa từ ngoài vào, Bốn là : Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài Năm là : Cải cách tiền tệ .Đây là biện pháp cuói cùng phải thực hiện khi tỉ lệ lạm phát lên quá cao mà các biện pháp trên đây chưa mang lại hiệu quả mong muốn. Các biện pháp chiến lược: Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của đất nước , làm cơ sở cho ổn định tiền tệ một cách bền vững, từ đó chúng ta có thể hoàn toàn kiểm soát được lạm phát . Một số biện pháp chiến lược thường được áp dụng : Một là : Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa . Có thể nói đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để kiểm soát lạm phát , duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế . Sản xuất trong nước ngày càng phát triển, quỹ hàng hóa được tạo ra sẽ càng ngày càng tăng về số lượng v đa dạng về chủng loại, tạo tiền đề vững chắc nhất ch sự ổn định tiền tệ . Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa cho tiêu dùng trong nước , Chính phủ cần phải chú trọng phát triển các ngành, các hoạt động thu ngoại tệ như xuất khẩu hàng hóa , phát triển ngành du lịch... Hai là : Tiết kiệm chi tiêu của ngân sách nhà nước . Đồng thời, tăng cường công tác điều hành quản lý ngân sách nhà nước . 3.2 Một số biện pháp góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam Trên đây là những biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát mang tính chung nhất đối với hầu hết các nước , Việt Nam cũng phải áp dụng những biện pháp đó để có thể kiềm chế và kiểm soát lạm phát . Thực tế chúng ta đã áp dụng một số biện pháp trên để kiểm soát lạm phát trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế Việt Nam ,chúng ta còn có thể áp dụng một số biện pháp sau đây để kiểm soát lạm phát : Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ lảôn định giá trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Cúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó ví tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế . Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNH sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý . Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng. Về chính sách tài khóa : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước , cát giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước . Về vấn đề đầu tư : phải tiếp tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi để có thể thu hút được đầu tư trong và ngoài nước tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh do Phần iii : KếT luận Như vậy, qua các phần đề án được trình bày trên đây , tôi đã trình bày những hiểu biết của mình về vấn đề lạm phát và việc kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam . Qua đó, phần nào đã phản ánh được những vấn đề cơ bản nhất của lạm phát , giúp chúng ta có thể hiểu một cách tương đối về lạm phát , đồng thời, đề án cũng đã phản ánh được tương đối đày đủ về vấn đề lạm phát ở Việt Nam . Trong đề án của mình, tôi viết theo một thứ tự có chủ ý nhằm giúp cho vấn đề mà mình đưa ra có tính logic : Chương I, tôi trình bày những lý thuyết cơ bản về lạm phát ,khái niệm, bản chất của lạm phát , nguyên nhân của lạm phát , các tác động của lạm phát . Từ cơ sở lý thuyết đã trình bày ở Chương I, Chương II tôi trình bày thực trạng lạm phát và kiểm soát lạm phát ở nước ta , tôi dựa vào những lý thuyết trong Chương I để phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát trong từng thời kỳ , các chính sách của Chính phủ nhằm kiểm soát lạm phát tương ứng với từng thời kỳ đó. Sau khi đã trình bày các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn trong Chương I và Chương II, trong Chương III tôi trình bày Phương hướng và biện pháp chung để kiểm soát và khắc phục lạm phát , đồng thời cũng đưa ra một số biện pháp góp phần kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam theo những hiểu biết của mình. Mặc dù , đã rất cố gắng tìm hiểu các vấn đề liên quan đến lạm phát để viết đề án này, song với trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế của một sinh viên nên đề án này chưa thực sự phản ánh hết được các vấn đề liên quan đến lạm phát . Mặt khác , với khuôn khổ của một đề án chỉ hơn 20 trang ,tôi cũng không có điều kiện trình bày một cách sâu hơn về vấn đề này . ổn định và kiểm soát lạm phát là một vấn đề hết sức quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế bền vững,vì vậy, tôi hi vọng lần sau nếu có điều kiện nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, tôi sẽ trình bày đày đủ và rõ ràng hơn. Một lần nữa, tôi xin cám ơn cô giáo Phan Thị Hạnh đã hướng dẫn tôi viết đề án này. Phần iv danh mục tài liệu tham khảo 1. TS.Nguyễn Hữu Tài(chủ biên),2002, giáo trình Lý thuyết tài chính -tiền tệ, NXB Thống Kê 2. Lê Vinh Danh, Tiền và hoạt động ngân hàng, 1996, NXB Chính trị quốc gia 3. Frederic S. Mishkin, Tiền tệ-ngân hàng và thị trưòng tài chính , 1994, NXB Khoa học kỹ thuật 4. Niên giám thống kê các năm 1999, 2000, 2001, 2001, NXB Thống Kê 5. Hoàng Quế, Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương, 2002, NXB Thống Kê 6. Hồ khắc Tân, 2001, “Tăng trưởng kinh tế và lạm phát”,tạp chí Tài chính số tháng 10/2001 7 Vũ Ngọc dung, 2001, “Về mối quan hệ giữa cung ứng tiền với tăng trưởng kinh tế và chỉ số giá”, tạp chí Ngân hàng số tháng 10/2001 8. Phạm chí Quang,2000, “ Liệu nền kinh tế Việt Nam có phục hồi sau thiểu phát”, tạp chí Ngân hàng số 1+2 năm 2000 9. Nguyễn Đồng Tiếu, 2000, “Cần có cách nhìn nhận đúng đắn khi đánh giá lạm phát ở Việt Nam”, tạp chí Ngân hàng số 9 năm 2000 10. Trần Mạnh Kiên, “Mục tiêu lạm phát , một cách tiếp cận mới về chính sách tiền tệ”, tạp chí ngân hàng số 5 năm 2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35403.doc
Tài liệu liên quan