Đề án Mối quan hệ giữa tăng trưởng với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Liên hệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1996 đến nay

Ngày nay, trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới thì yếu tố chuyển dịch cơ cấu kinh tế chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Thực tế cho thấy nhiều nước trên thế giới đã có sự tăng trưởng cao nhờ lựa chọn cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý như: NICs, Nhật Bản,. đối với Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển biến cơ bản. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2010 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp như Đại hội VIII đã đề ra. Tuy nhiên trong quá trình phát triển cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam vẫn còn một số những tồn tại cần được giải quyết. Đề án đã trình bày một số nguyên nhân của tình trạng trên và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mong đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ giữa tăng trưởng với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Liên hệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gắn với yêu cầu tính bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng trưởng không những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, có hiệu quả của các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý. 2. Phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Phát tiển kinh tế là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, sự tăng lên của tổng thu nhập nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người.. Thứ hai, sự thay đổi (tiến bộ) về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế quốc gia. Thứ ba, sự tiến bộ về mặt xã hôi. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, khẳ năng tiếp cận tới các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân chí giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân,…làm cho con người ngày càng có cuộc sống tốt hơn. Nếu nền kinh tế chỉ nhìn theo khía cạnh tăng trưởng thì chưa đủ, để nhìn toàn diện phải nhìn trên phương diện phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là lượng thì phát triển kinh tế phải là cả lượng và chất. Như vậy, đánh giá về phát triển kinh tế phải dựa trên đánh giá của các khía cạnh: Đánh giá sự thay đổi về lượng, đánh giá về sự biến đổi trong cơ cấu của nền kinh tế, đánh giá về sự thay đổi trong các vấn đề xã hội. Ngày nay khi nói đến phát triển người ta thường nhắc đến khái niệm phát triển bền vững, nghĩa là “phải có tính liên tục, mãi mãi hoặc các lợi ích của nó phải được duy trì không hạn định”. 3. Khái niệm về cơ cấu ngành của một nền kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế là sự tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Cơ cấu ngành của một nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng. Có nhiều cách phân loại ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành. Song cho đến nay chính thức tồn tại hai hệ thống phân ngành kinh tế: Phân ngành kinh tế theo hệ thống sản xuất vật chất (MPS) và phân ngành theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). Theo hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân thành hai khu vực: Sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật chất và khôn sản xuất vật chất được phân thành các ngành cấp I như: Công nghiệp, Nông nghiệp... Các ngành cấp I lại được phân thành các ngành cấp II, chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành sản phẩm như: điện năng, nhiên liệu.... Đặc biệt trong các ngành công nghiệp người ta còn phân ra thành nhóm A và nhóm B. Theo hệ thống tài khoản quốc gia, các ngành kinh tế được phân thành 3 nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ba ngành gộp này bao gồm 20 ngành cấp I như: nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, khai mỏ khai khoáng,... Các ngành cấp I lại được phân nhỏ thành các ngành cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm. Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tùy theo mức dộ gộp hay chi tiết hóa đến chừng nào đó mà có được tập hợp các ngành tương ứng. Với một cách phân ngành hợp lý và một giá trị đại lượng được chọn thống nhất có thể xác định được các chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt cơ cấu ngành, đó là tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế. Loại chỉ tiêu định lượng thứ nhất này được sử dụng để nghiên cứu liên quan đến phát triển cơ cấu ngành của nền kinh tế. Chỉ tiêu định lượng thứ hai có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế, đó chính là các hệ số trong bảng cân đối liên ngành (của hệ MPS) hay bản Vào – Ra (I/O) (của hệ thống SNA). Như vậy theo định nghĩa cơ cấu ngành đưa ra xét về mặt định lượng, ít ra phải có hai loại chỉ tiêu trên đây mới cho ta sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ cấu ngành của một nền kinh tế. 4. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi quan hệ tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đấy. Theo định nghĩa này, điều chỉnh cơ cấu ngành chỉ diễn ra sau một khoảng thời gian nhất định vì nó là một quá trình và sự phát triển của các ngành phải dẫn đến sự thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng (ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự thay đổi này là kết quả của quá trình: Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế. Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay đổi cơ cấu. Trong trường hợp này sự điều chỉnh cơ cấu ngành là kết quả của sự phát triển không đồng đều của các ngành sau mỗi giai đoạn. Chỉ tiêu xác định tốc độ biến đổi tương quan giữa các ngành kinh tế thường dùng là nhịp độ tăng trưởng ngành: Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Sự thay đổi này trước hết biểu thị bằng số ngành có liên quan. Mức độ tác động qua lại của ngành này với các ngành khác qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho các ngành hay nhận từ các ngành đó. Sự tăng trưởng của các ngàn dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi nền kinh tế. Cho nên, chuyển dich cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh tế. Vấn đề đáng quan tâm là ở chỗ : sự chuyển dich cơ cấu ngành diễn ra theo xu hướng nào, tốc độ nhanh chậm ra sao, có những quy luật gì? Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể. Việc tìm ra một xu hướng hay giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam không đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được mà là sự phát hiện những đặc thù của đất nước, của môi trường trong nước và thế giới hiện nay để làm thích ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt Nam. II. Mối quan hệ qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố khi xét đến sự tác động trên các phương diện khác nhau: Xét về phương diện đầu vào có ba yếu tố, đó là vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFB); Xét về phương diện cấu thành có ba khu vực: nông, lâm nghiệp – thủy sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ; Xét từ phương diện đầu ra có ba yếu tố, đó là tích lũy – đầu tư, tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu ròng. Nhìn trên bình diện chung, các yếu tố nêu trên đều có vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế. trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng Như chúng ta đã biết, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thuộc tính của hệ thống kinh tế, nó quy định tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển. Nếu có được cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ có khả năng tạo ra tăng trưởng nhanh và hiệu quả cao. Cơ cấu kinh tế không chỉ tạo ra nhiều việc làm để giảm thất nghiệp mà còn tạo ra tăng trưởng kinh tế, gia tăng quy mô nền kinh tế, dẫn đến các mục tiêu khác của sự phát triển đều được giải quyết. Ngược lại khi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ có khả năng tăng mức tích lũy để đầu tư cải tạo cơ cấu kinh tế, hướng tới trạng thái hiện đại hơn, hiệu quả hơn. Sự hợp lý của cơ cấu kinh tế đảm bảo cho tăng trưởng nhanh và bền vững Cơ cấu kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển. Đồng thời, tăng trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế là hai mặt của phát triển kinh tế. Giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại như mối quan hệ tác động giữa lượng và chất mà trong đó tăng trưởng chính là mặt lượng và cơ cấu kinh tế thể hiện mặt chất của quá trình phát triển. Cơ cấu kinh tế hợp lý thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cần thiết để hoàn thiện hơn nữa cơ cấu kinh tế trong tương lai. Cơ cấu ngành là bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế, sự biến động của nó có ý nghĩa quyết định đến sự biến động của nền kinh tế. Nếu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) phản ánh động thái tăng trưởng thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh chất lượng tăng trưởng. Về mặt lý thuyết, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia vừa là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế vừa phản ánh bản chất của quá trình công nghiệp hoá. Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh bản chất quá trình công nghiệp hoá, khả năng thích nghi và mức độ hội nhập quốc tế của quốc gia về kinh tế. Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế hoặc cơ cấu vùng, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ, cơ cấu quy mô hay cơ cấu thành phần kinh tế…, về thực chất là điều chỉnh phương thức phân bổ và sử dụng các nguồn lực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành là tiêu điểm của chính sách công nghiệp. Thành công của công cuộc công nghiệp hoá phụ thuộc trực tiếp vào thành công của việc xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp. Giữa tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít với nhau, cơ cấu kinh tế giữa các ngành ảnh hưởng rất lớn đến nhịp độ tăng trưởng của các ngành. Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư của các ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành và cơ cấu các ngành trong toàn bộ nền kinh tế. Không những thế mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu của các ngành. Đó là những nhân tố tác động trực tiếp đến nhịp độ tăng trưởng chung của GDP toàn nền kinh tế. Vốn đầu tư vào các ngành khác nhau không những mang lại mức độ tăng trưởng khác nhau mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ đầu tư vào các ngành khác nhau cũng mang lại sự chuyển dịch lớn về cơ cấu của GDP vì mỗi ngành sẽ có sự đóng góp khác nhau vào nhịp tăng GDP của vốn. Quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được xem xét như là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu người. Mặc dù có nhiều thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng trưởng nhưng chỉ tiêu trên vẫn được coi trọng và làm thước đo cho sự phát triển kinh tế. Một xu hướng mang tính quy luật là cùng với sự phát triển của kinh tế là một quá trình thay đổi về cơ cấu kinh tế, tức là một sự thay đổi tương đối về mức đóng góp, tốc độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng về cấu thành nên toàn bộ kinh tế. Một trong những cơ cấu kinh tế được quan tâm và nghiên cứu nhiều trong mối liên hệ với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế là cơ cấu ngành. Ngay từ cuối thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engle đã phát hiện ra mối quan hệ giữa phát triển kinh tế (thu nhập bình quân tăng lên) với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Theo E.Engle, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engle được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập, tức là tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế đã có sự thay đổi Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engle đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng trong quá trình phát triển. 2. Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển Cơ cấu kinh tế là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển kinh tế các nước. Một nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng và phát triển khi nó có một cơ cấu kinh tế hợp lý tiên tiến, đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của thời đại Cơ cấu kinh tế hợp lý tạo động lực cho việc khai thác hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và quốc tế Các khu vực , địa phương cần phải có được chính sách cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển đất nước Bảo đảm tăng cường sức mạnh về quốc phòng và an ninh, góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị của đất nước. Tạo điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình tăng trưởng và phát triển Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỉ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỉ trọng của công nghiệp. Sự gia tăng của loại ngành, loại sản phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng nhanh, giảm dần tỷ trọng các ngành sản có dung lượng lao động cao. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng tiêu dùng là sản phẩm lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm.ngược lai, tỉ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. Tóm lại, các xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hiện nay là: - Giảm lỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. - Tốc độ tăng của dịch vụ có xu hướng ngày càng nhanh hơn so với tốc độ tăng của công nghiệp, nông nghiệp. - Tăng tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao. - Xu hướng “mở” trong cơ cấu kinh tế là cơ cấu sản xuất. Cơ cấu “mở” bao gồm các ngành có dấu hiệu lợi thế. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1996 đến nay 1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định Nhiều năm liên tục, kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định. GDP tăng bình quân trên 7% năm, riêng năm 2006 là 8,2% đứng thứ hai ở châu Á và năm 2007 là 8,5%. Việt Nam cũng đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay đã có gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với gần 8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, riêng năm 2006 Việt Nam đã thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, tăng 50% so với 2005. Năm 2007, con số này là gần 13 tỉ USD. Kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm liên tục trong nhiều năm qua, giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tương đương trên 60% GDP của cả nước. Bảng : Tăng trưởng GDP từ năm 1995-2007 năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 GDP (%) 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.79 6.89 7.08 7.26 7.96 8.43 8.17 8.5 Nguồn: 2. Tăng trưởng kinh tế đã dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền kinh tế khu vực và thế giới Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH: đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông – lâm - thuỷ sản đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995, 24,5% năm 2000, năm 2005 xuống 20,9%, và đến năm 2006 còn 20,4%; Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%, năm 1995 đã tăng lên 28,8%, năm 2000 là 36,7%, năm 2005 là 41% và đến năm 2006 đã tăng đến 41,6%; Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%, năm 1995 là 44,0%, năm 2000 là 38,8% năm 2005 là 38,07% và đến năm 2006 là 38,08% Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ XK/GDP ngày càng tăng, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001 và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng KNXK 5 năm 2001-2005 đã đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm), khiến cho năm 2005 bình quân KNXK/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, KNXK tiếp tục đạt mức cao 40 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2005. Năm 2007, KNXK 9 tháng đầu năm đã đạt khoảng 35,2 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2006. Tổng KNXK năm 2007 đạt tới 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm 2006, đưa tỷ lệ XK/GDP lên đến 67,4%. Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản... đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001: vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỷ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỷ USD; 2003: 3,2 tỷ USD; 2004: 4,5 tỷ USD; 2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; và 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt 9,6 tỷ USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2006. Theo dự báo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam), kết thúc năm 2007 này các thủ tục hành chính cấp phép triển khai thuận lợi, nhanh chóng, kịp với nhu cầu các nhà đầu tư thì có thể vốn FDI vào Việt Nam sẽ đạt tới con số kỷ lục là 13 tỷ USD). Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực. Nếu như năm 1996, lực lượng lao động trong ngành nông-lâm-thuỷ sản còn chiếm đa số lực lượng lao động xã hội (73%) thì đến năm 2000 giảm xuống còn 68,2% và đến năm 2006 còn khoảng 56,8%; Tỷ lệ lao động công nghiệp năm 1996 là 11,2%, năm 2000 là 12,1%, năm 2006 khoảng 17,9%; Tỷ lệ lao động trong các ngành dịch vụ năm 1996: 15,6%, năm 2000: 19,7, năm 2006: 25,3%. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới, chiếm 38,4% GDP vào năm 2006 và đang chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó kinh tế hợp tác và HTX phát triển khá đa dạng, chiếm 6,8% GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp 15,9 % GDP của cả nước năm 2006 3. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư. Việc đánh giá trình độ và chất lượng dân sinh của các quốc gia, lãnh thổ có thể được căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, song thông thường có tính phổ biến ngày nay người ta vẫn dùng tiêu chí chỉ số phát triển con người (HDI) là một thước đo tổng hợp về nhiều khía cạnh trình độ và chất lượng dân sinh. Theo Báo cáo hàng năm của Liên hiệp quốc, chỉ số HDI của Việt Nam đã liên tục tăng trong những năm gần đây, từ 0,671 điểm (năm 2000) đã tăng lên 0,688 điểm (2003), tăng lên 0,704 điểm (2005) và có khả năng đạt tới 0,750 điểm vào năm 2010 như mục tiêu Chiến lược Dân số đã đề ra. Đáng lưu ý là, từ năm 1995 đến nay, xếp hạng HDI của Việt Nam trong khu vực đã được nâng lên từ thứ bậc 7 lên thứ bậc 6; ở Châu Á từ thứ bậc 32 lên thứ bậc 28 và trên thế giới từ thứ bậc 122 lên thứ bậc 108 so vớí 177 nước trên thế giới. Để thấy rõ một cách chi tiết về trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư Việt Nam đã ngày càng nâng cao hơn, nên xem xét tổng thể các tiêu chí cơ bản sau đây: +) Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập GDP bình quân/người của cả nước đã tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm 2005, tương đương 640 USD (tăng 12,1%/năm và 1,75 lần sau 5 năm). Năm 2007, ước tính đạt 835 USD. +)Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng từ 65,2 tuổi năm 1995 lên 70 tuổi năm 2003 và lên 71,5 tuổi năm 2005. +) Xếp hàng chỉ số giới của Việt Nam cao hơn xếp hạng về HDI và GDP bình quân đầu người, đứng thứ 89 trên 144 nước năm 2005 +)Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ +) Sự nghiệp phát triển giáo dục - tạo có bước phát triển mạnh. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đến năm 2005, có 31/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 94%, trong khi đó trung bình của thế giới là 79%, các nước thu nhập thấp là 61%, các nước thu nhập trung bình là 90%, các nước châu Á – Thái Bình Dương là 90%. Đến hết năm 2006, số học sinh đi học bậc tiểu học đạt 97,5%, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm, dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp được tăng cường. Nhiều tỉnh đã xây dựng được trường chuẩn quốc gia. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo tăng lên. Năm 2007, chi cho giáo dục và đào tạo đã đạt tới 18% tổng chi ngân sách nhà nước. +) Đời sống văn hoá không ngừng nâng cao. Tính đến năm 2006, đã có khoảng 95% số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam, 90% số hộ được xem truyền hình Việt Nam. Đáng lưu ý, có nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã được phủ sóng phát thanh, truyền hình. Đến năm 2007, đã có 650 cơ quan báo chí, vớí 713 ấn phẩm, có70 tờ báơ điện tử và hàng trăm ngàn trang tin điện tử. Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao đều tiếp tục phát triển mạnh, cơ sở vật chất được tăng cường. Nước ta dã tổ chức hành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội thể thao của người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 2, gây ấn tượng tốt trong khu vực và quốc tế. 4. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thể hiện ở thu nhập GDP bình quân đầu người nước ta đã không ngừng tăng lên, từ 220 USD những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, đã tăng lên 400 USD năm 2000, tăng 1,8 lần, 483 USD năm 2003, đến năm 2005 đã là 640 USD, và đến năm 2007 là 835 USD. Đáng lưu ý là công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt kết quả rất khả quan, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Là một trong những quốc gia có kết quả giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. đến cuối năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn cũ còn 7% (kế hoạch là 10%; năm 2001 là 17,5%). Theo Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khoá XII (Nhân dân, 23/10/2007), đến nay đã có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hoàn có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% (theo chuẩn mới) năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ xoá đói nghèo đến năm 2015 trước 10 năm II. Thực trạng về tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến tăng trưởng giai đoạn 1996 đến nay 1. Những thành tựu đã đạt được 1.1. Cơ cấu ngành kinh tế dần chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong những một trong những khiếm khuyết lớn của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hoá tập trung,quan liêu,bao cấp là cố gắng hình thành nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ quan, bất chấp quy luật, kéo theo tình trạng đầu tư lãng phí, kinh tế Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp. Sau đổi mới, nhất là từ thập kỷ 90 trở lại đây, cùng với những thành tích tăng trưởng kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô cũng ngày càng thể hiện rõ xu hướng tiến bộ. Với những chính sách phát triển nhiều thành phần, đa dạng hoá, đa phương hoá nền kinh tế đã thúc đẩy các hoạt động CN, XD, đặc biệt các hoạt động thương mại, DV phát triển với tốc độ nhanh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CN hoá. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm, thể hiện ở bảng: (Đơn vị tính: %) Năm 1990 1995 1997 2000 2001 2002 2003 2004 2005 GDP 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 N-L-TS 38,74 27,18 25,77 24,53 23,24 23,03 22,54 21,8 20,9 CN-XD 22,67 28,76 32,08 36,73 38,13 38,49 39,47 40,2 41,0 DV 38,59 44,06 42,15 38,73 38,63 38,48 37,99 38,0 38,1 Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có nhiều bước tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và vùng lãnh thổ, góp phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm (xem bảng). Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi tăng từ 19,3% (năm 2000) lên đến 21,6% (năm 2004) và 23,4% (năm 2005); còn tỷ trọng trong trồng trọt lại giảm từ 78,2% (năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003), nhưng tăng nhẹ tới 76,3% (năm 2004) và 74,5% (năm 2005). Điều đó thể hiện, nông nghiệp của nước ta đã từng bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa giảm dần để tăng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn (như cây công nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu tương..., cây công nghiệp lâu năm: chè, cao su, hạt tiêu, cây ăn quả...), song vẫn bảo đảm được an ninh lương thực quốc gia và tăng xuất khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và có hiệu quả hơn. Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước, những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng lúa có năng suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân. Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch khá, nhất là giai đoạn từ năm 1998 đến nay. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 32,08% GDP (năm 1997) lên tới 36,73% (năm 2000) và 41,0% (năm 2005). Trong ngành công nghiệp sự tăng nhanh của tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến (từ 78,7% năm 2000 lên tới 81,23% năm 2004 tính theo giá thực tế) và sự giảm tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ (từ 15,7% xuống còn 12,8%), tăng tỷ trọng của công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước (từ 5,6% lên 5,9%) trong thời kỳ tương ứng đã phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu đúng hướng. Nếu xét theo tiêu thức công nghệ, càng thấy rõ hơn xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp những năm qua là tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Bởi, các ngành công nghiệp có công nghệ cao ngày càng được mở rộng và phát triển nhanh, tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có giá trị cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một nâng lên ở trong nước và tham gia xuất khẩu, như ô-tô, sản phẩm điện tử, tàu thủy... Các ngành có trình độ công nghệ trung bình và thấp phát triển ở tốc độ trung bình và thấp để sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng chưa quá khắt khe của thị trường trong nước, cũng như nhằm duy trì cung cấp những sản phẩm thông thường thiết yếu cho nhân dân. Trong lĩnh vực dịch vụ, đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng, nhất là từ thập niên 90 trở lại đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này lại không đều qua các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi bật qua việc tăng nhanh của ngành dịch vụ trong thời kỳ 1990 - 1995, sau đó liên tục bị giảm sút và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây. Điều đó khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối mạnh trong thời kỳ 1990 - 1995 (năm 1995 đạt 44,06%) đã liên tục bị giảm: năm 1996 còn 42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm 1998 còn 41,73%; năm 1999 còn 40,08% và năm 2005 còn 38,1% 1.2. Công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu tạo cho nền kinh tế mức tăng trưởng ngày càng cao Công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu vừa qua đã tạo cho nền kinh tế từ mức tăng trưởng 4% năm 1987 lên 9% năm 1996, 8,5% năm 2005. Cuối cùng năm 1997 nền kinh tế gặp khó khăn song ước vẫn đạt 8-9%. Mức thu nhập bình quân đầu người tăng 5%/năm, từ 100 USD năm 1987 lên 300 USD năm 1996 và 545 USD năm 2004. Tốc độ tăng trưởng cao nhất thuộc về khối ngành công nghiệp (9-16%/năm), tiếp đến là dịch vụ (7-8%/năm), nông nghiệp là ngành đặc trưng, khoảng 4,8%. Nếu so sánh các nước có tôc độ tăng trưởng như vừa qua có thể xem là thành tựu đáng kể (xem biểu đồ ) Biểu đồ : Tốc độ tăng trưởng GDP và các khu vực kinh tế (%) Nông nghiệp hiện nay chiếm khoảng 21- 22% GDP, đã vượt qua tình trạng thiếu lương thực và trở thành nươc xuất khẩu thưc 3 thế giới. Sau khi giải quyết tốt về lương thực, thực phẩm, cơ cấu nông nghiệp được chuyển hướng mạnh sang phát triển cây công nghiệp điển hình là tốc độ gia tăng cây Cà phê, cao su năm 1996. Hải sản và các ngành nông nghiệp phi truyền thống tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Công nghiệp chiếm khoản 37 – 38%GDP và luôn dẫn đầu tăng trưởng và ở mức 13-16% trong thời gian qua. Tăng trưởng của công nghiệp chủ yếu do đầu tư của các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài, những năm gần đây biến đổi thất thường, năm 2002 là 14,5%, năm 2003 là 10,34%; năm 2004-2005 là 16% Dịch vụ: chiếm khoảng 42% GDP và hiện nay tiếp tục tăng. Khu vực ngân hàng, giao thông vận tải và các dịch vụ liên quan là khu vực phát triển mạnh nhất; dịch vụ máy tính bảo hiểm, thương mại, kiểm toán, thanh toán cũng phát triển tương đối tốt. Tuy nhiên, dịch vụ tài chính, luật pháp, quản lý, nghiên cứu và triển khai và dịch vụ công nghiệp cơ khí còn bị hạn chế. 1.3. Đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế chiếm tỷ trong cao Qua số liệu ước tính cả năm 2006, hầu hết các chỉ tiêu báo cáo ra Quốc hội đều đạt và vượt. Nền kinh tế duy trì được mức tăng trưởng khá, tăng gần 8,2%. Nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung: giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 17%, cao hơn mức kế hoạch; chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm công nghiệp được nâng cao; các ngành dịch vụ phát triển khá, nhất là thương mại bán lẻ; hoạt động viễn thông được mở rộng, đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trong năm 2006 như sau: Đơn vị tính: % Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nứơc (GDP) 8,4 8,17 Trong đó: Nông, lâm, thuỷ sản 4,0 3,4 Công nghiệp, xây dựng 10,6 10,37 Dịch vụ 8,5 8,29 2. Tốc độ tăng giá trị sản xuất Trong đó: Nông, lâm, thuỷ sản 4,9 4,4 Công nghiệp, xây dựng 17,2 17,0 3. Cơ cấu ngành kinh tế theo GDP Trong đó: Nông, lâm, thuỷ sản 20,89 20,40 Công nghiệp, xây dựng 41,04 41,52 Dịch vụ 38,07 38,08 4. Cơ cấu ngành kinh tế theo lao động Trong đó: Nông, lâm, thuỷ sản 56,8 55,7 Công nghiệp, xây dựng 17,9 19,1 Dịch vụ 25,3 25,2 (1) Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá. Cả năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 490,8 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với năm trước (năm 2005 tăng 17,2%); trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,1% (Trung ương tăng 11,9%, địa phương tăng 2%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8%. Trong năm 2006, các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp đạt mức tăng trưởng cao so với năm trước là: than sạch tăng 18,7%, thủy sản chế biến tăng 17,2%; thuốc ống các loại tăng 17%; xà phòng các loại tăng 17,9%; sứ vệ sinh tăng 17,3%; xe máy các loại tăng 16,9%;... Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của nhiều địa phơng khá tốt, có tới 10/15 tỉnh, thành phố có tỷ trọng lớn duy trì được tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao so với năm trước như thành phố Hà Nội tăng 16,6%; Hải Phòng tăng 18,1%; Vĩnh Phúc tăng 25,6%; Bình Dương tăng 25,3%; Hà Tây tăng 23,3%; Hải Dương tăng 23,2%; Đồng Nai tăng 22%; Cần Thơ tăng 22%; Quảng Ninh tăng 18%; Khánh Hòa tăng 16,1%... (2) Sản xuất nông nghiệp Mặc dù năm 2006 có nhiều khó khăn do bão lũ, mưa đá; dịch bệnh... nhưng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất tiếp tục được đẩy mạnh. Giá trị sản xuất toàn ngành tăng 4,4%, trong đó: nông nghiệp tăng 3,6% (trồng trọt tăng 2,7%, chăn nuôi tăng 7,3%, dịch vụ tăng 2,7%); lâm nghiệp tăng 1,2% và thủy sản tăng 7,7% (nuôi trồng tăng 13%, khai thác tăng 0,1%). (3) Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển Khu vực dịch vụ năm 2006 duy trì được mức tăng trưởng khá, giá trị tăng thêm ước đạt 8,29%. Một số ngành dịch vụ tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng cao hơn so với năm 2005, nh khách sạn, nhà hàng tăng 12,42%; vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch tăng 10,13%; thương nghiệp tăng khoảng 8,55%; giáo dục đào tạo tăng 8,42%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 8,18%... Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP tăng chút ít so với năm 2005, chiếm 38,08% GDP. 1.4. Cơ cáu kinh tế đã chuyển dịch dần theo hướng hướng vào xuát khẩuđòng thời thay thế nhập khẩu Trong mấy năm trở lại đây, tốc độ tăng xuất khẩu bất ngờ và ngoạn mục (xem biểu đồ ). Biểu đồ : Kim ngạch xuất khẩu qua các năm giai đoạn 1991-2004 Đơn vị: tỷ USD Song tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu thô vẫn còn cao, năm 2003 là 49,5%. Hàng nhập khẩu quan trọng là nhiên liệu, sắt thép, phân bón, linh kiện điện tử, phụ tùng ô tô, xe máy... Trong những năm vừa qua nền kinh tế Việt Nam vẫn mang nặng tính chất hướng nội, thay thế nhập khẩu nhưng về mặt chủ trương và biện pháp thực hiện đã coi trọng hướng vào xuất khẩu. Từ năm 1991 đến năm 2004 bình quân kim ngạch xuất khẩu đạt 16, 9 tỷ USD. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đạt 20, 176 tỷ USD. Năm 2004 xuất khẩu đạt 26 tỷ USD vượt kế hoạch 15,2% và tăng 23,1% so với 2004 Cơ cấu hàng xuất khẩu biến đổi theo hướng tăng chút ít tỷ lệ hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, hàng công nghệ và khoáng sản. Tóm lại, cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong những năm vừa qua đã có sự chuyển dịch đúng hướng, đẩy nhanh hội nhập và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời phù hợp với quá trình phát triển, cụ thể là tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2. Những bất cập còn tồn tại Tuy các kế hoạch đã được thực hiện gần sát về phương diện các con số. Nhưng nói chung, chuyển dịch còn chậm là điểm cần lưu ý. Đặc biệt là về dịch vụ,giá trị tuyệt đối tuy vẫn tăng nhưng không rõ nét dẫn đến tỷ trọng lại có xu hướng giảm trong khi kế hoạch và xu hướng chung đòi hỏi phải có sự tăng lên của ngành này. Điều đáng lo ngại là tỷ trọng của một số ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và trong cơ cấu GDP còn thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, vận tải, viễn thông, dịch vụ kinh doanh. Và, mặc dù đã xuất hiện một số ngành dịch vụ mới trong lĩnh vực dịch vụ, nhưng nhìn chung tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, biểu hiện một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa hiệu quả và theo hướng hiện đại. Sự chuyển dịch trong cơ cấu nông thôn cũn ch?m bởi vì chưa theo được thị hiếu của khách hàng bởi xản xuất cũ lạc hậu, hình thức sản xuất chủ yếu vẫn là thâm canh phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. một số nghành công nghiệp còn sử dụng máy móc thô sơ cũ kỹ chính vì vây mà năng suất lao động không cao, vấn đề sức khoẻ của ncông nhân không được đảm bảo, mức độ ô nhiễm cao do các nhà máy thải ra. Vấn đề huy động vốn còn ở mức thấp số vốn huy động được ở trong và ngoài nước còn ít nên việc mở thêm cacs công ty liên doanh, các doanh nghiệp còn ở mức hạn chế Trong quá trình quản lý, điều hành đó bộc lộ sự yếu kém, còn nhiều các kẽ hở để một số cans bộ suy thoái về phẩm chất đạo đức vẫn còn nàm trong hang ngũ của Đảng lợi dụng kẽ hở để đục khoét của nhà nước Mặc dù đất nước ta dồi dào về nguồn lao động nhưng số lao động có tay nghề còn ít, số còn lại tập chung chủ yếu ở vùng nông thôn. Mặt khác số người có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp còn hạn chế nên việc tiếp thu khoa học kỹ thuật còn chậm - Một số nghành như nông nghiệp, công nghiệp vẫn chưa áp dung khoa học kỹ thuật hiện đại nên năng xuất lao động còn thấp. - Hàng năm tỷ lệh hang xuất khẩu còn thấp hơn nhiều xo với nhập khẩu đặc biệt là sản phẩm của một ó nghành công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng, dầu mỏ… + Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội vẫn còn tồn tại tỷ lệ trênh lệch thu nhập giưuã thành thị so nông thôn còn cao, vấn đề đưa thành thị về nông thôn còn chậm + Kết cấu hạ tầng phục vụ sẩn xuất và đời sống của một số vùng đặc biệt là vùng xâu vùng xa, vùng nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp các vùng nông thôn cao hệ thống đường - trường – trạm còn chưa tới một số vùng miền núi. + Tuy ý thức về kế hoạch hoá gia đình còn tiến bộ rõ rệt nhưng một số vùng miền núi thì vấn đề trên còn hết sức hạn chế hạn chế vì vẫn tồn tại những quan điểm cổ hủ lạc hậu Vậy bên cạnh vấn đề chúng ta đã đạt được thì còn rất nhiều nững vấn đề chúng ta cần giải quyết ngay. Để từng bước chúng ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển như hiện nay. Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta thời gian qua về cơ bản mới thực sự chỉ mang ý nghĩa tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập đời sống cho nhân dân, nhưng hiệu quả và sự góp phần vào đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, thời gian tới, cần có những biện pháp tích cực để tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân và cơ cấu xuất khẩu. Phát triển công nghiệp chế biến, trước hết liên quan đến những sản phẩm nông nghiệp, đồng thời cố gắng tạo ra những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu "mũi nhọn", có hàm lượng công nghệ cao, mở rộng xuất khẩu các loại dịch vụ. 3. Nguyên nhân Trình độ và tích chất phát triển công nghiệp còn thấp so với thế giới và khu vực. Thiếu chiến lược và quy hoạch cụ thể có đủ luận chứng kinh tế kỹ thuật có tính khả thi làm cơ sở cho định hướng phát triển. Cơ cấu ngành chưa có sự kết hợp chặt chẽ theo mục tiêu thống nhất với cơ cấu theo thành phần. Ngoài ra, tính tự phát trong phát triển kinh tế còn nặng nề. Do nguồn lực tài chính hạn hẹp và sự phân bố thiếu hợp lý của nguồn lực này làm cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa rõ nét và hợp lý để hình thành lên các ngành trọng điểm mũi nhon. Tóm lại, trực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta thời gian qua tuy đã đạt được các thành tựu, góp phần tạo đà tăng trưởng kinh tế nhanh và tương đối ổn định. Song cũng phát sinh nhiều vấn đề cần được tiếp tục tháo gỡ, nhất là trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRI ỂN Ở VIỆT NAM I. Xác định mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu trong mối quan hệ với tăng trưởng trong giai đoạn nhất định. 1. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải tiến tới một cơ cấu hợp lý, đó là một cơ cấu đa ngành, trong đó hình thành các ngành trọng điểm mũi nhọn. - Tập trung sức phát triển mạnh và toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn liền với chế biến sản phẩm bằng công nghệ ngày càng tiến bộ, hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh diện tích và sản lượng cây công nghiệp, cây ăn qu ả, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, đẩy nhanh thuỷ lợi hoá, từng bước cơ giới hoá, điện khi hoá và ứng dụng rộng rãi khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Tăng thu nhập, tăng sức mua của dân cư trên thị trường nông thôn, tạo cơ sở cho thị trường đầu ra của công nghiệp phát triển với nhịp độ nhanh trong cơ cấu ngành kinh tế. - Trong các ngành công nghiệp, nổi lên hàng đầu là vai trò của công nghiệp chế tạo và chế biến phát triển nhanh một số ngành, một số lĩnh vực có lợi thế như: chế biến lương thực, thực phẩm công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo. - Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất và đời sống kinh doanh. 2. Kết hợp tối ưu giá cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế - Cơ cấu ngành phải kết hợp với cơ cấu thành phần kinh tế thể hiện ở: chiến lược và chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, trong đó nhấn mạnh vai trò kinh tế của Nhà nước. - Cơ cấu ngành gắn liền với cơ cấu vùng thông qua các biện pháp: + Xây dựng các khu công nghiệp (trong đó có khu chế xuất), các trung tâm công nghiệp, các cụm doanh nghiệp để tạo động lực cho phát triển kinh tế và coi đó là phương tiện để thực hiện đô thị hoá nông thôn. + Đi đôi với phát triển kinh tế thành thị và công nghiệp trung ương cần phát triển công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn theo hướng phát huy thế mạnh của mỗi vùng, mỗi địa phương, thực hiện phân công lao động tại chỗ, gắn công nghiệp với nông nghiệp. Công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn phải nằm trong chiến lược quy hoạch phát triển chung công nghiệp của cả nước. 3. Hình thành và phát triển các ngành trọng điểm và mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Ngành trọng điểm là ngành: + Có vai trò, vị trí quan trọng với nền kinh tế quốc dân, phát triển các ngành này thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế quốc dân. + Có khả năng và lợi thế phát triển. + Có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao, thể hiện là ngành có hệ số ICOR thấp. + Đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. + Có khả năng phát triển hiện tại và lâu dài. Ngành trọng điểm có thể là những ngành mới, nháng ngành truyền thống, những ngành gặp thuận lợi, những ngành gặp khó khăn trong sự phát triển, những ngành hướng về xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu. Như vậy, phạm vi đối tượng của ngành trọng điểm tương đối rộng, miễn là nó nằm trong sự ưu tiên phát triển của Nhà nước. Với quan niệm như vậy, trong thời kỳ 2000-2010 ngành kinh tế trọng điểm có thể là các ngành: điện lực, than, trồng lúa, chăn nuôi, lâm nghiệp, du lịch, lắp ráp sản xuất ô tô - xe máy, xi măng, hoá chất cơ bản, cơ khí, sản xuất thép, các ngành chế biến lương thực, thực phẩm (như: mía, chè, cà phê, bánh kẹo...) - Ngành mũi nhọn là ngành đáp ứng các tiêu chuẩn sau: + Là ngành có ý nghĩa quan trọng, sự phát triển của nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các ngành khác của nền kinh tế quốc dân. + Là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. + Là ngành có tốc độ tăng trưởng vượt trội các ngành khác. + Là ngành có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, thể hiện ở hệ số ICOR thấp, tỷ lệ lợi nhuận cao, giải quyết đựoc nhiều việc làm. + Là ngành phát huy lợi thế so sánh của đất nước, là ngành đại diện cho tiến bộ khoa học - công nghệ. + Là ngành tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách. + Là ngành hướng về xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều kiện công nhận ngành mũi nhọn khó khăn hơn so với ngành trọng điểm. Nên kinh tế phải phát triển đến một trình độ nào đó mới có ngành kinh tế mũi nhọn. Xung quanh vấn đề đã hình thành ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta chưa? và nháng ngành nào là ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta, hiện nay ý kiến còn khác nhau. Theo một số chuyên gia kinh tế giai đoạn 2000-2010 các ngành kinh tế sau đây có thể được chọn là ngành mũi nhọn: công nghiệp điện tử và tin học, công nghiệp dệt may, khai thác và chế biến thuỷ sản, khai thác và lọc dầu. II. Một só giải pháp thúc đảy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta Xuất phát từ kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số nước trong khu vực và các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển. Theo em, cần tập trung vào một số vấn đề sau đây nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 1. Cần lựa chọn mô hình phát triển hợp lý, nâng cao chất lượng các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành. - Gắn chiến lược phát triển ngành với chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường của các doanh nghiệp thuộc ngành. - Đánh giá đầy đủ nguồn lực, cơ hội, thách thực, khả năng cạnh tranh. 2. Phát triển mạnh mẽ thị trường. - Phát triển đồng bộ các loại thị trường: sản phẩm, nguyên vật liệu, công nghệ, thông tin, lao động, vốn - bao gồm cả thị trường chứng khoán. - Nhà nước và doanh nghiệp đều phải có trách nhiệm phát triển thị trường trong nước và nước ngoài. 3. Đầu tư, chuyển dịch cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. - Đầu tư có trọng điểm, tránh tràn lan. Hướng ưu tiên là đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và đầu tư cho các ngành trọng điểm, mũi nhọn. - Chuyển hướng từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và thiết bị máy móc mới vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. 4. Đổi mới và phát triển công nghệ. - Tập trung đổi mới công nghệ cho một số ngành kinh tế mũi nhọn: khai thác chế biến dầu khí, điện tử - tin học, chế biến thuỷ sản, dệt may. - Đi ngay vào công nghệ tiên tiến hiện đại với một số ngành có nhu cầu, có điều kiện và khả năng như: bưu chính viễn thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. - Đối với vùng nông thôn rộng lớn cần hiện đại hoá công nghệ truyền thống và áp dụng các công nghệ phù hợp. 5. Về cơ sở hạ tầng: Phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nhất là điện và đường giao thông, tạo điều kiện để đưa khoa học - kỹ thuật thông tin thị trường đến người sản xuất, gắn công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp. 6. Về chính sách vĩ mô: Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, trước hết là chính sách tài chính, tiền tệ. Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế trị trường chủ yếu nhờ vào việc sử dụng chính sách tài chính. Thông qua chính sách này Nhà nước có thể tăng thuế đối với nháng ngành, nghệ, lĩnh vực không cần thiết; ngược lại, giảm hoặc miễn thuế đối với những ngành nghề, dịch vụ thực sự có ích cho nền kinh tế quốc dân, phục vụ đắc lưc cho quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 7. Về quan hệ quốc tế: Phát triển kinh tế đối ngoại trên tất cả các ngành và lĩnh vực: thương mại, đầu tư, hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế, nhằm mở rộng thị trường, thu hút vốn, khoa học công nghệ mới và kinh nghiệm phục vụ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta cần nhiều vốn. Vì vậy, chúng ta cần tận dụng thời cơ thu hút các nguồn vốn đầu tư, viện trợ, cho vay ưu đãi của các nước và tổ chức quốc tế. Trong khi tranh thủ và tập trung thu hút nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức ODA, vốn vay của ADB, WB, cần chú ý sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả. Thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào những ngành và vùng trọng điểm có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cả nước, như công nghiệp, du lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng và chuyển giao công nghệ, muốn vậy, cần đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép và miễn giảm thuế vào nháng ngành và vùng cần thu hút vốn FDI. C. KẾT LUẬN Ngày nay, trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới thì yếu tố chuyển dịch cơ cấu kinh tế chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Thực tế cho thấy nhiều nước trên thế giới đã có sự tăng trưởng cao nhờ lựa chọn cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý như: NICs, Nhật Bản,... đối với Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển biến cơ bản.. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2010 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp như Đại hội VIII đã đề ra. Tuy nhiên trong quá trình phát triển cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam vẫn còn một số những tồn tại cần được giải quyết. Đề án đã trình bày một số nguyên nhân của tình trạng trên và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mong đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của ThS Nguyễn Qu? nh Hoa và giáo viên trong Khoa. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Do trình độ và thời gian có hạn, nên đề án không tránh khỏi những thiếu xót. Mong nhận được ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô để bài viết sau hoàn chỉnh hơn. Tµi liÖu tham kh¶o 1. Giáo trình "Quản lý kinh tế" - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1999. 2. Giáo trình "Kinh tế phát triển" - NXB Thống kê, Hà Nội 1997. 3. Ngô Đình Giao - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân - NXB Chính trị Quốc Hà Nội 1992. 4. Đỗ Hoài Nam - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996. 5. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. 6. Tạp chí Kinh tế phát triển. 7. Tạp chí Phát triển kinh tế. 8 Tạp chí Thông tin lý luận. 9. 10. mpi. gov. vn 11. gso. gov. vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22448.doc
Tài liệu liên quan