Đề án Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hến năm 2020

Kinh tế đối ngoại Việt Nam đang trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, tất cả nhân dân và Nhà nước đang chuẩn bị mọi nguồn lực, mọi điều kiện tốt nhất phục vụ cho tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế đối ngoại giúp chúng ta phát triển kinh tế đất nước, kinh tế đối ngoại mang lại cho ta những nguồn vốn to lớn, giúp chúng ta thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nhập kinh tế đối ngoại giúp nền kinh tế nước ta nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới, làm cho chúng ta khỏi bỡ ngỡ khi tham gia vào toàn cầu hoá nền kinh tế.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ kèm theo đó là sự suất hiện của tư bản thương nghiệp; có sự ra đời của Nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước. Ngoài ra, ta còn phải hiểu thế nào là kinh tế quốc tế, thế nào là toàn cầu hoá? Kinh tế quốc tế là sự trao đổi, buôn bán hàng hoá, dịch vụ trên phạm vi tào thế giới, trong đó thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau, hay giữa các khu vực với nhau. Còn toàn cầu hoá là quá trình liên kết ngày một rộng lớn giữa các nước và thể hiện là mối quan hệ bình đẳng về kinh tế giữa các nước trên thế giới với nhau. Trên đây là một số khái niệm cơ bản ta cần nắm rõ để có thể nghiên cứu những lý luận khác. 2. Tại sao nước ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại Vài trò và tác dụng của nó, trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và Nhà nước luôn luôn coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh: "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại " (văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI). Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Thực vậy, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép Việt Nam thu được vốn mà dựa vào đó Việt Nam nắm bắt được những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo ra một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó đặc biệt là năm thách thức sau đây: Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực nói chung có trình độ thấp và có kỹ năng không cao, điều này kiến cho việc tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở chổ năng lực tiếp nhận công nghệ yếu, khó phát huy lợi thế của nước đi sau trong việc tiếp nhận các nguồn lực có sẵn từ bên ngoài để năng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật; dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành "bãi rác" của các công nghệ lạc hậu. Thứ hai, sức cạnh tranh, đặc biệt là của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam quá thấp, do đó Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cuàng chọn chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên Việt Nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở cửa thị trường nội địa theo AFTA, WTO có thể biến Việt Nam thành thị trường tieu thụ sản phẩm nước ngoài nếu các doanh nghiệp trong nước không bám giữ được. Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của dân ta còn thấp, cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên còn thụ động và thao túng. Từ kinh nghiệm và các nước đang phát triển trong khu vực cho thấy, nguy cơ lệ thuộc vào các tổ chức tài chính nước ngoài và quốc tế là một thực tế. Thứ tư, hệ thống thông tin - viễn thông toàn cầu hoá với tư cách là một thứ quyền lực siêu hạng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cực trực tiếp đến án ninh kinh tế, văn hoá xã hội, theo hướng rối loại làm lợi cho các thế thực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền thống như thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy hại có thể gây ra. Thứ năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh, có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép, buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có tính nguyên tắc như định hướng, mục tiêu, mục đích phát triển. Ví dụ: mục đích chính của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, còn đối với Việt Nam thì vấn đề có lợi nhuận vẫn chưa đủ, mà mục đích chính là vì "dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong rất nhiều trường hợp, quan hệ kinh tế đã giúp tạo ra lợi nhuận, nhưng không công bằng, một số tầng lớp dân cư được hưởng lợi nhưng lại làm cho nước nhà nghèo đi. Bên cạnh đó những thách thức nêu trên, Việt Nam cũng đã tận dụng được nhiều cơ hội trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đó là: Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ rằng, Việt Nam chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập. Từ nhận thức này, trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực. Thứ hai, tham gia tào cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam là quốc giá có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức thu hút đối với các Công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, Việt Nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu thị trường thế giới. Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Trên thực tế nhiều Công ty nước ngoài ở Việt Nam, một trong những lý do quan trọng tận dụng nguồn lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam. Theo đánh giá của các Công ty Nhật khi phân tích thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số quốc gia, lớn hơn Lào, Campuchia, Myanma. Tuy vậy nếu xét riêng về yêu nguồn lực, lợi thế của Việt Nam không thua kém Thái Lan, thậm chí còn vượt cả Indônêxia và Singapore. Chỉ số HDI (Huma Development Index) của Việt Nam tuy chưa so với thế giới, mới chỉ đạt 0,56, song nếu so với các quốc gia có thu nhập tương ứng thì Việt Nam lại thuộc nhóm cao hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nguồn lực của nước ta khai thông, giao lưu với thế giới bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật cao công nghệ mới rất cần thiết. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và quá trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam. Thứ tư, Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện hoà bình, chính trị - xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chính trị xã hội ổn định là bộ lọc quan trọng trong quá trình giao lưu hội nhập, hơn nữa nó đảm bảo vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế. Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế đối ngoại cũng như mục tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế của mỗi thời kỳ, là vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những về lý luận thống nhất quan niệm về bản chất của hiệu quả kinh tế đối ngoại mà còn rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này. Hiểu đúng bản chất hiệu quả kinh tế đối ngoại chính là xác định yêu cầu đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Như vậy mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là góp phần thúc đẩy tăng nhanh năng suất lao động xã hội qua đó tạo thêm nguồn tích luỹ cho sản xuất và nâng cao mức sống ở trong nước. Chúng ta thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại phải dựa trên những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại. 3. Những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với nước ngoài. Nền kinh tế đối ngoại không chỉ là nhân tố bổ sung cho kinh tế trong nước mà kinh tế trong nước phải thích nghi với lựa chọn phân công lao động quốc tế. Do vậy, phải khai thác được mọi lợi thế của hoàn cảnh chủ quan trong nước phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác phải tính toán lợi thế tương đối có được nhờ tham gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế. Do đó nói đến kinh tế đối ngoại là nói đến khả năng liên kết kinh tế, hội nhập với kinh tế khu vực vầ quốc tế đòi hỏi khả năng xử lý thành công mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Những nỗi bật lên, đó là nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, nó chi phối các quan hệ kinh tế đối ngoại. Hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại là xuất khẩu và nhập khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài. Nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài. Trên đây là những vấn đề lý luận mà chúng ta cần phải nắm rõ để có thể đi vào nghiên cứu thực trạng và các giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hết năm 2020. Chương II: Thực trạng và giải pháp Sự phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Nước ta đã đã đạt được nhiều thành tựu cả về tăng trưởng xuất nhập khẩu, thu hút vốn nước ngoài và phát triển du lịch. Tuy nhiên còn rất nhiều vấn đề nan giải mà chúng ta phải quan tâm. 1. Thực trạng Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong cả thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999 Lý do cho sự tăng tưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoai trên có thể là tương đối rõ, những lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau. Đóng là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn cầu và khu vực, do giá hàng xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng... Tuy nhiên, Trung quốc cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trưởng cao. Do vậy, việc giảm tăng trưởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không chỉ do nguyên nhân khách quan, mà có thể lại do những nguyên nhân chủ quan là chính Trước hết, đó là tình trạng bảo hệ mậu dịch không giảm đáng kể mà còn gia tăng. Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã được giảm từ trên 16% xuống còn trên 13% trong thời gian 1996 - 1998, nhưng đã tănglên tới 16% vào năm 1001. khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao; chỉ có 20% số dòng thuế được áp dụng mức thuế 5%. Việc hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo mặt hàng. Do vậy đã đẩy chi phí của các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng và tác động xuấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên phải theo hướng này, trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng lên được và thậm chí đã chậm lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt nam cao, không hấp dẫn khách du lịch. Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc gia khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu. Chi phí sản xuất đã phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế doanh thu VAT, các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công nghệ được sử dụng... Thuế xuất khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quản của nước ta hiện nay có lẽ ở vào hàng cao nhất khuvực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông á hiện chỉ còn khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ thu... đều ở mức cao . Thế thu nhập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực, trong khi ở Indônêxia là 30%. Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam. Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự với Inđônêxia, còn thấp hơn các nước ASEAN - 4, nhưng mức thấp này đã giảm dần. Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, diện, nước... đều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Xingapo, Ma laixia, Thái Lan, Indônêxia; giá nước cao hơn Philipin gà gần ngang với Malaixia, Thái Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu vực; chi phí cả Trung Quốc. Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng Sai Mai do nước ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trường trong nước và nước ngoài. Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại yếu. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10% và đã tác động tiêu cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và liên minh Châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam đông cao và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác động xuấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả với FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất khẩu của nước ta đã ngang bằng tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp. Ngoài ba nguyên nhân trên còn có thể có những nguyên nhân khác như: lao động Việt Nam ít được đào tạo, không lành nghề; thể chế hành chính luật pháp không minh bạch; bộ máy quản lý yếu kém và quan liêu tham nhũng và... Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế đối ngoại. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD, nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDI, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDI của nước ta chỉ vào khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng chỉ vào khoảng trên 30%. Các nước Xingapore, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đến năm 2001 là 38,8 tỷ USD, tỷ trọng của vốn FDI được thực hiện trong tổng đầu tư xã hội vào khoảng 20% - 32%, nghĩa là năm cao nhất (1996) đã đạt tới trên 32% nhăm năm đạt thấp vào khoảng trên 20%, nếu tính cả các nguồn vốn nước ngoài khác như vốn ODA, và vốn vay thương mại thì nguồn vốn nước ngoài đã chiếm khoảng 50% tổng đầu tư xã hội vào giữa những năm 1990 (những năm say tỷ trọng này đã giảm). Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách đu lịch quốc tế vào Việt Nam đã tăng đều, năm 2001 đạt 2,3 triệu khách và hiện có hàng năm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài đem lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng năm cho đất nước Vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất khẩu xuấp xỉ bằng tổng GDP, vốn FDI và các nguồn vốn nước ngoài khác đã chiếm tới gần 50% tổng vốn đều tư xã hội, số khách du lịch vào Việt Nam lên tới 2,3 triệu người, thì các thể chế kinh tế nước ta không thể vẫn mang tính chất hướng nội như trước được. Đồng tiền Việt Nam không chuyển đổi được đã gây thiệt hại cho cả hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và du lịch, người nước ngoài và cả người Việt Nam kinh doanh đối ngoại cũng sẽ nản lòng vì việc chuyển đổi ngoại tệ khó khăn, tốn kém. Các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu tư nước ngoài, chính sách xuất nhập cảnh... cần phải được xem xét lại và đổi mới thích hợp với những điều kiện mới của khu vực kinh tế đối ngoại đã gia tăng vượt trội. Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi. Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp, cả trở kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm, các Công ty chậm đổi mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực... Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kinh tế đối ngoại đã tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Trước những năm 1990 các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ có mấy trăm Công ty xuất nhập khẩu và du lịch quốc tế và tất cả đều là của quốc doanh. Nay đội ngũ doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã lên đến hàng nghìn gồm cả quốc doanh, tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là một bước tiến to lớn cần phải khẳng định. Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại có một vai trò rất quan trọng, nếu không nói là quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Thực tế thế giới cho thấy các doanh nghiệp này hoạt động rất đa dạng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất, thương mại dịch vụ đến bảo hiểm... Chính tính đa dạng này mới đảm bảo cho hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Một doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu muốn có hiệu quả cần phải vay mượn vốn nước ngoài (vì vốn trong nước không đủ và nhiều khi quá đắt), cần phải có dịch vụ tư vấn nước ngoài (vì tư vấn trong nước chưa đủ trình độ), cần phải chuyển đổi ngoại tệ, cần bảo hiểm rủi ro, cần thuê mướn chuyên gia, cần Marketing quốc tế... ở nước ta các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại thường mới ở hai lĩnh vực: sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. ở các lĩnh vực khác ta chưa có, nhưng cũng chưa có, nhưng cũng chưa cho phép các Công ty nước ngoài hoạt động. Hoạt động của các Công ty kinh doanh đối ngoại phải xuyên quốc gia, để có thể lợi dụng được những lợi thế so sánh của các nước. Công ty Honda của Nhật đã có chi nhánh ở nhiều nước, vì tại mỗi một nước đó Honda có thể tận dụng được lợi thế hoặc về tài nguyên, hoặc về lao động, hoặc về vị trí địa lý..., do vậy có thể giản thiểu các chi phí. Các Công ty hoạt động xuất khẩu của ta nói cung chưa hoạt động xuyên quốc gia, đã thế ta còn có chính sách nội địa hoá bắt buộc, ép các Công ty nước ngoài phải sản xuất càng nhiều các linh kiện ở Việt Nam càng tốt. Chính sách này đã triệt tiêu mất lợi thế hoạt động của các Công ty xuyên quốc gia. Vì các Công ty này chỉ muốn lợi dụng lao động rẻ và vị trí thuận lợi của Việt Nam để lắp ráp rồi xuất vào Đông Nam á. Nếu ta ép họ phải sản xuất những thứ linh kiện mà nước ta không có lợi thế, do vậy là đi ngược lại lợi ích của họ. Kinh nghiệm của nhiều nước Châu á cho thấy để có một đội ngũ các Công ty hoạt động xuyên quốc gia cần nhiều thời gian. Bước đi đầu tiên là thu hút các Công ty xuyên quốc gia nước ngoài vào hoạt động ở nước ta, biến họ thành các Công ty của ta. Những Công ty này chính là hình mẫu để các Công ty của ta đi theo và phát triển. Nước ta đi theo hướng này, nhưng chúng ta mới chỉ cho phép họ xuất nhập khẩu những gì họ đã đăng ký kinh doanh. Trong thời gian tới phải cho họ hoạt động toàn diện hơn. Các Công ty kinh doanh đối ngoại của các quốc gia hiện nay đều là những Công ty xuyên quốc gia hiện nay đều là những Công ty xuyên quốc gia tư nhân, hoặc cổ phần có tiềm năng to lớn về cả kinh tế, kỹ thuật, nhân lực, thị trường... Trong khi các Công ty kinh doanh đối ngoai của ta cho đến nay chủ yếu vẫn là các Công ty quốc doanh liên doanh với nước ngoài. Các Công ty tư nhân và nhất là tư nhân 100% vốn nước ngoài còn bị phân biệt đối xử trong hoạt động kinh tế đối ngoại, mặc dù gần đây Nhà nước ta đã cho phép khu vực tư nhân được hoạt động xuất nhập khẩu và liên doanh liên kết với nước ngoài. Có thể nói là nếu các Công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta vẫn chủ yếu là các Công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên quốc gia, không đa dạng hoá các hoạt động... thì lợi thế so sánh của các Công ty này trên thị trường quốc tế chắc chắn sẽ khó tránh khỏi thua kém các Công ty xuyên quốc gia của các nước khác. 2. Giải pháp Các quan hệ bên trong nền kinh tế hiện tại là quan hệ thị trường, còn các quan hệ phi thị trường thì rất ít và có lẽ chỉ tồn tại trong viện trợ ODA, viện trợ không hoàn lại, tài trợ của các loại quỹ tư nhân... Tính chất thị trường đậm nét của các quan hệ kinh tế quốc tế đã quy định các quan hệ kinh tế đối ngoại của mọi quốc gia trước hết phải tuân thủ các nguyên tắc của thị trường: Sản xuất lưu không phải theo cung cầu của thị trường thế giới: tỷ giá giữa các đồng tiền cũng do thị trường thế giới quy định, giá cả của các hàng hoá và dịch vụ lưu thông trên thị trường thế giới là giá cả thị trường thế giới; giá chứng khoán, công trái, cũng phải do thị trường quy định. Các quan hệ kinh tế bên trong của một quốc gia hiện có thể do các chính phủa quốc gia điều tiết, có khi khá chặt chẽ, nhưng những quan hệ kinh tế quốc tế hiện chịu sự điều tuết của các chính phủ một cách rất hạn chế, chúng có một không gian rộng rãi hơn để tự do vận động. Thực tế của thế giới cho thấy, các quan hệ kinh tế đối ngoại của một quốc gia càng vận động theo các nguyên tắc của thị trường nền kinh tế của quốc gia ấy càng có thể tham gia sâu rộng và có hiệu quả vào quá trình hội nhập toàn cầu. Thực tế của các nước ASEAN và Đông á đã cho thấy điều đó: giá cả trong nước càng sát với giá thị trường thế giới, người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi do mua hàng không phải chịu thuế nhập khẩu cao, các lợi thế cạnh tranh của quốc giá được phát huy: tỷ giá thị trường đã đảm bảo mức giá của đồng tiền quốc gia phù hợp với giá thực tế, tạo điều kiện đảm bảo sức cạnh tranh của nền kinh tế: giá chứng khoán, cổ phiếu có tính thị trường quốc tế đã tạo điều kiện khai thông dòng vốn quốc tế đi tới mọi vùng trong nước... Do vậy, ta cần có một lộ trình chủ động và tích cực để chuyển các quan hệ kinh tế đối ngoại vận động theo các nguyên tắc của thị trường, nếu năm 2006 ta thực hiện đầy đủ các cam kết với AFTA và các cam kết chủ yếu trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, nếu 2004 nước ta được gia nhập WTO, thì lộ trình chuyển các quác hệ kinh tế đối ngoại nước ta vận động đầy đủ theo các nguyên tắc của thị trường cũng không thể vượt quá 2006. Vì những cam kết quốc tế này buộc nước ta phải xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và hạ thấp thuế quan xuống vào khoảng 5 - 10%, thừa nhận rộng rãi các quyền kinh doanh của các Công ty nước ngoài tại nước ta trên nhiều lĩnh vực kể cả dịch vụ. Trong tình hình đó, nếu giá hàng hoá và dịch vụ nước ta không theo sát giá thế giới, tỷ giá vẫn không do thị trường định, đồng Việt Nam vẫn không chuyển đổi được, thị trường vốn chưa khai thông với thị trường thế gới, các chủ kinh doanh của ta vẫn không đủ các quyền lao động ... thì nền kinh tế nước ta sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những khiếm khuyết và hạn chế to lớn, làm giảm thiểu vị thế cạnh tranh so với các nền kinh tế trong khu vực. Bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại. Có quan điểm cho rằng có thể thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút các nguồn vốn nước ngoài. Thực tế thế giới cho thấy đã không có quốc gia nào thực hiện thành công chính sách này. Một nguyên tắc gần như phổ biến trong các quan hệ quốc tế hiện nay là: một quốc gia muố mở cửa thị trường nước khác thì đồng thời phải mở cửa thị trường nước mình. Các nước phát triển đến cuối thập kỷ 1990 đã mở cửa nền kinh tế của họ ở mức rất cao: thuế quan trung bình chỉ còn khoảng 2 - 4% hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó muốn đặt mức thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó muốn đặt mức thuế quan cao cho một sản phẩm nhập khẩu, lập tức sẽ bị các đối tác kiện ra WTO và có thể bị trả đũa. Việc Mỹ 2002 đơn phương tăng thuế nhập khẩu thép lên 30% là một ví dụ. Bảo hộ mậu dịch trên thực tế đã chó hại cho sự phát triển kinh tế đối ngoại: Việc tăng giá các sản phẩm trong nước đã làm tăng chi phí đối với cả sản xuất xuất khẩu cũng như phục vụ nhu cầu trong nước: che chở cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất kém hiệu quả mở rộng sản xuất - chống lại các giải pháp hội nhập quốc tế: khuyến khích xu hướng thay thế nhập khẩu khẩu - giảm thiểu cơ hội mở rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài... Song có quan điểm cho rằng các nước kém phát triển cần một lộ trình bảo hộ mậu dịch để tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc tế; lộ trình này càng dài càng tốt, vì các doanh nghiệp trong nước càng có nhiều thời gian trưởng thành để đua tranh trên thương trường quốc tế. Đúng là các nước kém phát triển cần có một lộ trình hội nhập quốc tế, nhưng lộ trình này không phải là một lộ trình gia tăng chính sách bảo hộ mậu dịch để rồi xoá bỏ nó, mà là một lộ trình bãi bỏ dần các hàng rào bảo hộ. Thường lộ trình này kéo dài 2 - 5 năm, tuỳ theo từng ngành kinh tế kỹ thuật. Xét về hiệu quả kinh tế thuần tuý, thì không cần đến lộ trình này, lý thuyết kinh tế học hiện đại và thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh cho luận điểm này. nhưng xét về mặt chính trị và xã hội, thì lại cần cón một lộ trình như vậy để đổi mới cơ cấu sản xuất, giải quyết tình trạng thất nghiệp, đào tạo lại nghề nghiệp, giữ ổn định xã hội... Một Nhà nước càng có năng lực giải quyết tốt các vấn đề trên, thì lộ trình hội nhập quốc trế càng được rút ngắn và ngược lại. Có người lo ngại rằng việc giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm muốn thu ngân sách. Thực tế của thế giới cho thấy ở những quốc gia giảm thuế nhập khẩu, nguồn thu ngân sách không những không giảm mà còn tăng, do diện thu thuế tăng, do tình trạng trốn lậu thuế, tham nhũng giảm... Dựa vào những phân tích trên đây, nước ta cần có một lộ trình hội nhập quốc tế chủ động và tích cực phù hợp với thực tế. Lộ trình này một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cho nước tự vươn lên, mặt khác dùng sức ép của việc giảm dần hàng rào bảo hộ để buộc các doanh nghiệp phải vươn lên, nếu không sẽ bị đào thải. Thực tế lịch sử cho thấy doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp tư nhân, không mấy khi tự đổi mới để vươn lên, mà thường cũng chỉ đổi mới khi có sức ép bên ngoài đặt họ trước sự lựa chọn - hoặc phải phá sản hoặc phải đổi mới. Một lộ trình hội nhập quốc tế tích cực, giảm hàng rào bảo hộ chính là sức ép cần thiết bên ngoài đó. Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền để mở rộng kinh tế đối ngoại Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, cung cấp điện... Về cảng biển, theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển Việt Nam được xếp thứ bẩy trong số 9 nước Đông á mà họ đánh giá, Việt Nam xếp sau Xingapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ xếp trên Trung Quốc và Inđônêxia. Phải nói thêm là phần lớn các hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều qua cảng Hồng Kông, nên Việt Nam chỉ hơn Inđônêxia. Các hãng vận tải biển nước ngoài xếp cảng Việt Nam vào nhóm độc quyền kiểu “Cácten” vì tất cả cảng do Nhà nước sở hữu và vận hành. Nước ta chưa có cảng trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải trung chuyển qua các cảng Hồng Kông, Xingapore, làm tăng thêm chi phí khoảng 20 - 30%, phí cảng của ta do ban vật giá chính phủ định hiện là rất cao, trong khi công nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc hậu, thời gian giải phóng tàu lâu, càng làm tăng thêm chi phí cho người xuất khẩu. Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Theo quy định hiện nay các hãng hàng không nước ngoài không được phép có “quyền lực do thứ năm” trong việc mang hàng vào và ra khỏi Việt Nam từ các điểm trung chuyển như Băng Cốc, Hồng Kông, do vậy công suất đều thừa, không sử dụng hết. Giá vé máy bay của ta hiện còn cao so với khu vực cùng với tình trạng luôn phải chậm giờ bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của hàng không Việt Nam Về đường cao tốc, nước ta mới có được vài trăm km đường cao tốc, một con số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lượng đường cao tốc ít ỏi đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, hàng tăng thêm chi phí và thời gian. Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu người ở nước ta hiện vào khoảng 232 kwh, dưới mức trung bình của các nước có thu nhập thấp 363 kwh, dưới xa mức trung bình của các nước khu vực Châu á - Thái Bình Dương - 787 kwh. Tình trạng gây cắt điện và tăng giảm điện áp đã gây thiệt hại đáng kể cho các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của Việt Nam bán cho ngân sách Nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA cũng không đủ đáp ứng các nhu cầu to lớn này. Do vậy cần phải có quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng xây dựng các nhà máy sản xuất công nghiệp sang xây dựng cơ sở hạ tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn da đạng, cần có chính sách để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia kinh doanh cơ sở hạ tầng. Ngay những bước giầu như Mỹ, Nhật, Nhà nước cũng không đủ tiền xây dựng hạ tầng, mà phải huy động các thành phần kinh tế khác. Nước ta nghèo hơn nên càng phải sử dụng các thành phần Nhà nước. Kinh doanh cơ sở hạ tầng trong nhiều năm trước đây thường do các Công ty Nhà nước độc quyền đảm nhận, kể cả ở các nước Phương Tây. nhưng thực tế cho thấy tình trạng độc quyền của các Công ty Nhà nước đã dẫn tới những hậu quả tiêu cực - chi phí cao, phiền hà, lãng phí, tham nhũng... Do vậy trong những năm gần đây, xu hướng cho phép khu vực tư nhân tham gia kinh doanh hạ tầng cơ sở đã ngày càng phổ biến ở nhiều nước. Nước ta cũng đã cho phép một số công ty nước ngoài xây dựng các nàh máy điện dưới hình thức BOT, có thể cần phải mở rộng hơn hình thức này sang nhiều lĩnh vực khác. Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đều tư nước ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ vốn, cũng có nghĩa là kinh tế đối ngoại không hoạt động được. Những nguồn vốn này hiện đang dư thừa cả trong ngoài nước. Hàng năm hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm đã không sử dụng được ở trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngoài, nếu tính cả số tiền gửi ra nước ngoài qua các kênh không chính thức thì số tiền đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau còn khá lớn, nguồn vốn dưa thừa bên ngoài tính đến hàng ngàn tỷ USD. Vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho hoạt động kinh tế đối ngoại Cơ chế và bộ máy huy động và phân bổ các nguồn vốn của nước ta hiện quá lạc hậu và vẫn theo cơ chế mệnh lệnh và bao cấp. Các ngân hàng thương mại và phân bổ các nguồn vốn chính trong nước nhưng họ vấn phải hoạt động theo chỉ lệnh là chính, các ngân hàng cổ phần nhỏ bé, các ngân hàng nước ngoài hoạt động rất hạn chế. Thị trường vốn mới manh nha, nhỏ bé. Việc huy động và phân bổ vốn ở nước ta hiện chủ yếu vẫn do các ngân hàng thương mại quốc doanh đảm nhận với rất nhiều hạn chế. Các ngân hàng này yếu đến mức không cung ứng được đến yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động phục vụ nhu cầu nội địa, nói gì đến các nhu cầu của kinh tế đối ngoại. Hơn nữa, hoạt động kinh tế đối ngoại đòi hỏi các ngân hàng cung ứng phải am hiểu thị trường thế giới, phảm dám chấp nhận rủi ro, phải có năng lực không những thẩm định của các dự án cho vay, mà còn đưa ra được các dự án kinh doanh đối ngoại có hiệu quả thích hợp với các nhà đầu tư. Các ngân hàng thương mại của ta, kể cả ngân hàng ngoại thương, nói chung đã không có được những khả năng đó. Hơn nữa những quy định về thế chấp hiện hành là một hạn chế lớn đối với việc cung ứng vốn hoạt động kinh tế đối ngoại. Những hạn chế trên đây cho thấy, nếu không sơm đổi mới, khai thông các luồn vốn cung uqứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu vốn để mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhưng những đổi mới này sẽ đi theo hướng nào? Trước hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thương mại của ta liên doanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng dịch vụ kinh doanh và nội tệ, cung ứng tín dụng cho hoạt động kinh tế đối ngoại cho các Công ty Việt Nam và Công ty nước ngoài. Đây là một giải pháp quan trọng, vì các ngân hàng nước ngoài hiểu biết thị trường thế giới hơn, có nhiều năng lực thẩm định và đề xuất các dự án kinh doanh có hiệu quả hơn... Các ngân hàng nước ngoài gia tăng hoạt động sẽ tạo ra một áp lực cạnh tranh lớn hơn, do vậy hoạt động ngân hàng nước ra sẽ có hiệu quả hơn. Thứ hai, thúc đẩy thị trường vốn hoạt động tốt hơn theo hướng một mặt mở rộng diện cổ phần hoá và cho phép các Công ty cổ phần được bán cổ phiếu; đồng thời cho phép các Công ty chưa cổ phần hoà nhưng kinh doanh tốt có thể bán trái phiếu, cổ phiếu; cho phép các Công ty hoạt động đối ngoại có thể huy động vốn theo các dự án trên thị trường chứng khoán... Mặt khác, cần cho phép các Công ty nước ngoài, người nước ngoài được mua bán các loại chứng khoán trên thị trường. Thị trường chứng khoán nước ta mới hoạt động trong một thời gian ngắn ngủi, cần có những tổng kết và đánh giá, mời các nhà tư vấn nước ngoài có kinh nghiệm tham kiến để có thể có nhữn giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường. Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng các loại hình kinh doanh vốn rủi ro ở các nước, để có thể xây dựng các quy chế, tạo ra các điều kiện cho phép các loại Công ty kinh doanh vốn rủi ro kể cả các Công ty nước ngoài có thể ra đời và hoạt động ở Việt Nam. Hoạt động kinh tế đối ngoại là một hoạt động dễ có những rủi ro, nhất là kinh doanh công nghệ cao. Do vậy các Công ty kinh doanh vốn rủi ro là rất cần thiết. Thứ tư, xây dựng khu kinh tế mở, nước ta đã có các khu chế xuất, các khu công nghiệp, đang xây dựng các khu công nghệ cao, nhưng chưa có khu kinh tế mở với các tiêu chí hiện đại ở một địa điểm có cảng nước sâu có danh tiếng trên thế giới được nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm: có một thể chế kinh tế, hành chính thông thoáng phù hợp với các thông lệ quốc tế... Khu kinh tế mở này sẽ có khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả cao nhất các dòng vốn bên ngoài và cả bên trong. Chỉ một đặc khu kinh tế Thẩm Quyến của Trung Quốc trong nhiều năm đã thu hút được một khối lượng vốn FDI gần như bằng cả tổng giá trị FDI của Việt Nam. Cần có một chương trình xây dựng một số khu kinh tế mở ở Việt Nam. Các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế Các ngành du lịch, theo cách tính của WTO, hiện có khoảng 155 ngành, bao gồm các hàng hoá ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông, hàng không, du lịch tư vấn... ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Vai trò của nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. ở nước ta các ngành dịch vụ hiện đại rất kém phát triển. Không những thế quan niệm của xã hội ta vẫn xem trọng sản xuất hơn dịch vụ, vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản xuất, kể cả các nguồn lực bên gnoài. Sản xuất là quan trọng không ai phủ nhận, nhưng tầm quản trọng của nó không thể lấn át dịch vụ. Nếu ta tập trung đầu tư vào sản xuất thép, xi măng... nhưng không đầu tư thích đáng vào các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn... thì sản xuất thép, xi măng,... sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao, chất lượng thấp, thiếu thị trường... Một nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chỉ được khuyến khích đầu tư vào sản xuất khi họ bí, cần tư vấn không có, cần vậy vốn lại khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại quá đắt... Do vậy đã có nhà đầu tư nước ngoài nhận xét rằng cho có lòng dũng cảm mới dám đầu tư vào Việt Nam. Môi trường dịch vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu tư từ nước phát triển, vì họ đang quen với môi trường đầu tư có hoạt động dịch vụ rất tốt. Điều đó giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khi đầu tư vào Việt Nam. Cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp với định hướng xuất khẩu và sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế đất nước. Cơ cấu nhập khẩu của mỗi nước khác nhau có thể khác nhau tuỳ theo trình độ phát triển và các điều kiện lịch sử kinh tế, văn hoá, tự nhiên khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu này phải phù hợp với cơ cấu xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới và trong nước. Nghĩa là nó phải nhập những thứ để có thể sản xuất, gia công và xuất khẩu có hiệu quả và do vậy đương nhiên là có thể đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu. Một cơ cấu nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu sẽ rất khó đáp ứng cho yêu cầu xuất khẩu. Song dù khác nhau thế nào đi nữa, thì một cơ cấu nhập khẩu có hiệu quả và hiện đại thường bao gồm 5 nhóm hàng hoá sau: Nguyên nhiên vật liệu: hàng tiêu dùng và dịch vụ. Cơ cấu nhập khẩu của các nước phát triển thường có đủ cả 5 nhóm hàng hoá trên đây, tuy có thẻ khác nhau về tỷ trọng. Cơ cấu nhập khẩu của các nước đang và kém phát triển thường chỉ bao gồm 3 nhóm hàng hoá: máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng. Có rất ít nước đang phát triển có một cơ cấu nhập khẩu đủ cả 5 nhóm hàng hoá. Cơ cấu nhập khẩu có 3 nhóm hàng hoá là một cơ cấu chỉ phù hợp với nền kinh tế hướng nội, thay thế nhập khẩu. ở những nước này, người ta nhập máy móc thiết bị cùng với nguyên vật liệu trong nước không có để sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng trong nước cần; và để có tiền nhập khẩu, những nước này đã xuất khẩu tài nguyên của họ như; dầu mỏ, các loại quặng, nông, lâm, hải sản... Cần lưu ý là nếu chỉ dùng ngoại tệ do xuất khẩu tài nguyên đẻ mua máy móc thiết bị, công nghệ, thì thường rơi vào tình thế phải mua máy móc thiết bị cũ, đất nước sẽ thành “bãi thải công nghệ”. Cơ cấu nhâp khẩu có đủ 5 nhóm hàng hoá sẽ phù hợp với hướng xuất khẩu và hội nhập quốc tế, bởi vì nhờ có nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ, nên các máy móc thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu được sử dụng có hiệu quả, có sức cạnh tranh quốc tế. Nhật Bản là một ví dụ nổi bật, năm 1950. Nhật Bản chưa phải là một nước phát triển, chưa có các công nghệ nguồn, nên Nhật Bản đã thực thi chính sách chú trọng nhập khẩu kỹ thuật nước ngoài. Trong thời kỳ 1950 - 1974 tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật Bản là 15.289 trong đó gần 70% từ Mỹ, do vậy tỷ trọng hàng chế tạo theo bằng sáng chế phát minh nước ngoài của Nhạt bản đã ở mức cao nhất thế giới và tính đến năm 1968, nhờ nhập khẩu kỹ thuật và các dịch vụ cần thiết, Nhật bản đã tiết kiệm được trên 100 tỷ USD và đưa ngành công nghiệp chế tạo của Nhật Bản lên ngang tầm thế giới. Cơ cấu nhập khẩu của nước ra hiện là cơ cấu nhập khẩu 3 nhóm hàng hoá - máy móc thết bị, nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng, hầu như không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ. Trong ba nhóm hàng hoá trên, nhóm hàng tiêu dùng thường chiếm một tỷ trọng nhỏ và giảm dần trong những năm gần đây. Năm 1995. Hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng đến năm 2001, đã giảm xuống chỉ còn 5,3%. Trong nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập khẩu này, vì cho rằng ta chỉ nhập máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cần cho phát triển sản xuất trong nước. Một cơ cấu cần cho phát triển sản xuất trong nước hẳn phải là một cơ cấu tiến bộ. Song thực tế đã không hẳnn như vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu ít hàng tiêu dùng khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu là điều không bình thường. Thường các nước ở trình độ phát triển thấp như ta, kể cả Nhật Bản thời kỳ những năm 1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào khoảng 20% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Vì hàng nhập khẩu hàng tiêu dùng chính thức chỉ có 5% với mức thuế cao và nhiều cấm đoán, nên tình trạng buôn lậu ở nước ta mới chỉ có 5% với mức thuế cao và nhiều cấm đoán nên tình trạng buôn lệu ở nước ta mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là nạn tham nhũng. Nếu cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa thì tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng chắc đã không kém 20% tổng giá trị nhập khẩu. Ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế - đó là một khiếm khuyết lớn, do vậy ta chỉ còn nhập máy móc thiết bị. Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó mua được máy móc thiết bị hiện đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ, xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành “bãi thải công nghệ cũ:. Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện đại hoá các máy móc cũ, nên phải dùng máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu - làm gia tăng chi phí. Ta cũng phải không nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn v.v.... nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu về được sử dụng càng kém hiệu quả. Lý thuyết kinh tế học hiện đại chú trọng xuất khẩu để thu ngoại tệ, nhưng cũng đặc biệt chú trọng nhập khẩu - nhập khẩu những thứ để có thể hiện đại hoá kinh tế đất nước và phù hợp với định hướng xuất khẩu. Những phân tích trên đây cho thấy nước ta đã đến lúc phải đổi mới cơ cấu nhập khẩu, và phải đầu tư đổi mới cơ cấu nhập khẩu mới đổi mới được cơ cấu xuất khẩu. Những hướng đổi mới chính là gia tăng nhập khẩu bằng phát minh sáng chế, các công nghệ mới, cây con mới, chú trọng trọng nhập khẩu ngay các dịch vụ cần cho phát triển kinh tế đối ngoại trước mắt như các dịch vụ tư vấn: Các dịch vụ cung ứng vốn: các dịch vụ tư vấn: các dịch vụ cung ứng vốn: Các dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ viễn thông; tăng tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào bảo hộ. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại cần những nguồn nhân lực gì? đó là các nhà chuyên đàm phán kinh tế trên các diễn đàn song và đa phương để mở cửa thị trường; những nhà nghiên cứu đánh giá tình hình thế giới, tìm kiếm thông tin, hoạch định chính sách, tìm hiểu thị trường, môi giới, quảng bá đầu tư, những nhà quản lý kinh doanh đối ngoại, những công nhân, kỹ sư, kỹ thuật viên lành nghề... Đội ngũ những người làm các công tác trên của nước ta hiện rất mỏng và yếu. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại, cần có những biện pháp sau: - Cần tuyển chọn và cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nước ngoài chuyên về các quan hệ kinh tế quốc tế và kỹ thuật đàm phán quốc tế; xây dựng một bộ phận công tác ổn định chuyên lo việc đàm phán mở cửa thị trường, xử lý các rắc rối trong quan hệ quốc tế. - Tăng cường đầu tư cho các trường đại học đào tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế, cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy những nghề phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại... - Cho phép các Công ty nước ngoài các trường dạy nghề ở Việt Nam - Cần có chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam hoạt động kinh doanh, trong đó có những chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực đã về hưu ở nước họ, nhưng họ lại muốn và có thể làm việc ở nước ta. - Cần phổ cập tiếng Anh như là một quốc ngữ thứ hai - Cho phép rộng rãi hơn các trường nước ngoài có chọn lọc được mở các chi nhánh đào tạo tại Việt Nam Sửa đổi và ban hành các luật pháp cần cho kinh tế đối ngoại và phù hợp với các thông lệ quốc tế mà ta sẽ cam kết. Điểm nổi bật của thể chế và luật pháp Việt Nam trong thập kỷ 1990 là đã được đổi mới theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên hiện đang còn nhiều vấn đề. Điểm đáng chú ý là hệ thống luật pháp của ta hiện vẫn chưa khới với các cam kết quốc tế mà ta đã ký, càng có một khoảng cách xa với những thông lệ quốc tế hiện nay. Đáng lẽ ra phải căn cứ vào những nguyên tắc của WTO và các thông lệ quốc tế mà ta sẽ phải theo để đặt ra chương trình nghiên cứu, sửa đổi luật pháp và thẻ chế theo các cam kết đã ký. Hậu quả sẽ là khi ta nghiên cứu cửa đổi luật pháp theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chưa xong thì ta lại phải sửa lại chính những luật pháp đó theo những cam kết với WTO. Công tác làm luật, sửa luật của ta hiện rất chậm, đặc biệt là các Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật. Các Công ty xuyên quốc gia vốn hoạt động trong các môi trường luật pháp đầy đủ, rất ngại đầu tư kinh doanh vào những nơi thiếu luật pháp, hoặc luật pháp chưa đủ rõ ràng như nước ta. Trong các luật pháp, những luật pháp sau đây có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động kinh tế đối ngoại và hiện đang có nhiều vấn đề Thứ nhất là luật Đất đai, ta đã có luật đất đai, nhưng hiện chưa đủ cho các doanh nghiệp có thể sử dụng đất để thấp chấp vay ngân hàng làm vốn kinh doanh đối ngoại nhất là các doanh nghiệp tư nhân, do giấy tờ dở hữu đất chưa được hợp lệ, do các thủ tục phiền hà. Thứ hai, là luật Ngân hàng của ta chưa cho phép dùng thẻ tín dụng, các thương phiếu... làm vật thế chấp, trong khi ở các nền kinh tế thị trường thì đó là những hoạt động thường nhật Thứ ba, quỹ hỗ trợ xuất khẩu mới được thành lập lại giới hạn hoạt động của nó trong việc cung cấp tín dụng dài hạn cho các nhà sản xuất xuất khẩu có lựa chọn. Trong điều kiện nước ta hiện nay, quy định này dễ bị các doanh nghiệp lợi dụng, biến báo, chạy chọt để được vào diện chọn lựa các doanh nghiệp khong có tài biến báo sẽ bị loại. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy là nên có khuyến khích như nhau cho tất cả các nhà xuất khẩu theo tiêu chuẩn công bằng. Thứ tư, luật đầu tư nước ngoài và luật đầu tư trong nước hiện còn những khác biệt, tạo ra môi trường đầu tư không thống nhất và có phân biệt đối xử. ở các nước chỉ có một luật đầu tư thống nhát cho mọi loại kinh doanh. Thứ năm, các luật và quy định về thuế quan, thủ tục hải quan, về thương quyền về xuất nhập cảnh...của nước ta hiện còn có khách biệt khá lớn so với các nước trong khu vực. Chẳng hạn, Thái Lan và nhiều nước Đông á đã miễn thị thực nhập cảnh co tất cả các nước OECD, trong khi ta chưa miễn thị thực nhập cảnh cho OECD nào. Độ tin cậy về kinh tế của một quốc gia đối với thế giới là hệ thống luật pháp phải đủ đảm bảo các hoạt động kinh tế tuân theo các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế, đồng thời phải minh bạch, rõ ràng. Hệ thống luật pháp của ta tuy đã được đổi mới nhiều, nhưng vẫn còn thiếu như chưa có luật kiểm soát độc quyền, luật chống bán phá giá, luật về thị trường bất động sản, thị trường vốn... Một số luật đã được ban hành nhưng còn khiếm khuyết như có tới hai luật đầu tư phân biệt đối xử giữa đầu tư trong và ngoài nước, luật phá sản không đủ hiệu lực làm phá sản các doanh nghiệp yếu kém... Do vậy việc tiếp tục sửa đổi các luật pháp đã có và ban hành luật pháp của nước ta phải đảm bảo các yêu cầu trên đây. Lâu nay trong cơ chế làm luật của nước ta có một số hạn chế cần được sửa đổi: Luật về các ngành kinh tế, kỹ thuật, giao cho các bộ chuyên ngành soạn thảo và xin ý kiến các bộ ngành liên quan, sau đó trình Chính phủ và quốc hội. Khi soạn thảo các luật thuộc ngành mình, các bộ chuyên ngành thường đứng trên lợi ích của bộ, bảo vệ các lợi ích và quyền lực của bộ mình, do vậy đã làm méo mó, sai lạc các nội dung của luật, trái với lợi ích chung của đất nước. Các bộ liên quan chỉ có ý kiến về những điểm có quan hệ với bộ mình và kéo dài thời gian cho ý kiến, làm trì trệ việc soạn thoả luật, nghị định. Chúng tôi cho rằng cần đổi mới công việc soạn thảo luật. Mỗi một luật hay nghị định, cần được Chính phủ giao cho một tổ chuyên gia liên ngành, độc lập với các bộ, nghiên cứu, soạn thảo, xin ý kiến thảo luận rộng rãi không chỉ với các bộ liên quan. Cần quy định thời hạn tối đa cho các bộ được chỉ định tham kiến. Việc soạn thảo các luật liên quan tới kinh tế đối ngoại cần thuê chuyên gia nước ngoài cố vấn, tham kiến, và có thể lấy ý kiến của các Công ty nước ngoài. Phần III- Kết luận Kinh tế đối ngoại Việt Nam đang trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, tất cả nhân dân và Nhà nước đang chuẩn bị mọi nguồn lực, mọi điều kiện tốt nhất phục vụ cho tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế đối ngoại giúp chúng ta phát triển kinh tế đất nước, kinh tế đối ngoại mang lại cho ta những nguồn vốn to lớn, giúp chúng ta thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nhập kinh tế đối ngoại giúp nền kinh tế nước ta nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới, làm cho chúng ta khỏi bỡ ngỡ khi tham gia vào toàn cầu hoá nền kinh tế. Nhìn chung, hội nhập kinh tế đối ngoại là một thuận lợi vô cùng to lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước. Nhưng mặt khác, cũng đặt ra những thách thức cho nền kinh tế đất nước làm sao để tận dụng thành công khu vực kinh tế toàn cầu, từ đó tạo điều kiện thuận lợi to lớn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế đối ngoại là mảng đề tài rộng lớn, nên trong quá trình làm không thể thiếu khỏi những thiếu sót nhưng cũng cho ta thấy được phần nào thực trạng của kinh tế đối ngoại những năm hiện tại và những năm sau đó. Bài viết của em được hoàn thành là nhờ sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Văn Ký, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp đỡ em. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin. 2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin 3. Văn kiện Đại hội Đảng 6, 8, 9 4. Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 3, 4/2002 5. Tạp chí Kinh tế và phát triển. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35490.doc
Tài liệu liên quan