Đề án Thực trạng và giải pháp mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM

Ngày nay, các Ngân hàng thương mại, ngoài mục tiêu kinh doanh để tồn tại và phát triển của mìnhthì mục tiêu trở thành “ Ngân hàng của mọi nhà, mọi người, mọi tầng lớp dân cư “ là mục tiêu mà các Ngân hàng thương mại đang hướng tới. Bởi lẽ nếu đạt được mục tiêu này, thì khoảng cách giữa khách hàng và ngân hàng sẽ được rút ngắn lại. Ngân hàng cần đến khách hàng và khách hàng cũng cần đến ngân hàng để cùng tồn tại và phát triển. Để làm được điều đó thì việc nâng cao chất lượng các dịch vụ thanh toán là việc làm cần thiết và là yêu cầu tiên quyết đối với ngân hàng. Với ngân hàng phải có sự đầu tư đáng kể để hiện đại hoá phương tiện thanh toán, đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển kinh tế là sự phát triển của các giao dịch mang tính chất thương mại, mà kết quả là sự gia tăng trong lĩnh vực thanh toán. Sự phát triển kinh tế không bao giờ ngừng, cho nên nhu cầu về thanh toán cũng vì thế mà tăng mãi. Theo đà đó công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng phải đổi mới liên tục để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế phát triển hiện nay. Bởi vậy, tiếp tục đổi mới hoàn thiện các hình thức thanh toán nhằm làm cho cơ chế thanh toán trở lên sống động hơn là vấn đề đặt ra cho các NHTM. Trong chuyên đề này, em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác thanh toán không dùng tiền mặt, với trình độ nhận thức còn hạn chế nên sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tuy vậy, Em vẫn hy vọng những giải pháp này có thể đóng góp phần nào trong việc khắc phục những khó khăn để nâng cao hơn nữa chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM nói riêng và hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung./.

doc27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: Dự trữ - sản xuất - lưu thông, từ đó sẽ tạo ra hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời của các doanh nghiệp tại một thời điểm. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tín dụng sẽ đứng ra tập trung và phân phối vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn cho các doanh nghiệp của nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn. Chức năng trung gian tín dụng của các Ngân hàng thương mại được hình thành từ rất sớm, ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng thương mại. Ngày nay thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân. 2.2 . Chức năng làm trung gian thanh toán Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng làm thủ quỹ của doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Một trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có nguồn gốc từ xa xưa đó là hoạt động thanh toán hộ cho khách hàng của mình. Còn trong Ngân hàng thương mại, chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt chẽ và hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng dùng tiền gửi của người này để cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng ngân hàng là người thủ quỹ của doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo trong việc cất giữ và chi tiêu một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị cao. Khi Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được chi phí, mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể kinh tế mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình. Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo ra công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó ( như séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán) đã tiết kiệm được cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. Việc làm trung gian thanh toán của các Ngân hàng thương mại ngày nay đã phát triển rất đa dạng, không chỉ là trung gian thanh toán như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại, các Ngân hàng thương mại từng bước trang bị hệ thống máy tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện cho công tác thanh toán được nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác cao hơn. 2.3. Chức năng tạo tiền của ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng đã phát hiện các khách hàng sử dụng giấy chứng nhận tiền gửi (chứng thư) mà ngân hàng đã cung cấp cho họ để chi trả các khoản nợ. Phát hiện này đã thúc đẩy ngân hàng đưa vào lưu thông các loại tiền giấy ngân hàng được chuyển đổi ra vàng qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng. Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ, mà tạo nên một hệ thống, trong đó Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiền tệ, nhờ hoạt động trong hệ thống các Ngân hàng thương mại đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt. Quá trình tạo tiền của Ngân hàng thương mại được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với Ngân hàng trung ương. Bút tệ của các Ngân hàng thương mại tạo ra đó chính là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán qua nhiều ngân hàng. 3. Ngân hàng thương mại và thanh toán không dùng tiền mặt Ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu cơ bản là lợi nhuận, vì vậy nên màng lưới các ngân hàng hình thành rộng khắp để thoả mãn nhu cầu tiền tệ tín dụng và thanh toán của nền kinh tế hàng hoá phát triển rộng khắp quốc gia và vươn ra quốc tế. Nhìn lại lịch sử hình thành ban đầu của ngân hàng, chúng ta thấy dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng cung cấp là quản lý vốn cho khách hàng, bên cạnh đó ngân hàng còn đảm bảo thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn thuận tiện cho khách hàng, do vậy tạo được sự tín nhiệm cho khách hàng, và ngân hàng đã thu hút được nguồn vốn quan trọng nhất cho hoạt đông của mình. Ngân hàng là trung tâm thanh toán cho khách hàng làm cho quá trình lưu thông hàng hoá được tiến hành một cách có hiệu quả. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng nhanh và khối lượng tiền tệ ngày càng lớn, hoạt động kinh tế đã mở rộng ra phạm vi quốc tế. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp không thể thanh toán trực tiếp cho nhau được, mà cần phải có sự tham gia của các ngân hàng trong nước và quốc tế. Chính vì vậy, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán của nền kinh tế. Bởi lẽ, nếu không có sự tham gia của ngân hàng vào thanh toán thì hoạt động trao đổi lưu thông hàng hoá sẽ bị ách tắc, chậm chạp, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Với sự ra đời của ngân hàng, những chi trả về hàng hoá và dịch vụ cuả xã hội được thực hiện qua ngân hàng với nhiều hình thức thanh toán đơn giản, thích hợp và kỹ thuật ngày càng tiên tiến. Ngân hàng nhận làm thủ qũy cho doanh nghiệp, làm trung gian thanh toán hộ các khoản giao dịch theo yêu cầu của hai bên mua - bán, với chức năng trung gian thanh toán của Ngân hàng thương mại, mặc dù không phải là chức năng chủ đạo, nhưng nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một Ngân hàng thương mại. Nhờ có nghiệp vụ nhận tiền gửi thanh toán ngân hàng đã tạo ra nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng trung gian tín dụng bởi qua chức năng này Ngân hàng thương mại có thể huy động được nguồn vốn có chi phí thấp. Khi nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm sẽ là nhân tố chủ yếu để thu hút khách hàng giao dịch nhiều hơn với ngân hàng. Từ đó tăng qui mô huy động vốn và đẩy mạnh hoạt động đầu tư tín dụng. Trên cơ sở làm các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, còn giúp cho ngân hàng có thể kiểm soát được tình hình sử dụng vốn, và đa dạng hoá được hoat động kinh doanh của ngân hàng... Thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng thương mại thường được áp dụng cho các khoản chi trả có giá trị lớn giữa các doanh nghiệp, cá nhân. Vì vậy, tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng thương mại không chỉ có ý nghĩa về mặt tiết kiệm tiền mặt, chi phí lưu thông mà còn giúp cho công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp được tốt hơn. Trên cơ sở tài khoản tiền gửi và các khoản thanh toán được thực hiện qua ngân hàng, đã giúp các doanh nghiệp và cơ quan quản lý như bộ chủ quản, cơ quan thuế có điều kiện kiểm tra theo dõi doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh doanh được chính xác. Đối với ngân hàng, làm tốt chức năng thanh toán không dùng tiền mặt đã tập hợp được một khối lượng vốn tiền gửi ổn định trong toàn hệ thống, vì giảm số dư tiền gửi của khách hàng này thì tăng số dư tiền gửi của khách hàng khác. Từ những cái được trên của thanh toán không dùng tiền mặt đã tạo cho Ngân hàng thương mại áp dụng một công cụ mới, công cụ tài khoản khách hàng để theo dõi ghi chép tất cả các dịch vụ ngân hàng về tiền tệ, tín dụng và thanh toán bằng đồng tiền ghi sổ thay thế cho tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán thông qua trung gian thanh toán của ngân hàng bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản tiền gửi thanh toán của bên chi trả sang tài khoản tiền gửi của người thụ hưởng . Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán ở các nước kinh tế thị trường phát triển nó chiếm vị thế và vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác thanh toán II- Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường 1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt : 1.1. Bản chất của thanh toán không dùng tiền mặt Thanh toán không dùng tiền mặt là chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng, dịch vụ và các khoản khác trong nền kinh tế quốc dân được thực hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống tín dụng hoặc bù trừ công nợ mà không sử dụng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện từ lâu trong trong lịch sử loài người. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng rộng khắp trong lĩnh vực tài chính, đối nội cũng như đối ngoại, nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chu chuyển tiền tệ và được coi là cách thức thanh toán có hiệu quả nhất. Xét về mặt bản chất, thanh toán không dùng tiền mặt phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá, dịch vụ lưu thông. Sự phát triển rộng khắp của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường hiện đại là yêu cầu tất yếu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá. Do đó nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, khối lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi trong nước cũng như nước ngoài tăng nhanh, tất yếu phải có cách thức trả tiền thuận tiện, an toàn và tiết kiệm. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn gắn với sự phát triển của hệ thống tài chính - tín dụng, đặc biệt là sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán tiền hàng - dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ thống này. Thanh toán không dùng tiền mặt là một phạm trù vừa mang tính chất lý thuyết trừu tượng, vừa mang tính công nghệ cụ thể: - Đứng về mặt phạm trù lý luận, thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ. ở đây tiền vừa là công cụ kế toán, vừa là công cụ để chuyển hoá giá trị của hàng hoá dịch vụ. - Đứng về mặt công nghệ thì thanh toán không dùng tiền mặt là những nghiệp vụ phải thông qua nhiều giai đoạn liên hoàn, đòi hỏi những thao tác về kỹ thuật thanh toán tinh vi và phức tạp. 1.2. Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt Thứ nhất: Trong thanh toán không dùng tiền mặt, tiền tệ và hàng hoá vận động ngược chiều với nhau. Việc thanh toán không phải thực hiện bằng cách trao trả trực tiếp tiền – hàng giữa người mua và người bán mà được thực hiện bằng cách trích chuyển vốn từ tài khoản tiền gửi của người mua sang tài khoản của người bán sau khi hàng hoá đã hoặc đang vận chuyển từ người bán tới người mua. Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng tiền ghi sổ hay còn gọi là tiền bút tệ. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của thanh toán không dùng tiền mặt. Việc thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của người trả tiền chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng tại ngân hàng, kho bạc nhà nước hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau. Thứ ba : Trong thanh toán không dùng tiền mặt, mỗi khoản thanh toán ít nhất có ba bên tham gia đó là: Người trả tiền, người nhận tiền và các trung gian thanh toán. - Người trả tiền có thể là người mua hàng, người nhận dịch vụ, người nộp thuế, trả nợ hoặc người chuyển nhượng một khoản tiền nào đó do thiện chí hay do luật định. Người trả tiền đóng vai trò quyết định trong việc thanh toán. Có thể họ là người mở đầu hoặc tiếp nối trong quá trình thanh toán đã được người nhận tiền khởi xướng. Người trả tiền có nhiệm vụ phải trả đúng hạn số tiền phải trả và tôn trọng những thủ tục cần thiết như lập và nộp chứng từ thanh toán theo mẫu qui định và thời hạn qui định hoặc đã được thoả thuận trước. Người trả tiền có quyền từ chối thanh toán nếu các chủ thể khác vi phạm những cam kết hay những qui định đã thoả thuận giữa hai bên. - Người nhận tiền hay còn được gọi là người thụ hưởng là người được hưởng một khoản tiền nào đó do đã giao hàng, cung ứng dịch vụ hoặc do luật định hoặc do thiện chí của người khác. Đối với người nhận tiền là người bán hay cung ứng dịch vụ thì cở sở để nhận tiền là các chứng từ hay hoá đơn giao hàng. Trong trường hợp người nhận tiền với tư cách là tổ chức tài chính, cơ sở nhận tiền là các quyết định, lệnh phân phối của cấp trên. Trong trường hợp người nhận tiền là các chủ nợ thì cơ sở để nhận tiền là các hợp đồng hay khế ước vay nợ. - Các trung gian thanh toán là các tổ chức tài chính như Ngân hàng thương mại, Kho bạc nhà nước. Khi tiến hành các nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt phải sử dụng các chứng từ thanh toán riêng. Chứng từ thanh toán là các phương tiện chuyển tải những điều kiện thanh toán và được sử dụng làm căn cứ để thực hiện việc chi trả. Chứng từ thanh toán gồm lệnh thu hoặc lệnh chi có những mức độ phức tạp khác nhau, nhưng dù sao thì mỗi chứng từ thanh toán cũng phải chứa đựng những yếu tố cơ bản như: Tên, địa chỉ người trả và người nhận, số tiền trả, lý do trả tiền, chữ ký và dấu của chủ tài khoản - kế toán trưởng hay người thừa hành trực tiếp lập chứng từ. Kèm theo lệnh chi hoặc lệnh thu có thể còn có các giấy tờ phụ trợ khác như: Giấy báo liên hàng, Bảng kê thanh toán...vv. Những chứng từ này phục vụ cho việc xử lý kế toán của các trung gian thanh toán 1.3. Những qui định có tính nguyên tắc trong thanh toán không dùng tiền mặt Muốn tổ chức và thực hành công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, ngoài tổ chức cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán cần phải nghiên cứu sâu sắc lý luận xã hội, chế độ thể lệ thanh toán khoa học và thực tiễn đảm bảo công tác thanh toán được thực hiện thuận tiện, an toàn, chính xác và nhanh chóng. Hiện nay thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện trên cơ sở: Nghị định số 30/ CP ngày 09/05/1996 của Chính phủ ban hành về Quy chế phát hành và sử dụng séc; Thông tư số 07/TT-NH1 ngày 31/02/1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định số 30/CP; Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng và Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (có hiệu lực từ ngày 01/01/2002). Nội dung của các văn bản pháp qui được tóm tắt thành những qui định có tính nguyên tắc sau : 1.3.1. Mở và sử dụng tài khoản thanh toán: Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. * Mở tài khoản thanh toán - Ngân hàng Nhà nước mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức tín dụng trong nước, các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán và các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế. Ngân hàng Nhà nước được mở tài khoản thanh toán tại các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng nước ngoài. - Các tổ chức tín dụng là ngân hàng mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức tín dụng khác, các tổ chức khác và cá nhân. Ngân hàng thương mại nhà nước mở tài khoản thanh toán cho Kho bạc nhà nước ở huyện, thị xã không phải là tỉnh lỵ Tổ chức tín dụng mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng. Tổ chức tín dụng là ngân hàng được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế. - Kho bạc Nhà nước mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước. ở huyện, thị xã không phải là tỉnh lỵ. Kho bạc Nhà nước mở tài khoản thanh toán tại một ngân hàng thương mại nhà nước. - Các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán mở tài khoản thanh toán cho người sử dụng dịch vụ thanh toán theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Người sử dụng dịch vụ thanh toán có quyền chọn ngân hàng và các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán để mở tài khoản thanh toántrừ trường hợp pháp luật có quy định khác. * Sử dụng tài khoản và uỷ quyền sử dụng tài khoản. - Chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản thanh toán phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và pháp luật khác có liên quan. - Chủ tài khoản có nghia vụ tuân thủ các quy định của Nghị định này và pháp luật khác có liên quan trong việc sử dụng tài khoản thanh toán. - Chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác bằng van bản sử dụng tài khoản theo quy định của pháp luật. Người được uỷ quyền có quyền hạn và nghĩa vụ như chủ tài khoản trong phạm vi uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba * Sử dụng và uỷ quyền sử dụng tài khoản của đồng chủ tài khoản. Ngoài các quy định về sử dụng tài khoản và uỷ quyền sử dụng tài khoản, việc sử dụng tài khoản của đồng chủ tài khoản còn phải tuân theo các quy định sau: - Mọi giao dịch thanh toán trên tài khoản chỉ được thực hiệ khi có sự chấp thuận của tất cả những người là đồng chủ tài khoản. - Đồng chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác sử dụng tài khoản trong phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật. - Trường hợp một đồng chủ tài khoản bị chết, bị tuyên bố mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì quyền sử dụng tài khoản và nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài khoản của người đó được thựchiện theo quy định của pháp luật. * Tài khoản thanh toán, điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán Loại tài khoản thanh toán, tính chất tài khoản thanh toán, điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. * Phong toả tài khoản Tài khoản thanh toán bị phong toả một phần hoặc toàn bộ số tiền có trên tài khoản trong các trường hợp sau: + Khi có sự thoả thuận giữa chủ tài khoản và người cung ứng dịch vụ thanh toán; + Khi có quyết dịnh hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; + Các trường hợp khác do pháp luật quy định; Việc phong toả tài khoản thanh toán chấm dứt khi: + Kết thúc thời hạn thoả thuận phong toả tài khoản giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; + Người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ra quyết định hoặc yêu cầu chấm dứt việc phong toả. + Theo quy định của pháp luật. * Đóng tài khoản Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đóng tài khoản thnah toán trong các trường hợp sau: + Khi chủ tài khoản yêu cầu; + Khi cá nhân có tài khoản bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; + Khi tổ chức có tài khoản chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật. Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền quyết định việc đóng tài khoản khi chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc vi phạm thoả thuận với tổ chức ung ứng dịch vụ thanh toán; hoặc khi tài khoản có số dư thấp và không hoạt động trong thời hạn nhất định theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 1.3.2. Đảm bảo khả năng thanh toán Người sử dụng dịch vụ thanh toán phải bảo đảm có đủ tiền trên tài khoản thanh toán để thực hiện lệnh thanh toán mà mình đã lập, trừ trường hợp có thoả thuận thấu chi với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 1.3.3. Thực hiện lệnh thanh toán Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, kịp thời lệnh thanh toán của người sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy định hoặc thoả thuận của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đối với người sử dụng dịch vụ thanh toán nhưng không trái pháp luật. 1.3.4. Phí dịch vụ thanh toán Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền thu phí của người sử dụng dịch vụ thanh toán 1.3.5 . Chứng từ thanh toán: Tất cả các chứng từ thanh toán của các chủ thể thanh toán đều phải lập trên mẫu in sẵn do ngân hàng in và nhượng bán. Những chứng từ đó phải lập đủ liên, viết rõ ràng không tẩy xoá và phải nộp vào ngân hàng theo đúng qui định. Các ngân hàng có quyền từ chối thanh toán hoặc không chấp nhận thanh toán trong trường hợp chủ thể thanh toán vi phạm một trong những qui định của chế độ thanh toán hiện hành. 1.3.6. Trách nhiệm của ngân hàng: Các ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn cho khách hàng làm các thủ tục thanh toán, giám sát khả năng chi trả của khách hàng, cung cấp đầy đủ và kịp thời các loại giấy tờ thanh toán cần thiết cho khách hàng theo chế độ qui định. Các ngân hàng có trách nhiệm thông báo và đối chiếu thường xuyên với các chủ tài khoản về số dư tài khoản tiền gửi. Khi nhận được các chứng từ thanh toán của khách hàng gửi đến, các ngân hàng phải kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và có quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền. Ngân hàng phải thanh toán kịp thời, chính xác và đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng. Nếu do thiếu sót gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng phải bồi thường vật chất cho bên bị hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật. Khi thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được thu phí theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trên đây là một số qui định có tính nguyên tắc cơ bản nhằm mục đích vừa đảm bảo cho quá trình thanh toán được thực hiện đúng đắn, vừa đảm bảo cho sự kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống ngân hàng đối với các hoạt động của các chủ thể thanh toán có hiệu quả. 2- Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam hiện nay: Hiện nay, trên thế giới người ta đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt rất đa dạng và phong phú. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ quản lý, tuỳ theo mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống ngân hàng, người ta lựa chọn một số hình thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi nước. ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vị trí, vai trò chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại và của Ngân hàng trung ương đã thay đổi theo mô hình kinh tế thi trường. Chính vì vậy, chế độ thanh toán không dùng tiền mặt cũng được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn. Thanh toán không dùng tiền mặt được quy định trong Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ bao gồm những hình thức sau : Hình thức thanh toán bằng séc. Hình thức thanh toán bằng lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi. Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng Trong đó, hình thức thanh toán bằng séc tuân theo Nghị định số 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 07/TT-NH1 ngày 31/02/1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.1. Thanh toán bằng séc Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng nhà nước qui định yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc hay người cầm tờ séc đó. Séc là một loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới, qui định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên luật thương mại quốc gia và trên công ước quốc tế. Nghị định 30/CP của Chính phủ quy định rõ ở Việt Nam được phép lưu hành các loại séc vô danh và séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng. Nghị định 30/CP ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến có ý nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt Nam. Theo nghị định này, séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai trò là công cụ lưu thông. Séc được dùng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ nộp thuế trả nợ...vv, hoặc được dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của tờ séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ). Một tờ séc đủ điều kiện để thanh toán là tờ séc đảm bảo các yếu tố sau: - Tờ séc phải có đủ các yếu tố và nội dung quy định, không bị tẩy xoá, sửa chữa, số tiền bằng chữ và bằng số phải khớp nhau. - Tờ séc phải nộp trong thời gian hiệu lực thanh toán. - Không có lệnh đình chỉ thanh toán. - Chữ ký và mẫu dấu ( nếu có ) của người phát hành sécphải khớp đúng với mẫu đã đăng ký tại ngân hàng. - Không ký phát hành séc vượt quá thẩm quyền quy định tại văn bản uỷ quyền. - Tài khoản tiền gửi của Chủ tài khoản đủ số dư để thanh toán. - Các chữ ký chuyển nhượng (đối với séc ký danh) phải liên tục. ở Việt Nam hiện nay có các loại séc sau : Séc dùng để lĩnh tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi ( Nếu khách hàng yêu cầu ). 2.1.1. Séc lĩnh tiền mặt Séc lĩnh tiền mặt là loại séc chỉ được dùng để rút tiền mặt tại ngân hàng nơi đơn vị mở tài khoản. Séc dùng để lĩnh tiền mặt khi có hai đường song song chéo góc ở phía trên bên trái hoặc không có chữ “ chuyển khoản “ ở mặt trước tờ séc. Khi có nhu cầu lĩnh tiền mặt người phát hành séc phải ghi tên pháp nhân (hoặc cá nhân), địa chỉ hoặc số hiệu tài khoản và tên ngân hàng vào nơi quy định của mặt trước tờ séc. Khi lĩnh tiền mặt, người lĩnh tiền phải nộp vào ngân hàng nơi phát hành séc tờ séc lĩnh tiền mặt ghi đầy đủ các yếu tố đã quy định. Trường hợp người thụ hưởng đứng tên cá nhân, đồng thời là người trực tiếp lĩnh tiền thì không cần có giấy uỷ quyền. Các trường hợp khác, phải có giấy uỷ quyền của người thụ hưởng (uỷ quyền từng lần hoặc uỷ quyền có thời hạn ). 2.1.2. Séc dùng thanh toán chuyển khoản Séc thanh toán chuyển khoản là loại séc do chủ tài khoản phát hành và giao trực tiếp cho người thụ hưởng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ và các khoản thanh toán khác. Khác với séc lĩnh tiền mặt, khi phát hành séc thanh toán chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song song chéo góc hoặc viết “chuyển khoản” ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ séc trước khi giao cho người thụ hưởng. Séc chuyển khoản được dùng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng . Nếu thanh toán khác chi nhánh ngân hàng thì các ngân hàng đó phải tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn. Về nguyên tắc, séc thanh toán chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi hiện có tại ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ séc để thanh toán, sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh toán tờ séc đó và những khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu nại và khởi kiện. Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng thì người phát hành séc sẽ giao séc cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng sau khi kiểm tra tính hợp lệ của tờ séc sẽ nộp séc vào ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng sau khi kiểm tra tờ séc, nếu đủ điều kiện thì hạch toán. Nếu hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại hai ngân hàng khác hệ thống nhưng tham gia thanh toán bù trừ, thì ngân hàng phục vụ người thụ hưởng sẽ kê tờ séc đó chuyển sang ngân hàng phục vụ người mua vào phiên bù trừ gần nhất. 2.1.3. Séc bảo chi: Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích trước số tiền trên séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền sang tài khoản đảm bảo thanh toán séc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc đó. Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc được sử dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng, hai ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn, thì séc bảo chi còn được sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống trong phạm vi cả nước. Do séc đã được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả, nên khi khách hàng nộp séc vào ngân hàng phục vụ đơn vị thụ hưởng thì sẽ được ghi có ngay cho người thụ hưởng sau khi kiểm tra tính hợp lệ của tờ séc. Vì vậy để đảm bảo an toàn các ngân hàng phát hành séc bảo chi phải tính ký hiệu mật (Quy định riêng cho từng hệ thống ngân hàng). 2.2. Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ( Nơi mở tài khoản tiền gửi) trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng. Uỷ nhiệm chi được dùng để thanh toán các khoản tiền hàng, dịch vụ hoặc chuyển tiền trong cùng hệ thống hay khác hệ thống ngân hàng. Khi nhận được uỷ nhiệm chi chuyển tiền, trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng phục vụ người trả tiền phải hoàn tất lệnh chi hoặc từ chối thực hiện nếu tài khoản của khách hàng không đủ số dư hoặc chứng từ không hợp lệ. Đây là hình thức thanh toán đơn giản, nhanh chóng nên nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thanh toán không dùng tiền mặt, và nó thường được áp dụng giữa các đơn vị thanh toán có sự tín nhiệm lẫn nhau. Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại hai ngân hàng, thì đơn vị bán sau khi giao hàng cho đơn vị mua, đơn vị mua sẽ lập uỷ nhiệm chi gửi đến ngân hàng phục vụ mình. Tại ngân hàng phục vụ đơn vị mua sau khi kiểm tra tính hợp lệ của chứng từ sẽ tiến hành ghi nợ và chuyển theo liên hàng (nếu là hai ngân hàng trong cùng hệ thống) hoặc chuyển sang tài khoản thanh toán bù trừ ( nếu là hai ngân hàng khác hệ thống nhưng tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn ) trong ngày làm việc. 2.3. Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu Uỷ nhiệm thu là hình thức thanh toán mà người bán khi hoàn thành việc sử dụng hàng hoá theo hợp đồng bên mua, sẽ lập chứng từ nhờ ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền đã giao . Uỷ nhiệm thu là loại giấy tờ do người bán lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng gửi vào ngân hàng phục vụ mình nhờ ngân hàng thu hộ số tiền hàng đã giao. Hình thức này chỉ sử dụng trong trường hợp hai bên mua bán có quan hệ thường xuyên và tín nhiệm lẫn nhau và uỷ nhiệm thu chỉ áp dụng trong trường hợp có hợp đồng kinh tế hoặc đơn đặt hàng . Uỷ nhiệm thu có thể áp dụng thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một ngân hàng hoặc giữa các ngân hàng có cùng hệ thống hoặc khác hệ thống Tuy nhiên hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu vẫn còn nhiều hạn chế là: Chứng từ được lập ở bên bán nên mất nhiều công đoạn và thời gian luân chuyển, dễ xảy ra trường hợp chứng từ khống và sai lệch số tiền 2.4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng : Thư tín dụng là lệnh của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích số tiền nhất định đủ để trả tiền hàng đã hợp đồng, từ tài khoản của mình vào tài khoản “ Tiền gửi đảm bảo thanh toán thư tín dụng “. Thư tín dụng được dùng thanh toán tiền hàng trong điều kiện hai bên mua bán không có sự tín nhiệm lẫn nhau, yêu cầu bên mua phải có đủ tiền trả ngay sau khi giao hàng. Số tiền mở thư tín dụng phải phù hợp với hợp đồng kinh tế và đơn đặt hàng đã ký. Phạm vi áp dụng của hình thức thanh toán bằng thư tín dụng là: Đối với khách hàng có mở tài khoản ở hai ngân hàng cùng hệ thống, hoặc hai ngân hàng khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một địa bàn. Bên cạnh đó việc thanh toán bằng thư tín dụng còn nhiều hạn chế như sẽ gây ra việc ứ đọng vốn, làm cho bên mua thiếu vốn giả tạo, hình thức thanh toán bằng thư tín dụng thủ tục còn rườm rà nên nó cũng rất ít được áp dụng. 2.5. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán Việc áp dụng hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán được thực hiện theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong đó thẻ thanh toán bao gồm: - Thẻ thanh toán là loại thẻ do chủ thẻ sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng phát hành thẻ. - Thẻ tín dụng là thẻ cho phép chủ thẻ thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt trong hạn mức tín dụng được ngân hành phát hành thẻ chấp thuận theo hợp đồng Thẻ thanh toán phải có đầy đủ các yếu tố sau: + Tên chủ thẻ. + Tên ngân hàng phát hành thẻ. + Số thẻ + Nhãn hiệu thương mại. + Thời hạn sử dụng thẻ. Thẻ thanh toán được sử dụng để trả tiền hàng hoá - dịch vụ tại đơn vị chấp nhận thẻ hoặc rút Việt Nam đồng bằng tiền mặt tại ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ. Việc sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng và chi trả dịch vụ bằng ngoại tệ chỉ được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc tại các tổ chức và cá nhân trong nước được phép thu ngoại tệ. Thời hạn sử dụng thẻ do ngân hàng phát hành quy định. Riêng đối với thẻ tín dụng tối đa không quá 3 năm kể từ khi thẻ được phát hành. 3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường hiện nay Kinh tế thị trường là nền kinh tế tiền tệ. Vốn tiền tệ là điều kiện tài chính để thành lập doanh nghiệp, là nhân tố tạo lập điều kiện mở đầu quá trình và chu kỳ sản xuất kinh doanh và cũng là kết quả saukhi kết thúc các chu kỳ sản xuất. Vì vậy, tạo vốn, sử dụng vốn tăng nhanh vòng quay chu chuyển vốn là phương thức và tiêu chuẩn nâng cao hiệu quả kinh doanh, tối đa hoá lợi nhuận cũng như chu chuyển kinh tế vĩ mô. Nếu tiền tệ và ngân hàng là hệ thống huyết mạch cung cấp “ máu “ tức vốn tiền tệ cho “cơ thể kinh tế “. Doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế, thì công tác thanh toán là “một van tim “ thúc đẩy tốc độ tuần hoàn vốn. Lưu thông hàng hoá là cở sở của lưu thông tiền tệ, và ngược lại lưu thông tiền tệ thúc đẩy lưu thông hàng hoá. Vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt có những ưu thế đặc trưng và vai trò quan trọng đối với doang nghiệp, ngân hàng và nền kinh tế. 3.1.Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán an toàn nhanh chóng, khối lượng thanh toán lớn, phạm vi thanh toán rộng. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng. Để thực hiện hình thức thanh toán này phải có ba chủ thể tham gia : Bên chi trả, bên thụ hưởng và ngân hàng. Mỗi bên tham gia quan hệ thanh toán phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Nghiệp vụ thanh toán thông qua sử dụng các tài khoản trên và được tiến hành vối điều kiện tài khoản tiền gửi của các bên chỉ trả còn số dư hoặc được thấu chi để đảm bảo thanh toán. Trong điều kiện của xã hội thông tin, hệ thống thanh toán được tin học hoá, tốc độ thanh toán tương đương tốc độ truyền tin. Thì hình thức thanh toán không dùng tiền mặt có ưu thế tuyệt đối. Nó thoả mãn nhu cầu thanh toán trong nền kinh tế thị trường phát triển với khối lượng thanh toán lớn, nhanh chóng, an toàn. 3.2. Thanh toán không dùng tiền mặt đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh đảm bảo hoạt động sản xuất lưu thông được liên tục Nền kinh tế ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng nhanh và khối lượng tiền tệ ngày càng lớn, hoạt động kinh tế đã mở rộng ra phạm vi quốc tế. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp không thể thanh toán trực tiếp cho nhau được, mà cần phải có sự tham gia của các ngân hàng với vai trò trung gian thanh toán của mình để giải quyết “khuyết điểm” trên, trong đó thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng của các doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh số dịch vụ thanh toán của ngân hàng, nhờ vậy hoạt động trao đổi lưu thông hàng hoá sẽ không bị ách tắc, chậm chạp do mối quan hệ “tiền - hàng” được giải quyết một cách nhanh chóng. Bởi vì, người mua luôn phải đảm bảo số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình tại ngân hàng, đồng thời khi hệ thống thanh toán của ngân hàng hoàn thiện thì tốc độ thanh toán rất nhanh, đảm bảo chi trả kịp thời cho người bán nhằm đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của họ. 3.3. Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần tạo vốn cho ngân hàng Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế qua ngân hàng đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi phải đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. Vì vậy, ngân hàng thông qua vai trò trung gian thanh toán đã tự huy động được nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh tín dụng của mình. Nguồn vốn này có tính chất đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại vì tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp tại ngân hàng chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn với mức lãi suất rất thấp. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại cần phải hoạch định chiến lược và có chính sách khách hàng hợp lý nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp vào tài khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng để tạo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, việc huy động tiền gửi của các doanh nghiệp tại ngân hàng cũng tạo ra cho doanh nghiệp một khoản tiền lãi nhất định do các ngân hàng trả lãi đối với tiền gửi thanh toán thông thường bằng lãi suất huy động tiết kiệm không kỳ hạn nhằm động viên, khuyến khích khách hàng. 3.4. Thanh toán không dùng tiền mặt đóng vai trò cung cấp thông tin cho ngân hàng thực hiện việc kiểm soát bằng đồng tiền : Thông qua tình hình biến động số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của các khách hàng, ngân hàng sẽ thu thập được những thông cần thiết về tình hình kinh tế - tài chính của khách hàng như thông tin về dòng lưu chuyển tiền tệ, doanh thu, chi phí..vv. Từ đó, ngân hàng gián tiếp đánh giá được về tình hình kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng thanh toán...vv của khách hàng để thực hiện việc kiểm soát đồng tiền thông qua việc có các chính sách kịp thời, hợp lý đối với các quyết định về huy động vốn, cho vay và thực hiện các dịch vụ khác của ngân hàng. 3.5. Thanh toán không dùng tiền mặt đóng vai trò tiết giảm khối lượng tiền mặt, hỗ trợ cung ứng tiền mặt, điều hoà lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Khối lượng tiền mặt và khối lượng tiền ghi sổ được quyết định bởi tổng giá cả hàng hoá- dịch vụ và tốc độ lưu thông tiền tệ bình quân. Vì vậy, sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế sẽ bao gồm sự vận động của tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, tức là khi thanh toán tiền mặt tăng thì lưu thông tiền mặt giảm và ngược lại do Ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành, kiểm soát và cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế thông qua các kênh như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, từ đó điều tiết khối lượng tiền ghi sổ tại các ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM 1. Về phía các ngân hàng thương mại Công nghệ thanh toán là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại do khối lượng thanh toán qua ngân hàng ngày càng lớn, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đáp ứng một cách nhanh chóng, kịp thời cho khách hàng về nhu cầu thanh toán. Hiện nay, hệ thống các ngân hàng thương mại trong nước đã áp dụng công nghệ tin học vào hoạt động thanh toán như thực hiện việc kết nối mạng truyền dẫn và xử lý dữ liệu giữa Trung tâm điều hành với các chi nhánh trực thuộc, thực hiện chuyển tiền điện tử...vv. Một số ngân hàng như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng ACB đã thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt thông qua việc phát hành thẻ tín dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ thanh toán trong than toán không dùng tiền mặt vẫn chưa được thực hiện đồng bộ giữa các ngân hàng thương mại với nhau, giữa các ngân hàng thương mại và trung tâm thanh toán dẫn đến những hạn chế trong thnah toán không dùng tiền mặt ở nước ta hiện nay. Hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Trình độ cán bộ ngân hàng hiện nay còn nhiều bất cập như trình độ học vấn chưa được nâng cao, ý thức trách nhiệm, phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ và trình độ tay nghề của đội ngũ nhân viên trực tiếp giao dịch với khách hàng còn chưa mang tính phục vụ khách hàng một cách triệt để, nhiệt tình, thấu đáo dẫn đến trong công tác thanh toán không dùg tiền mặt còn nhiều hạn chế. Công tác tuyên truyền, quảng cáo của ngân hàng về thanh toán không dùng tiền mặt còn thực hiện một cách hình thức chưa thực sự hiệu quả, hầu hết các ngân hàng ở trong trạng thái “đợi khách” chứ chưa thực sự tiếp cận, lôi cuốn khách hàng bằng những phương pháp marketing thiết thực. Việc tổ chức phục vụ thanh toán còn yếu kém: mạng lưới thanh toán chưa rộng, các ngân hàng hầu như chỉ bó hẹp sự giao dịch trong hệ thống của mình, việc hợp tác giữa các ngân hàng còn thiếu sự đồng bộ, từ đó dẫn đến tốc độ thanh toán chậm, thủ tục rườm rà. Các phương tiện thanh toán đặc biệt là séc, một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt đơn giản và tiện lợi, được thiết kế, quy định sử dụng còn chưa thuận tiện để người dân có thể sử dụng dễ dàng, chẳng hạn: séc có phạm vi thanh toán hẹp, séc lĩnh tiền mặt chỉ được được lĩnh ở ngân hàng thanh toán, mẫu séc rườm rà và chưa có những quy định cụ thể để người sử dụng séc yên tâm rằng quyền lợi của họ được đảm bảo nếu họ dùng séc hoặc uỷ nhiệm chi chưa được sử dụng như một lệnh chi thông dụng. 2. Về phía khánh hàng Điều kiện kinh tế của Việt Nam chưa cao dẫn đến thu nhập của người dân nhìn chung còn thấp, vì thế việc mở rộng tài khoản tiền gửi cá nhân ở các ngân hàng thương mại hiện nay chỉ là hình thức. Việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán đã là một thói quen quá lâu đời của cá nhân người Việt Nam, thay đổi thói quen này không thể là một việc làm “một sớm, một chiều”, đồng thời hoạt động kinh doanh buôn bán và làm dịch vụ trong xã hội chủ yếu được cung cấp bởi các tiểu thương, hộ kinh doanh nhỏ với giá trị không lớn và chưa thật sự tin tưởng vào hệ thống dịch vụ ngân hàng nên họ có thói quen thanh toán bằng tiền mặt nhiều hơn Trình độ dân trí còn thấp, hiểu biết về hoạt động ngân hàng còn quá ít ỏi cũng là một hạn chế lớn cho công tác thanh toán qua ngân hàng, đồng thời các cơ quan, doanh nghiệp khác lại coi việc tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt là trách nhiệm của riêng ngân hàng nên thiếu sự phối hợp, nhiều doanh nghiệp thương mại ngại nhận séc vì sợ không an toàn hoặc ngại đem nộp séc. 3. Về phía cơ chế Hiện nay, mặc dù đã có Nghị định số 30/ CP ngày 09/05/1996 của Chính phủ ban hành về Quy chế phát hành và sử dụng séc; Thông tư số 07/TT-NH1 ngày 31/02/1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định số 30/CP; Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng và Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (có hiệu lực từ ngày 01/01/2002, nhưng hiện tại chưa có Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64/NĐ-CP và chưa có Nghị định mới thay thế Nghị định số 30/CP về thanh toán séc. Ví dụ: về dịch vụ thanh toán séc theo Nghị định số 30/CP của Chính phủ đòi hỏi người sử dụng séc phải có tài khoản, có số dư đảm bảo khả năng thanh toán và người được hưởng séc cũng phải có tài khoản tại ngân hàng, trong khi đó đại đa số dân chúng chưa có tài khoản, chưa được tuyên truyền về thủ tục thanh toán séc nên họ chẳng quan tâm đến séc của ngân hàng có thuận lợi hay không. Vì vậy, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thanh toán ở nước ta hiện nay do các đơn vị cung ứng dịch vụ thanh toán vẫn chủ yếu áp dụng các nội dung cơ bản của ác van bản trước đây về thanh toán không dùng tiền mặt. Khi triển khai thực hiện cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt còn nhiều điểm bất hợp lý ví dụ như: Thanh toán bù trừ được thực hiện ở nơi có chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố để thanh toán vốn lẫn nhau giữa các đơn vị thanh toán theo thể thức thanh toán của khách hàng đóng trên địa bàn, tổng hợp theo bảng kê số 12 và 14. Những món thanh toán ngoài hệ thống, ngoài địa bàn đã tổ chức thanh toán bù trừ phải thông qua chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố chuyển tiền từng lần. Các đơn vị thanh toán cấp huyện ở nơi không có chi nhánh Ngân hàng Nhà nước không thể thực hiện thanh toán bù trừ hoặc không thể chuyển tiền từng lần được. Muốn thực hiện chuyển tiền từng lần qua chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, các đơn vị thanh toán ở huyện, thị xã phải thông qua chi nhánh ngân hàng thương mại cấp trên của mình. Đây là một khâu tồn tại về thanh toán bù trừ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. chương III Một số giải pháp nhằm mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Các NHTM I - Định hướng hoạt động của Các NHTM Định hướng hoạt động kinh doanh Định hướng hoạt động kinh doanh của các NHTM nằm trong định hướng chung của ngành Ngân hàng Việt Nam là không ngừng mở rộng tín dụng, đảm bảo tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (dưới 3%); Tăng cường hơn nữa công tác huy động vốn trong các tầng lớp dân cư nhằm đáp ứng được nguồn vốn để cho vay, đảm bảo kinh doanh có lãi, an toàn và có hiệu quả. 2- Định hướng mở rộng và phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt Một trong những định hướng quan trọng của các NHTM là hoạt động dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu là tổ chức thanh toán trong nền kinh tế, mà nổi bật nên là công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Để thực hiện tốt được định hướng này, các NHTM cần phải làm tốt công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, thiết lập một cấu trúc hệ thống thanh toán hiện đại đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tổ chức tốt dây chuyền và công nghệ cho phù hợp bằng việc hoàn thiện hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử, thanh toán liên ngân hàng. Tăng cường đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo, phổ cập dịch vụ thanh toán qua ngân hàng trong khu vực dân cư và sử dụng tài khoản cá nhân trong đó đặc biệt chú trọng đến hình thức thanh toán bằng séc. II/ một số Giải pháp nhằm mở rộng và phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM. Chuyển sang cơ chế thị trường, để có thể đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, đồng thời tạo ra cho mình một thế đứng vững chắc trong cạnh tranh, đã đến lúc các Ngân hàng thương mại phải đổi mới quan điểm trong kinh doanh của mình. Trong huy động vốn, bên cạnh việc chú trọng những món lớn, phải chú ý khai thác các món nhỏ. Trong công tác thanh toán, phải coi dịch vụ thanh toán cho khách hàng như một vũ khí lợi hại trong cạnh tranh, phải tạo cho khách hàng có lòng tin vào khả năng thanh toán nhanh chóng, an toàn, chính xác của ngân hàng, phải cung cấp cho khách hàng những công cụ thanh toán tiện lợi, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên tham gia. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong thanh toán không dùng tiền mặt đang là vấn đề quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp. Vì vậy việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nói chung và công nghệ thanh toán là cấp thiết góp phần thoả mãn nhu cầu thanh toán đa dạng và không ngừng tăng lên của nền kinh tế. Với những kiến thức đã được học tại trường và qua nghiên cứu các tài liệu, văn bản của Nhà nước, của ngành ngân hàng em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng và phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong hoạt động dịch vụ ngân hàng tại các NHTM: Một là, mở rộng màng lưới dịch vụ ngân hàng. Hai là, không ngừng đổi mới, cải tiến, ngày càng hiện đại hoá công nghệ thanh toán của ngân hàng. Ba là, tổ chức bộ máy thực hiện một cách có hiệu quả, tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm, phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ và không ngừng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ ngân hàng nói chung và đội ngũ nhân viên trực tiếp giao dịch với khách hàng nói riêng. Có chiến lược tổ chức đào tạo mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán nhằm đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới với nội dung “Tăng cường sức cạnh tranh bằng đội ngũ nhân viên có đạo đức nghề nghiệp, giỏi chuyên môn và nhiệt tình trong công việc”. Đặc biệt là xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác điện toán, kế toán thanh toán thành đội ngũ cán bộ làm việc năng động, chính xác, an toàn tài sản là việc mang tính cấp bách và lâu dài cho hoạt động ngân hàngnói chung và hoạt động thanh toán nói riêng. Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo và các hoạt động marketing sâu rộng đến mọi tầng lớp dân cư, đến mọi tổ chức và cá nhân để họ hiểu rõ về công tác thanh toán qua ngân hàng, để họ thấy được các tiện ích mới trong thanh toán như an toàn, thuận lợi, nhanh chóng, chính xác. Năm là, không ngừng cải tiến các thủ tục, quy trình thanh toán sao cho việc thực hiện thanh toán cho khách hàng được nhanh, chính xác và an toàn. phần III: Kết luận Ngày nay, các Ngân hàng thương mại, ngoài mục tiêu kinh doanh để tồn tại và phát triển của mìnhthì mục tiêu trở thành “ Ngân hàng của mọi nhà, mọi người, mọi tầng lớp dân cư “ là mục tiêu mà các Ngân hàng thương mại đang hướng tới. Bởi lẽ nếu đạt được mục tiêu này, thì khoảng cách giữa khách hàng và ngân hàng sẽ được rút ngắn lại. Ngân hàng cần đến khách hàng và khách hàng cũng cần đến ngân hàng để cùng tồn tại và phát triển. Để làm được điều đó thì việc nâng cao chất lượng các dịch vụ thanh toán là việc làm cần thiết và là yêu cầu tiên quyết đối với ngân hàng. Với ngân hàng phải có sự đầu tư đáng kể để hiện đại hoá phương tiện thanh toán, đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển kinh tế là sự phát triển của các giao dịch mang tính chất thương mại, mà kết quả là sự gia tăng trong lĩnh vực thanh toán. Sự phát triển kinh tế không bao giờ ngừng, cho nên nhu cầu về thanh toán cũng vì thế mà tăng mãi. Theo đà đó công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng phải đổi mới liên tục để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế phát triển hiện nay. Bởi vậy, tiếp tục đổi mới hoàn thiện các hình thức thanh toán nhằm làm cho cơ chế thanh toán trở lên sống động hơn là vấn đề đặt ra cho các NHTM. Trong chuyên đề này, em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác thanh toán không dùng tiền mặt, với trình độ nhận thức còn hạn chế nên sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tuy vậy, Em vẫn hy vọng những giải pháp này có thể đóng góp phần nào trong việc khắc phục những khó khăn để nâng cao hơn nữa chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM nói riêng và hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0832.doc
Tài liệu liên quan