Đề tài Bản chất và vai trò các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia

Với những đặc trưng và vai trò to lớn dó cùng với những nét đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam. Đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách, biện pháp tạo đà thuận lợi hơn nữa: Tạo môi trường pháp lý, sự ổn định chính trị, chính sách thông thoáng, ưu đãi đối vơí đầu tư Để tăng cường và khai thác có hiệu quả hơn nữa những thuận lợi của sự hoạt động của các tổ chức này tại nước ta. Đồng thời khắc phục những khó khăn khi cho phép và kêu gọi sự hoạt động của các công ty này. Khi những mặt trái của sự hoạt động của các công ty này đem lại: thất nghiệp, tình trạng độc quyền trong nền kinh tế xuất hiện, bị phụ thuộc và mắc nợ nước ngoài gia tăng.

doc27 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bản chất và vai trò các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường phát triển có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam lựa chọn từ Đại hội Đảng VI (1986). Đã và đang từng bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay công việc đổi mới và phát triển nền kinh tế diễn ra với nhiều xu thế khác nhau, đã tạo đà đưa đất nước ta từng bước thoát khỏi khó khăn và đang phát triển ngày càng ổn định. Trong những xu thế đó không thể không nói tới xu thế phát triển và xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác hoá và chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới. Đóng góp cho sự thành công và ảnh hưởng của xu thế này trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chúng ta phải nói tới vai trò to lớn của các tổ chức độc quyền. Đặc biệt là sự hoạt động và ảnh hưởng mạnh mẽ của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia. Với những đặc trưng và tầm ảnh hưởng rộng lớn của mình: Vốn lớn, khả năng chuyển giao công nghệ lớn, có tổ chức rộng lớn… và đặc biệt là trong công tác quản lý với những hình thức, biện pháp quản lý mới ngày càng tiến bộ và phù hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Trong bối cảnh mới đã tạo ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, áp dụng cho sự phát triển kinh tế của nước ta. Bên cạnh đó, sự hoạt động của các tổ chức này cũng tạo ra không ít những khó khăn cho sự phát triển và quản lý nền kinh tế. Có thể nói rằng ảnh hưởng của các công ty, các tổ chức độc quyền này đối với nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng là điều không thể phủ nhận. Để hiểu hơn nữa về các công ty này: Về đặc trưng và vai trò ngày càng to lớn của nó và việc quản lý sự hoạt động có hiệu quả cũng như việc khai thác triệt để những thuận lợi, cũng như khắc phục những ảnh hưởng sâu sắc trong hoạt động của các công ty này đem lại cho sự phát triển kinh tế là một xu thế cấp bách. Để góp phần làm sáng tỏ hơn nữa vấn đề này. Em xin chọn đề tài: “Bản chất và vai trò các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia” để góp phần hơn nữa trong việc hiểu biết và nhận thức hơn đúng về các công ty này. Do vốn kiến thức còn hạn chế và lần đầu tiếp cận với một vấn đề khá mới mẻ và phức tạp bài viết sẽ không tránh khỏi sai sót. Em mong được sự giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo để bài viết này của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Nội dung I. Bản chất nội dung phát triển của các tổ chức đế quốc xuyên quốc gia. 1. Sự hình thành và phát triển. 1.1. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trìnhtích tụ quyền lực kinh tế. Sự ra đời của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Về thực chất chúng là sự phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi câc mối quan hệ vượt quá phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng được phát triển. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, chủ nghĩa Mác và Anghen đã dự đoán rằng, tích tụ và tập trung tư bản thông qua hợp tác giản đơn và công trường thủ công cùng với sự phân công lao động ngày càng hoàn thiện, tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của những xí nghiệp tư bản có quy mô lớn và sự cạnh tranh của những xí nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu đưa đến kết quả là một xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản hoặc bị sát nhập với nhau để trở thành những xí nghiệp lớn hơn và theo đó tập trung tư bản được đẩy mạnh hơn một bước. Một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình tập trung tư bản đó là tín dụng. Vai trò của tín dụng và công ty cổ phần đối với việc mở rộng quy mô xí nghiệp và sự hình thành thị trường thế giới đã được chủ nghĩa Mác khẳng định theo đó: “Chúng là cơ sở chủ yếu của cuộc chuyển hoá dần những xí nghiệp tư nhân tư bản chủ nghĩa thành những công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa, chế độ tín dụng đồng thời cũng là một phương tiện để mở rộng dần các xí nghiệp hợp tác tới một phạm vi ít nhiều rộng lớn”. Và “ Như vậy tín dụng đã đẩy mạnh tốc độ phát triển vật chất của lực lượng sản xuất và sự hình thành một thị trường thế giới”. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất như vậy đã tạo ra các công ty cực lớn, bao gồm trong đó rất nhiều công ty và người ta gọi đó những tập đoàn với các công ty mẹ đứng đầu và các công ty con chúng được gọi là các công ty vừa và nhỏ; chúng phụ thuộc về tài chính và kỹ thuật vào công ty mẹ. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại rất nhiều công ty vừa và nhỏ, hoạt động phụ thuộc hoặc hoạt động độc lập với các công ty lớn. Sự thâu tóm các xí nghiệp vừa và nhỏ và thực hiện chính sách kiểm soát tài chính, kỹ thuật và nằm trong hệ thống phân công theo kiểu công trường thủ công, đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản sinh lợi. Đồng thời về mặt tổ chức sản xuất, đây là hình thức tỏ ra có tính hiệu quả cao, vì nó làm giảm được chi phí sản xuất, tận dụng được mọi khả năng, nguyên vật liệu, phát huy được tính năng động sáng tạo … do đó làm tăng quy mô và tỷ xuất lợi nhuận. 1.2. Quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn tới sụ hình thành các tổ chức độc quyền. Các hình thức tổ chức sản xuất đầu tiên ( hợp tác giản đơn và công trường thủ công) đều là những hình thức tổ chức sản xuất đầu tiên của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Chế độ xí nghiệp được hoàn thiện bằng các hình thức quá độ phức tạp, đan xen nhau trong quá trình đổi mới về kỹ thuật và tổ chức lao động sản xuất lâu dài, trên cơ sở công trường thủ công. Cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, chế độ này đã có được cơ sở vững chắc về kỹ thuật. Cùng với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường phát triển đã làm cho xí nghiệp thành hình thức sản xuất điển hình của chế độ tư bản chủ nghĩa. Như vậy sự xuất hiện của máy móc và sự xuất hiện ngày càng hoàn thiện của chế độ xí nghệp cùng với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường đã thúc đẩy sự phân công lao động mở rộng từ nội bộ ngành sang địa bàn quốc gia, địa bàn quốc tế và làm cho quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tăng lên và theo đó các tổ chức độc quyền bắt đầu xuất hiện. Cùng với sự lớn mạnh của chế độ xí nghiệp. Sự liên kết theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang được đẩy mạnh dẫn tới quá trình liên kết đa ngành, trong đó dịch vụ và ngân hàng được các tổ chức độc quyền quan tâm và bành trướng quyền lực và cùng ví sự hình thành nên các liên kết conglomerate và sự tập trung sản xuất, tập trung tư bản rất lớn đã hình thành nên các công ty có khả năng về chuyển giao công nghệ, vốn, có mạng lưới phân phối đã làm cho chúng hình thành các vương quốc kinh tế khổng lồ với khả năng phát triển không ngừng. 1.3. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh hình thành nên các công ty nông- công nghiệp, nông- thương nghiệp. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp, cùng với sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã làm cho cấu tạo hữu cơ tăng lên và làm giảm ý nghĩa của địa tô tuyệt đối, tạo ra mối liên hệ ngày càng tăng giữa công - nông nghiệp trong cả cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc dân. Có thể thấy rằng: Sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp đã có tác động trở lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Và để cho toàn bộ nền kinh tế có thể phát triển mạnh trong cạnh tranh. Nền nông nghiệp cũng phải có khả năng cạnh tranh cao. Nông nghiệp các nước phát triển đã được tập trung cao độ với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh hiện đại. 2. Các hình thức của các công ty độc quyền xuyên quốc gia. 2.1. Cartel . Là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp độc quyền sản xuất của một loại sản phẩm, cùng ký kết với nhau hiệp định lập ra thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hàng hoá, sản lượng sản phẩm sản xuất ra nhằm phân chia lợi ích cụ thể với nhau. Tuynhiên các xí nghiệp vẫn là các xí nghiệp độc lập về pháp lý trong sản xuất, thương mại. 2.2. Syndicat. Là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, các bên cùng ký kết hiệp định có liên quan đến số lượng hàng hoá tiêu thụ chung, đến việc mua nguyên vật liệu, nhằm mua được nguyên vật liệu với giá thấp, bán được sản phẩm với giá cao. Trong loại hình này các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất, pháp lý nhưng không còn độc lập về thương mại nữa, nó là hình thức phát triển nên của Cartel. 2.3. Trust. Là loại hình phát triển cao hơn về mặt tổ chức trong đó nhiều xí nghiệp sản xuất của một loại hàng hoá hoặc các xí nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng hợp nhất lại thành một tổ chức. Các xí nghiệp khi đã được hợp nhất vào tổ chức kinh tế này không còn độc lập về sản xuất, thương mại, pháp lý. 2.4. Concern Là hình thức phát triển cao do rất nhiều xí nghiệp thuộc các ngành khác nhau cùng liên hợp tổ chức thành. Về hình thức: các xí nghiệp trong đó độc lập nhưng thực tế, công ty nào hay tập đoàn nào chiếm địa vị thống trị( có nhiều cổ phần hơn) đều có thể khống chế các thành viên khác yếu kém hơn. 2.5. Conglomerate Là loại hình phát triển liên kết cao giữa các xí nghiệp thuộc các ngành khác nhau thường thông qua thu mua và sát nhập, qua mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, hình thành các công ty khổng lồ hoạt động trên toàn cầu. 3. Bản chất và đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia. 3.1. Trong quan hệ sở hữu. Sở hữu độc quyền xuyên quốc gia, hình thức sở hữu hỗn hợp được quốc tế hoá. Đây là một hình thức sở hữu mang tính khách quan tạo nên khi quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, tập trung hoá và xã hội hoá sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ nghĩa tư bản dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và của các quy luật cạnh tranh, các quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Điều này phản ánh tính đa dạng, phức tạp và tính chất hỗn hợp của loại hình sở hữu xuyên quốc gia. Chúng ta biết rằng quá tình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến những biến đổi quan trọng về lượng và chất trong quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng nhất là quan hệ sở hữu. Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở các nước tư bản phát triển có thể nhận thấy được nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự phát triển rất lớn của công nghiệp và quá trình tập trung cực kỳ nhanh chóng của sản xuất vào tay các xí nghiệp ngày càng to lớn “một đặc điểm cực kỳ quan trọng mà người ta gọi là chế độ liên hợp hoá, nghĩa là sự tập hợp và tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau”. Từ đó ra đời các tổ chức độc quyền, các tổ chức này sử dụng cơ chế độc quyền, tức là cơ chế vận động dựa vào giá cả độc quyền thay cho cơ chế cạnh tranh trên giá cả thị trường để thu lợi nhuận độc quyền cao. Do đó có thể coi các tổ chức độc quyền là cái vỏ vật chất trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền tổ chức hoạt động vượt biên giới quốc gia dưới sự thúc đẩy của quá trình tích tụ sản xuất trên quy mô quốc tế thì các hình thức siêu độc quyền, tức là các công ty xuyên quốc gia xuất hiện. Đặc biệt khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chuyển từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin dưới sự thúc đẩy của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và quá trình quốc tế hoá đời sống đã làm cho số lượng các công ty độc quyền xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng và bản chất của chúng cũng biến đổi theo hướng thích nghi với tính chất quốc tế hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Khi đó nền sản xuất đòi hỏi những nguồn lực khổng lồ, đặc biệt là vốn và công nghệ làm cho khả năng tài chính của một công ty không thể đáp ứng được, cùng với nó là quá trình cổ phần hoá mở rộng và sự gia tăng quá trình huy động vốn thông qua thị trường tài chính làm cho số lượng các đồng chủ sở hữu ở khắp nơi trong công ty xuyên quốc gia lớn lên. Kiểu sở hữu cổ điển mất dần vai trò điều tiết trong tất cả các cơ cấu của các công ty xuyên quốc gia. Trong điều kiện như vậy những người sở hữu về pháp lý của các công ty xuyên quốc gia không còn đủ khả năng về vồn và năng lực quản lý. Những người này đã thuê các ban giám đốc gồm các nhà quản lý chuyên nghiệp, chứ không không phải các ông chủ công ty như trước đây. Vai trò “ uỷ thác đầu tư” có trách nhiệm không thuộc về một người duy nhất hay một nhóm người duy nhất, ban giám đốc-“ người quản lý” này hành động theo cách “cân bằng tối ưu các lợi ích” của những người liên quan tới nó: các cổ đông, người làm thuê, người cung ứng, cộng đồng địa phương. Đó là những nhà quản lý chuyên nghiệp thực hiện việc quản lý công ty, nhưng thực tế họ lại không hề có cổ phần trong công ty mà mình quản lý. Do không thể dựa vào vốn cung ứng, một ông chủ duy nhất hoặc một nhóm chủ sở hữu. Sự cung ứng vốn này phải dựa vào sự đầu tư của nhiều người và không ai trong số họ có đủ điều kiện kiểm soát hay can thiệp nhiều vào hoạt động quản lý của công ty theo “ chế độ tham dự”. Kết quả là tài sản đã trở thành “ vốn đầu tư”. Để chiến thắng trong cạnh tranh các công ty này không có sự lựa chọn nào khác là phải dùng vồn đầu tư này vào việc đảm bảo tối đa các hoạt động đổi mới, hoàn thiện kỹ thuật, công nghệ, tổ chức sản xuất với tư cách là người chủ theo phương thức, hành vi kinh tế khác nhau, tuỳ thuộc vào thành phần ban quản lý của chúng. Và khi đó người công nhân hiện đại- từ đối tượng bị bóc lột trở thành người chủ sở hữu kinh tế. Có thể nói đây là xu thế khi cá thể khi cá thể hoá sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xu thế này đang phát triển rộng rãi . Và sở hữu hỗn hợp được tạo ra do sự thay đổi về căn bản địa vị, vai trò của người công nhân, tri thức- những người làm việc trực tiếp và trực tiếp quyết định chất lượng lao động và sản xuất. Đó là xu thế: vốn riêng của cổ đông và vốn riêng của các pháp nhân trong tổng số vốn hoạt động đã giảm xuống, phần vốn còn lại là vốn đi vay. Kết quả là tỉ lệ cổ đông cá thể đã giảm xuống. Điều này làm cho các công ty xuyên quốc gia siêu lớn thành các tổ chức kinh tế được sở hữu bởi các chủ sở hữu kinh tế liên kết hay nói đúng hơn nó đã tạo ra hình thức sở hữu hỗn hợp. Đó là sự kết hợp của hai yếu tố, ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên là những người thực hiện tập thể: khía cạnh kinh tế của sở hữu. Trong loại hình sở hữu này, địa vị kinh tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, của những công nhân được thực hiện theo cơ chế “tham dự”- tức là trở thành những vệ tinh của các công ty độc quyền xuyên quốc gia. 3.2. Trong quản lý. Việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá theo hàng loại lớn sang kiểu sản xuất loại nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước. Sự dịch chuyển này trong điều kiện đổi mới công nghệ như vũ bão đã làm nổi bật vai trò năng động của các doanh nghiệp, xí nghiệp có quy mô vừa và nhỏ so với các tập đoàn lớn mang nặng tính quan liêu, buộc các công ty xuyên quốc gia phải tự tách mình ra thành các nhân tố của cạnh tranh nhằm tạo ra sự năng động và linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh. Điều này làm xuất hiện các công ty kiểu mới, sự liên kết công ty xuyên quốc gia kiểu mới, kiểu vệ tinh xoay quanh một công ty gốc tạo một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Đây là sự chuyển hoá về mặt tổ chức quản lý của họat đông kinh tế để tăng cường tính linh hoạt và khả năng thích ứng với thị trường đang được đa dạng hoá và biến đổi từng ngày, từng giờ. Nhờ những đột phá về công nghệ thông tin, công nghệ tự động hoá, phương thức tổ chức, quản lý sản xuất vật chất của xã hội hiện đại bắt đầu thay đổi ngược lại với phương thức tổ chức quản lý sản xuất trong xã hội công nghiệp theo xu thế: Phi hàng hoá và đa dạng hoá các sản phẩm: Nghĩa là việc tổ chức quản lý sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo hàng loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng yêu cầu và thị hiếu đa dạng của khách hàng. ( ngày nay ở Mỹ sản xuất loại lớn chỉ chiếm 5% số hàng hoá sản xuất ra). (2) Phi chuyên môn hoá: việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý theo phương thức chế tạo tổ hợp các khối cấu kiện phụ, phụ kiện, chứ không từ hàng trăm, hàng ngàn cấu kiện được sản xuất chuyên môn hoá như trước. (3) Phi tập trung hoá- là quá trình sản xuất được phân bổ và được tổ chức quản lý trên diện rộng trong các chi nhánh và đơn vị sản xuất vừa và nhỏ, với các nguồn nhân lực và tiềm lực phân tán trên quy mô quốc gia và quốc tế. Với mục tiêu của các công ty ngày nay không chế tạo ra sản phẩm với giá thành thấp trên phạm vi toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành tổ chức và quản lý việc phân công lao động và sản xuất vượt qua các đường biên giới quốc gia. Nhờ các thành tựu của tin học và viễn thông công ty xuyên quốc gia đều tiến hành phân bố sản xuất theo hướng phân tán, tiến hành nghiên cứu, thiết kế sản phẩm ở một nước, sản xuất các yếu tố cấu thành ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và gửi lợi nhuận đầu tư vào nước thứ năm. Đồng thời với quá trình phân tán sản xuất để giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, tránh được hàng hoá bảo hộ và chuyển giao năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm của công ty xuyên quốc gia cho các nước khác, việc tổ chức quản lý những mạng lưới hỗ trợ cạnh tranh, xuyên quốc gia các đường biên giới quốc gia cũng phát triển thông qua xây dựng các trung tâm khu vực để thu thập thông tin và thu mua với giá rẻ các bộ phận cấu thành, cụm linh kiện sản xuất theo tiêu chuẩn ở các nước sở tại để thực hiện điều này, 1991 các công ty điện và điện tử dân dụng của các nước đã đặt 78 trụ sở chính của mình tại các khu vực: Mĩ- 33 công ty, Đức- 12 công ty, Anh- 12 cô ng ty… tới năm 1993 con số này còn tăng lên nữa. (4) Tổ chức quản lý từ xa: Sự xuất hiện của các siêu xa lộ thông tin được mở đầu ở Mĩ đã tạo ra khả năng tiến hành tổ chức quản lý đồng thời và rộng rãi ở cùng một nơi nhiều loại hình sản xuất và dịch vụ khác nhau. Hoạt động từ xa sẽ được tăng cường mạnh mẽ và những cản trở của hàng rào khách quan và khoảng cách giữa nơi làm việc và nơi ở, thời gian làm việc và giải trí đang và sẽ được xoá bỏ hoàn toàn. Loại hình tổ chức quản lý làm việc từ xa, hội thảo, hội nghị từ xa, đào tạo từ xa, mua bán từ xa, sẽ được phát triển mạnh mẽ nhờ khả năng tiếp cận ngày càng tăng của các cá nhân từ nơi ở của họ hay từ văn phòng, cơ quan, nơi làm việc nằm xa trung tâm, đồng thời cho phép tận dụng nhiều năng lực chuyên môn hiện nay vẫn bị bỏ phí do có sự cách biệt hay phân tán số lớn nhân lực về mặt địa lý. (5) Quốc tế hoá và toàn cầu hoá tổ chức quản lý: Trong nền kinh tế mới mang tính chất toàn cầu, tất cả các yếu tố như vốn tư bản, các thị trường, lao động, thông tin và công nghệ đều được tổ chức quản lý xuyên quốc gia, các đường biên giới quốc gia. Cái mới không phải chỉ ở chỗ thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế của một nước, mà ở chỗ nền kinh tế đó bắt đầu hoạt động với tính cách thực sự là một đơn vị ở cấp toàn cầu. Việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ không những đã được quốc tế hoá, mà còn đang được toàn cầu hoá trong quá trình thâm nhập giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các quốc gia trên quy mô thế giới. Trong đó công ty xuyên quốc gia có vai trò và lợi thế to lớn do chúng có nhiều ưu thế về nguồn lực và các tri thức thông tin cần thiết đối với việc tổ chức quản lý sản xuất và tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trên quy mô quốc tế. II. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia. 1. Thúc đẩy thương mại đầu tư quốc tế và phát triển nguồn nhân lực. 1.1. Thúc đẩy thương mại quốc tế. Một trong những vai trò nổi bật của công ty xuyên quốc gia là thúc đấy thương mại quốc tế. Tổng giá trị thương mại của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở nước ngoài đã tăng 8% bình quân năm trong giai đoạn 1982-1994. Phần lớn sản phẩm của công ty xuyên quốc gia tập trung vào hàng chế tạo và hướng vào xuất khẩu. Trong hơn thập kỷ qua, giá trị thương mại của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở khu vực Đông Nam á tăng lên nhanh chóng. Đến giữa thập kỷ 90, giá trị thương mại của các chi nhánh công ty xuyên quốc giảơ nước ngoài đã lớn hơn giá trị nhập khẩu của các khu vực Nam , Đông và Đông Nam á. Tổng giá trị thương mại thực hiện ở nước ngoài của 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới đã đạt tới hai nghìn tỉ USD( 1995) tăng 26% so với năm 1993. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất to lớn đối với thúc đẩy thương mại thế giới. Một đặc điểm khác cần chú ý là trao đổi giữa các chi nhánh trong nội bộ công ty xuyên quốc gia ở các nước này ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị thương mại của nhiều nước. Trong những năm gần đây, với chiến lược đa quốc gia và tạo ra các liên kết giữa thương mại và đầu tư, các công ty mẹ thường chuyển giao trực tiếp các công nghệ, nguyên liệu và dịch vụ cho các chi nhánh của mình ở các nước. Tuy nhiên, trao đổi giữa các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia thường đi cùng với giá chuyển giao, tức là giá cả không dựa trên cơ sở quan hệ cung- cầu mà là giá trị thoả thuận giữa các chi nhánh trong cùng một công ty xuyên quốc gia. Tình trạng này có thể làm thiệt hại đến nước chủ nhà. Đây là vấn đề cần lưu ý đối với các nước đang phát triển, nhất là ở nước ta hiện nay. Mặc dù xuất khẩu của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia tăng gấp hai lần, giữa các năm 1992 và 1994 nhưng tỉ trọng xuất khẩu trong tổng sản lượng của chúng lại giảm từ 31% xuống còn 28% giữa các năm tương ứng. Hiện tượng này phản ánh FDI có xu hướng nội địa cao và chuyển sang ngành dịch vụ. Đồng thời, tỷ trọng xuất khẩu nội bộ công ty xuyên quốc gia trên thế giới chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới. Mở rộng và phát triển các chi nhánh của công ty xuyên quốc gia thông qua hoạt động FĐI đã góp phần to lớn đối với thúc đẩy xuất khẩu của các nước đang phát triển. Từ sau 1985 đến nay, xuất khẩu của các chi nhánh cả công ty xuyên quốc gia tăng mạnh ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á. Xuất khẩu của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia trên 50% tổng giá trị xuất khẩu hàng chế tạo Philipin, Srilanka, Malayxia và tới gần 90% xuất khẩu của Singapo. 1.2. Thúc đẩy đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh công ty xuyên quốc gia. Với lợi thế của mình về vốn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thương mại rộng lớn, các công ty xuyên quốc gia tích cực đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Năm 1997, các chi nhánh công ty xuyên quốc gia trên thế giới với tổng tài sản trên 136 nghìn tỉ USD đã đầu tư ra nước ngoài lượng FDI là 422 tỉ USD, năm 1999 FDI của thế giới là 644 tỉ USD trên phạm vi rộng, hơn 100 quốc gia. Nguồn đầu tư chính ra nước ngoài là các nước phát triển( trên hầu hết các nước G7 và một số nước châu Âu). Các nước này lại có công nghệ nguồn do đó nguồn vốn FDI của chúng có ý nghiã quan trọng hơn. Năm 1996, nguồn FDI của thế giới là 346,8 tỉ USD, trong đó từ các nước phát triển là 294,7 tỉ USD( chiếm khoảng 85%), Mỹ là nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất thế giới với 85 tỉ USD( chiếm khoảng 25% FDI của thế giới). Nhiều nước Đông Nam á và cả Trung Quốc cũng đầu tư ra nước ngoài, nhưng với giá trị không lớn đạt 9,14 tỉ USD và 2,2 tỉ USD( chiếm 2,6% và 0,36% lượng FDI thế giới). Xu hướng gia tăng việc sát nhập và thôn tính các công ty ngoại quốc của công ty xuyên quốc gia, trong đó chủ yếu là của Mỹ và Tây Âu là một trong những nguyên nhân gây bùng nổ đầu tư ra nước ngoài( giai đoạn 1995-1996). Công ty xuyên quốc gia tác động đến động thái dòng vốn đầu tư nước ngoài. Giai đoạn 1982-1999, dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 4 lần và đạt con số 2,3 nghìn tỉ USD và năm 1996. Hơn nữa, công ty xuyên quốc gia làm thay đổi xu hướng đầu tư giữa các nước. Trong giai đoạn bùng nổ đầu tư nước ngoài 1995-1996, có sự tham gia đáng kể của các dòng vốn nước ngoài trên phạm vi toàn cầu. Cơ cấu dòng vốn đầu tư nước ngoài đã thay đổi lớn do điều chỉnh chiến lược kinh doanh của công ty xuyên quốc gia. Trong những thập kỷ gần đây, công ty xuyên quốc gia đã chuyển sang hoạt động ở phạm vi rất rộng cả về tính chất kinh doanh (đa doanh) và khu vực lãnh thổ. Thêm vào đó cùng với sự phát triển mạnh của thị trường tài chính quốc tế đã thúc đẩy hình thức đầu tư gián tiếp ngày càng gia tăng. Những ngành chế tạo với công nghệ hiện đại,các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm được chú ý phát triển. Nhờ chính sách tự do hoá FDI, công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với thúc đẩy dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Theo thống kê năm 1997 của công ty tài chính quốc tế - IFC, dòng vốn FDI thực hiện bởi công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển tăng dần qua các năm trong gần 3 thập kỷ lại đây, đặc biệt tăng nhanh từ sau giữa thập kỷ 80. Nếu trước 1995 tổng dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển chỉ đạt bình quân khoảng 5,6 tỉ USD và tăng 1,7% năm, thì sau đó dòng vốn đã tăng nhanh từ mức gần 15 tỉ USD ( 1985) lên tới hơn 40 tỉ USD ( 1990) và tiếp tục tăng khoảng 110 tỉ USD ( 19960 và 138,2 tỉ USD 1997). Có thể nói các công ty xuyên quốc gia có vai trò rất lớn đối với thúc đẩy FDI vào các nước đang phát triển. Có thể nói công ty xuyên quốc gia có vai trò rất lớn đối với thúc đẩy lưu chuyển dòng vốn FDI trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. 1.3. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. Công ty xuyên quốc gia tác động đến phát triển nguồn nhân lực theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. Cách trực tiếp thông qua các dự án đầu tư, công ty xuyên quốc gia đào tạo nguồn nhân lực- lực lượng lao động đa phương để phục vụ cho nhu cầu hoạt động của dự án. Cách gián tiếp là tạo ra các cơ hội liên kết kinh tế, cung cấp dịch vụ) động lực( cạnh tranh) cho sự phát triển; lực lượng lao động địa phương. ở các nước đang phát triển,các tác động này có vai trò rất lớn đối với phát triển nguồn lực lao động, đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao năng xuất lao động ở các nước này. Các công ty xuyên quốc gia có chương trình trợ giúp tài chính cho các chương trình nghiên cứu và đào tạo nghề, quản lý đồng thời công ty xuyên quốc gia đã cung cấp thiết bị khoa học cho các trường đại học, viện nghiên cứu. Theo ước tính, công ty xuyên quốc gia đã tạo được khoảng 45 triệu lao động giữa những năm 1970 và 10 năm sau đạt gần 65 triệu lao động, con số này tăng lên 70 triệu và giữa những năm của thập kỷ 90, trong đó có khoảng 2/3 số việc làm đựơc tạo ra ở các nước đang phát triển. Nhìn chung công ty xuyên quốc gia thường tạo việc làm ở các ngành công nghiệp và dịch vụ hơn là trong nông nghiệp và hơn ngành khác. Tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp ước tính khoảng 4/5 tổng số lao động được tạo ra bởi công ty xuyên quốc gia. Điều này phản ánh đặc điểm của công ty xuyên quốc gia chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực côngnghiệp và dịch vụ. Nhiều việc làm gián tiếp theo ước tính chiếm một nửa tổng số việc làm được tạo ra bởi các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển. Số việc làm được tạo ra một cách trực tiếp hay gián tiếp, ước tính công ty xuyên quốc gia đã tạo ra khoảng 150 triệu lao động( chiếm hkoảng 3% lượng lao động trên thế giới). 2. Nghiên cứu- phát triển và chuyển giao công nghệ. 2.1. Định hướng chính sách. Trong chiến lược phát triển của mình, các công ty xuyên quốc gia luôn đặt vấn đề công nghệ lên hàng đầu đi đầu trong công nghệ cũng có nghĩa là tiến trước đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Chính vì vậy sự phát triển công nghệ đối với mỗi một công ty xuyên quốc gia là yếu tố sống còn và hoạt động nghiên cứu và phát triển luôn là hướng ưu tiên trong chính sách của các công ty xuyên quốc gia. Nghiên cứu và phát triển luôn mang lại cho các công ty sức cạnh tranh mang tính độc quyền cao. Trước đây, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư lớn cho , các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu…cho ra các phát minh, sáng chế…và nhệm vụ của các công ty là thương mại hoá các phát minh sáng chế đó. Quá trình thương mại hoá đó thực chất là dòng chuyển giao công nghệ trong nội bộ các công ty (các chi nhánh ) trên khắp thế giới. Ngày nay trong các công ty Xuyên quốc gia đang diễn ra quá trình quốc tế hoá mạnh mẽ khâu nghiên cứu và phát triển công nghệ. Công nghệ mới ra đời không chỉ trong các phòng thí nghiệm; các viện nghiên cứu mà còn từ các trường đại học và ngay tại các xí nghiệp, cơ sở sản xuất của các công ty xuyên quốc gia. Trước đây hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ chủ yếu diễn ra ở các nước có các công ty “mẹ”. Xong ngày nay chính áp lực của cạnh tranh, hoạt động này đang được tiến hành ở nhiều nước. Hiện nay, nhiều nước đang phát triển đã xây dựng các cơ sở đào tạo chuyên sâu, các trung tâm nghiên cứu hoặc khu công nghệ và khoa học; chúng đã trở thành những nước nhận đầu tư vào các ngành, các đầu vào công nghệ cao. Để nâng cao hiệu quả của các hoạt động này, ngày nay các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành liên kết để tiến hành hoạt động này. Có hai cách để tiến hành liên kết hoạt động này. Đó là liên kết theo chiều ngang giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm cam kết với nhau về một loại thị trường hàng hoá nào đó, hoặc cùng nghiên cứu chung để tránh sự cạnh tranh của các đối thủ. Cách khác là liên kết theo chiều dọc các công ty có hoạt động và sản phẩm tương ứng, hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ chúng sẽ làm tăng cường đổi mới của các công ty và tránh được cạnh tranh. Phương thức chuyển giao của các công ty xuyên quốc gia thường phân làm hai cấp độ. Thứ nhất : chuyển giao các quy trình công nghệ hiện đại, kỹ thuật mới… trong nội bộ các công ty. Thứ hai: Chuyển giao các công nghệ lạc hậu hơn cho xí nghiệp liên doanh hoặc từ các chi nhánh của mình tới các công ty địa phương của nước chủ nhà. Với phương thức này các công ty xuyên quốc gia luôn giữ được khoảng cách an toàn và bành trướng ảnh hưởng của mình trên quy mô toàn cầu. Có thể nói chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia xuất phát từ sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia phải cải tiến kỹ thuật và nâng dần mặt bằng công nghệ trong hệ thống chi nhánh của mìnhg nếu muốn tồn tại lâu dài. Các công ty xuyên quốc gia nào muốn giữ độc quyền và không còn giữ được sự khống chế của mình trong một số ngành vì các nước cũng có thể tìm kiếm công nghệ từ các công ty xuyên quốc gia khác, cũng như có thể trang bị cho mình những yếu tố cần thiết để có thể có được công nghệ cao. Chính sách chuyển giao công nghệ của công ty xuyên quốc gia không bị tách rời mà luôn nằm trong hệ thống hàng loạt các chính sách và chiến lược phát triển của công ty. Sự phối hợp của chính sách chuyển giao công nghệ với các chính sách thương mại, đầu tư, nghiên cứu và phát triển công nghệ, cùng với các chính sách về đào tạo nguồn nhân lực đã tạo nên hàng loạt các kênh khác nhau phục vụ cho quá trình chuyển giao này. 2.2. Hợp đồng công nghệ liên công ty. Một trong những hướng liên kết các công ty xuyên quốc gia nhằm nâng cao trình độ công nghệ hiện đại là việc thực hiện các hợp đồng liên công ty xuyên quốc gia. Bao gồm các thoả thuận về nghiên cứu và triển khai những thoả thuận trong quá trình sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ giữa các công ty xuyên quốc gia với nhau. Trong số này có một hợp đồng liên quan đến công nghệ. Số lượng hợp đồng công nghệ có xu hướng tăng theo sự thay đổi của phương thức sản xuất và cạnh tranh giữa các công ty, quá trình sản xuất trong hầu hết các ngành đều cần một lượng tri thức lớn, điều đó làm tăng chi phí nghiên cứu và phát triển công nghệ, tăng tốc độ phát triển và thâm nhập của sản phẩm mới vào thị trường. Rút ngắn vòng đời của sản phẩm đồng nghĩa với tăng rủi ro và những bất trắc để theo kịp sự phát triển xa hơn trên mặt trận công nghệ. Trước những điều kiện đó của cạnh tranh, các công ty phải tăng cường nghiên cứu và phát triển công nghệ thông qua các hợp đồng liên công ty. Đối với những công ty thuộc các nước phát triển hợp đồng công nghệ liên công ty là phương tiện chính yếu để duy trì tính linh hoạt, mở rộng khả năng tiếp cận với công nghệ của nhiều ngành khác nhau. Hình thức hợp tác này là chiếc cầu nối với nền tảng tri thức ở nước ngoài, là phương tiện giúp cho các nước đang phát triển theo kịp công nghệ phát triển nhằm nâng cao, thúc đẩy nguồn phát triển và nghiên cứu riêng, xây dựng uy tín nhằm phục vụ cho việc thu hút đối tác và khách hàng nước ngoài. Bên cạnh những thuận lợi, những lợi ích mà chuyển giao công nghệ mang lại là những khó khăn do hoạt động này gây ra. Đó là sự lệ thuộc về công nghệ của các nước vào các công ty xuyên quốc gia là các điêù kiện bắt buộc kèm theo khi tham gia liên kết các hợp đồng… III. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. 1. Đặc điểm hoạt động và sự tác động tới nền kinh tế Việt Nam. 1.1. Đặc điểm hoạt động. Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam có nguồn gốc từ nhiều nước nhưng phổ biến là từ các nước đang phát triển châu á. Từ những năm 1988-1997, phần đầu tư của các công ty xuyên quốc gia Đông á( trừ Nhật Bản còn lại là các nước đang phát triển) đã chiếm tới 64,8% trong số 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Riêng năm 1998 là44,9% và năm 1999 là 60,4%. Nghĩa là trong số hàng ngàn các công ty nước ngoài thuộc 72 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư thuộc ASEAN chiếm 24,56%. (Singapore:16,97%; Thái Lan:3,04%; Malaisia: 2,44%); các nước đông bắc á chiếm 42,9%(Đài loan:13,8%; Nhật Bản: 10,6%;Hồng kông:9,78%;Hàn Quốc:8,94%) Châu âu chiếm 21,05% và mỹ chiếm 3,61%. Do đầu tư vào Việt Nam chủ yếu thực hiện từ công ty xuyên quốc gia Châu á hầu hết chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, thu hẹp các khoản đầu tư mới cũng như sự trì trệ trong việc thực hiện các số vốn đầu tư đã cam kết. Mặt khác trong 2492 dự án cấp giấy phép hoạt động trong vòng 10 năm (1988- 1998), đã có 447 dự án bị rút giấy phép. Các nước thuộc châu á rút nhiều giấy phép nhất. Trong hoạt động của các công ty này tại Việt Nam còn chịu nhiều tác động của kinh tế và chính trị. Các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đều thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xét trên các chỉ tiêu về quy mô vốn, trình độ công nghệ, phạm vi ảnh hưởng thị trường thế giới… thì ở Việt Nam còn có quá ít các công ty xuyên quốc gia lớn. Một số công ty xuyên quốc gia lớn đã thiết lập và duy trì các quan hệ kinh tế dài hạn với Việt Nam. Điều đáng kể nhất là các tập đoàn này do có nhiều tiềm lực hùng hậu về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức điều hành… luôn hoạt động theo chiến lược dài hạn. Do vậy, có khi nền kinh tế các nước đối tác gặp khó khăn( như Việt Nam hiện nay) các công ty này có thể điều chỉnh chiến lược đầu tư, giảm tiến độ thực hiện dự án cũ và chưa triển khai dự mới… nhưng rất hiếm khi rút vốn, từ bỏ sự hiện diện của mình. Phần đầu tư các nhánh của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu của các công ty vừa và nhỏ. Bình quân các dự án đầu tư vào Việt Nam chỉ đạt dưới 20 triệu USD. Các ngành đầu tư chủ yếu là ngành điện, điện tử, dệt may, nông- lâm- hải sản, dịch vụ du lịch và khách sạn…hiện trạng này có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thứ nhất: Lợi thế so sánh chủ yếu của Việt Nam là những ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên vật chất nên công nghệ chuyển giao thường không cao. Cạnh tranh trên thị tường quốc tế đã chuyển trọng tâm sang cho các ngành đòi hỏi có hàm lượng kỹ thuật cao về công nghệ và tri thức thì theo lôgic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu, phần xâm nhập voà thị trường Việt Nam chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp vừa và nhỏ Thứ hai: Phần đầu tư và chu chuyển thương mại với Việt Nam được thực hiện chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia Châu á, các công ty xuyên quốc gia vừa và nhỏ. Việt Nam đã thu hút công ty xuyên quốc gia vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội, trong đó lĩnh vực công nghệ khai thác và lĩnh vực khách sạn du lịch được coi là địa bàn hấp dẫn và thu hút nhiều nhất các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự kiện của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam được tồn tại dưới hình thức liên doanh là phổ biến và đối tác liên doanh với công ty xuyên quốc gia từ phía Việt Nam, loại phổ biến là doanh nghiệp nhà nước. ở Việt Nam trong những năm đầu hợp tác đầu tư với nước ngoài, (tính đến khi ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài) do quan niệm đầu tư theo hình thức liên doanh. Có nhiều ưu điểm nổi trội so với hình thức khác nên hình thức này đã trở thành hình thức thu hút công ty xuyên quốc gia chủ yếu. Do đó, trong 10 năm qua( 1988- 1998) hình thức liên doanh đã chuẩn bị 60% số dự án và 70% tổng số vốn cam kết đầu tư. Trong các liên doanh này, tỷ lệ vốn pháp định do phía Việt Nam đóng góp thường không quá 30%, chủ yếu là tiền sử dụng đất và nhà xưởng sẵn có phía nước ngoài đóng góp bằng tiền mặt và trang bị nhập khẩu. Và do vậy trong thời kỳ xây dựng cơ bản, gần như liên doanh đã phụ thuộc toàn bộ vào tiến độ góp vốn của các công ty xuyên quốc gia và cũng tương tự như vậy, trên thực tế gần như công việc điều hành quá trình xây dựng công trình cho dự án sau này đều do phía nước ngoài quyết định. Hiện tương này, ngoài lý do về vốn, công nghệ, thị trường đầu ra do phía nước ngoài nắm giữ, nó còn được quyết định bởi ba lý do: Một là: Phía Việt Nam đã góp vốn chủ yếu bằng quyền sử dụng đất chỉ chiếm 10% tổng số vốn đầu tư. Do đó vai trò của Việt Nam trong doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có xu hướng càng bị giảm thiểu. Hai là: Năng lực của đội ngũ cán bộ của Việt Nam vào tham gia quản lý, điều hành kinh doanh còn quá yếu. Ba là: Về sự liên doanh giữa các công ty xuyên quốc gia là các công ty tư nhân, công ty cổ phần, với các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, nên sự bất cập về quan điểm, phương thức và mục tiêu đã dẫn đến sự xung đột thường xuyên trong tổ chức và tiến hành giữa chúng. Do dó, trong thời gian gần đây các xí nghiệp liên doanh hiện có hoặc các đầu tư mới của công ty xuyên quốc gia chuyển sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đang trở nên phổ biến và có xu hướng gia tăng. Năm 1996, tỷ trọng vốn đầu tư của dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài là 18,6%, 1997 là 26,9%, năm 1998 là 18% và đặc biệt năm 1999 là 48%. Xu hướng này còn được sự hưởng ứng của chính phía các nhà doanh nghiệp Việt Nam, cũng như được sự ủng hộ của dư luận xã hội nói chung, chưa có căn cứ để khẳng định ý đồ của công ty xuyên quốc gia trong việc loại bỏ phía đối tác Việt Nam trongliên doanh, nhưng rõ ràng là việc này và những bất đồng trong các liên doanh đang cho thấy sức hấp dẫn của các hình thức liên doanh ngày càng giảm sút. Việt Nam đã xây dựng môi trường đầu tư nhằm hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia kinh doanh công nghiệp, dịch vụ bằng việc thu hút đầu tư và mở rộng mạnh mẽ các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao Thông qua các quỹ hỗ trợ văn hoá và phát triển khoa học, công ty xuyên quốc gia lớn đã tích cực tạo dựng hình ảnh của mình cũng như tăng cường sự hiểu biết sâu sắc thị trường Việt Nam trước khi thực hiện các chiến lược đầu tư và thương mại dài hạn. 1.2. Tác động của công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam. (1) Các công ty xuyên quốc gia ngày càng có tác động tích cực đối với sự nghiệp cải cách và đổi mới nền kinh tế Việt Nam Trong 10 năm qua, vốn đầu tư trực tiếp nướcngoài chiếm khoảng 28,7% tổng số vốn đầu tư xã hội trong thời kỳ 1991- 1995 tỷ lệ này là 25,7% và từ 1996- 1999 đã tăng lên( khoảng 30%). Đến ngày 31/7/1999 đã có 16,5% tỷ USD được sử dựng. Trong số 16,5% tỷ USD này chỉ có 9 tỷ USD là vốn pháp định( trong đó vốn tự có của công ty xuyên quốc gia chính thức bỏ ra chỉ là 7 tỷ USD, còn 7 tỷ khác là vốn đi vay. Nguồn vốn đi vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc trực tiếp từ các công ty mẹ, hoặc từ các hãng và tổ chức tài chính quốc tế. Các khoản đi vay này do phía nước ngoài tìm kiếm, thương lượng và tìm nguồn bảo lãnh tiền vay nên có thể hiểu đó là nguồn vốn mà các công ty xuyên quốc gia tự khai thác. Như vậy nguồn vốn đầu tư thực tế từ nước ngoài thông qua các công ty xuyên quốc gia trong 10 năm qua chỉ vào khoảng 14 tỷ USD. Nếu đặt trong nhu cầu về vốn đầu tư của đất nước thời kỳ 1993- 2000 là 40- 42 tỷ USD thì con số này quả là rất nhỏ bé. Tuy nhiên, nếu so sánh mức huy động đầu tư thực tế bình quân năm từ vốn ngân sách thì con số này quả là rất có ý nghĩa. (2) Các công ty xuyên quốc gia góp phần tích cực trong thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu của công nghiệp hoá là tăng mạnh tỷ trọng sản xuất công nghiệp, đặc biệt là ngành dịch vụ trong GDP và hơn nữa theo mô thức hướng ngoại dựa vào tăng trưởng xuất khẩu để nhanh chóng hội nhập vào thị trường thế giới, Việt Nam phải nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Các công ty xuyên quốc gia, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia lớn- vốn là các tập đoàn công nghệ và tài chính hùng hậu, hoàn toàn đáp ứng được các nhu cầu này. Và đến nay khu vực vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra gần 35% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Đặc biệt là các trung tâm lớn( Hà Nội, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh…) tỷ lệ này còn cao hơn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện chiếm 100% công suất khai thác dầu thô, sản xuất, lắp ráp ô tô…, 70% chế biến thép và kết cấu thép…, 53,8% cán thép, 55% kéo sợi… (3) Các công ty xuyên quốc gia tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế, mở rộng xuất khẩu tăng nguồn thu ngân sách. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức đều có tốc độ tăng trưởng cao kể cả thời kỳ nền kinh tế đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Do đó mức độ đóng góp của khu vực này vào GDP của đất nước đều tiếp tục tăng từ mức 2% GDP năm 1992 lên 7,7% năm 1997 và 9% năm 1998. Tính cả mức xây dựng cơ bản và dịch vụ mức này đạt 14- 15% GDP. Như vậy, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong nhịp độ tăng trưởng chung của nền kinh tế Việt Nam là rất đáng kể. Với sự giảm sút của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 40- 50% so với 3 năm 1997- 1999, nhịp độ tăng trưởng của GDP chung của nền kinh tế Việt Nam đã giảm sút từ 8,8% còn 5,6%( 1997) và 55 năm 1998. Xét theo khía cạnh đóng góp do tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu và tăng thu ngân sách, công ty xuyên quốc gia trở thành một thành tố không thể xem nhẹ trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. (4) Giải quyết lượng lớn lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Tính đến cuối năm 1999 đã có gần 30 vạn người lao động Việt Nam là việc trực tiếp trong các doanh nghịêp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu tất cả số lượng những người lao động gián tiếp làm việc trong các ngành thương mại, dịch vụ và xây dựng có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, con số này có thể lên đến 40- 50 vạn. Đây là lực lượng lao động có khả năng thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, nhà nước không phải mất chi phí đào tạo sẽ là chủ thể tích cực cho các qáu trình sản xuất kinh doanh, kể cả khi họ rời bỏ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. (5) Sự có mặt của công ty xuyên quốc gia với tư cách là diễn viên và đạo diễn chính của thị trường kinh tế thế giới, đã và đang là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. 2. Vấn đề hiện nay với hoạt động thu hút các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. Sự cần thiết phải thống nhất trong toàn bộ xã hội về quan điểm đối với doanh nghiệp có vốn nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia. Công tác hoạch định chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, chưa rõ ràng và chất lượng chưa cao. Thiếu một quy hoạch tổng thể về thu hút vốn đầu tư nước ngoài là biểu hiện bao trùm trong bức tranh chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. Hiệu quả kinh doanh còn thấp trong cac doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chưa nhiều. Bên cạnh những doanh nghiệp thua lỗ do gặp rủi ro trong kinh doanh, vẫn còn khá nhiều các tập đoàn xuyên quốc gia đã thực hiện bán phá giá sản phẩm, tăng chi phí quảng cáo, tiếp thị và quản lý vượt quá mức cho phép nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị phần hoặc để loại bỏ các đối tác Việt Nam trong cạnh tranh. Các công ty 100% vốn nước ngoài đôi lúc có biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy nhà nước cần sớm có luật cạnh tranh để điều chỉnh hoạt động của mọi loại hình doanh nghiệp. (4) Hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo tính rõ ràng và khả năng đự đoán cho các nhà đầu tư. (5) Công tác quản lý nhà nước đối với FDI còn chưa tác động thúc đẩy hướng đầu tư các công ty xuyên quốc gia. (6) Vấn đề đội ngũ cán bộ quản lý, công chức và công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kết luận Qua những phân tích trên đây chúng ta có thể thấy được bản chất và vai trò của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia. Chúng ta có thể thấy được rằng bản chất của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia, đó là những tập đoàn kinh tế, tài chính lớn mạnh với sự kết tinh cao tay quản lý điều hành cũng như những định hướng phát triển nền kinh tế. Và với những đặc trưng : khẳ năng vốn lớn, kỹ thuật hiện đại, khẳ năng chuyển giao công nghệ… Các công ty này đã và đang phát huy được vai trò to lớn của mình trong chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm, tăng cường vốn đầu tư. Với những đặc trưng và vai trò to lớn dó cùng với những nét đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam. Đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách, biện pháp tạo đà thuận lợi hơn nữa: Tạo môi trường pháp lý, sự ổn định chính trị, chính sách thông thoáng, ưu đãi đối vơí đầu tư… Để tăng cường và khai thác có hiệu quả hơn nữa những thuận lợi của sự hoạt động của các tổ chức này tại nước ta. Đồng thời khắc phục những khó khăn khi cho phép và kêu gọi sự hoạt động của các công ty này. Khi những mặt trái của sự hoạt động của các công ty này đem lại: thất nghiệp, tình trạng độc quyền trong nền kinh tế xuất hiện, bị phụ thuộc và mắc nợ nước ngoài gia tăng. Tài liệu tham khảo Văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX. Nguyễn Thiết Sơn ( cb): Các công ty xuyên quốc gia khái niệm đặc trưng và những biểu hiện mới. Nguyễn Khắc Thâu ( cb): Tập bài giảng về chủ nghĩa tư bản hiện đại Lê Văn Sang: Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập 1, 2, 3 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35662.doc
Tài liệu liên quan