Đề tài Bảo tồn phố cổ Hà Nội: Thực trạng và giải pháp

Việc bảo tồn các giá trị văn hóa của quốc gia không phải là việc của riêng mỗi cá nhân hay 1 tổ chức nào, mà đó là công việc của cả dân tộc. Cuộc sống của chúng ta ngày càng phát triển và thay đổi. Công nghệ tiên tiến, cảnh quan kiến trúc hiện đại, đôi khi chúng ta thấy đáng quý và đáng trân trọng biết bao những gì của quá khứ Bất chợt nhìn thấy 1 khu nhà cổ, những nét văn hóa rất riêng mà chỉ ở Việt Nam mới có mà đang hàng ngày bị xuống cấp, mất dần đi nét kiến trúc cổ, hẳn trong chúng ta không khỏi chạnh lòng. Các du khách quốc tế khi đến Việt Nam đều rất thích thú khi đến với Hà Nội, đặc biệt là khu Phố cổ Hà Nội. Nơi đây không chỉ có giá trị khi gắn với 1000 năm Thăng Long mà còn có giá trị mãi mãi sau này. Phố cổ Hà Nội là lịch sử, là nét văn hóa tự hào không chỉ của người dân thủ đô mà còn là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam. Hiện nay vấn đề bảo tồn và tôn tạo phố cổ đang được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, có sự hỗ trợ giúp đỡ của các nước bạn, có nhiều dự án được triển khai nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Chính vì vậy, nhóm tác giả đề tài này chỉ mong góp 1 tiếng nói xuất phát từ trái tim, từ tình yêu Hà Nội, yêu quê hương, đất nước Việt Nam để góp phần gìn giữ và bảo tồn nét truyền thống văn hóa đáng tự hào đó.

doc55 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1887 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo tồn phố cổ Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và gìn giữ những thông điệp và giá trị của các công trình kiến trúc văn hoá. Những giá trị đó giúp chúng ta xác định một cách có hệ thống sự ưu tiên hàng đầu trong việc đưa ra các quyết định những sự can thiệp được đề ra, cũng như thiết lập quy mô và bản chất trong việc đối xử với từng cá thể. Theo tiến sĩ Bernard M Feilden(1997) thì giá trị mà các công trình kiến trúc văn hoá để lại gồm ba phần chính như sau: - Giá trị cảm xúc : kỳ quan, tính đồng nhất, tính liên tục, tính tinh thần và biểu tượng. - Giá trị văn hoá : nguồn tài liệu bằng chứng lịch sử; các tư liệu cho khảo cổ học, có giá trị về mặt văn hoá, mang tính biểu tượng cao, các công trình kiến trúc cổ chứa đựng trong nó không chỉ các kiểu kiến trúc độc đáo đặc sắc mà còn để lại những công nghệ và kĩ thuật xây dựng, bên cạnh đó còn tạo ra các giá trị về cảnh quan. - Giá trị sử dụng : chức năng sử dụng, tính kinh tế xã hội và chính trị Từ những phân tích trên đã cô đọng thêm để tạo ra phát biểu về các đặc điểm của các công trình kiến trúc văn hoá. Các nguyên tắc của công việc bảo tồn: Trong cuốn sách của mình, tiến sỹ Bernard M Feilden có đề cập đến các nguyên tắc cần được chú trọng trong công tác bảo tồn, đó là: Tất cả các công trình kiến trúc cổ cần được chép lại đầy đủ trước những hoạt động trùng tu hay sửa chữa. Các công trình kiến trúc cổ không được phép phá hủy, làm giả hay dịch chuyển. Việc can thiệp(xây dựng mới, cải tạo) đối với các công trình kiến trúc cổ cần được hạn chế ở mức thấp nhất. Những sự can thiệp cần được quản lý dưới quan điểm tôn trọng những giá trị thuộc về lịch sử và bảo toàn hình dạng ban đầu của công trình. Những phương pháp trùng tu, những nguyên vật liệu phải thực sự phù hợp và được minh chứng bằng những tài liệu khoa học cụ thể. Cần phải chú ý rằng có vài nguyên tắc cơ bản khác nhau giữa kiến trúc và các phương pháp bảo tồn mặc dù có vài sự tương đồng về phương pháp và mục đích. Thứ nhất các công trình kiến trúc bao gồm việc tìm kiếm những nguyên vật liệu mà hầu như thực tế là không sẵn có. Thứ hai bề ngoài các công trình kiến trúc là khá rộng và có thể trong nhiều trường hợp các phương pháp bảo tồn không thể thực hiện được bởi kích thước và độ phức tạp của các kết cấu kiến trúc. Thứ ba, cũng bởi nguyên nhân do kích cỡ và sự phức tạp của kiến trúc nên có rất nhiều các đối tượng tham gia vào công cuộc bảo tồn như nhà thầu, các nhà chuyên môn, và thợ thủ công. Điều này đòi hỏi phải có kế hoạch cụ thể chi tiết để các công việc được tiến hành một cách khoa học, không ảnh hưởng đến sự thay đổi của di sản kiến trúc. Kế hoạch bảo tồn: “ Kế hoạch bảo tồn là quá trình giải quyết các vấn đề về tài nguyên và quản lý nó. Quá trình này kết hợp các mặt như kinh tế, xã hội, sinh thái để thoả mãn các nhu cầu chung và riêng. Theo như cách tiếp cận này đó là sự nhấn mạnh các điều kiện tương lai, nâng cao việc quản lý các nguồn tài nguyên, hạn chế xung đột, xác định vấn đề và cơ hội. Một cách đơn giản nhất, kế hoạch bảo tồn là một tài liệu giải thích tại sao chỗ đó lại có ỹ nghĩa và những ý nghĩa đó sẽ được gìn giữ, phát triển và tu sửa như thế nào trong tương lai. Kế hoạch bảo tồn không chỉ đơn giản là duy trì các di sản mà còn phải tạo ra bối cảnh và đưa ra các quan điểm chiến lược trong việc bảo tồn. Và “ Các quan điểm phát triển kế hoạch bảo tồn được cân nhắc dựa vào việc đánh giá các giá trị văn hoá có ý nghĩa và dễ bị mai một (liên quan tới chất lượng công trình, hình ảnh công trình, yếu tố vật lý, bối cảnh xã hội xung quanh, có tính đến sự phát triển của xã hội)”. Trong bối cảnh phát triển của xã hội, các đề xuất về sửa chữa hay quản lý, sự chuẩn bị cho kế hoạch bảo tồn phải được cân nhắc trước hết bởi việc chuẩn bị đó sẽ rất có ích cho những thế hệ sau này hay bất kỳ ai có kế hoạch phát triển khu vực lịch sử này. Kế hoạch bảo tồn cũng tạo ra giá trị tích luỹ, vì thế có thể sẽ là lãng phí tiền của và thời gian nếu như chúng ta không hiểu rõ về những giá trị truyền thống đã được lưu lại trong các công trình đó. Việc phát triển kế hoạch bảo tồn là khá nhạy cảm bởi trong những di sản đó chứa đựng các giá trị lịch sử rất quan trọng. Điều đó nói lên rằng mục đích của việc bảo tồn là bảo vệ, duy trì và gìn giữ các tài nguyên thiên nhiên cùng với sự quan tâm của xã hội. Để kế hoạch bảo tồn được thành công thì việc thực hiện nó còn phải phụ thuộc vào sự đóng góp tình nguyện của mọi người. Kinh nghiệm từ Nhật Bản: Nhật Bản hiện có 10 đô thị cổ. Có thời gian, các đô thị ấy cũng phải đối mặt với vấn đề kiến trúc truyền thống ngày càng bị mai một do các chung cư cao tầng được xây dựng xen lẫn những ngôi nhà truyền thống; Nhiều ngôi nhà cổ bị xây dựng lại một cách tùy tiện; Một số ngôi nhà bị bỏ trống, không được tu sửa nên hư hỏng nặng… Tuy nhiên, hiện tại, các đô thị cổ đã được bảo tồn rất tốt, trở thành những địa điểm du lịch nổi tiếng của Nhật Bản, vừa giữ gìn được giá trị văn hóa truyền thống, trong khi vẫn đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội. Minh chứng rõ nét nhất là việc khôi phục, bảo tồn các đô thị cổ ở thành phố Sawara, thị trấn Kawagoe, thành phố Nagahama… Người Nhật phân ra các loại nhà có giá trị khác nhau. Với những ngôi nhà có giá trị, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để bảo tồn nguyên dạng, những ngôi nhà không nhiều giá trị thì được phép thay đổi bên trong nhưng không được làm ảnh hưởng đến kiến trúc tổng thể của ngôi nhà. Nhật Bản cũng đưa ra các quy chế cụ thể đối với từng loại công trình. Đây không phải là cách làm của riêng Nhật Bản mà là cách chung của các nước trên thế giới. Nhà nước và chính quyền địa phương có chính sách, định hướng bảo tồn, nhưng phải có sự hợp tác của người dân trực tiếp sinh sống ở nơi đó. Cộng đồng giữ vai trò quan trọng nhất trong việc bảo tồn, giữ gìn đô thị cổ. Ở Nhật Bản, người dân lập tổ chức chuyên cho các hoạt động bảo tồn, họ tự làm phiếu điều tra để khảo sát ý kiến và đề xuất lên chính quyền thành phố, người dân và chính quyền cùng góp vốn để tu bổ nhà truyền thống, thực hiện nghiêm túc các quy định bảo tồn. Chương III THỰC TRẠNG PHỐ CỔ HÀ NỘI Trong chương này, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích kết quả của những cuộc khảo sát. Mục tiêu của những nghiên cứu này là đưa ra bức tranh chân thực nhất về Phố cổ Hà nội. Điều này sẽ được thể hiện chi tiết qua hai phần chính: Phần 1 sẽ là tổng quan về Phố cổ Hà nội- đây là những thông tin cơ bản mà nhóm nghiên cứu có thể tìm được thông qua báo chí, những trang web và những nghiên cứu khảo sát gần đây nhất. Phần 2 nhóm nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích thực trạng Phố cổ Hà nội dựa trên những mẫu phiếu điều tra, những cuộc phỏng vấn, những nghiên cứu thực địa… Phần 1: Tổng quan về phố cổ Hà Nội Từ website tương thích vào lúc 7pm ngày 15/2/2009 Đặc điểm về vị trí địa lý, dân số: Vị trí địa lý: Theo quyết định số 70 BXD/KT-QH ngày 30 tháng 3 năm 1995 của Bộ Xây dựng, khu Phố cổ Hà nội có phạm vi được xác định như sau: - Phía Bắc là phố Hàng Đậu - Phía Tây là phố Phùng Hưng - Phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng - Phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật Bản đồ khu phố cổ Khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm với tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: Phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ. Mặc dù các phố cổ của Hà Nội còn nằm cả bên ngoài khu vực này, nhưng do đây là khu vực tập trung phố cổ nhiều nhất và còn giữ được những đặc trưng nên chỉ khu vực theo quy định trên được gìn giữ, bảo tồn là khu phố cổ. 1.2 Dân số: 1.2.1 Mật độ dân số: Theo những tài liệu nghiên cứu thì đầu những năm 90, dân số tại Phố cổ tăng lên là do số lượng dân từ các nơi khác nhập cư vào đây tăng cao. Dân số tại Phố cổ giai đoạn này khoảng 80.000 dân. Lý do chính của quá trình tăng dân số nhanh trong giai đoạn này vì Phố Cổ là khu vực nội thành đầu tiên của Hà nội. Nơi đây tập trung đông dân cư và có các hoạt động kinh tế rất sôi động, tạo nên sức hấp dẫn lớn đối với người dân ở các quận huyện và các tỉnh thành khác. Trong giai đoạn tiếp theo, dân số ở đây bắt đầu giảm dần bởi một số hộ dân đã chuyển đi nơi khác sinh sống. Trong giai đoạn từ năm 1999 đến 2000 đã có 2.799 hộ dân đã chuyển khỏi Phố Cổ. Đến nay dân số tại Phố cổ khoảng 60.372 người, tập trung đông nhất tại Phường Hàng Buồm với 9.175 người , Đồng Xuân: 8.811 người và Hàng Bồ: 8.085 người. Vào năm 2000, mật độ dân số Phố Cổ là 740,58 người/ha, gấp hai lần mật độ dân số trong Quận Hoàn Kiếm(324,19 người/ha). Những Phuờng có mật độ dân số cao nhất là phường Hàng Gai (963, 55 người/ha), Hàng Bồ (892,77 người/ha). Cũng theo kết qủa nghiên cứu của đoàn nghiên cứu HAIDEP, năm 2005, mật dộ dân số tại khu Phố cổ là 603 nguời/ha, cao hơn rất nhiều lần so với mật độ dân số của Hà nội là 36 người/ha. Những năm gần đây, dân số tại Phố cổ đã giảm nhưng mật độ dân số tại đây vẫn rất cao vì các lý do sau đây : Đây là một khu kinh doanh buôn bán sầm uất và sôi động tại Hà Nội. Với lợi thế vị trí trung tâm, nơi có lượng khách du lịch ghé thăm khá cao, lưu lượng người qua lại đông, việc mở rộng diện tích kinh doanh ngày càng gia tăng. Các ngôi nhà trong phố cổ đã được xây dựng từ khá lâu, đã xuống cấp, lại bị hạn chế về chiều cao và hầu hết không được mở rộng về diện tích. Tuy nhiên những người dân ở đây hầu hết là những người Hà Nội gốc, gia đình sống tại đây qua nhiều thế hệ, nên họ không muốn chuyển ra ngoài. Hơn nữa, ở đây họ có cơ hội kinh doanh, buôn bán với nguồn thu nhập cao giúp họ duy trì được cuộc sống ổn định. 1.2.2 Đặc điểm của các hộ gia đình : Nguồn gốc dân cư và thời gian cư trú: Cùng với sự giao thương buôn bán và sự phát triển thịnh vượng, vào thế kỷ 18, có một lượng người Trung Quốc đã đến làm ăn sinh sống ở đây tạo thành những phố có rất đông người Hoa sinh sống như Hàng Buốm, Lãn Ông, Tạ Hiền..v..v. - Giai đoạn 1954 đến 1998 dân số Hà nội tăng gấp 6,68 lần và số dân cư tập trung tại Phố Cổ khá đông. Tuy nhiên, những năm 1960, 1970 một bộ phận lớn dân cư ở đây rời Hà nội đến các vùng kinh tế phía Nam. Giai đoạn năm 1979, 1980 đại bộ phận người dân Trung Quốc sống tại Phố Cổ cũng trở về nước. Sau những năm 1970, cư dân còn lại ở Phổ Cổ là những người dân làm các nghề truyền thống hoặc buôn bán lâu đời và các cán bộ nhà nước, các hộ dân thuộc diện chính sách được phân nhà về đây. Như vậy, dân cư Phố Cổ có nguồn gốc từ các làng nghề xung quanh Hà Nội đến đây sinh sống. Họ định cư ở đây để vừa sản xuất, vừa buôn bán các sản phẩm thủ công (nghề thủ công được truyền lại qua nhiều thế hệ trong gia đình). Bên cạnh những gia đình đã sinh sống lâu đời, tại đây còn có các hộ dân nhập cư từ đầu những năm 1950, những năm 1990 và những gia đình có công với nước được Nhà Nước cho định cư vào khoảng những năm 1970, 1980. - Dân cư tại Phố cổ rất đa dạng và không đồng nhất, có nhiều sự biến động trong cấu trúc dân cư. Sự đa dạng và những biến động về cấu trúc dân cư cần được quan tâm trong quá trình hoạch định các chính sách về tái định cư - Do cấu trúc dân cư rất đa dạng nên cần phân cấp quản lý và tổ chức các hoạt động cộng đồng mang tính phường hội để thông qua đó củng cố các mối liên kết xã hội và nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa. Đặc biệt cần nâng cao vai trò của người già trong cộng đồng dân cư ở đây. Qui mô hộ gia đình: - Cấu trúc gia đình hiện đại chiếm ưu thế trong Phố Cổ. Theo điều tra của HIS, trung bình mỗi gia đình ở đây có 4,2 thành viên. Về cơ bản, cấu trúc gia đình hạt nhân vẫn được duy trì với 33,9% gia đình có 4 thành viên. Ngoài ra, gia đình có từ 3 hoặc 5 thành viên trở lên chiếm tỉ lệ tương ứng là 19,44% và 19,08%. Tuy vẫn còn hộ gia đình có từ 9 đến 12 thành viên nhưng số hộ này chiếm tỉ lệ khiêm tốn 2,23%. Đặc điểm kinh tế-văn hoá-xã hội : Đặc điểm kinh tế: Phố cổ Hà Nội được hình thành từ thế kỷ 15, bao gồm 36 phố phường. Mỗi phường là khu tập trung dân cư sản xuất và buôn bán các nghề thủ công. Khu phố Cổ Hà Nội là khu thương mại, chợ và buôn bán lẻ lâu đời nhất còn tồn tại ở Việt Nam. Phố Cổ là linh hồn, là trái tim và là di sản của Thủ đô Hà Nội, cùng với vẻ duyên dáng của Khu phố Pháp, phố Cổ đã trở thành một nét rất riêng biệt của đất Hà Thành. Trong thời gian chịu ách đô hộ của Pháp, Hà Nội cũng có những thay đổi về mặt kinh tế xã hội như những thành phố thuộc địa khác. Nền kinh tế Phố Cổ chủ yếu phát triển dựa trên sự kết hợp thương mại và hoạt động thủ công mà trong đó thương mại đóng vai trò chủ đạo. Đây là một sự hết hợp giữa mạng lưới các chợ và những làng nghề thủ công. Đó là những làng nghề thủ công đã được chuyên môn hóa và đơn giản hóa nếu không tính đến những yếu tố phi thương mại và phi công nghiệp. Ngoài ra, mạng lưới chợ còn thu mua những mặt hàng thủ công đã thành phẩm hoặc mới gia công một số phần. Tại đây, những mặt hàng này sẽ được hoàn chỉnh và đem ra bán. Về mặt địa lí, những tuyến phố trong Phố Cổ khá hẹp và trên các phố đều có chợ. Mạng lưới chợ, bến sông, các tuyến phố nội thị và các phường đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế của Hà Nội. Việt Nam đã có những bước tiến và thay đổi sâu sắc trong thời gian vừa qua. Điều này đã tác động và biến khu phố Cổ trở thành trung tâm kinh tế sôi động nhất với nhiều công ty tập trung nhiều nhất tại đây. - Hiện nay có khoảng 1.400 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh trong địa bàn Phố Cổ và ước tỉnh khoảng 10.000 hộ kinh tế gia đình kinh doanh đa dạng các ngành nghề. Ngoài ra còn có hàng nghìn người (bao gồm người dân Phố Cổ và người ngoại tỉnh) tham gia vào các hoạt động kinh tế không chính thức. - Các hoạt động kinh tế đặc trưng của Khu phố Cổ là thương mại, du lịch và dịch vụ. Những hoạt động này không chỉ đóng một vai trò quan trọng đối với người dân Hà Nội mà còn có ảnh hưởng đến quá trình giao thương với các vùng xung quanh Hà Nội và các tỉnh phía Bắc - Sự phát triển nhanh của kinh tế Phố Cổ đã đóng góp nhiều nguồn tài chính cho ngân sách Chính phủ và địa phương. - Sự phát triển nhanh của thành phần kinh tế tư nhân đã tạo nhiều việc làm cho người dân Phố Cổ Đặc điểm văn hoá - xã hội: 2.2.1 Giáo dục: Phố cổ là nơi sinh sống chủ yếu của những người Hà Nội gốc, những gia đình tri thức và có truyền thống lâu đời, những gia đình công chức. Tuy đã có những sự di chuyển về dân số, song vẫn còn rất nhiều gia đình như vậy vẫn sinh sống tại phố cổ. Do vậy, có thể nói đây là một khu dân trí cao. Theo điều tra khảo sát của HIS, tỉ lệ người có học vị Thạc sĩ/ Tiến sĩ trong khu Phố Cổ là 1,6% cao hơn tỉ lệ của toàn thành (1,5%). Tương tự, tỉ lệ người tốt nghiệp đại học trong khu Phố Cổ là 21,9%; trong khi toàn Hà Nội thì tỉ lệ là 17,1%. Ngoài ra, số sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng tại đây chiếm 1,7% và số học sinh trung học chiếm tới 1,8% dân số Phố Cổ. 2.2.2 Đời sống: Quận Hoàn Kiếm là trung tâm của thành phố Hà Nội, trong quận có tới 7 bệnh viện lớn. Ngoài ra, mỗi phường trong quận cũng có trạm y tế riêng cung cấp các dịch vụ y tế cho dân cư Phố Cổ. Đây là điều kiện thuận lợi cho người dân Phố Cổ đến khám chữa bệnh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các trang thiết bị y tế tại các Trung tâm y tế của Quận còn nghèo nàn về chất lượng lẫn số lượng, công tác khám chữa bệnh khá hạn chế. Do vậy, dân cư trong Quận nói chung và dân cư trong Phố Cổ nói riêng đều đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện lớn. Trung tâm Y tế Quận và các trạm y tế phường vì thế không phát huy được vai trò chăm sóc sức khỏe ban đầu, trong khi đó các bệnh viện lớn luôn trong tình trạng quá tải. Vấn đề này đang thu hút sự quan tâm và đầu tư của Quận. Quận Hoàn Kiếm đã đề xuất một kế hoạch dài hạn trong khoảng thời gian từ năm 2001-2010 đảm bảo cung cấp khám chữa bệnh ban đầu với chất lượng tốt, đầu tư cải tạo và nâng cấp trạm y tế của 18 phường và đầu tư trang thiết bị để thực hiện chương trình y tế mục tiêu; nâng cấp và cải tạo Trung tâm Y tế Quận và cơ sở Y tế tại phố Hàng Lược; di chuyển hoặc xây mới trạm y tế phường Hàng Bạc và phòng khám tại 167 Phùng Hưng. Tổng ngân sách dự kiến trong giai đoạn này là 49,5 tỷ. 2.2.3 Giá trị văn hoá: Khu 36 phố phường xưa nổi tiếng là đất “ngàn năm văn vật”; Nơi đây, không chỉ đã từng là một trung tâm kinh tế mà còn là một trung tâm văn hoá đa dạng; văn hoá ẩm thực phong phú. Đình, đền, chùa, miếu...là những công trình kiến trúc in đậm dấu ấn văn hoá đặc trưng của vùng đất này. Bên cạnh đó là những di sản văn hoá phi vật thể: ca dao, truyện cổ, tín ngưỡng, tâm linh, cách sống, phong cách làm ăn, buôn bán...tại nơi đây. Ca dao tục ngữ chỉ là truyền miệng, tuy nhiên người đời đã ghi chép lại và in ra các ca dao tục ngữ. Tín ngưỡng, lễ nghi, thờ phụng, cúng bái, là vô thể, song chúng diễn ra ở nhà thờ, đình, đền, miếu một cách hữu hình. Hà Nội 36 phố phường không chỉ đơn thuần là sự hiện diện của những văn hoá vật thể, những công trình kiến trúc mà còn là khía cạnh văn hoá phi vật thể, đó chính là cái hồn của phố cổ.  Hà Nội là đất Kinh Đô ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ kết tinh, tinh tuý của mọi miền. Di sản văn hoá phi vật thể Hà Nội có trữ lượng khá lớn, nó đã phản ánh một cách phong phú, đa dạng và chân thực truyền thống sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội. Một số loại hình của bộ phận di sản này trong những năm qua đã được sưu tầm, nghiên cứu như làng nghề phố nghề, sinh hoạt lễ hội, nghề, phong cách sống, ẩm thực...Văn hoá phi vật thể Hà Nội là tổng hoà các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hoà, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng Long - Hà Nội. Văn hoá ẩm thực của người Hà Nội là một nét văn hoá mà cho đến nay đó vẫn là một trong những điểm thu hút khách du lịch ở khắp mọi nơi trên thế giới. Trong kho tàng văn hoá phi vật thể Hà Nội các giá trị về văn hoá ẩm thực chiếm một vị trí đáng kể. Chính những giá trị này đã góp phần sâu sắc để định hình nên bản sắc văn hoá Hà Nội, phong vị Hà Nội như đã được nhắc đến khá nhiều. Những món ăn đặc sản như chả cá Lã Vọng, Xôi lúa Tương Mai, cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì, rượu Mơ...Những quán ăn với cách bài trí thanh lịch, những tiếng rao đêm đầy ấn tượng của Hà Nội xưa, những thói quen trong cách ăn uống...tất cả đã góp phần làm cho Hà Nội trở thành khó quên đối với những ai đã từng một lần đặt chân tới nơi đây. Phố Cổ là nét đặc trưng của Hà Nội. Năm 2004, “Khu Phố Cổ Hà Nội” được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Và đến nay thành phố Hà Nội đã có chủ trương đưa khu Phố Cổ Hà Nội vào lộ trình trở thành di sản thế giới, đó sẽ trở thành niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam, cũng như sẽ là nguồn động lực, nguồn cổ vũ để tất cả mọi người giải quyết tốt việc bảo tồn, gìn giữ, tôn tạo và phát huy các giá trị của di sản này. Giá trị kiến trúc, cảnh quan: Phố Cổ Hà nội với lịch sử lâu đời luôn là niềm tự hào về một di sản kiến trúc quí báu mang đậm bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc và xứng đáng tượng trưng cho cốt cách linh hồn của Thủ đô ngàn năm văn hiến. Khu Phố Cổ Hà nội với những kiến trúc đặc trưng, mang đậm nét văn hoá nhưng từ 15 năm nay với sự ảnh hưởng của nền kinh tế phát triển sau thời kì đổi mới, các loại kiến trúc tự phát đã làm phã vỡ không gian Phố Cổ. Hiện nay với nhận thức được giá trị của khu Phố Cổ, thành phố Hà nội đang đưa các biện pháp để quản lý việc trùng tu khu Phố Cổ và nâng cao giá trị văn hoá lịch sử của khu Phố Cổ, cùng hoà nhịp với sự phát triển kinh tế của khu Phố Cổ. Kiến trúc đô thị là biểu hiện văn hoá vật chất của cộng đồng được hình thành qua quá trình phát triển liên tục và tuân theo qui luật tiếp biến văn hoá. Vì vậy, nhận diện bản sắc văn hoá đô thị, có một phần quan trọng thông qua các giá trị của kiến trúc đô thị.   Khu Phố Cổ là thành phần quan trọng trong hệ thống trung tâm lịch sử của Hà Nội - nơi tập trung cao nhất mọi hoạt động của đô thị, là hình ảnh đại diện các giá trị văn hoá đô thị của Hà Nội. Phố cổ Hà nội với lịch sử lâu đời luôn là niềm tự hào về một di sản kiến trúc quí báu mang đậm bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc và xứng đáng tượng trưng cho cốt cách linh hồn của Thủ đô ngàn năm văn hiến. Các giá trị văn hoá của khu Phố cổ Hà nội được nhận biết đồng thời qua các đặc trưng hình thái kiến trúc, cảnh quan đô thị và qua ý nghĩa tượng trưng của kiến trúc đô thị vốn được tạo thành bởi phương thức tổ chức, đặc thù về hoạt động kinh tế xã hội và văn hoá của cộng đồng dân cư. Phần 2: Thực trạng phố cổ Hà Nội Nhóm nghiên cứu đã gửi 200 mẫu phiếu điều tra cho các hộ gia đình sinh sống bên trong khu Phố cổ, 156 phiếu điều tra đã được phản hồi chiếm tỷ lệ 78%. Bên cạnh đó nhóm nghiên cứu đã có những cuộc phỏng vấn nhanh với rất nhiều du khác nước ngoài, 100 mẫu phiếu điều tra đã được gửi trong lúc phỏng vấn với kết quả là có 95% du khách hào hứng trả lời. Lý do của những phiếu điều tra không được trả lời là do “tôi quá bận”, “tôi không có ý kiến”. Nghiên cứu đầu tiên ta thấy dưới đây là nghiên cứu về thời gian sống của những người dân tại phố cổ Hà Nội. Như bạn thấy trong Hình 1 dưới đây hầu hết những người dân trả lời rằng họ đã sống ở Phố cổ trên 20 năm chiếm tỷ lệ khoảng 71%, đây là những người dân sống lâu đời trong khu phố cổ. Câu trả lời với khoảng thời gian sống từ 1 tới 10 năm chiếm tỷ lệ chỉ 9 %. Phần lớn những người được phỏng vấn là của người gốc Hà nội, họ đã sinh sống ở đây và trở thành một phần của những con phố cổ ấy. Việc sống lâu đời trong các khu phố cổ tạo nên một nét văn hóa riêng cho khu phố cổ của Hà nội, đây không chỉ là vẻ lâu đời về kiến trúc mà còn là bề dầy về thời gian gắn bó của người dân với Phố cổ. Hình 1 ( Biểu đồ về thời gian sống của người dân tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Tiếp theo là nghiên cứu về số người ở từng hộ gia đình, Hình 2 cho thấy, thông thường là từ 3 đến 5 người trong 1 hộ. Con số này chiếm 62%. Và các hộ gia đình có hơn 5 người dân là 22%. Kết hợp với các con số ở Hình 3 ở dưới, chúng ta có thể thấy một vấn đề là diện tích quá hẹp, trong khi những người trong mỗi hộ gia đình đang khá đông đúc. Vì vậy, các hộ dân đang sinh sống ở khu phố khu vực Hà Nội cũ bị sống khá bó buộc trong những căn nhà nhỏ hẹp. Theo những nghiên cứu mà chúng tôi tìm hiểu được thì hầu hết những ngôi nhà ở phố cổ ban đầu được dùng làm các của hàng, làm nghề thủ công và tiểu thương hộ gia đình.Tuy vậy, hiện nay phần lớn họ đã trở thành dân cư,với 2 hay 3 thế hệ cùng sống chung dưới 1 mái nhà. Trong nhiều trường hợp, một số lượng lớn người cùng sử dụng chung nhà tắm và khu vệ sinh. Với số lượng người ra tăng không ngừng khu phố cổ ngày càng trở nên chật hẹp.Sự ra tăng dân số trong các hộ dân tại phố cổ làm ảnh hưởng tới đời sống của người dân,nhu cầu về không gian sống không gian sinh hoạt được mở rộng. Phố cổ Hà nội với lối kiến trúc cổ ngày càng trở nên chật hẹp dẫn tới các nhu cầu về mở rộng kiến trúc, mở rộng khu buôn bán. Do không gian chập hẹp người dân sống trong các khu đều cố gắng mở rộng tối đa các diện tích xung quanh nên các khu diện thích chung càng bị thu hẹp. Sự ra tăng dân số cũng là nguyên nhân gây sự lộn xộn cho khu phố cổ ở Hà nội không chỉ có nhà ở mà các tập tục văn hóa cũng dần mai một. Hình 2 ( Biểu đồ về số lượng thành viên trong gia đình tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Khi được hỏi về diện tích của những căn nhà,hầu hết cảm giác là không hài lòng với diện tích nhà của họ. Nó quá nhỏ và hẹp. Hình 3 biểu thị diện tích nhà của những người được phỏng vấn chủ yếu là từ 15m2 tới 25m2, chiếm 42%. Diện tích nhà của những người dân trong khu phố cổ từ 25m2 tới 35m2 chiếm 36%. Dù sao đi nữa, đây quả là 1 tin đáng buồn. Chúng ta có thể nhìn ở trong hình vẽ rằng, chỉ có 9% những người được hỏi sở hữu diện thích lớn hơn 35m2. Đã khi nào bạn hỏi ngôi nhà của bạn rộng bao nhiêu và như thế có thật thoải mái cho tất cả các thành viên trong gia đình sống hay không? Thử hình dung xem một gia đình có 3 người mà sống trong một căn hộ chỉ 10-15m2 thì sẽ thế nào nhỉ? Vậy mà tại phố cổ nơi được coi là trung tâm của Hà Nội lại có rất nhiều những gia đình như thế. Những bức ảnh mà nhóm nghiên cứu ghi lại được không khỏi khiến chúng ta giật mình. Hình 3 ( Biểu đồ về diện tích nhà ở tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Nhà chật quá, thôi đành Nhà chật nên bữa ăn “Sàn thủng” một cách giao treo xe đạp lên vậy. cũng phải chia làm nhiều ca lưu với nhà dưới Cấu trúc gia đình hiện đại chiếm ưu thế trong Phố Cổ. Theo điều tra của HIS, trung bình mỗi gia đình ở đây có 4,2 thành viên. Về cơ bản, cấu trúc gia đình hạt nhân vẫn được duy trì với 62,05% gia đình có 4-5 thành viên. Ngoài ra, gia đình có từ 1-3 và trên 5 thành viên chiếm tỉ lệ tương ứng là 16,45% và 21,5%. Nhìn vào bảng 1 sẽ thấy sự chênh lệch giữa quy mô gia đình với diện tích căn hộ, trong 26 hộ gia đình có số thành viên từ 1-3 người đã được khảo sát, không có hộ nào có diện tích nhà trên 35m2, cũng với số thành viên như vậy thì có tới 13 gia đình có diện tích từ 10-15m2. Có tới 46 căn hộ được khảo sát có 4-5 thành viên sống trong những căn hộ chỉ có diện tích từ 15-25m2, có nghĩa là mật độ là 3,75-5m2 /người. Hầu hết những người dân ở đây đều cảm thấy không hài lòng về không gian và diện tích sống quá nhỏ hẹp này. 10-15m2 16-25m2 26-35m2 Trên 35m2 Tổng cộng 1-3 người 13 12 1 - 26 4-5 người 6 46 43 3 98 Trên 5 người 1 9 13 11 32 Tổng cộng 20 67 57 14 156 Bảng 1 Phố cổ HN được hình thành từ thế kỷ thứ15. Hầu hết các căn hộ ở Phố cổ được xây dựng rất kiên cố và có tuổi thọ rất lâu dài. Một nửa số căn nhà đã khảo sát có tuổi thọ trên 200 tuổi, 38% số căn nhà có tuổi thọ 150-200 tuổi và 12% là những căn nhà từ100-150 năm tuổi thọ. Với những nét kiến trúc rất riêng biệt, những ngôi nhà ở phố cổ đã tạo nên những nét văn hoá không chỉ của riêng khu phố này mà còn là một nét đặc trưng mỗi ai đó nhắc đến đất Hà Thành. Những du khách trong và ngoài nước khi dạo quanh khu phố cổ đều cảm thấy tò mò và thích thú về những ngôi nhà ấy (Hình 4). Hình 4 ( Biểu đồ về tuổi thọ ngôi nhà của các gia đình tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Do thời gian sử dụng đã lâu nên hầu hết các ngôi nhà tại đây đã bị xuống cấp. Bên cạnh đó thì việc bảo tồn không theo một quy hoạch tổng thể thống nhất nào nên vẫn chưa thực sự hiệu quả. Có đến 50% số người được phỏng vấn cho rằng ngôi nhà của họ đang trong tình trạng xấu, 35% cho rằng những ngôi nhà đang xuống cấp nghiêm trọng, chỉ có 15% đánh giá những ngôi nhà là khá ổn và không có ngôi nhà nào được đánh giá là rất tốt. Hình 5 ( Biểu đồ về chất lượng ngôi nhà tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Khi tiến hành điều tra về mức độ hài lòng với điều kiện sống hiện tại của cư dân phố cổ, con số đưa ra làm chúng ta không khỏi giật mình, chỉ có 16% những người được hỏi thầy rằng “ tạm hài lòng” với cuộc sống ở phố cổ hiện nay trong khi đó lên tới 67 % lại cho rằng chất lượng, điều kiện sống ở phố cổ không đáp ứng được những nhu cầu sống tối thiểu của họ (Hình 6). Hình 6 ( Biểu đồ về sự hài lòng với điều kiện sống ở phố cổ Hà Nội) Trong số những người được hỏi cảm thấy hài lòng với điều kiện sống ở phố cổ thì có tới 88% là những người đang kinh doanh buôn bán tại phố cổ . Một lý do nữa đó là phố cổ nằm tại trung tâm của Hà Nội, họ cảm thấy rất thuận tiện trong việc giao thông đi lại, đi làm, đi học hoặc các công việc khác... tỷ lệ này lên tới 73% những người được phỏng vấn. Hình 7 ( Biểu đồ về lý do sống ở phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Với những người cảm thấy rất bức xúc, không hài lòng về điều kiện sống ở phố cổ thì cho rằng lý do chính đó là họ đang sống trong những ngôi nhà rất chật hẹp, thiếu không gian. Thông thường mỗi gia đình thường có từ 4-5 người nhưng diện tích đất chỉ đủ cho hai người sinh hoạt thoải mái. Nhà cửa ở phố cổ hiện nay đang bị xuống cấp nặng nề, môi trường sinh hoạt mất vệ sinh trầm trọng là lý do mà 78% số người được hỏi cho rằng họ không thoả mãn với điều kiện và môi trường sống ở phố cổ. Một số người cho rằng họ lại không chịu được tiếng ồn và sự đông đúc ở đây. Nằm tại vị trí trung tâm của thủ đô Hà nội, phố cổ Hà nội thu hút rất nhiều khách du lịch, ở đây mọc lên rất nhiều nhà hàng khách sạn, các trung tâm mua sắm. Có rất nhiều lý do làm cho người dân ở đây không thấy thoải mái với cuộc sống hiện có lý do chủ yếu chiếm 93% là do diện tích quá nhỏ hẹp. Hình 8 ( Biểu đồ về lý do không thỏa mãn khi sống ở phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Phố cổ chẳng còn là phố cổ nữa??? Vâng, một nhận xét có lẽ khiến những người dân Việt Nam cảm thấy thực sự đau lòng. Chúng ta hãy cùng xem đánh giá của Ban quản lý Phố cổ về thực trạng hiện nay Từ website tương thích lúc 9h ngày 23/3/2009 : Trên 90% di tích khu phố cổ bị lấn chiếm: Khu phố cổ có 122 di tích lịch sử và văn hóa, trong đó có 97 di tích lịch sử tôn giáo và tín ngưỡng, 25 di tích cách mạng, kháng chiến. Theo báo cáo của ngành Văn hóa Thông tin, trên 90% số di tích trong khu phố cổ đã bị lấn chiếm. Trong số 300 ngôi nhà cổ ở Hà Nội, thì chỉ có khoảng 10% ở trong tình trạng bảo quản tốt, số còn lại hoặc là xuống cấp hoặc ít nhiều bị biến thể (cải tạo, cơi nới). Số những ngôi nhà xuống cấp, thì hầu hết các hạng mục như kết cấu bộ khung nhà, phần tường, mái... đều hư hỏng. Số những ngôi nhà "biến thể" một, hai nếp (thường là nếp bên trong) lên 2 tầng, thậm chí lên 3- 4 tầng, hoặc cải tạo sân thành nơi ở chiếm số lượng khá nhiều. Bản thân nhà 47 Hàng Bạc được coi gần như "tiêu biểu" cho nhà cổ Hà Nội với những họa tiết trang trí rõ nét ở phần cổ diêm, mái ngói ta, tường hồi giật cấp... thì nếp nhà trong cùng cũng đã bị bêtông hóa thành nhà 3 tầng. Có lẽ, không một khu phố cổ nào không có sự xây dựng trái phép. Trong hai ngày đi nghiên cứu khảo sát thực địa, nhóm nghiên cứu đã ghi lại rất nhiều những bức hình của những ngôi nhà “hiện đại” mà đáng nhẽ đó phải là những ngôi nhà “cổ”. Và một sự thực đau lòng rằng, nếu cứ tiếp tục buông lỏng trong quản lý xây dựng, tiếp tục “nhẹ tay” trong việc xử lý vi phạm như thế này thì trong tương lai, khi chúng ta vào thăm Phố cổ, tìm một ngôi nhà cổ theo đúng nghĩa chắc chắn phải “mỏi mắt kiếm tìm”. Sau đây chỉ là một số trong bộ sưu tập “hoành tráng” của nhóm nghiên cứu về tình hình vi phạm xây dựng tại khu Phố cổ: Một ngôi nhà “hiện đại”nằm xen giữa hai Nhìn từ trên cao, một câu hỏi đặt ra “chúng ngôi nhà cổ tại phố Hàng Bè ta còn bao nhiêu nhà cổ để bảo tồn???” Phố “cổ” Mã Mây Sự kết hợp giữa” hiện đại” và “ cổ kính” tại Hàng Bạc Cùng ghé thăm phố “cổ” Bát sứ Cảnh quan Phố cổ bị” phá nát” bởi các công trình cao tầng Chương IV GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ Trong chương này, nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp trong trước mắt và giải pháp mang tính chiến lược với mong muốn góp một phần nào đó vào công cuộc “bảo vệ” và gìn giữ những nét đẹp của Phố cổ Hà nội. 1. Giải pháp trước mắt: Thứ nhất, về phía Chính phủ: giải pháp đưa ra là cần có những văn bản cụ thể hướng dẫn bảo tồn, duy trì nguyên trạng của khu phố cổ. Những văn bản đưa ra cần có sự chính xác, chi tiết và rõ ràng dễ thực thi và mang tính hiệu quả cao. Hiện nay chúng ta đã có Quyết định 70/BXD/KT-QH, đây là Quyết định của Bộ trưởng Bộ xây dựng phê duyệt quy hoạch bảo vệ, tôn tạo và phát triển khu phố cổ Hà Nội. Thế nhưng, thực tế là văn bản này chưa phát huy tác dụng mà các nhà hoạch định mong muốn, hiện tượng xây dựng trái phép vẫn diễn ra ngày một nhiều hơn. Bởi vậy, trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu những “văn bản” có tính thực tiễn hơn nữa để có thể ngăn chặn và xử lý thích đáng những công trình vi phạm trong khu Phố cổ. Thứ hai Chúng ta cần xây dựng ngay một hệ thống tư liệu về khu phố cổ để làm tư liệu khi có đủ tiềm lực tài chính, hoặc có chuyên gia hỗ trợ để trùng tu tái tạo. Phố cổ Hà Nội gắn với đời sống của người dân thủ đô rất giàu truyền thống và đậm nét văn hóa đặc trưng. Để thực bảo tồn quy hoạch rất cần các tư liệu về phố cổ. Không chỉ về mặt kiến trúc mà còn về các nét văn hóa, phong tục tập quán của người dân thủ đô. Tư liệu ở đây có thể là hệ thống ảnh hệ thống các hiện vật còn lưu giữ được, các sách về nét văn hóa đặc biệt hơn là phải lưu giữ được những phong tục tập quán, hình ảnh các phố nghề những nét đặc trưng của người sống trong phố cổ. Hệ thống các bức ảnh và sách, văn bản có thể là tư liệu xuyên suốt các quá trình lịch sử, cách thức sinh hoạt cộng đồng tới cuộc sống hàng ngày là các nét văn hóa trong phố cổ. Là cơ sở nghiên cứu là căn cứ cho việc tái tạo lịch sử khu phố cổ Hà Nội. Ngoài việc thu thập từ các nguồn sẵn có, các nguồn như trong khu dân cư hay của những người ngoại quốc cũng cần được quan tâm. Các hiện vật tái hiện cuộc sống hiện nay, trang phục, đồ dùng hay các sản phẩm thủ công từ xa xưa cũng cần được sưu tầm lưu giữ để làm căn cứ khi tái tạo chính xác và mang tính cổ kính. Bên cạnh đó hệ thống tư liệu còn lấy từ những người đi trước những người già sống lâu năm trong phố cổ, những nghệ nhân gạo cội của từng loại nghề cũng là kho tư liệu quí báu. Những bức ảnh như thế này sẽ là kho tư liệu vô cùng quý báu cho công cuộc trùng tu và bảo vệ Phố cổ 2. Giải pháp mang tính chiến lược: Thứ nhất là giải pháp Quy hoạch: Khi chúng ta muốn xây dựng chiến lược bảo tồn phố cổ, việc đầu tiên cần làm đó là phân tích đặc tính sử dụng và đặc tính xây dựng. Đặc tính sử dụng thể hiện ở những gì thuộc sở hữu tập thể (những con phố, những ngõ hẻm, những vỉa hè) cùng với mạng lưới đan xen dày đặc các đền chùa, đình, quán trà, các tụ điểm xã hội... Đặc tính xây dựng thể hiện ở việc quy hoạch. Những tòa nhà chọc trời đang mọc lên như nấm ở trung tâm Hà Nội cần phải bị dẹp bỏ sang một bên, phải được đưa ra ngoại vi thành phố để không phá hỏng quy mô của Hà Nội. Như vậy có nghĩa rằng chúng ta phải đưa ra những quy định chặt chẽ về độ cao của các tòa nhà và độ cao đó phải không được phép vượt quá chiều cao của cây cối. Theo Giáo sư, tiến sĩ Arnold Koerte Từ website: tương thích lúc 9pm 20/3/2009 “Quy định độ cao tối đa không chỉ được áp dụng cho các tòa nhà mà còn phải ứng dụng trong quy mô tương tác xã hội của quang cảnh thành phố, tức là người đứng dưới phố vẫn có thể nói chuyện với người trên nhà, và người ta có thể nghe thấy tiếng nói của nhau qua những tiếng ồn ào của giao thông. Chỉ có sự tương tác xã hội chặt chẽ và gần gũi qua giọng nói thực của con người (chứ không phải qua máy di động) mới có thể bảo tồn được các đặc tính nói trên của phố cổ Hà Nội”. Qua phân tích và đánh giá các bản dự án về quy hoạch trước đây tại khu phố cổ. Nhóm nghiên cứu nhận ra rằng, một trong những nguyên nhân thất bại của các dự án quy hoạch phố cổ đó là không có sự đồng thuận từ phía người dân. Điều đó nghe có vẻ phi lý bởi nếu đây là sự thật thì không lẽ nào đa số người dân đều rất nhiệt tình trả lời các câu hỏi mà nhóm nghiên cứu đưa ra, thậm chí họ còn dành 2, 3 tiếng đồng hồ để cùng trao đổi với nhóm nghiên cứu những suy nghĩ, tâm tư và nguyện vọng của họ. Vậy mấu chốt của vấn đề là ở đâu??? Thực ra, những người dân đang sinh sống trong một hoàn cảnh mà theo nhà sử học Lê Văn Lan Từ website: tương thích lúc 9pm ngày 15/3/2009 “ trong khu phố cổ, có hơn 8 vạn người trong 100 ha, một mật độ có thể vào Guiness như chơi, ngay như tôi cũng đang ở trong một gian phòng chỉ có... 6m2, kê được một chiếc giường rộng 60cm, khách đến quá hai người là phải ngồi ra lối đi chung...” rất mong muốn nhà nước có chính sách giúp cho người dân có được điều kiện sống tốt hơn. Nhưng đó chỉ là những người dân sống trong ngõ, có nghĩa là họ không phải là những người dân sống bên ngoài và có mặt tiền để kinh doanh. Chính vì lẽ đó, vấn đề không “đồng thuận” ở đây mà các báo cáo đề ra chỉ là những người dân có cửa hàng, họ e ngại công việc kinh doanh của họ sẽ bị ảnh hưởng. Bởi thế mấu chốt của vấn đề là làm sao có thể hài hoà lợi ích của những hộ gia đình này, làm sao để họ “hiểu” tầm quan trọng của công tác bảo tồn phố cổ? Bên cạnh đó, cũng theo nhà sử học Lê Văn LanTừ website tương thích lúc 9h15pm ngày 15/3/2009 “bản thân những người dân sống tại đây còn quá ít tiếng nói, trong khi chính họ có lẽ cũng rất ít biết là người ta đang đại diện cho họ để bàn thảo những vấn đề gì... Tài sản lớn nhất của khu phố cổ, kể cả vật thể cũng như phi vật thể, tài sản có giá trị tuyệt vời nhất về mặt lịch sử và văn hóa, chính là những con người đã sống ở đây qua nhiều thế hệ, nhưng chính họ lại bị bỏ quên". Trong khi các nhà quản lý, nhà khoa học cùng nhiều "nhà" khác nữa "nói hộ" cho những người đang sống trong khu phố cổ, thì những người này hoặc không biết hoặc chỉ biết rất ít về những điều "nói hộ" đó.” Vì vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, sự tham gia tích cực của những người dân khu phố cổ là yếu tố vô cùng cần thiết, bởi lẽ bài toán đặt ra với chúng ta cực kỳ phức tạp và cần được xây dựng, cải thiện và điều chỉnh không ngừng để có thể đáp ứng được lần lượt tất cả các vấn đề có liên quan lẫn nhau. Đề làm được điều này, nhóm nghiên cứu mạnh dạn đề xuất một quy trình hình thành nên một bản quy hoạch phố cổ như sau, đây được coi là một bản quy hoạch mang tính cộng đồng: Chuẩn bị cho một bản quy hoạch: Việc thiết lập một bản quy hoạch phố cổ dựa trên một quá trình chuẩn bị rất kỹ lưỡng, và có sự tham gia của rất nhiều thành phần; chính quyền, các cơ quan chức năng, các chuyên gia, các nhà sử học và quan trọng nhất là những người dân sống trong đó. Trong quá trình tiến hành quy hoạch, trọng lượng của bản quy hoạch tuỳ thuộc vào sự hoà hợp giữa các bước trong việc đưa ra những quyết định cuối cùng, các bước này bao gồm: Bước 1: Thiết lập bản thảo quy hoạch: Những người có trách nhiệm sẽ đưa ra bản thảo của quy hoạch để tham khảo ý kiến của cộng đồng. Tất cả các phương án, các kế hoạch đề xuất vẫn còn “thô” và chủ yếu dựa trên những quan điểm chủ quan hay những khảo sát về khu vực nằm trong quy hoạch. Bước 2: Tham khảo ý kiến cộng đồng: Bản thảo này sẽ được đặt tại một nơi nào đó (có thể là văn phòng uỷ ban hoặc một nhà văn hoá chung của cả khu phố) trong thời gian từ 4-6 tuần. Tất cả những người có quan tâm (chủ yếu là những người dân trong phố cổ) có thể đến xem và đánh giá. Bước 3: Điều tra trong công chúng: Những người có trách nhiệm trong việc thiết lập bản quy hoạch phải quan tâm đến những ý kiến phản hồi từ công chúng: thông thường những phản hồi này sẽ là những ý kiến không đồng thuận về một quan điểm hay phương án nào đó. Những ý kiến phản đối sẽ được xem xét nếu người dân có thể đưa ra những minh chứng, những lập luận để có thể bảo vệ ý kiến của mình. Một nhóm chuyên gia sẽ được hình thành để xem xét và đánh giá các ý kiến phản hồi này. Bước 4: Điều chỉnh: những người có trách nhiệm trong việc lập quy hoạch sẽ công khai tất cả những điều chỉnh theo ý kiến của người dân và theo ý kiến của nhóm chuyên gia. Những điều chỉnh này sẽ được đưa vào bản thảo trong một khoảng thời gian 1 tháng và tiếp tục được đem ra để xin ý kiến của người dân. Giai đoạn này chỉ được coi là kết thúc khi đa số mọi người hài lòng. Bước 5: Thông qua: Cuối cùng bản quy hoạch sẽ được những người có trách nhiệm hoàn thành bản cuối cùng và trình cấp cao hơn xem xét, nếu nó được thông qua có nghĩa bản quy hoạch đã có sức mạnh về tính pháp lý và được cộng đồng ủng hộ. Thứ hai là giải pháp “tái tạo lịch sử” Nói đến phố cổ Hà Nội từ trước đến nay người ta vẫn thường nghĩ ngay tới những ngôi nhà cổ, hay hình ảnh khu phố cổ như trong tranh của Bùi Xuân Phái. Nhưng theo nhiều kiến trúc sư, cái làm chúng ta yêu quý phố cổ không phải là giá trị kiến trúc của nó, bởi hiện tại, giá trị kiến trúc của phố cổ đang mất dần, nhưng chúng ta vẫn thích ăn hàng quán ở đó, vẫn thích mua đồ ở đó, thậm chí sống ở đó… Vì thế, giá trị thực của phố cổ không phải là hình ảnh được lưu giữ trong tranh phố Phái, mà chính là tính hấp dẫn của cuộc sống trong khu vực phố cổ. Những ngành nghề truyền thống nơi đây đang bị mai một, vậy câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có thể tái tạo được những ngành nghề đó, làm thế nào để các thế hệ mai sau có thể hiểu được những ngành nghề đã từng gắn bó với từng khu phố cổ. Chúng ta hãy cùng đến với thành phố Omihachiman, nằm cách cố đô Kyoto khoảng 40km về phía bắc. Vào giữa tháng 3, ở đây diễn ra lễ hội truyền thống Sagicho để chào đón mùa xuân Từ website: tương thích 8pm 22/3/2009 ; Omihachiman là một thành phố nhỏ từng sầm uất về buôn bán vào hồi cuối thế kỷ 16. Nhà ở của các thương gia thời đó chạy dọc phố cổ, nhỏ và yên bình. Các ngôi nhà cổ được giữ gìn rất cẩn thận. Lễ hội Sagicho vào 14 -15 tháng 3. Thanh niên trong thành phố ăn mặc những bộ quần áo cổ truyền từ xa xưa, khiêng chiếc kiệu tế thần đi vòng quanh, vừa đi vừa cổ vũ và thậm chí múa kiệu quay tròn, rất náo nhiệt. Rất đông du khách hứng khởi cùng tham gia. Nhóm nghiên cứu thiết nghĩ, rất nhiều thành phố trên thế giới đều có những ngày lễ như vậy. Họ coi đó như một dịp để có thể sống lại với những hoạt động cổ truyền diễn ra từ xa xưa, được cảm nhận quá khứ và hiểu hơn về mảnh đất mà mình đang sinh sống. Phố cổ Hà nội cũng có thể làm được như thế, người dân Hà nội cũng có thể tái hiện lại những ngành nghề đã từng gắn với từng con phố cổ thân yêu. Đây sẽ là dịp các thế hệ người Việt hiểu hơn về đất nước mình, yêu hơn và tự hào hơn về mảnh đất mà mình đang sinh sống và hơn hết các thế hệ mai sau tự cảm thấy có trách nhiệm hơn trong việc gìn giữ những di sản quý báu mà cha ông ta đã để lại. Đó chẳng phải một hoạt động vô cùng ý nghĩa trong dịp đại lễ nghìn năm Thăng Long đó sao? Nếu Phố cổ Hà nội có những ngày như thế, thì vào những ngày này, nếu bạn cùng hoà mình vào dòng người dạo chơi trên những con phố. Bạn sẽ nghe thấy râm ran tiếng búa gõ vào những mảnh tôn, mảnh thiếc trắng lấp lánh, sẽ bắt gặp hình ảnh những người thợ thiếc cặm cụi làm các đồ dùng từ nhỏ đến lớn như chân đèn, thùng, chậu, gáo múc nước, hòm, bể nước...khi đến thăm phố Hàng Thiếc. Bạn sẽ được đắm chìm trong những bức tranh dân gian khi đến thăm phố Hàng Trống, được chiêm ngưỡng những đồ trang sức của các nghệ nhân khi đến thăm phố Hàng Bạc và ngất ngây trước những thiếu nữ ở phố Hàng Lược đang làm đẹp với những chiếc lược xinh xắn...Còn nhiều lắm những khu phố để ta có thể sống lại với những hoạt động của cha ông xưa kia, hãy cùng nhau lắng nghe những câu ca dao để cảm thấy yêu hơn mảnh đất này: Rủ nhau chơi khắp Long thành Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai: Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai, Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay, Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn, Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang, Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng, Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông, Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè, Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre, Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà, Quanh đi đến phố hàng Da, Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh. Phồn hoa thứ nhất Long thành, Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ. Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ, Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền. Bên cạnh đó, qua việc trao đổi với một số các chuyên gia đã từng nghiên cứu về phố cổ, trò chuyện với rất nhiều du khách nước ngoài, tâm sự với những người gắn bó lâu dài với khu phố cổ, nhóm nghiên cứu nhận ra còn rất nhiều lợi ích từ việc hình thành những ngày lễ như trên, đó là: Thứ nhất: Đây sẽ là những bài học lịch sử sinh động nhất, có khả năng truyền đạt cao nhất đến với những người con của Hà Nội. Những nét đẹp của những ngành nghề truyền thống, những phong tục tập quán tốt đẹp từ xa xưa sẽ được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thứ hai: Tiềm năng phát triển cho ngành du lịch là rất lớn. Vào những ngày này, không chỉ có người dân Hà Nội mà còn có rất nhiều những du khách trên thế giới háo hức được khám phá Hà Nội xưa. Những cô gái ngoại quốc có thể mặc Áo tứ thân, áo đổi vai, áo mớ ba mớ bẩ, đội nón quai thao, chân đi quốc mộc, sánh vai cùng những anh chàng ngoại quốc trong trang phục áo lam, áo gấm, áo đoạn, áo the...Khách du lịch có thể thưởng thức những món ăn truyền thống của người Việt, được tham gia vào những hoạt động của những ngành nghề truyền thống... Thứ ba: Tài chính. Chúng ta vẫn luôn gặp khó khăn khi tìm kiếm những nguồn lực tài chính cho các dự án bảo tồn phố cổ, khó khăn trong việc giải quyết vấn đề lợi ích cho các hộ dân trong khu phố cổ. Thì thông qua những ngày lễ này chính quyền và người dân sẽ cùng bắt tay nhau trong việc gìn giữ và khai thác những nguồn lợi mà khu phố cổ đem lại. Chính quyền có thể thông qua những hoạt động này mà tìm kiếm những nguồn tài trợ từ nước ngoài, tìm kiếm sự trợ giúp của những chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực khảo cổ, kiến trúc, trùng tu di sản....Người dân có thể bán những đồ lưu niệm cho du khách, bán những sản vật truyền thống, cung cấp những dịch vụ mà khách du lịch yêu cầu...Vô hình chung, chính quyền và người dân sẽ có những tiếng nói chung trong công tác bảo tồn di sản. KẾT LUẬN Việc bảo tồn các giá trị văn hóa của quốc gia không phải là việc của riêng mỗi cá nhân hay 1 tổ chức nào, mà đó là công việc của cả dân tộc. Cuộc sống của chúng ta ngày càng phát triển và thay đổi. Công nghệ tiên tiến, cảnh quan kiến trúc hiện đại, đôi khi chúng ta thấy đáng quý và đáng trân trọng biết bao những gì của quá khứ…Bất chợt nhìn thấy 1 khu nhà cổ, những nét văn hóa rất riêng mà chỉ ở Việt Nam mới có mà đang hàng ngày bị xuống cấp, mất dần đi nét kiến trúc cổ, hẳn trong chúng ta không khỏi chạnh lòng. Các du khách quốc tế khi đến Việt Nam đều rất thích thú khi đến với Hà Nội, đặc biệt là khu Phố cổ Hà Nội. Nơi đây không chỉ có giá trị khi gắn với 1000 năm Thăng Long mà còn có giá trị mãi mãi sau này. Phố cổ Hà Nội là lịch sử, là nét văn hóa tự hào không chỉ của người dân thủ đô mà còn là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam. Hiện nay vấn đề bảo tồn và tôn tạo phố cổ đang được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, có sự hỗ trợ giúp đỡ của các nước bạn, có nhiều dự án được triển khai nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Chính vì vậy, nhóm tác giả đề tài này chỉ mong góp 1 tiếng nói xuất phát từ trái tim, từ tình yêu Hà Nội, yêu quê hương, đất nước Việt Nam để góp phần gìn giữ và bảo tồn nét truyền thống văn hóa đáng tự hào đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO Roger Kain, (1981) “Kế hoạch bảo tồn”, Mansell, London David Watt, (2003), “Trùng tu di sản”, De Montfort Expertise Limited, Leicester Bernard M Feilden, (1997) “Bảo tồn các toà nhà cổ”, Reed Educational and Professional Publishing. Destination magazine. Kerr Semple, J. (1996) “Kế hoạch bảo tồn những địa danh nổi bật cuả Châu Âu”, London Michael Ross, (1996) “Thủ tục và chính sách bảo tồn di sản”, E&FN SPON. Các website trong nước tương thích lúc 9pm ngày 15/3/2009 tương thích lúc 9pm ngày 15/3/2009. tương thích lúc 9h15pm ngày 15/3/2009. tương thích 8pm 22/3/2009. tương thích 8pm 24/3/2009 tương thích 8pm 25/3/2009 PHỤ LỤC 1 MẪU BẢNG HỎI DÀNH CHO NGƯỜI DÂN SỐNG TẠI PHỐ CỔ HÀ NỘI Kính gửi anh/chị Chúng tôi là nhóm nghiên cứu thuộc khoa Bất động sản và kinh tế tài nguyên, trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Chúng tôi đang thực hiện quá trình nghiên cứu đề tài “ Bảo tồn phố cổ Hà Nội - Thực trạng và giải pháp”. Mục đích của đề tài là đưa ra các phương án bảo tồn hiệu quả để gìn giữ và bảo tồn phố cổ. Để hiểu rõ hơn về thực trạng của phố cổ, về đời sống của người dân trong phố cổ hiện nay, chúng tôi kính mong anh/chị giúp chúng tôi hoàn thành bản khảo sát này. Xin chân thành cám ơn. Anh/chị đã sống ở Phố cổ bao lâu? 1- 10 năm b. 10- 20 năm c. Trên 20 năm Có bao nhiêu người sống trong nhà anh / chị? 1- 3 người b. 3- 5 người c. Trên 5 người Diện tích nhà của anh / chị là bao nhiêu ? 10- 15 m2 b. 15- 25 m2 c. 25- 35 m2 d.Trên 35 m2 Nhà của anh / chị có tuổi thọ bao lâu ? 100- 150 năm b. 150- 200 năm c. Trên 200 năm Điều kiện hiện tại của ngôi nhà anh / chị đang sử dụng ? Rất tốt b. Tốt c. Kém d. Rất kém Số lần anh / chị đã nâng cấp, sửa chữa nhà ? Một lần b. Hai lần c. Ba lần d.Trên ba lần Anh / chị có hài lòng với cuộc sống ở Phố cổ không ? Rất hài lòng b. Hài lòng c. Không hài lòng d. Rất không hài lòng Nếu hài lòng với cuộc sống trong Phố cổ , xin mời anh / chị hãy nêu lí do ? Kinh doanh thuận tiện Quen với môi trường sống ở Phố cổ Toạ lạc tại trung tâm Hà nội Nếu không hài lòng với cuộc sống trong Phố cổ, xin mời anh / chị nêu lý do ? Diện tích sống quá nhỏ Chất lượng nhà bị xuống cấp, hư hỏng Ồn ào , đông đúc Theo anh/ chị nên làm để bảo tồn và nâng cấp Phố cổ ? ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… PHỤ LỤC 2 MẪU BẢNG HỎI DÀNH CHO KHÁCH DU LỊCH NƯỚC NGOÀI SURVEY TICKET Dear We are the students of National Economics University. We have a project about Traditional Street in the Ancient Quarter of Hanoi ( TSAQH ). Now we are conducting a survey about it and want to ask you few questions. I hope you will share with us yous opinions. Name:………………………………………………………………… National :…………………………………………………………….. You stay in Ha Noi because of:  Work  Personal matter  Another * * Please write it down:…………………………………………………… 2. How often do you go to the Ancient Quarter of Hanoi?  Almost everyday  Once a week  Once a month  Hard to answer 3. You often go to the Ancient Quarter of Hanoi to:  Shopping  Sightseeing Try traditional foods  Another reason* * Please write it down:…………………………………………………… 4. What do you think about the Ancient Quarter of Hanoi nowadays? ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… 5. In your opinion, what we have to do to preserve and improve the cultural value of TSAQH? ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Thank you for your cooperation! Bản dịch tiếng Việt Nam BẢN ĐIỀU TRA, KHẢO SÁT Kính gửi anh/chị Chúng tôi là nhóm sinh viên thuộc trường Đại học Kinh tế quốc dân. Chúng tôi đang thực hiện công trình nghiên cứu về “ Bảo tồn phố cổ Hà Nội – Thực trạng và giải pháp”. Vì vậy chúng tôi tiến hành khảo sát về vấn đề này, rất mong nhận được câu trả lời và ý kiến chia sẻ của các bạn qua các câu hỏi sau đây: Họ và tên:…………………………………………………………………… Quốc gia:……………………………………………………………………. Lý do bạn ở Hà Nội:  Làm việc  Lý do cá nhân  Lý do khác Bạn có thường xuyên đến phố cổ Hà Nội không?  Các ngày trong tuần  Mỗi tuần một lần  Mỗi tháng một lần  Không nhớ rõ Bạn thường tới phố cổ Hà Nội để làm gì?  Mua sắm  Ngắm cảnh  Thưởng thức món ăn  Lý do khác Bạn nghĩ như thế nào về phố cổ Hà Nội hiện nay? ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Theo bạn chúng ta cần làm gì để gìn giữ và bảo tồn phố cổ Hà Nội? ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Xin chân thành cám ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22186.doc
Tài liệu liên quan