Đề tài Các giải pháp nhằm tăng cường khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Con người phi nhân thọ tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long

Nhằm tránh cho Công ty Bảo hiểm phải bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản đồng thời đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, Công ty bảo hiểm không thể chấp nhận bảo hiểm cho tất cả các rủi ro. Theo nguyên tắc này, rủi ro được bảo hiểm khi đáp ứng các điều kiện sau: - Xác suất rủi ro xảy ra phải nằm trong khoảng (0,1). Tức là rủi ro là không lường trước được, xảy ra một cách ngẫu nhiên, bất ngờ. Xác xuất rủi ro càng tiến gần đến 1 thì khả năng xảy ra rủi ro càng cao do đó phí bảo hiểm càng cao.Ngược lại nếu xác suất rủi ro càng tiến gần đến 0, khả năng xảy ra rủi ro càng thấp dẫn đến phí bảo hiểm càng thấp.

doc77 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 978 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm tăng cường khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Con người phi nhân thọ tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h có đảm bảo các yêu cầu an toàn áp dụng đối với các nghành đó hay không, có khả năng xảy ra rủi ro tích tụ hay không, các biện pháp đảm bảo an toàn trong quá trình làm việc được thực hiện ra sao ( Bảo hộ lao động, các quy định về an toàn lao động...), Các thông tin về tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu bảo hiểm ( thực hiện kiểm tra sức khỏe nếu cần), Phạm vi địa lý của các hoạt động kinh doanh mà người được bảo hiểm thực hiện, Mức độ tích tụ rủi ro cao nhất có thể xảy ra về số lượng người và mức trách nhiệm có thể phát sinh. Căn cứ vào kết quả đánh giá, khai thác viên có thể từ chối chào phí trong trường hợp: Khách hàng không có quyền lợi có thể được bảo hiểm. - Kê khai không trung thực các thông tin về rủi ro yêu cầu bảo hiểm và người được bảo hiểm đối chiếu với các thông tin thu được trong quá trình giám định trực tiếp. - Khách hàng làm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc các nghành ở mức độ rủi ro cao ( Công nhân hầm mỏ, lao động dưới nước...) nhưng lại không được trang bị hoặc thiếu các thiết bị an toàn hoặc không được tập huấn về phòng chống rủi ro. - Khách hàng là cầu thủ tham gia các môn thể thao chuyên nghiệp (Trừ khi lãnh đạo công ty đồng ý bằng văn bản). - Phạm vi làm việc của người yêu cầu bảo hiểm ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam ( Trừ khi được lãnh đạo công ty đồng ý). 3. Xác định phí, điều kiện, chào phí. Căn cứ vào các thông tin được cung cấp và kết quả đánh giá rủi ro, khai thác viên dựa vào hướng dẫn nghiệp vụ, dùng biểu phí để đưa ra một mức chào phí cho khách hàng. Bản chào phí bao gồm các thông tin cơ bản sau gửi cho khách hàng: + Tên, địa chỉ Người được bảo hiểm. + Ngành nghề kinh doanh. + Danh sách người được bảo hiểm ( Số lượng, tên tuổi, giới tính, nghề nghiệp). + Tỷ lệ phí ( phí bảo hiểm). + Các khoản giảm trừ ( Nếu có) + Mức miễn thường ( nếu có ) + Các điều kiện, điều khoản bổ sung ( nếu có) + Quy tắc bảo hiểm áp dụng. 4. Chuẩn bị hợp đồng/ Giấy chứng nhận bảo hiểm. Sau khi khách hàng chấp nhận bản chào phí bảo hiểm, PVI Thăng Long đề nghị khách hàng gửi giấy yêu cầu bảo hiểm hoàn chỉnh. Đây là một bằng chứng và là cơ sở pháp lý thể hiện ý chí và sự tự nguyện của khách hàng về việc đồng ý tham gia bảo hiểm và là một bộ phận cấu thành của hợp đồng bảo hiểm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ khai thác và đại lý viên trong khai thác bảo hiểm con người, GCNBH được ký và đóng dấu trước. Cán bộ khai thác và đại lý viên có trách nhiệm thực hiện việc nộp phí, liên lưu, thông báo về tình hình cấp GCNBH theo quy định. Trường hợp khách hàng yêu cầu có hợp đồng thì Cán bộ khai thác/ Phòng kinh doanh quản lý đại lý soạn thảo hợp đồng bảo hiểm ( Đại lý không được soạn thảo hợp đồng). 5. Ký duyệt Hợp đồng/GCNBH. Sau khi thu xếp hợp đồng, trình lãnh đạo Phòng Kinh doanh ký GCNBH/ Hợp đồng. Cấp đơn bảo hiểm cho khách hàng và làm thủ tục thông báo thu phí bảo hiểm. 6. Quản lý hợp đồng/ GCNBH. - Theo dõi việc thu phí và thanh toán hoa hồng. - Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có bất cứ thay đổi nào từ phía Công ty hoặc khách hàng thì cán bộ khai thác có trách nhiệm thống nhất với khách hàng, lập thành văn bản nội dung thay đổi và thông báo tới các bộ phận liên quan. Các thay đổi ảnh hưởng đến rủi ro được bảo hiểm nếu cần sẽ phải tính thêm phí. Bản sửa đổi bổ sung thay cho các thay đổi này được lưu cùng các tài liệu đã có. Nếu có sự kiện bảo hiểm, cán bộ khai thác/ Phòng kinh doanh phải phối hợp với bộ phận giám định bồi thường để giải quyết. Mọi ý kiến phản hồi của khách hàng phải được ghi nhận và theo dõi, giải quyết theo Quy trình đánh giá chất lượng phục vụ khách hàng. Đối với những hợp đồng bảo hiểm có tổng mức trách nhiệm lớn, khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, khai thác viên phải lập báo cáo tổng kết gửi cho lãnh đạo công ty. Đối với những hợp đồng bảo hiểm có số lần tổn thất nhiều hoặc mức độ tổn thất cao trong suốt thời hạn bảo hiểm, Phòng kinh doanh cần thực hiện tính toán lại hiệu quả kinh doanh và đánh giá lại mức độ rủi ro về dịch vụ bảo hiểm báo cáo lãnh đạo xem xét trước khi cấp GCNBH bổ sung, tái tục hợp đồng. Hồ sơ khai thác bao gồm. Giấy yêu cầu bảo hiểm. Bản đánh giá rủi ro. Giấy chứng nhận bảo hiểm, Hợp đồng. Mẫu đơn, quy tắc bảo hiểm. Danh sách tên người được bảo hiểm. Thông báo thu phí bảo hiểm. Các giấy tờ liên quan khác. b) Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Con người tại PVI Thăng Long. Dựa trên bảng về doanh thu phí bảo hiểm của một số nghiệp vụ chính được triển khai tại Công ty, có thể phân tích xu hướng và sự phát triển của nghiệp vụ BHCN trong mối tương quan với các nghiệp vụ khác của Công ty như sau stt Nghiệp vụ bảo hiểm 2003 2004 2005 2006 2007 1 BH hàng hải 3.275,49 4.913,24 3.498,06 5.247,09 3.030,26 2 BHCon người 962,85 1.059,13 1.270,96 1.906,44 2.526,85 3 BHXe cơ giới 2.351,02 3.021,23 5.227,60 10.032,05 14.896,61 4 BH kỹ thuật 3.433,81 4.650,72 5.023,62 6.035,43 11.265,50 5 BH tài sản 2.514,43 3.017,32 3.922,51 5.879,22 1.165,90 6 BH khác 479,86 567,49 244,62 724,32 4.007,51 Tổng 13.017,46 17.229,13 18.942,75 29.824,55 36.892,63 Nhiệm vụ chính của PVI Thăng Long là góp phần đảm bảo an toàn cho nghành dầu khí, do vậy sản phẩm chính của Công ty là Bảo hiểm kỹ thuật, Bảo hiểm hàng hải. Song trong những năm gần đây, Bảo hiểm xe cơ giới và Bảo hiểm Con người đang trở thành một trong những mục tiêu đầy triển vọng mà PVI Thăng Long hướng tới. Nếu như trong năm 2003, doanh thu khai thác nghiệp vụ BHCN là 962,85 triệu thì năm 2007 con số này tăng lên gần gấp 3 lần đạt 2.526,85 triệu. Nghiệp vụ BHCN là một trong 5 nghiệp vụ bảo hiểm chính của Công ty nhưng trong các năm từ 2003- 2006 chỉ đứng cuối cùng trong bảng doanh thu phí, song đến năm 2007, nghiệp vụ này đã vươn lên đứng thứ 4 vượt qua Bảo hiểm tài sản vốn có doanh thu phí cao trong các năm. Tốc độ tăng của BHCN qua các năm tương đối đồng đều. Năm 2004 doanh thu đạt 1.059,3 triệu chỉ bằng 1,1 lần năm 2003, năm 2005 tốc độ tăng cũng chỉ là 1,2 lần đạt 1.270,96 triệu. Đến năm 2006, con số này tăng lên bằng 1,5 lần năm 2005, đạt 1.906,44 triệu và năm 2007 tăng lên gấp 1,3 lần đạt doanh thu vượt mức hơn 2 tỷ đồng. Mặc dù con số này còn khá khiêm tốn song cho thấy nỗ lực của Phòng kinh doanh trong việc khai thác khách hàng. Vì đối tượng khách hàng chủ yếu của PVI Thăng Long trong nghiệp vụ bảo hiểm này vẫn là các cán bộ công nhân viên, công ty, tổ chức trong nghành. Song đến nay, Công ty đã cố gắng khai thác cả thị trường bên ngoài nghành để mở rộng thêm đối tượng khách hàng tiềm năng của mình (Học sinh, sinh viên, giáo viên, các cơ quan đoàn thể ngoài nghành), phục vụ không chỉ lợi ích của Tập đoàn Dầu khí mà còn cả lợi ích của cộng đồng. Công ty cũng đã mở thêm nhiều chi nhánh và đại lý nên tăng thêm độ bao phủ thị trường. Mặt khác doanh thu tăng lên cũng là do PVI Thăng Long đã thực sự tạo được niềm tin nơi khách hàng do công tác chăm sóc và phục vụ khách hàng chu đáo, công tác bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Do đó khách hàng cũng trung thành tham gia bảo hiểm tại công ty và thu hút thêm nhiều khách hàng khác. Bên cạnh nỗ lực khai thác hợp đồng, công ty còn chú trọng đến triển khai các loại hình sản phẩm mới, mở rộng phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phong phú của quý khách hàng. Các sản phẩm mới triển khai này ( BHCN kết hợp mức trách nhiệm cao, BH học sinh- giáo viên,....) cũng đã thu hút được nhiều khách hàng tham gia. Kết quả của một số sản phẩm cụ thể trong nghiệp vụ BHCN tại PVI Thăng Long. Bảng 2 : Doanh thu của các sản phẩm bảo hiểm trong nghiệp vụ BHCN của PVI Thăng Long (2003-2007) Các sản phẩm BHCN 2003 2004 2005 2006 2007 BHCN 962,85 1.059,13 1.270,96 1.906,44 2.526,85 BHCN kết hợp 577,71 529,56 482,96 571,93 884,39 BH tai nạn cá nhân 336,99 211,82 190,64 247,83 126,34 BH du lịch 28,88 127,09 152,51 228,77 379,02 BH học sinh- giáo viên 19,27 42,36 63,55 95,32 75,80 BHCN kết hợp mức trách nhiệm cao 0 148,30 381,00 762,59 1061,30 Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy hai sản phẩm chủ lực trong nghiệp vụ BHCN là BHCN kết hợp và BHCN kết hợp mức trách nhiệm cao, nhìn chung doanh thu đều tăng qua các năm. Mặc dù BHCN mức trách nhiệm cao được triển khai sau (năm 2004) nhưng đã nhanh chóng thu hút được nhiều khách hàng tham gia đặc biệt là trong nghành. Cũng giống như BHCN kết hợp nhưng loại hình sản phẩm này có ưu điểm là số tiền bảo hiểm cao hơn, do vậy mà mức phí cũng cao hơn (được tính bằng USD). Mặc dù số hợp đồng ký kết của sản phẩm này không nhiều bằng sản phẩm BHCN kết hợp nhưng mức phí cao hơn nên vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng doanh thu BHCN. Năm 2004, doanh thu phí mới chỉ bằng 14% tổng doanh thu phí BHCN trong khi BHCN kết hợp chiếm 50% nhưng đến năm 2006 con số này đã tăng lên 40% vượt qua sản phẩm BHCN kết hợp (30%). Năm 2007 sản phẩm này lại tiếp tục tăng lên bằng 42%, trong khi BHCN kết hợp chỉ chiếm 35%. Như vậy có thể thấy thị trường BHCN kết hợp mức trách nhiệm cao là rất tiềm năng và mang lại doanh thu phí lớn. Doanh thu phí khai thác được của sản phẩm này năm 2007 gấp hơn 7 lần năm 2004. Điều này có thể là do đời sống vật chất của các công nhân viên cán bộ trong nghành được cải thiện đáng kể nên nhu cầu bảo hiểm với mức trách nhiệm cao ngày càng lớn là điều dễ hiểu. Sản phẩm BHCN kết hợp thông thường cũng có xu hướng tăng lên. Năm 2006 tăng gấp 1,18 lần năm 2005 và năm 2007 tăng gấp 1,55 lần năm 2006. Vẫn đóng vai trò là sản phẩm chủ đạo trong BHCN với số hợp đồng khai thác nhiều nhất. Các sản phẩm bảo hiểm khác như BH du lịch, BH học sinh- giáo viên và BH tai nạn cá nhân chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, trung bình chỉ chiếm khoảng 30% trong tổng doanh thu của nghiệp vụ BHCN. Song không thể xem nhẹ các loại hình sản phẩm này vì chúng cũng góp phần làm tăng doanh thu cho nghiệp vụ. Mặt khác BH du lịch và BH học sinh- giáo viên cũng có mức tăng tương đối trong những năm gần đây đặc biệt là BH du lịch do nhu cầu đi lại, công tác nước ngoài và du lịch ngày càng cao,Vì vậy tiềm năng của loại hình sản phẩm này là rất lớn. Bên cạnh đó tuy chiếm tỷ trọng doanh thu không đáng kể nhưng BH học sinh- giáo viên cũng cần được chú trọng. Vì nước ta là nước có dân số đông, kết cấu dân số trẻ, chính sách giáo dục cũng ngày càng được chú trọng, do vậy số lượng học sinh, sinh viên, giáo viên là rất lớn. Mặt khác đây còn là thị trường còn bỏ ngỏ vì trên thực tế, các công ty bảo hiểm hoạt động trên địa bàn trong năm chỉ mới khai thác được khoảng 30% so với số học sinh hiện có. Trong khi đó sản phẩm BH tai nạn 24/24 lại có xu hướng giảm xuống. Điều này có thể là do khách hàng có xu hướng lựa chọn mua sản phẩm trọn gói BHCN kết hợp bao gồm BH tai nạn, sinh mạng cá nhân, và trợ cấp nằm viện phẫu thuật chứ không mua sản phẩm bảo hiểm chỉ đơn thuần bảo hiểm trong trường hợp bị tai nạn. Bảng 3. Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác nghiệp vụ BHCN tại PVI Thăng Long. Đv: Triệu đồng Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Kế hoạch 756 900 980 1.200 1.500 Thực hiện 962,85 1.059,13 1.270,96 1.906,44 2.526,85 % hoàn thành KH 127,36 117,68 129,69 158,87 168,45 Nhìn vào bảng trên có thể thấy trong giai đoạn từ 2003- 2007, PVI Thăng Long liên tục vượt kế hoạch đặt ra, thể hiện đây là một thị trường giàu tiềm năng và công tác khai thác rất hiệu quả. Đặc biệt là trong 2 năm gần đây, doanh thu thực hiện năm 2006 đạt 158,7% kế hoạch đặt ra và năm 2007 đạt 168,45% kế hoạch đặt ra, đánh giá nỗ lực rất lớn của công ty trong khâu khai thác. Trong khi đó các năm 2003-2005, kế hoạch của công ty tương đối sát với thực tế, vượt mức kế hoạch trung bình khoảng 125%. Nhìn chung mức tăng trưởng của nghiệp vụ này là tương đối ổn định. Nguyên nhân là do công ty đã theo dõi bám sát các hợp đồng tái tục đến hạn, tăng cường công tác tư vấn cho khách hàng, thuyết phục khách hàng mới tham gia bảo hiểm, đảm bảo quyền lợi của khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng nữa là do sự ủng hộ rất lớn của nghành dầu khí với những đơn bảo hiểm tập thể cho toàn nhân viên trong nghành. Công ty cũng chủ trương tận dụng hết tiếm năng của nghành và chủ động mở rộng thị trường bên ngoài. 2.2.2. Tình hình giám định, bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. Công tác giám định giải quyết bồi thường là khâu cuối cùng của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, nó lại là yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ và giá trị sử dụng của sản phẩm bảo hiểm mang lại cho khách hàng. Do đó, công tác này đòi hỏi phải nhanh chóng kịp thời, chính xác và tuân thủ đúng các quy tắc bảo hiểm và quy định của pháp luật để khách hàng cảm thấy hài lòng và tin tưởng và an tâm khi đối mặt với rủi ro đồng thời uy tín của nhà bảo hiểm cũng được tăng lên. PVI Thăng Long luôn quán triệt các khách hàng tham gia bảo hiểm nắm rõ về các bước khiếu nại bồi thường và được tư vấn trợ giúp khi có tổn thất xảy ra. * Quy trình giải quyết khiếu nại bao gồm: 1. Nhận thông báo rủi ro và tiến hành giám định. Khi nhận được thông báo rủi ro từ phía khách hàng, cán bộ phòng quản lý mở sổ thống kê tình hình khai thác để kiểm tra về ngày hiệu lực, mức trách nhiệm và các thông tin liên quan khác về người được bảo hiểm. Đồng thời cử giám định viên trực tiếp xuống hiện trường để tiến hành giám định đối với những vụ có nguyên nhân chưa rõ ràng hoặc gặp gỡ người bị nạn và phối hợp với các cơ quan liên quan. Lập biên bản giám định xác định người bị tai nạn có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, xác minh lại các thông tin để đưa ra kết luận nguyên nhân và hậu quả của vụ tai nạn có xác nhận của các cơ quan có liên quan. Đó là căn cứ pháp lý để công ty có chấp nhận bồi thường hay không và bồi thường chính xác, kịp thời. 2. Hướng dẫn người được bảo hiểm/ người thừa kế hợp pháp/ cơ quan của người được bảo hiểm lập hồ sơ bồi thường. Sau khi giám định, nếu rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm, cán bộ bồi thường hướng dẫn người được bảo hiểm/ người thừa kế hợp pháp/ người đại diện hợp pháp lập hồ sơ để xét bồi thường. Hồ sơ bồi thường bao gồm: Tờ trình bồi thường ( do cán bộ xét bồi thường lập) Giấy yêu cầu trả tiền bồi thường ( do người được bảo hiểm/người thừa kế/ người đại diện hợp pháp viết) Biên bản tai nạn Những chứng từ y tế liên quan đến điều trị tai nạn/ chết (giấy ra viện, giấy chứng thương, phiếu mổ, bảng kê chi phí điều trị...). 3. Tính toán bồi thường và trả tiền bảo hiểm: Sau khi hồ sơ bồi thường được xét duyệt, cán bộ bồi thường tính toán tiền bồi thường dựa trên quy tắc sau: Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật do các rủi ro được bảo hiểm, PVI Thăng Long sẽ thực hiện trả tiền bảo hiểm theo “ Bảng trả tiền bảo hiểm thương tật” của Bộ Tài chính. STBT = STBH x Tỷ lệ trả tiền bảo hiểm. Trường hợp chết do các rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm, PVI Thăng Long sẽ trả toàn bộ STBH. * Tình hình bồi thường nghiệp vụ BHCN tại PVI Thăng Long. Bảng 4 : Tình hình bồi thường nghiệp vụ BHCN tại PVI Thăng Long: Năm Doanh thu ( triệu đồng) Số tiền bồi thường ( Trđ) Tỷ lệ bồi thường (%) Số vụ đòi giải quyết BT Số vụ đã giải quyết BT 2003 962,85 100,46 10,43 100 100 2004 1.059,13 198,27 18,72 158 150 2005 1.270,96 264,23 20,79 180 178 2006 1.906,44 325,25 17,06 244 244 2007 2.526,85 571,57 22,62 371 371 Chung 7.726,23 1.459,78 18,89 1.053 1.043 Nguồn: Công ty bảo hiểm Dầu khí Thăng Long Tỷ lệ bồi thường = Số tiền bồi thường / Doanh thu phí khai thác Như vậy trong vòng năm năm (từ năm 2003-2007) PVI Thăng Long đã bồi thường cho người tham gia bảo hiểm gần 1,5 tỷ đồng, trong khi doanh thu phí khai thác từ nghiệp vụ này là trên 7,7 tỷ đồng, tỷ lệ bồi thường bình quân trong năm năm là 18,89%. Số tiền bồi thường tăng qua các năm. Nếu như năm 2003 số tiền bồi thường là hơn 100 triệu thì đến năm 2004 con số này là 198,27 triệu tăng 1,97 lần trong khi doanh thu khai thác năm 2004 chỉ tăng 1,1 lần so với năm 2003 làm tỷ lệ bồi thường năm 2004 vẫn tăng lên do tăng doanh thu chậm hơn tăng bồi thường. Năm 2005, số tiền bồi thường vẫn tăng lên ( 264,23 triệu) nhưng tốc độ tăng có giảm, chỉ gấp 1,33 lần so với năm 2004. Song doanh thu tăng lên cũng không đáng kể nên tỷ lệ bồi thường vẫn tăng. Đến năm 2006, tỷ lệ bồi thường giảm xuống còn 17,06 % do khai thác tăng lên 1,5 lần so với năm 2005 trong khi số tiền bồi thường chỉ tăng 1,23 lần. Có thể nói đây là năm mà PVI Thăng Long đã áp dụng những biện pháp hạn chế tổn thất một cách hiệu quả. Năm 2007, số tiền bồi thường lại tăng lên gấp 1,76 lần từ 325,25 triệu cho đến 571,57 triệu. Điều này có thể là do số người tham gia bảo hiểm đông hơn nhưng số hợp đồng khai thác được gặp rủi ro nhiều hơn do các rủi ro trong cuộc sống ngày càng nhiều và khi xảy ra thiệt hại càng lớn hơn, nhu cầu bảo hiểm với số tiền lớn hơn kèm theo số tiền chi trả cũng phải lớn hơn. Cụ thể là năm 2006, chi trả tiền bảo hiểm cho 244 vụ bình quân mỗi vụ là 1,3 triệu trong khi năm 2007 con số này là 371 vụ và bình quân chi trả cho mỗi vụ là 1,5 triệu. Tuy nhiên, tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ này qua các năm là tương đối ổn định, không có sự tăng lên quá đột biến, chỉ dao động trong khoảng 17-22 % do doanh thu phí cũng tăng lên khá đều đặn. Mặt khác, so với các nghiệp vụ khác, bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm con người là tương đối thấp, không cao bằng các nghiệp vụ khác đặc biệt là bảo hiểm xe cơ giới ( Số tiền bồi thường trung bình hàng năm phải là 40-45% doanh thu phí khai thác). Số tiền bồi thường của nghiệp vụ này năm 2006 chỉ bằng 3,8% tức là chỉ bằng 0,32 tỷ trong tổng số bồi thường là 8,579 tỷ đồng. Năm 2007 chỉ bằng 0,57 tỷ trong tổng số bồi thường là 9,37 tỷ chiếm 3,4%. Có thể thấy tỷ lệ bồi thường này là khá ổn định. Điều này có thể là do công tác đề phòng hạn chế tổn thất của công ty là rất tốt, các hợp đồng khai thác có chất lượng và khâu giám định bồi thường hiệu quả, hạn chế được các vụ trục lợi bảo hiểm và hạn chế được các rủi ro gây ra tổn thất. Khâu giải quyết bồi thường ở nghiệp vụ này cũng được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả. Do đó trong suốt năm năm thực hiện, chỉ có 10 vụ tồn đọng ( năm 2004 là 8 vụ và năm 2005 là 2 vụ). Điều này đánh dấu nỗ lực to lớn của phòng giám định bồi thường và các phòng ban có liên quan, tạo dựng được niềm tin nơi khách hàng tham gia. 2.2.3.Kết quả và hiệu quả kinh doanh. Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm được thể hiện ở hai chỉ tiêu cơ bản là : Doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu của một nghiệp vụ bảo hiểm phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) và là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên quan. Chi phí của một nghiệp vụ bảo hiểm là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải chi trả trong kỳ phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh trong vòng một năm. Bao gồm chi khai thác, chi bồi thường, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý và chi khác. Dựa vào kết quả thu chi ta tính được lợi nhuận mà doanh nghiệp bảo hiểm thu được trong năm. Ta có: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí Khi tính toán cần đảm bảo nguyên tắc: Những khoản thu, chi nào có liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ phải được tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó như chi bồi thường, chi khai thác..., những khoản chi gián tiếp như chi quản lý...phải được phân bổ theo tỷ lệ giữa doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ so với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung. Hiệu quả kinh doanh là mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một thời kỳ. Hiệu quả về mặt kinh tế được tính bằng chỉ tiêu doanh thu/chi phí hoặc lợi nhuận/chi phí: H = Doanh thu / Chi phí H’= Lợi nhuận/ Chi phí Phản ánh một đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hay bao nhiêu đồng lợi nhuận. Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BHCN tại PVI Thăng Long được thể hiện qua bảng sau: Bảng 5. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ BHCN của PVI Thăng Long từ 2003-2007 Năm Doanh thu (Trđ) Chi phí (Trđ) Lợi nhuận (Trđ) Chi BT Chi K.thác Chi Qlý Chi khác 2003 962,85 100,46 98,67 48,88 121,16 593,68 2004 1.059,13 198,27 158,86 31,77 151,78 518,45 2005 1.270,96 264,23 216,06 50,13 190,64 549,90 2006 1.906,44 325,25 285,96 57,19 320,04 918,00 2007 2.526,85 571,57 327,39 75,80 424,20 1.127,89 Nguồn: Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long Bảng 6. Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BHCN của PVI Thăng Long từ 2003-2007 Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu 962,85 1.059,13 1270,96 1.906,44 2.526,85 Chi phí 369,17 540,68 721,06 988,44 1.398,96 Lợi nhuận 593,68 518,45 549,90 918,00 1.127,89 LN/CP 1,61 0,96 0,76 0,93 0,81 DT/CP 2,61 1,96 1,76 1,93 1,81 Nguồn: Công ty bảo hiểm Dầu khí ThăngLong Qua bảng số liệu trên ta thấy, doanh thu của nghiệp vụ BHCN tăng tương đối đều đặn qua các năm. Nếu như lợi nhuận năm 2003 chỉ là 593,68 triệu đồng thì năm 2007 con số này lên tới 1.127,89 triệu đồng tăng gấp 2 lần năm 2003. Tốc độ tăng hàng năm trung bình khoảng 130%. Tốc độ tăng doanh thu cao nhất là năm 2006 bằng 150% so với năm 2005 nhưng hiệu quả lợi nhuận/chi phí chỉ đứng thứ ba sau năm 2003 và 2004. Năm 2003, cứ 1 đồng chi phí bỏ ra thì thu được 2,61 đồng doanh thu và 1,61 đồng lợi nhuận và năm 2004, cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được 1,96 đồng doanh thu và 0,96 đồng lợi nhuận, cao nhất trong các năm. Điều này có thể được giải thích là do số vụ phải giải quyết bồi thường ít, chi bồi thường thấp nên kéo theo hiệu quả lợi nhuận/chi phí cao. Năm 2005 hiệu quả kinh doanh là thấp nhất trong các năm từ 2003-2007. Một đồng chi phí bỏ ra chỉ thu được 1,76 đồng doanh thu và lợi nhuận là 0,76 đồng. Điều này là do chi phí tăng lên do tỷ lệ chi bồi thường/ doanh thu lên tới 20,79% và chi khai thác/doanh thu đạt 16,99% cao nhất trong các năm làm tăng chi phí chi cho nghiệp vụ này trong năm. Đến năm 2006, tỷ lệ chi bồi thường/doanh thu giảm xuống còn 17,06% và tỷ lệ chi khai thác/doanh thu giảm xuống còn 12,96% cho thấy đây là một năm kinh doanh mà đồng vốn bỏ ra có hiệu quả. Năm 2007, doanh thu tăng lên bằng 132,54% năm 2006 song chi phí cũng tăng lên bằng 141,53% năm 2006, do đó hiệu quả kinh doanh có giảm chút đỉnh, một đồng chi phí bỏ ra chỉ thu được 1,81 đồng doanh thu và 0,81 đồng lợi nhuận. Tuy nhiên nhìn chung tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này là tương đối đều đặn và cho thấy tiềm năng của nghiệp vụ BHCN là khá lớn. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH BẢO HIỂM CON NGƯỜI PHI NHÂN THỌ TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ THĂNG LONG. 3.1. Đôi nét về tình hình triển khai Bảo hiểm Con người phi nhân thọ tại các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. 3.1.1. Tình hình triển khai Bảo hiểm Con người phi nhân thọ tại Việt Nam. Có thể thấy rằng, thị trường Bảo hiểm nói chung và thị trường Bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam nói riêng trong những năm gần đây đang có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 2000 - 2004, trong tương quan so sánh với các ngành khác trong lĩnh vực dịch vụ, mức tăng trưởng của ngành bảo hiểm chỉ xếp sau ngành bưu chính - viễn thông. Mức tăng trưởng này đã chậm lại đôi chút trong hai năm 2005, 2006 nhưng tới năm 2007, thị trường bảo hiểm đã có dấu hiệu hồi phục với tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt mức 17.696 tỷ đồng, tăng 18,8% so với năm 2006. Trong lĩnh vực phi nhân thọ, năm 2007, doanh thu phí bảo hiểm đạt 8.258 tỷ đồng, tăng 33% so với năm 2006. Dẫn đầu về doanh thu là Bảo Việt với 2.258 tỷ đồng, tiếp đó là PVI 1.735 tỷ đồng và Bảo Minh 1.706 tỷ đồng. Một số DN bảo hiểm mới đi vào hoạt động cũng đạt được doanh thu khá cao như BIC đạt 147 tỷ đồng, AAA đạt 146 tỷ đồng, Toàn Cầu đạt 166 tỷ đồng, Viễn Đông đạt 174 tỷ đồng. Bảo hiểm xe cơ giới đã không còn là nghiệp vụ có tăng trưởng cao nhất thị trường như trong các năm 2004 và 2005. 6 tháng đầu năm 2006, mức tăng trưởng của nghiệp vụ này khá khiêm tốn, dưới 5%. Sự giảm sút của bảo hiểm xe cơ giới đã khiến cho một số doanh nghiệp như PJICO phải xác định lại sản phẩm chiến lược của mình trong thời gian tới. Một lãnh đạo của một công ty bảo hiểm cho biết, hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đều xác định bảo hiểm xe cơ giới là sản phẩm chủ lực, thị trường bảo hiểm xe cơ giới còn rất tiềm năng nên tiếp tục cạnh tranh quyết liệt với nhau bằng tăng hoa hồng, tăng chi phí khai thác mà thực chất là các khoản để lại cho khách hàng. Phí để lại có khi lên đến 50%, thậm chí 70%. Trong số những nghiệp vụ tăng trưởng cao nhất như: bảo hiểm cháy nổ (trên 30%), bảo hiểm tàu thủy (trên 20%). Bảo hiểm con người vẫn là nghiệp vụ có mức tăng trưởng khá ổn định với mức tăng 10%. Các nghiệp vụ có xu hướng giảm doanh thu như bảo hiểm xây dựng - lắp đặt, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, bảo hiểm thiết bị điện tử. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao nhưng nếu xét về tính ổn định, bền vững thì thị trường này đang phải đối mặt với nhiều biểu hiện tiêu cực, đáng báo động nhất là tình trạng cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng phổ biến, thông qua hình thức chạy đua hạ phí bảo hiểm. Thêm vào đó, chi phí hoa hồng, chi quản lý, hỗ trợ đại lý đã đẩy chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm xấp xỉ thậm chí vượt doanh thu phí bảo hiểm khai thác. ở một số doanh nghiệp bảo hiểm, nhiều nghiệp vụ đang khai thác bị lỗ. Mặc dù không phải là nghiệp vụ đi đầu trong khai thác phí bảo hiểm của các nhà bảo hiểm nhưng BHCN phi nhân thọ vẫn được hết sức coi trọng vì tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định và cao sau bảo hiểm xe cơ giới, BHCN còn có rất nhiều tiềm năng phát triển. Trong 9 tháng đầu năm 2007, bảo hiểm tai nạn con người trong BHCN phi nhân thọ đạt doanh thu 766 tỷ đồng , tăng so với cùng kỳ năm 2006 27,7%. Top 5 doanh thu là: Bảo Việt với 402 tỷ đồng, Bảo Minh 175 tỷ đồng, Pjico 35 tỷ đồng, PVI 28 tỷ đồng, AIG 21 tỷ đồng. Tỷ lệ bồi thường toàn thị trường là 55%. Top 5 doanh nghiệp bồi thường cao nhất trong loại hình sản phẩm này là : Pjico 79,9%, Bảo Long 71,6%, PTI là 68,7%, Bảo Việt 59,7%, Bảo Minh 55,6%. Tình hình bảo hiểm học sinh, sinh viên vẫn xảy ra một số vụ dùng văn bản của cơ quan chính quyền để bắt ép mua sản phẩm. Tình hình bảo hiểm người Việt du lịch lữ hành quốc tế tuy bắt buộc phải mua Bảo hiểm nhưng khó triển khai tới doanh nghiệp du lịch lữ hành quốc tế. Một số doanh nghiệp bảo hiểm đã mạnh dạn đưa ra nhiều sản phẩm bảo hiểm con người phi nhân thọ mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao và phong phú của mọi đối tượng trong đó chú ý đến sản phẩm bảo hiểm y tế sức khỏe chất lượng cao. Điền hình như Pjico đã triển khai nhiều loại sản phẩm mới như Bảo hiểm chăm sóc sức khỏe toàn diện cho học sinh với phạm vi bảo hiểm mở rộng cho tất cả những rủi ro xảy ra đối với học sinh tại bất kỳ thời điểm nào trong năm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam; nhóm bảo hiểm cho các đối tượng, ngành nghề đặc thù như Bảo hiểm tai nạn lao động ngành xây dựng với đối tượng tham gia là người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp xây dựng lắp đặt; Bảo hiểm cho công chức Việt Nam đi công tác nước ngoài ngắn hạn được phục vụ hỗ trợ cấp cứu toàn cầu. PVI triển khai bảo hiểm con người kết hợp mức trách nhiệm cao. Tất cả những sản phẩm này tạo ra sự đa dạng phong phú về chủng loại sản phẩm BHCN, làm giàu thêm “nguồn hàng” để mọi đối tượng khách hàng có thể lựa chọn đúng với mục đích và nhu cầu của mình đồng thời thu hút được nhiều khách hàng hơn, làm tăng doanh thu phí cho các doanh nghiệp bảo hiểm. 3.1.2. Triển vọng phát triển của BHCN phi nhân thọ tại thị trường Việt Nam. Với tốc độ tăng trưởng bình quân doanh thu phí cao trong những năm qua, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã chứng tỏ được tiềm năng phát triển của mình. Theo đánh giá của HHBHVN, hiện nay tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn khi mà doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8-10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%). Bên cạnh đó, nhiều loại hình sản phẩm còn chưa được tập trung khai thác, ngay như bảo hiểm bắt buộc đối với xe cơ giới và bảo hiểm cháy nổ, đối tượng phải mua bảo hiểm còn chiếm tỷ lệ rất thấp (bảo hiểm cháy nổ đạt khoảng 40%, bảo hiểm bắt buộc xe cơ giới đạt khoảng 33%), BHCN còn nhiều thị trường bỏ trống. Ngoài ra, còn có rất nhiều lĩnh vực khác như xuất nhập khẩu, y tế, nông nghiệp, tỷ lệ tham gia bảo hiểm cũng rất thấp. Theo đánh giá của HHBHVN, trong giai đoạn từ nay cho tới năm 2010, doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường sẽ đạt mức tăng trưởng 21%/năm và doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường sẽ đạt 4% GDP vào cuối năm 2010. Nghiệp vụ BHCN phi nhân thọ cũng có những triển vọng khá sáng sủa. Cụ thể là: Một số văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm được ban hành đã tác động tích cực tới khả năng tăng trưởng doanh thu bảo hiểm cho toàn thị trường trong đó có cả BHCN- Nghị định qui định chi tiết luật du lịch yêu cầu các công ty lữ hành mua bảo hiểm bắt buộc cho khách. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam còn tương đối nhỏ và đang phát triển. Mức tăng trưởng này sẽ còn tiếp tục trong tương lai gần, khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân cao hơn và sức tiêu thụ gia tăng cũng như với sự phát triển về cơ sở hạ tầng. Năm 2008, cùng với lộ trình mở cửa và những ưu đãi theo cam kết Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sau một năm hội nhập, trên đà kinh tế - xã hội phát triển cao, dòng vốn đầu tư FDI đạt con số kỷ lục 20,3 tỷ USD năm 2007, thị trường bảo hiểm sẽ khởi sắc và tăng tốc với nhiều hứa hẹn mới Năm 2007, nền kinh tế xã hội Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ việc gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu lên kế kế hoạch phát triển đến năm 2010 như Thủy sản, dệt may, bảo hiểm phi nhân thọ... 9 tháng đầu năm 2007, GDP tăng trưởng 8.116% ước đạt 9% năm cùng với sự tăng trưởng nhanh của xuất nhập khẩu, công nghiêp – xây dựng, điện lực, hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là những tiền đề, cơ sở quan trọng để ngành Bảo hiểm Việt Nam phát triển. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO đã có những hình ành đậm nét của một ngành sẵn sàng hội nhập và đáp ứng các chuẩn mực quốc tế. Chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được hoàn thiện hơn để củng cố và phát triển thị trường bảo hiểm. Việc ban hành NĐ 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007, NĐ 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 và chuẩn bị ban hành 2 Thông tư hướng dẫn nghị định trên thể hiện sự nắm bắt nhu cầu phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, cần thực hiện cam kết WTO hội nhập, và mở cửa thị trường bảo hiểm cần có những cơ chế chính sách quản lý Nhà nước phù hợp. Khi thông tư hướng dẫn thi hành NĐ 45, 46 ban hành sẽ tăng hoa hồng khai thác cho BH tai nạn cá nhân, chuyển chế độ phê duyệt sản phẩm bảo hiểm con người sang chế độ đăng ký sản phẩm nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm thiết kế sản phẩm bảo hiểm đem lại lợi ích cho khách hàng tốt hơn. Các sản phẩm hiện có sẽ là động lực tăng BHCN trong thời gian tới. Mặc dù thành công năm 2007 là rất lớn nhưng các chuyên gia vẫn cho rằng, còn đến 90-95% tiềm năng thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa được khai thác, quy mô phục vụ của dịch vụ bảo hiểm còn nhỏ chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và như vậy vẫn còn rất nhiều cơ hội để các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước tăng trưởng phí bảo hiểm và tăng thu nhập. Các chuyên gia Bảo hiểm nhận định rằng vẫn còn nhiều loại hình bảo hiểm đầy tiềm năng chưa được khai thác như: bảo hiểm liên quan đến tai nạn và sức khoẻ con người, bảo hiểm công nghệ cao, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm xuất khẩu, cả ở trong nước và ngoài nướcNgành bảo hiểm cũng cần vươn tới các địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đừng nghĩ rằng miền núi nghèo thì không có tiềm năng. Do đó thị trường BHCN phi nhân thọ còn rất nhiều khoảng trống để các doanh nghiệp khai thác. Những thách thức đặt ra đối với thị trường BHPNT nói chung và đối với BHCN PNT nói riêng: Tính tới cuối năm 2007, tại thị trường Việt Nam đã có tổng số 23 DN hiểm phi nhân thọ, 9 DN bảo hiểm nhân thọ, 1 DN tái bảo hiểm và 8 DN môi giới bảo hiểm đang hoạt động. Trên thực tế vẫn có không ít DN gửi hồ sơ về Bộ Tài chính xin thành lập công ty bảo hiểm. Theo một quan chức thuộc Bộ Tài chính, từ nay cho tới năm 2010, mỗi năm sẽ có thêm khoảng 10 DN bảo hiểm mới ra đời và do đó, cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm đã gay gắt sẽ ngày càng khốc liệt hơn. Vì vậy thách thức lớn nhất đối với các DN bảo hiểm chính là năng lực quản trị, điều hành; trình độ công nghệ tin học của một số DN còn yếu, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và chuẩn mực quốc tế; các sản phẩm bảo hiểm vẫn chưa thực sự đa dạng, chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng; thị trường thiếu đội ngũ nhân sự cao cấp, chất lượng cán bộ không đồng đều; tỷ lệ phí giữ lại trên tổng phí của các nghiệp vụ có rủi ro lớn là rất thấp; vẫn còn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh... Theo lộ trình gia nhập WTO, VN sẽ thực hiện các cam kết như bỏ quy định tái bảo hiểm bảo hiểm 20% cho Công ty Tái bảo hiểm VN (Vinare); cho phép công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc kể từ ngày 1.1.2008; cho phép thành lập chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, đối với dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ; cho phép thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài và không hạn chế số lượng chi nhánh trong nước...Lộ trình này đã và đang làm cho thị trường bảo hiểm trong nước sôi động hơn. Năm 2008, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, dòng vốn FDI năm 2007 là 20,3 tỷ USD, vốn ODA là 5,3 tỷ USD chủ yếu được giải ngân năm 2008 sẽ là điều kiện thuận lợi để bảo hiểm phát triển. Tổng đầu tư xã hội sẽ chiếm khoảng 42% GDP đòi hỏi bảo hiểm phải phát triển mạnh hơn, có nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong khi đó, hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài tiếp tục hướng vào chuyên môn hóa, với chiến lược “chọn lọc rủi ro, tập trung vào khúc thị trường mục tiêu” nên mặc dù mức độ cạnh tranh chưa cao, nhưng họ đang chiếm lĩnh dần các khúc thị trường có hiệu quả tốt, trong đó có cả BHCN phi nhân thọ. Môi giới bảo hiểm nước ngoài tiếp tục hoạt động tốt, tuy nhiên có sự chuyển dịch hướng khai thác bảo hiểm tài sản sang các sản phẩm bảo hiểm y tế, con người, trách nhiệm nghề nghiệp có nhiều tiềm năng hơn. Do vậy cạnh tranh trong nghiệp vụ này là rất lớn trong khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước còn kém về nhiều mặt. 3.2. Thuận lợi và khó khăn của Công ty bảo hiểm Dầu khí Thăng Long khi triển khai Bảo hiểm Con người phi nhân thọ. 3.2.1. Thuận lợi - Thuận lợi đầu tiên đối với không chỉ Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long nói riêng mà còn đối với cả các Công ty Bảo hiểm khác trong nghành đó là cơ hội thị trường và các chính sách của Chính phủ mang lại như đã phân tích ở trên. Với dân số đông như hiện nay, thị trường trong nước thực sự là một mảnh đất màu mỡ còn nhiều đoạn bỏ trống. Mặt khác các chính sách của Chính phủ cũng theo hướng ngày càng tạo điệu kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển. Nền kinh tế trong nước ngày càng trở nên sôi động, nhiều công ty, doanh nghiệp ra đời, sự cạnh tranh trên thị trường lao động ngày một tăng, các chính sách phúc lợi cho cán bộ công nhân viên đặc biệt là BHCN ngày càng được chú trọng. Bên cạnh đó đời sống dân cư ngày càng cao, vì vậy nhu cầu bảo hiểm cả về mặt phong phú của chủng loại sản phẩm lẫn chất lượng sản phẩm ngày một tăng là điều tất yếu. Điều quan trọng là Công ty có nhìn thấy được tiềm năng phát triển của các đoạn thị trường tiềm năng và thực hiện khai thác chúng một cách có hiệu quả hay không. Đó cũng chính là cơ hội và thách thức đặt ra đối với Công ty. - Vì là Công ty thành viên của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nên PVI Thăng Long có được điều kiện thuận lợi để phát triển cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong nghành Dầu khí, được Tổng công ty ủng hộ và trợ giúp liên tục cả về công tác quản lý và kinh doanh. Tận dụng và khai thác tốt các đơn bảo hiểm nhờ các mối quan hệ trong Tập đoàn. Đây là lượng khách hàng chủ đạo và trung thành đối với Công ty. - Nằm trên địa bàn gần thị trường Hà Nội rất tiềm năng về Bảo hiểm và có thị trường trải rộng trong nhiều tỉnh vì vậy có nhiều cơ hội để triển khai mở rộng mạng lưới kinh doanh và khai thác các đoạn thị trường chưa khai thác tốt như Bảo hiểm học sinh – giáo viên ở các tỉnh miền núi phía Bắc, bảo hiểm tai nạn 24/24... - Đội ngũ cán bộ tương đối đông đảo và dày dạn kinh nghiệm trong thương trường, đội ngũ cán bộ nòng cốt có nghiệp vụ và nhiệt tình trong công tác. Chủ yếu là cán bộ nhân viên trẻ tuổi, năng động và linh hoạt trong mọi tình huống. 3.2.2. Khó khăn và thách thức. - Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho bức tranh về thị trường Bảo hiểm Việt Nam càng trở nên nhiều màu sắc. Sự góp mặt của nhiều công ty cả trong và ngoài nước đã làm tăng sự cạnh tranh trên thị trường. Sự tranh giành khách hàng, tranh giành các dịch vụ thông qua môi giới và hệ thống đại lý bằng mọi giá đã làm cho điều kiện/điều khoản bảo hiểm ngày càng mở rộng dẫn tới mức tỷ lệ bồi thường cao lên bên cạnh mức chi trả hoa hồng cao làm tăng chi phí cho nghiệp vụ. - Thị trường lao động ngày càng phong phú và cạnh tranh giữa các nhà tuyển dụng là không thể tránh khỏi. Sự chảy máu chất xám trong ngành bảo hiểm luôn xảy ra đặc biệt là với nguồn nhân lực chất lượng cao. Nếu không có chính sách ưu đãi thỏa đáng và môi trường làm việc hấp dẫn sẽ rất dễ dẫn đến việc nhân viên có trình độ cao rời bỏ công ty để tìm một nơi làm việc mới tốt hơn. Mặt khác tình hình kinh doanh bảo hiểm có nhiều biến đổi, nhiều công ty bảo hiểm kể cả công ty bảo hiểm lâu đời có lợi thế cạnh tranh về thương hiệu, quan hệ chính trị và khách hàng truyền thống cũng bị chia sẻ. Do vậy nếu chỉ trông chờ các hợp đồng khai thác trong ngành không mà không chủ động mở rộng bảo hiểm ra các đối tượng khác ngoài ngành thì e rằng Công ty sẽ bị mất đi những cơ hội quý giá và tụt giảm về doanh thu. - Khó khăn về phía Công ty đó là nguồn nhân lực chưa thực sự mạnh. Một số cán bộ còn chưa hiểu sâu về chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm, tuyển dụng và đào tạo các ứng viên là sinh viên trong ngành Bảo hiểm còn ít. - Tuy có địa bàn hoạt động rộng song gặp khó khăn trong việc quản lý. Vì vậy chưa khai thác tốt tiềm năng Bảo hiểm của từng vùng. 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BHCN phi nhân thọ tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long. 3.3.1. Giải pháp. - Đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm và tối ưu hóa chất lượng dịch vụ bảo hiểm trên thị trường. Trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, điều kiện sống của người dân ngày càng tăng, việc đa dạng hóa sản phẩm BHCN phi nhân thọ là một đòi hỏi tất yếu để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng khác nhau. Như vậy các sản phẩm sẽ có độ bao phủ thị trường tốt hơn và khai thác được các đoạn thị trường còn bỏ trống. Tuy nhiên, phương hướng đa dạng hóa sản phẩm phải dựa trên việc đánh giá nhu cầu thực tế của thị trường và phát hiện và khơi gợi nhu cầu tiềm năng của con người sao cho việc thực hiện là khả quan và mang lại hiệu quả cao nhất. Tránh trường hợp tạo ra sản phẩm xong để đấy hoặc khai thác chỉ tốn kém chi phí mà không có hiệu quả. Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp đua nhau đi khai thác cùng một loại sản phẩm. Vì vậy để đạt được hiệu quả tối ưu, cách tốt nhất là tạo được niềm tin nơi người tham gia được khẳng định qua chất lượng dịch vụ trước và sau bán hàng (tư vấn, chăm sóc khách hàng và giải quyết bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời) vì sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, người mua phải trả tiền trước và được hưởng quyền lợi chỉ khi có tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. Điều khách hàng quan tâm là họ được hưởng những quyền lợi nào khi mua sản phẩm. Mặt khác Công ty cũng cần hướng đến việc cạnh tranh bằng cách tạo ra sự riêng biệt của các sản phẩm bảo hiểm, tạo ra tính hấp dẫn và hướng đến quyền lợi khách hàng, hạn chế tình trạng các doanh nghiệp đồng loạt khai thác cùng một loại sản phẩm bảo hiểm như hiện nay. - Thực hiện phương châm “Trung thành, tận tụy với khách hàng” Xây dựng chính sách khách hàng hoàn hảo, xây dựng và thực hiện các biện pháp khai thác phù hợp để thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm. Tích cực khai thác triệt để khách hàng trong khối cổ đông, phát huy tối đa lợi thế các mối quan hệ và mở rộng phạm vi khách hàng ngoài cổ đông và khách hàng nước ngoài nhằm đạt được những hợp đồng lớn trên thị trường và không ngừng mở rộng thị phần. - Tăng cường hiệu quả của khâu khai thác, tạo ra nhiều đầu mối khai thác có hiệu quả. Đẩy mạnh phát triển khối các phòng kinh doanh thông qua việc triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm mới và qua môi giới. Tận dụng lợi thế Tổng Công ty, phối hợp với các Ban trong Tổng công ty, phát triển mở rộng dịch vụ con người trách nhiệm cao và dịch vụ qua môi giới. Chú trọng duy trì các đơn bảo hiểm tái tục hằng năm theo hướng nâng cao chất lượng phục vụ mở rộng đối tượng, địa bàn triển khai nghiệp vụ. Xây dựng hệ thống các đại lý trên địa bàn Hà Nội: Hiện tại PVI Thăng Long mới chỉ có một Phòng kinh doanh khu vực đặt trụ sở trên địa bàn Hà Nội làm đầu mối để thực hiện bảo hiểm cho các dự án trong và ngoài ngành, triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm mới. Để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường này và triển khai kênh bán hàng một cách có hệ thống cần phải thực hiện xây dựng hệ thống đại lý trên địa bàn Hà Nội, tập trung xây dựng hệ thống bán lẻ tại Hà Nội, Hà Tây và các tỉnh lân cận Hà Nội. Đối tượng để triển khai là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các đơn vị kinh doanh thương mại. - Giảm tỷ lệ bồi thường đến mức có thể song vẫn đảm bảo quyền lợi cho khách hàng Song song với việc thắt chặt quản lý hệ thống đại lý, quản lý rủi ro ngay từ khi cấp đơn, bộ phận giám định bồi thường của Công ty phải nâng cao năng lực, trình độ tác nghiệp đặc biệt phải hạn chế được tối đa hiện tượng trục lợi bảo hiểm ngay từ khâu giám định, hạn chế số tiền bồi thường của nghiệp vụ XCG, CN trong năm 2008 xuống dưới 45% doanh thu, tạo cơ sở để giảm tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ này trong những năm tiếp theo. - Tập trung củng cố bộ máy quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên. Phát triển hệ thống Phòng KDKV quản lý theo vùng, miền, từ đó hạn chế được rủi ro khi cấp đơn BH. Cơ cấu tổ chức lại các văn phòng khu vực đảm bảo quản lý tập trung và kiểm soát được rủi ro ngay từ đầu Tiếp tục tìm kiếm và bổ sung nhân lực có chất lượng cho các Phòng Kinh doanh tại công ty và các Phòng Kinh doanh khu vực mới thành lập. 3.2. Kiến nghị. 3.2.1. Đối với Công ty. - Cần tập trung vào việc phát triển hệ thống phân phối sản phẩm, tuyển chọn và đào tạo đại lý một cách có bài bản, đảm bảo đại lý nắm rõ được sản phẩm và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, xây dựng một hệ thống đại lý mang tính chuyên nghiệp cao. Vì đây là đối tượng trực tiếp tiếp xúc và gặp gỡ khách hàng, chính họ là người tạo ra bộ mặt ban đầu cho công ty và cũng là nguồn khai thác hợp đồng hiệu quả. Do đó, cần phải quản lý các đại lý một cách chặt chẽ đồng thời có những chính sách ưu đãi, cơ chế và môi trường tốt nhằm khuyến khích họ tích cực cống hiến cho công ty. - Phối hợp chặt chẽ với Tổng công ty nhằm đưa ra những biện pháp tích cực để cải thiện hoạt động kinh doanh. Mạnh dạn đề xuất các phương án, các ý tưởng mới về sản phẩm làm đa dạng hóa các loại hình sản phẩm. - Duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng, tiếp nhận và xử lý thông tin phản hồi từ phía khách hàng, điều chỉnh kịp thời và phù hợp những tồn tại mắc phải, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. - Cần quan tâm đến công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, các nhà bảo hiểm sẽ tiến hành bồi thường để giúp người tham gia bảo hiểm ổn định cuộc sống nhưng đây chỉ là biện pháp cuối cùng. Một khi tổn thất xảy ra nó sẽ gây ra thiệt hại lãng phí tới tài sản chung, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh thậm chí để lại một nối đau tinh thần không thể bù đắp được. Do đó làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất mới làm giảm bớt được các vụ tổn thất không đáng xảy ra. Vì vậy công tác này cần phải đặt lên hàng đầu, nó sẽ tác động đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ và của toàn công ty. Do đó công ty cần phải phối hợp chặt chẽ với Tổng công ty, các đại lý, các văn phòng khu vực và người tham gia bảo hiểm để đảm bảo công tác này được thực hiện một cách có hiệu quả. - Nâng cao công tác giám định bồi thường, giải quyết các vụ khiếu nại nhanh chóng, khách quan và tạo nên sự thoải mái tin tưởng nơi khách hàng. Để đạt được điều này cần: + Nâng cao trình độ của các giám định viên. Thực tế hiện nay PVI đã có một đội ngũ giám định viên có trình độ, kinh nghiệm và tâm huyết với nghề nhưng nhu cầu đòi hỏi đang còn thiếu cần phải bổ sung thêm. Với tốc độ phát triển như hiện nay, hành vi trục lợi bảo hiểm ngày càng tinh vi. Do đó việc nâng cao kỹ thuật giám định cho các giám định viên cũng như đào tạo thêm đội ngũ giám định viên là hết sức cần thiết. + Cung cấp thêm các phương tiện giám định. Các phương tiện giám định hỗ trợ cho công tác giám định là vô cùng cần thiết, giúp cho công tác giám định chính xác và hiệu quả hơn như máy ảnh, camara,... - Nâng cao cơ sở vật chất, áp dụng các phần mềm kỹ thuật trong quản lý, giúp quy trình quản lý nhanh và hiệu quả. - Cần rút ngắn thời gian giải quyết bồi thường tránh tình trạng khách hàng chờ nhận tiền bồi thường quá lâu và phải làm thủ tục quá rườm rà. Đôi khi phải làm thủ tục hồ sơ phức tạp và chờ lâu làm người được bảo hiểm nản lòng, có trường hợp không cần làm thủ tục đòi bồi thường nữa và như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Có thể nói công tác giám định và bồi thường là công tác nhạy cảm nhất vì nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của không chỉ khách hàng mà của cả công ty, do đó nhân viên thực hiện công tác này cần phải khéo léo để hài hòa lợi ích của hai bên đúng theo điều khoản bảo hiểm công ty đã định ra mà vẫn hài lòng khách hàng. 3.2.2. Đối với Tổng Công ty. Vì Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long trực thuộc Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam nên giá trị và thương hiệu của PVI Thăng Long cũng chính là giá trị và thương hiệu của PVI nói chung. Mọi hoạt động và công việc đều do Tổng Công ty điều phối và giám sát thực hiện. Trong thời gian tới để đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả hoạt động của PVI Thăng Long, Tổng Công ty cần: Nâng cao vai trò của mình trong việc giao phó nhiệm vụ, đôn đốc và giám sát thực hiện một cách chặt chẽ và đều đặn việc triển khai các nghiệp vụ tại Công ty. Tiếp nhận và tiếp thu ý kiến đóng góp của Công ty, kịp thời hỗ trợ về vật chất cũng như nguồn nhân lực trong trường hợp cần thiết. Tạo dựng các sản phẩm BHCN phi nhân thọ mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Tăng cường đào tạo cán bộ cho PVI Thăng Long đặc biệt là các cán bộ quản lý cấp cao, các lãnh đạo Công ty. Có thể điều phối người trên Tổng Công ty xuống làm việc trong một thời gian hay nắm giữ các vị trí chủ chốt nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện chính sách khen thưởng và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ nhân viên trong Công ty. Khen thưởng nhanh chóng, kịp thời nhằm khuyến khích tinh thần làm việc vì mục đích chung của cả Tập đoàn. Cần có những chính sách quảng cáo, PR quảng bá thương hiệu của PVI để PVI thực sự là một thương hiệu gần gũi đối với tất cả mọi người. 3.2.3. Đối với Nhà Nước Thị trường Bảo hiểm phi nhân thọ rất giàu tiềm năng phát triển và ngày càng có đóng góp lớn trong GDP của đất nước. Bảo hiểm thương mại không chỉ có tính chất kinh doanh mà còn có tính chất xã hội và nhân văn đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm có tính chất cộng đồng cao như BHCN phi nhân thọ. Vì vậy để thị trường này phát triển hơn nữa trong thời gian tới thì sự định hướng và những chính sách cần thiết cho sự phát triển của Nhà nước là hết sức quan trọng. Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng và đi đến hoàn thiện dần hành lang pháp lý cho thị trường bảo hiểm, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm sao cho phù hợp với xu hướng phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và của nền kinh tế, xã hội nói chung. Tạo ra một sân chơi lành mạnh cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các quy định mới liên quan đến việc vận hành của các định chế tài chính mới như Công ty nắm vốn, Công ty đầu tư....giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm có hành lang pháp lý trong việc mở rộng phạm vi hoạt động, tái cơ cấu, tạo ra sức cạnh tranh. Thứ hai, tạo điều kiện cho mọi đối tượng tiếp cận với các hình thức dịch vụ bảo hiểm, thậm chí có những loại hình dịch vụ bảo hiểm mà Nhà nước nên đưa thành một chính sách như dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp. Theo đó, phát triển dịch vụ bảo hiểm theo hướng phạm vi và quy mô phục vụ, đối tượng tham gia ngày càng lớn để bảo hiểm thực sự trở thành một mối liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng, khắc phục những thiệt hại do yếu tố ngẫu nhiên gây ra. Thứ ba, cần thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Bảo hiểm để tránh tình trạng cạnh tranh phí bảo hiểm và hoa hồng đại lý không lành mạnh và giải quyết các vụ vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Thứ tư, cần tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước hợp tác với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài theo hình thức phù hợp để học hỏi kinh nghiệm, thúc đẩy thị trường nội địa phát triển. Đồng thời tiếp tục thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác quốc tế, hội nhập sâu vào thị trường thế giới. KẾT LUẬN Qua những con số và phân tích đánh giá trên đây, có thể nói tình hình triển khai bảo hiểm con người phi nhân thọ ở Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long là rất hiệu quả. Tuy không phải là nghiệp vụ Bảo hiểm mang lại cho công ty doanh thu phí bảo hiểm cao nhất nhưng lại góp phần không nhỏ trong việc hoàn thành kế hoạch doanh thu của Công ty cam kết với Tập đoàn. Bên cạnh đó tiềm năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này là rất khả quan, thị trường chưa được khai thác hết. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phải nỗ lực hơn nữa nhằm tăng hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ Bảo hiểm Con người phi nhân thọ nói riêng và của toàn Công ty nói chung. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Theo dõi thu phí, nhận giả quyết mới Cấp đơn, thu phí BH Chấp nhận bảo hiểm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5926.doc
Tài liệu liên quan