Đề tài Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước

Thực tiễn quá trình cổ phần hoá nước ta đặc biệt là ở Đông Âu cũng như giai đoạn thí điểm vừa qua ở nước ta đã cho thấy sự cần thiết phải có một cơ quan được Nhà nước thành lập và uỷ quyền được giải quyết các vấn đề đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó chuyên trách theo dõi , chỉ đạo và có đầy đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tên gọi đối với các cơ quan này tuy có sự khác nhau ở mỗi nước, như Bộ cải cách sở hữu ở BaLan, Đại lý tài sản Nhà nước của chính phủ Hungari. . .Nhưng đều có chung một nhiệm vụ là quản lý và thực hiện sự chuyển đổi và đa dạng hoá sở hưu đúng với pháp luật trong các doanh nghiệp Nhà nước, chống lại sự trục lợi, tham nhũng, tẩu tán tài sản của Nhà nước. Vì vậy, ở nước ta cần gấp rút thành lập một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với sự tụ họp của các chuyên gia am hiểu về các lĩnh vực này để chỉ đạo và điều hành có kết quả.

doc38 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1121 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập trung và thể chế hành chính. Cuộc khủng hoảng của “Nhà nước phúc lợi chung” ở Tây Âu đã khiến các Chính phủ đi đến ủng hộ quan điểm kinh tế tân cổ điển và mở đường cho việc quay lại vận dụng rộng rãi các cơ chế thị trường để điều tiết các hoạt động kinh tế. Việc thực hiện cổ phần ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế Nhà nước mới đảm nhận được mà là nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này. Do đó, chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương pháp tiến hành cổ phần hoá sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà nước, mà trái lại còn củng cố cho xứng đáng với vị trí quan trọng của nó với trong nền kinh tế nhằm thực hiện một loạt chức năng kinh tế vĩ mô vì lợi ích toàn xã hội. Xét về quy mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá, khu vực kinh tế Nhà nước ở các nước công nghiệp phát triển có sự thu hẹp xét theo chỉ số về tỷ lệ việc làm, tỷ trọng trong tổng tư bản cố định và thu nhập quốc dân. Theo số liệu đưa ra tại Đại hội lần thứ 12 của CEEP họp tại Pháp tháng 10 năm 1990 trong các DNNN có 100% vốn Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước có vốn hỗn hợp Nhà nước-tư nhân của các nước EC có 7370000 người làm việc, chiếm gần 10,6% số việc làm trong các ngành kinh tế không kể nông nghiệp. Tỷ trọng các doanh nghiệp này trong tổng đầu tư tư bản cố định là 17,3% còn trong thu nhập quốc dân là 12% tính trung bình trong khối EC. Đại lượng số học trung bình của 3 chỉ tiêu trên là 13,3% được CEEP sử dụng để ước tính sự đóng góp kinh tế của khu vực kinh tế Nhà nước. So với năm 1982 là 16,6% và năm 1985 là 15,3% thì chỉ tiêu trên phản ánh sự giảm bớt của khu vực kinh tế Nhà nước ở các nước khối EC do quá trình cổ phần hoá. Tuy nhiên sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn giữ được ảnh hưởng quyết định đến các ngành thuộc cơ sở hạ tầng như: năng lượng, giao thông vận tải, bưu điện, truyền hình viễn thông, các ngành công nghiệp nặng như luyện kim, đóng tàu, khai thác và chế biến dầu mỏ, các ngành có hàm lượng vốn và khoa học kỹ thuật cao như hàng không, nhà máy điện nguyên tử, chế tạo các linh kiện điện tử kỹ thuật cao. . . Quá trình cổ phần hoá ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức bán cổ phiếu của các công ty quốc doanh hay các DNNN qua các sở giao dịch chứng khoán, bán đấu giá có giới hạn người mua, hoặc bán trực tiếp cho những người mua được lựa chọn một phần hay toàn bộ cổ phần doanh nghiệp. Việc bán đấu giá hay bán trực tiếp thường áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực dịch vụ công cộng và thương mại, cân đối với các công ty lớn thì phổ biến là cổ phần hoá thông qua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Mức độ cổ phần hoá ở từng công ty là tuỳ thuộc vào ý đồ của chính phủ muốn duy trì ảnh hưởng đến mức độ nào trong việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hoá đã mang lại một kết quả hết sức điển hình ở các nước phát triển là hình thành hàng loạt các công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nước-tư nhân, trong một số lĩnh vực Nhà nước giữ cổ phần khống chế, còn một số lĩnh vực khác Nhà nước chỉ có thể giữ ở mức có thể kiểm soát hoạt động hiệu quả của chúng. Chẳng hạn, Chính phủ Pháp đã bán cổ phiếu khống chế 11% trong số cổ phiếu tham dự 66% trong công ty BLF. Công ty cổ phần INI của Tây Ban Nha đã được phép bán 38% trong số 94% cổ phần của mình trong công ty, do đó đã giảm phần vốn của Nhà nước xuống 56%. . . Như vậy có thể nhận thấy nét đặc trưng quá trình cổ phần hoá ở các nước công nghiệp phát triển là hình thành công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nước-tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp của Nhà nước. Những công ty quốc doanh và các DNNN được đổi thành các công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nước-tư nhân đã góp phần quan trọng làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị này trở nên năng động nâng cao được doanh lợi và khả năng cạnh tranh với các công ty cổ phần tư nhân. Có thể nói, thông qua quá trình cổ phần hoá, sự hợp tác và thâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, kể cả ở cấp công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị trường thế giới là một trong những con đường nâng cao hiệu quả nền kinh tế thị trường hỗn hợp ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay. 2.2.2 Cổ phần hoá ở nhóm các nước đang phát triển: @ Các nước đang phát triển thuộc khu vực Mỹ La Tinh và Caribe. Trong các nước đang phát triển thì các nước thuộc vùng Mỹ La Tinh và Caribe hiện đang tiến hành cổ phần hoá khu vực kinh tế Nhà nước một cách tích cực nhất. Do phải gánh các khoản nợ to lớn trong và ngoài nước, nên các Nhà nước thuộc khu vực này đã tìm cách rút ra khỏi các lĩnh vực sản xuất và bán một phần hay toàn bộ các xí nghiệp Nhà nước cho các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Cùng với sự thay đổi chế độ ngoại thương lập ra các vùng mậu dịch tự do và các hiệp ước không thuế quan để khuyến khích cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả, chính phủ các nước này đã mở ra các điều kiện thuận lợi để khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, tạo ra những động lực mới cho sự tăng trưởng. Đi liền với chính sách tự do thương mại, các nước Mỹ La Tinh và Caribe đã đặt chương trình cổ phần hoá như là biện pháp khắc phục lại quan điểm hướng nội và quá trình quốc hữu hoá ồ ạt trước đó có thể lấy một vài ví dụ. Thời kỳ từ đầu năm 1982 đến đầu những năm 1990, Mêxicô đã cổ phần hoá và tư nhân hoá 750 trong tổng số 1155 xí nghiệp Nhà nước. Khoảng 17 tỷ USD thu được bán 12 ngân hàng và công ty điện thoại Telmex. Đến cuối năn 1992, Nhà nước Mêxicô hi vọng cổ phần hoá nốt 6 ngân hàng còn lại, công ty bảo hiểm Mêxicô, các nhà máy sản xuất phân bón đồng thời đang xét tới việc lôi kéo khu vực tư nhân vào xây dựng hạ tầng cơ sở, đặc biệt là các đường cao tốc. Công ty Pemex, công ty dầu lửa độc quyền của Mêxicô đang tiến hành cổ phần hoá để giảm khoản nợ khổng lồ 15 tỷ USD và tăng cường hiện đại hoá thiết bị khai thác. Sau nhiều thập kỷ quốc hữu hoá mạnh mẽ, Argentina đã đưa ra một chương trình cổ phần hoá công ty hàng không quốc gia và công ty độc quyền điện thoại của Nhà nước nhằm giải quyết một phần trong chương trình thanh toán nợ quốc gia. Việc cổ phần hoá này đã giảm được nợ nước ngoài 7 tỷ USD. Chính phủ Argentina đang xúc tiến một chương trình cổ phần hoá đến năm 1998 nhằm đạt được khoảng 6 tỷ USD (2 tỷ USD có thể bán và 6 tỷ USD dưới dạng chuyển thành cổ phần cho các món nợ trong và ngoài nước). Đó là các xí nghiệp công cộng gồm 5 tuyến xe lửa đường dài, hệ thống đường xe điện ngầm và đường xe điện công cộng ở Buenos Aires. Công ty cấp nước OSN ở Buenos Aires, công ty khí đốt quốc gia, nhà máy thép Bonisa, các nhà máy thuỷ điện, ngân hàng tiết kiệm và tín dụng quốc gia CNAS, công ty dầu lửa Gen Mosconi và Bahia Blanca. Chương trình cổ phần hoá ở Brazil được tiến hành chậm hơn với nhiều khó khăn ban đầu nhưng đã đạt được bắt đầu bằng việc bán công ty sắt thép khổng lồ Usiminas với giá 1,4 tỷ USD vào tháng 10 năm 1991. Từ đó đến tháng 3 năm 1992, chương trình diễn ra thuận lợi bằng việc bán các cổ phần của công ty sửa chữa máy bay Celma được 907 triệu USD, công ty vận tải Mafersa được 484 triệu USD, công ty sắt thép Piatini được 106,2 triệu USD, công ty phân bón Intag được 6,8 triệu USD đến cuối năm 1992, chính phủ dự định bán các cổ phần của mình ít nhất của 14 công ty nữa trong đó có 2 nhà máy thép lớn Cosipa và Tubarao, hai nhà máy hoả dầu Penlex và Copesul và tổng hợp phân bón Aiftin với tổng số tiền thu được là 3,4 tỷ USD. Với một khu vực gọi là “sân sau” của chủ nghĩa tư bản Mỹ, nền kinh tế của các nước thuộc vùng Mỹ La Tinh và Caribe từ nâu đã là một vùng kinh tế thị trường mở cửa và chịu sự chi phối rất lớn của các công ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia. Đặc điểm trên đã quy định cổ phần hoá ở các nước này chủ yếu được thực hiện bằng việc bán trực tiếp cổ phần trực tiếp cho các công ty nước ngoài. Điều này có thể hình dung được với 10,4 tỷ USD đầu tư trực tiếp của tư bản nước ngoài và các nước thuộc khu vực này năm 1991 thì có 3,5 tỷ USD là đầu tư qua mua cổ phần của các công ty quốc doanh được tư nhân hoá. Một đặc điểm trong quá trình cổ phần hoá của các nước khu vực này là tiến hành cổ phần hoá các xí nghiệp quốc doanh trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Khi đã đạt được quy mô nhất định mới chuyển sang lĩnh vực độc quyền của Nhà nước như hàng không, thông tin liên lạc, viễn thông. . .Nhưng thường ở mức Nhà nước vẫn nắm cổ phần khống chế. @ Các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu Phi, ở Châu Phi các Chính phủ vẫn đang cố gắng cổ phần hoá các DNNN trong nỗ lực nhằm phục hồi nên kinh tế và tạo cơ sở cho một sự tăng trưởng mới và năm 1990. Cũng như ở các châu lục khác, đa số các nước Châu Phi do những nguyên nhân về lịch sử, kinh tế, chính trị và xã hội, đã tạo ra một khu vực kinh tế Nhà nước rất lớn vào những năm 1980 và 1990. Công cuộc cổ phần hoá ở các nước Châu Phi tăng hiệu quả kinh tế và giảm thâm hụt ngân sách trong hoàn cảnh các nguồn tài chính truyền thống đã cạn kiệt. Ngược lại với các trường hợp của các nước Mỹ La Tinh, nơi mà hầu hết các DNNN cỡ lớn đã được cổ phần hoá với sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài thì ở Châu Phi thì quá trình cổ phần hoá có xu hướng diễn ra ở các xí nghiệp nhỏ, cả về tài sản lẫn số lượng lao động. Đa số cổ phần hoá diễn ra ở các ngành chế biến và dịch vụ công cộng, khai thác khoáng sản và dầu mỏ chỉ là ngoại tệ. Tuy nhiên, một đặc điểm đáng chú ý là tỷ lệ các hợp đồng về quản lý ở các vùng này chiếm rất cao và đặc biệt số DNNN bị phá sản ở đây chiếm cao nhất xét trên toàn thế giới. Điều cần nhấn mạnh thêm là WB và IMF đóng vai trò đáng kể trong việc gây sức ép và tham dự vào quá trình giảm bớt sở hữu Nhà nước ở các nước Châu Phi với tư cách là chủ nợ nhằm thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế đạt được hiệu quả cao hơn theo hướng thị trường và khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Thành tích đạt được trong chương trình cổ phần hoá ở các nước Châu Phi còn đang khiêm tốn. Trở ngại lớn nhất của các nước này là thị trường vốn trong nước quá nhỏ bé và thiếu các thị trường chứng khoán thực sự. Ngoài ra, ở các nước thiếu các nhà quản lý có năng lực, hệ thống Nhà nước về pháp luật và hành chính thiếu đồng bộ và chặt chẽ gây ra nạn tham nhũng và hối lộ phổ biến và điều này góp phần làm suy giảm sự quan tâm của các nhà đầu tư và kinh doanh nước ngoài. @ Các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu á. Quá trình cổ phần hoá ở các nước Châu á khác với các nước Châu Mỹ La Tinh và Châu Phi là các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ không phải là lý do chính để cổ phần hoá các DNNN. Mặt khác, nền kinh tế của các nước ở khu vực này có một tốc độ phát triển nhanh và ổn định trong nhiều năm. Phần lớn các xí nghiệp quốc doanh của các nước NICs và ASEAN đều hoạt động trên cơ sở thị trường và nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Nếu kinh doanh không hiệu quả, các DNNN cũng có thể bị phá sản. Vì vậy, mục tiêu chính của cổ phần hoá ở các nước này là rút khỏi các lĩnh vực hoạt động xét thấy không cần thiết phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền Nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân nhằm thực hiện sự cạnh tranh để nâng cao hiệu quả. Mục tiêu nữa của cổ phần hoá ở các nước là phát triển thị trường chứng khoán trong nước, thể hiện đặc biệt nổi bật là ở các nước Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Malaixia, Thái Lan. Điều này cho phép, cùng với việc bán cổ phần của Nhà nước cho tư nhân thì việc mở rộng thị trường vốn và huy động vốn qua đăng ký và phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đã trở nên phổ biến, và do đó, số lượng và các loại hình công ty cổ phần tăng lên nhanh chóng ở các nước này. Số tiền thu được từ quá trình bán các cổ phần của Nhà nước ở các doanh nghiệp Nhà nước sẽ được bù vào khoản ngân sách danh mục đầu tư cho các cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế chiến lược mà Nhà nước thấy cần có sự tham gia và kiểm soát. ở Đài Loan, với các chính sách mở rộng sự phát triển tự do kinh tế, cho đến nay, có 101 DNNN ở Đài Loan ( trong đó có 58 doanh nghiệp trong ngành chế tạo, 43 doanh nghiệp trong ngành dịch vụ với tổng số vốn là 160,5 tỷ NDT và 69432 lao động) đã có 22 doanh nghiệp được tiến hành cổ phần hoá. Các chính sách của Đài Loan đưa ra là để đáp ứng yêu cầu trong nước với mục đích là sẽ được tham gia vào GATT. ở Singapore đến tháng 11 năm 1989, 6 trong số 15 xí nghiệp quốc doanh được đăng ký bán hoàn toàn các cổ phần của Nhà nước gồm có xưởng đóng tầu Jurong, công ty phát triển tài nguyên và Nhà in quốc gia Singapore. Phần lớn sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước cũng giảm xuống như ở hãng hàng không Singapo ( từ 63% xuống 56%), công ty Kepel ( từ 68,5% xuống 48%) công ty vận tải Neptune (từ 74% xuống 54%). Cổ phần hoá Singapore cho đến năm 1990 đã thu được 1,28 tỷ USD. Nếu so với kế hoạch đến năm 1996, bán được 2,88 tỷ USD thì con số trên là hết sức khả quan. điều này cho thấy ở các nước này vẫn tiếp tục coi các doanh nghiệp Nhà nước như là công cụ để phát triển kinh tế. 2.2.3 Cổ phần hoá ở nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu: Khác với đa số các nước đang phát triển và phát triển nơi có một nền kinh tế thị trường hỗn hợp đang vận động và quá trình cổ phần hoá ở đó hướng vào việc thúc đẩy các hoạt động thị trường sẵn có thì đối với các nước XHCN cũ ở Đông Âu quá trình cổ phần hoá đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối với các chính phủ mới được thành lập trong việc cam kết thực hiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do cá nhân. Đối với các nước này, việc tiến hành cổ phần hoá được đặt trong một chương trình tư nhân hoá rộng lớn hơn và do đó các chương trình tư nhân hoá và cổ phần hoá được thực hiện theo từng cách khác nhau ở từng nước. Nước cộng hoà dân chủ Đức trước đây, do những điều kiện thuận lợi hơn so với các nước khác nên đã thực hiện tư nhân hoá, cổ phần hoá với nhịp độ nhanh nhất. Các nước như Tiệp Khắc (cũ), Hungari và Balan cũng đang thực hiện chương trình này một cách tích cực. Việc tư nhân hoá và cổ phần hoá hàng ngàn cửa hàng, nhà hàng, các xí nghiệp nhỏ của Nhà nước ở địa phương được diễn ra nhanh hơn và ít vấn đề hơn so với việc triển khai ở các công ty lớn. Tuy các nước này đều đặt ra một hệ thống pháp lý cần thiết cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp. Nhìn chung, các trường hợp cổ phần hoá ở các nước Đông Âu thường được diễn ra bằng việc phát hành cổ phiếu và bán trực tiếp hoặc qua một tổ chức kiểm toán trung gian. Biện pháp thích hợp để cổ phần hoá các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước là bán trực tiếp cho cán bộ quản lý và công nhân của xí nghiệp hoặc đấu thầu cho thuê bằng các hợp đồng quản lý. Một mô thuẫn lớn đặt ra cho các nước Đông Âu giữa một bên là sức mua hạn chế của công chúng còn bên kia là mục tiêu của tư nhân hoá và cổ phần hoá với quy mô lớn trong một thời gian ngắn. Mâu thuẫn giữa bên “cung” quá lớn và bên “cầu” quá nhỏ bé. ở Hungari, người ta ước tính tổng tiết kiệm trong một năm của dân chỉ đủ sức mua 1% tài sản DNNN, ở Liên Xô ( cũ ) chỉ khoảng 0,5%. Vì vậy, một số nước Đông Âu, như Tiệp Khắc cũ và Balan đã đưa ra một sáng kiến trong quá trình cổ phần hoá là thực hiện việc chia tài sản của Nhà nước cho mỗi công dân dưới dạng các giấy chứng nhận sở hữu với giá thấp hoặc cho không. Biện pháp này được đề ra với hy vọng đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá trong điều kiện thiếu các nguồn tài chính trong nước. Đồng thời cũng là cách bù đắp cho công dân, là những người đã góp phần vào gia tăng sở hữu Nhà nước trong nhiều năm qua. Ngoài ra, biện pháp này cũng nhằm tạo ra một tầng lớp sở hữu cổ phần để trung hoà sự chống đối có thể xảy ra do mỗi người lâu nay đã quen chủ nghĩa bình quân và làm giản đơn áp lực xã hội. Trong khi phiếu sở hữu có thể đáp ứng được các mục tiêu trên thì quá trình thực hiện nó hết sức phức tạp đối với những người nhận vì họ rất thiếu kinh nghiệm và thông tin để lựa chọn đầu tư vào công ty hay một quỹ hỗ trợ nào khác. Sự đổ dồn phiếu sở hữu vào một công ty có lợi nhuận cao và điều kiện thuận lợi sẽ làm cho giá cả lên xuống thất thường và có thể gây ra nhiều trường hợp phá sản ở các doanh nghiệp khác. Hình thức phiếu sở hữu không đưa lại một sự thay đổi tư bản hay kỹ thuật mới nào trong các doanh nghiệp và do đó không cải thiện được hiệu quả hoạt động của chúng. Vì vậy, cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí về hiệu quả của biện pháp cổ phần hoá này. 1. 3) Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới: 1.3.1) Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá: Sự triển khai có tính chất toàn cầu quá trình cổ phần hoá được bắt đầu mạnh mẽ từ những năm 1980 đến nay cũng chứng tỏ rằng hầu hết các chính phủ các nước đều thấy sự cần thiết phải xem xét và xác lập lại khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân theo hướng giảm bớt mức độ sở hữu và kiểm soát trực tiếp của Nhà nước, dành sự điều tiết mạnh mẽ hơn cho cơ chế thị trường. Sự khắc phục những hiện tượng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước thâm hụt ngân sách kéo dài và gánh nặng nợ cuả Nhà nước ngày càng tăng đã buộc hầu hết các chính phủ có khu vực kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tư bản xã hội đều phải tìm cách giảm bớt xuống một tỷ trọng nhất định trong nền kinh tế bằng các phương pháp tư nhân hoá và cổ phần hoá. Sự giảm bớt này nhằm mục đích tạo ra một tương quan hợp lý giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân, giữa sự điều tiết của Nhà nước và của thị trường đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể không có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước và hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, coi trọng hơn vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò định hướng của Nhà nước. 1.3.2) Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá. Quá trình cổ phần hoá phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do đặc điểm về hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước cũng như quan niệm xây dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi Chính phủ quy định. Sự tương đồng về quá trình cổ phần hoá ở mỗi nước chủ yếu là những vấn đề có tính kỹ thuật về tài chính, phương pháp và các điều kiện thực hiện, còn những vấn đề về quan điểm tổ chức và vận dụng thì hết sức khác nhau và linh hoạt ở mỗi nước. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhất là đã có sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thì việc tiến hành cổ phần hoá gặp thuận lợi hơn nhiều so với những nước có nền kinh tế thị trường chậm phát triển và thị trường chứng khoán chưa hoàn thành. Chẳng hạn như các nước đang phát triển và Đông Âu do thiếu những điều kiện hết sức quan trọng nêu trên đã buộc các nước này tiến hành cổ phần hoá với phương pháp đặc thù và quá trình phải diễn ra lâu dài và phức tạp hơn nhiều so với các nước tư bản phát triển. Cùng với việc tiến hành cổ phần hoá, các nước này còn phải đồng thời tiến hành chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế và các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quan hệ thị trường, tức là khuyến khích cạnh tranh và thương mại hoá toàn bộ các nhân tố sản xuất. Trong những điều kiện như vậy, các tổ chức ngân hàng, các quỹ tín dụng. . .hết sức được coi trọng vì chúng đóng vai trò đắc lực với tư cách là các tổ chức tài chính trung gian hỗ trợ cho quá trình cổ phần hoá ở các nước này. Như vậy, ở Việt Nam cũng không thể không chú ý đến tính đặc thù về điều kiện quy định mục tiêu, phương pháp, bước đi trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nước ta chưa có thị trường chứng khoán, khu vực kinh tế Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn thì có thể học tập kinh nghiệm tiến hành cổ phần hoá ở các nước có những điều kiện tương đồng. Tuy nhiên, sự vận dụng những kinh nghiệm này cũng cần chú ý đến tính đặc thù của mỗi nước để sàng lọc và thử nghiệm kỹ càng trong điều kiện của nước ta. 1.3.3) Tính chiến lược của qúa trình cổ phần hoá: Nhiều công trình nghiên cứu và kinh nghiệm của nhiều nước về vấn đề này đều cho thấy rằng cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế và vì vậy nó đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao. đó là việc phải lựa chọn và cân nhắc trên cơ sở định hướng các mục tiêu lâu dài được xác lập cơ cấu kinh tế và tương quan giữa các lĩnh vực và khu vực kinh tế để chuyển dịch và phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các nhóm người sở hữu và quản lý khác nhau. Điều này giải thích tại sao quá trình cổ phần hoá DNNN lại dễ gây xúc động đến các tầng lớp khác nhau trong xã hội- những người chịu ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực từ những thay đổi này thường không thờ ơ về mặt chính trị mà trái lại hành động một cách mẫu mực để nâng cao và bảo vệ quyền lợi của họ bằng các áp lực chính trị khác nhau. Vì vậy, ở hầu hết các nước, để cho chương trình thực hiện thành công, chính phủ đều lập ra một cơ quan đại diện đứng đầu hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với quá trình cổ phần hoá. Cơ quan này phải quản lý toàn bộ quá trình theo những quan điểm có tính chiến lược trong việc đánh giá, soạn thảo, tổ chức thực hiện, kiểm tra và điều chỉnh. Đây là một yếu tố cốt yếu cho sự thành công của chương trình cổ phần hoá ở nhiều nước. Đối với nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh tế không thể gắn liền với quá trình cải tổ khu vực kinh tế Nhà nước. Với quy mô rộng lớn và tính chất quan trọng của chương trình cổ phần hoá, Chính phủ không thể không lập ra hoặc uỷ quyền cho một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết toàn bộ các vấn đề liên quan đến chương trình này trên cơ sở những quan điểm đổi mới và định hướng phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Điều này là cần thiết để đảm bảo thành công của chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta. 1.3.4) Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá: Việc khảo cứu ở các nước cho thấy, cổ phần hoá diễn ra như một quá trình gồm nhiều giai đoạn: chuẩn bị các điều kiện về mặt tổ chức; lựa chọn các mục tiêu; các phương pháp thực hiện; kiểm soát và điều chỉnh. Trên thực tế không thể có sự phân định rõ rệt chắc chắn giữa các giai đoạn. Nhiều công trình nghiên cứu đều cho rằng việc quan niệm việc cổ phần hoá như một quá trình với nhiều giai đoạn có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiễn. Qua đó ta có thể xác định được rằng việc tiến hành cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam sẽ là một quá trình lâu dài, vừa làm vừa rút ra kinh nghiệm để có bước đi cụ thể. Trong hoàn cảnh thiếu nhiều điều kiện quan trọng để cổ phần hoá như ở nước ta thì đây là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải thực hiện trong nhiều năm. Vì vậy, việc quán triệt quan điểm quá trình các doanh nghiệp Nhà nước là cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý trí, muốn hoàn thành công việc trong một lần, trong thời gian ngắn. 1.3.5) Môi trường pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá. Với những tính chất của cổ phần hoá đã được nêu ở trên, các nước đều phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết để tiến hành công việc này. Đó là các bộ luật quan trọng có ý nghĩa là những điều kiện để xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô tạo ra những khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển hoá vào hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá và các công ty nói chung. Hệ thống những văn bản luật ở nhiều nước có những tên gọi khác nhau đều tập trung giải quyết một số vấn đề chung như luật công ty, luật về thị trường chứng khoán, luật đầu tư, luật thương mại, luật phá sản, luật lao động và bảo hiểm, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật thống kê, kế toán và kiểm toán, . . .Khác với các nước có nền kinh tế phát triển và Đông Âu đang gây cản trở lớn cho quá trình tiến hành cổ phần hoá cũng như thu hút vốn đầu tư cổ phần của nước ngoài. Nhiều chính sách đang trong quá trình thay đổi khó đoán trước về lãi suất, tỷ giá hối đoái, thuế quan, thị trường lao động. . . Càng tăng thêm sự rủi ro và tính không chắc chắn đối với các nhà đầu tư khi tham gia vào các doanh nghiệp cổ phần hoá. Điều đó buộc các nước này phải khẩn trương xác lập một hệ thống pháp luật tạo khung khổ cho sự hoạt động ổn định của nền kinh tế thị trường nói chung và quá trình tư nhân hoá và cổ phần hóa nói riêng. ở Việt Nam, để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và đổi mới cơ chế kinh tế nói chung, không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước cũng ban hành nhiều bộ luật nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường và có định hướng của Nhà nước. Hiện nay cần có sự bổ sung và sửa đổi và ban hành các bộ luật quan trọng như: luật công ty, luật đầu tư nước ngoài, luật đầu tư trong nước, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật thương mại, luật phá sản, luật lao động và bảo hiểm. . . Để từng bước tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thực hiện có kết quả. 1.3.6) Phí tổn của quá trình thực hiện cổ phần hoá: Để thực hiện chương trình cổ phần hoá thành công, thực tiễn ở các nước cho thấy Nhà nước đều phải chịu một khoản phí tổn nhất định. Đối với tư nhân, sau khi đã bán cổ phần của mình để thu lợi và không còn trách nhiệm gì đối với doanh nghiệp. Thì ngược lại Nhà nước vẫn phải tiếp tục quan tâm đến vấn đề doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá, cũng như những vẫn đề nảy sinh như là hậu quả của vấn đề này. Khoản phí tổn đó được các chính phủ quan niệm và xử lý khác nhau. Nó có thể là sự ưu đãi cổ phiếu hoặc cho không đối với tầng lớp dân cư nhất định nhằm mục tiêu về chính trị, xã hội, hoặc những chi phí cho việc bảo hiểm, trợ cấp. Thời gian đào tạo lại nghề và tìm việc mới đối với những người lao động bị mất việc làm trong những doanh nghiệp cổ phần hoá. . . Đối với nước ta cũng phải có sự lường định những khoản phí tổn không thể cắt giảm được, nhất là các vấn đề về việc làm mới và đào tạo lại, bảo hiểm xã hội đối với những người lao động trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá, các vấn đề về tư vấn, quảng cáo, môi giới. . .điều này là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo thực hiện chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp đạt được kết quả ở nước ta. Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng của nó: Thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước của nước ta: ở nước ta, cũng giống như các nước XHCN trước đây thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng XHCN. Vì vậy khu vực kinh tế Nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp Nhà nước do các địa phương quản lý. Theo số liệu thống kế ngày 01/01/1990, cả nước có 12084 doanh nghiệp Nhà nước, trong đó 1695 doanh nghiệp do trung ương quản lý, 10389 doanh nghiệp do cấp địa phương quản lý. Khu vực kinh tế Nhà nước có số vốn khoảng 10 tỷ USD, chiếm 85% tổng số vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, khoảng 70% tổng giá trị tài sản toàn xã hội, tạo ra khoảng từ 30%-38% giá trị tài sản xã hội (GDP) và thu nhập quốc dân khoảng 23%-30%. Trong một vài năm gần đây, phần của kinh tế Nhà nước tăng lên nhanh chóng là do bán quyền thăm dò và khai thác dầu, xuất khẩu gạo và than đá. Tỷ trọng của kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm xã hội của từng ngành kinh tế hiện nay là: xây dựng 76%; trồng rưng trong lâm nghiệp 35%; nông nghiệp 3%; trong các ngành bưu chính viễn thông, vận tải đường sắt, hàng không chiếm 100%; viễn dương 98%; đường bộ 80%. Trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp: dầu khí, than, điện, cơ khí chế tạo, hoá chất, xi măng, thuốc lá. . .Kinh tế Nhà nước vẫn chiếm chủ yếu. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tín dụng ngân hàng. . .hầu hết là do kinh tế Nhà nước nắm giữ. Hàng năm kinh tế Nhà nước vẫn đang là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước (khoảng 60 đến 70% tổng thu ngân sách). Tuy nhiên, so với khối lượng vốn đầu tư và khoản trợ cấp tín dụng ưu đãi của ngân hàng, nếu như cũng như bóc tách ở trong đóng góp hiện nay của các doanh nghiệp Nhà nước phần thuế tài nguyên do bán dầu thô, phần khấu hao cơ bản và một phần rất lớn thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại thuế gián thu khác đánh vào người tiêu dùng mà Nhà nước thu qua doanh nghiệp thì mức độ trên còn chưa tương xứng. Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và do đó, tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối của Nhà nước. Song cũng như nhiều nước trên thế giới, khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động hết sức kém hiệu quả, đặc biệt là doanh nghiệp do cấp địa phương trực tiếp quản lý, cụ thể. Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm quốc dân của khu vực kinh tế Nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân thường cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. Mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp Nhà nước trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,5 lần so với trung bình trên thế giới. Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp Nhà nước rất thấp và không ổn định. Trung bình trong khu vực kinh tế Nhà nước chỉ có 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 65% số sản phẩm đạt độ mức dưới trung bình để tiêu dùng nội địa; 20% số sản phẩm kém chất lượng. Do đó hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm 10% so với tổng số vốn lưu động của toàn xã hội. Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế Nhà nước rất thấp. Ví dụ: hệ số sinh lời của vốn huy động tính chung chỉ đạt 7%/năm, trong đó ngành giao thông vận tải chiếm 2%/ năm. . . Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước hết sức thấp. Cụ thể là trong mấy năm gần đây, hàng năm Nhà nước giành 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp Nhà nước, tuy nhiên chúng chỉ sáng tạo được 34 - 35% tổng sản phẩm xã hội. Hơn nữa khu vực kinh tế Nhà nước lại sử dụng hầu hết lao động có trình độ đại học, công nhân kỹ thuật, phần lớn số vốn tín dụng của ngân hàng quốc tế. Số doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 1990 trong số 12084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4584 cơ sở sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm hơn 30% tổng số các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó, quốc doanh TW có 501 cơ sở thua lỗ, bằng 26,9% số cơ sở TW quản lý, quốc doanh địa phương có 4083 cơ sở thua lỗ, chiếm 39,9% số đơn vị do địa phương quản lý. Các đơn vị thua lỗ trên đây có tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước và với 787.300 lao động trong tổng số 2.590.000 lao động bằng 32,9% số lao động của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước. Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Các chính sách về kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự do hoá giá cả. Chi phí ngân sách Nhà nước cho bù lỗ, bù giá, bổ sung vốn lưu động cho khu vực này đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, tư tưởng bao cấp trong đầu tư rất còn rất nặng nề. Tất cả các doanh nghiệp được thành lập đều được cấp vốn từ ngân sách Nhà nước. Hàng năm trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được cho các doanh nghiệp Nhà nước. Tài sản tiền vốn của Nhà nước giao cho doanh nghiệp chủ yếu không được bảo tồn và phát triển, theo báo cáo của Tổng cục thống kê, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ bảo toàn được số vốn lưu động còn mức vốn cố định chỉ bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. . . Cổ phần hoá, một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp Nhà nước: Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng XHCN và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo điều hành sản xuất kinh doanh, chúng ta đã xác định được rằng cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, cải cách triệt để là một yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã kiên trì tiến hành công tác sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước và được một số kết quả như giảm mạnh số lượng doanh nghiệp Nhà nước, nâng quy mô vốn bình quân, giảm bớt vốn tài trợ ngân sách, tạo nhiều điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, bước đầu phát huy quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị cơ sở, giảm mạnh sự can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do đặc điểm và thực trạng doanh nghiệp Nhà nước của nước ta, việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước còn phải tiến hành một cách thận trọng, lâu dài vì phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề phức tạp trong cả vấn đề, lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội mới đạt được kết quả mong muốn. Hiện nay, bên cạnh các khó khăn xuất phát từ nội bộ nền kinh tế, thì biến động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực đang tiếp tục lan rộng theo chiều sâu, sẽ đồng thời ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đến nền kinh tế nước ta. Điều này cho thấy rằng tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Vững chắc không những cho những năm tới mà cho cả tương lai lâu dài. Nghị quyết Hội nghị TW IV (khoá VIII) đã giành một phần quan trọng cho mục tiêu đổi mới mạnh mẽ các doanh nghiệp Nhà nước, phấn đấu đưa chúng ta thực sự trở thành lực lượng chủ đạo dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác cũng phát triển làm nòng cốt để thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập nền kinh tế thế giới có hiệu quả. Tiếp theo Chính phủ đã có chỉ thị số 20/TTg ngày 21/4/1998, trong đó đã đề ra chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai và quyết tâm thông qua đợt sắp xếp này để hình thành một cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước hợp lý, mạnh được quản lý tốt. Cổ phần hoá là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần 2 BCHTW khoá VII (tháng 1/1994) và tiếp tục được cụ thể hoá tại Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 12/1994), Nghị quyết 10/NQTW của Bộ chính trị ngày 17/3/1995, thông báo số 63/TBTW ngày 4/4/l1997 và được khẳng định rõ hơn tại Nghị quyết Đại hội VIII, Nghị quyết hội nghị TW lần thứ IV (khoá VIII). Mục tiêu nhất quán của cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là huy động vốn, tạo điều kiện để người lao động được làm chủ thực sự trong doanh nghiệp, tạo động lực bên trong thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng tài sản và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. Cổ phần hoá chính là biện pháp hiệu quả để sử dụng đồng vốn tốt nhất. Doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ thu hút ngày càng nhiều vốn nếu hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhất là khi hình thành thị trường chứng khoán. Cổ phần hoá- nhiệm vụ quan trọng và bức bách: Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Chính phủ đã có hàng loạt các biện pháp cần thiết để tăng cường hiệu quả của khu kinh tế Nhà nước. Ngay từ 1987 với quyết định 217/HĐBT, Chính phủ tạo bước đột phá, giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp Nhà nước riêng cổ phần hoá (CPH) được triển khai thí điểm theo quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch HĐBT. Kết quả thực hiện hoạt động thí điểm đã khẳng định CPH là một nhiệm vụ quan trọng. Các Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và Nghị định sửa đổi 25/CP ngày 26/3/1997 đã cụ thể hoá quyết tâm của Chính phủ về CPH. Triển khai các nội dung Nghị định của Chính phủ, Bộ tài chính đã có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể như thông tư 47/TC- TCT ngày 17/8/1996, hướng dẫn vấn đề tài chính, bán cổ phần. Thực hiện chính sách nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nước, Đảng và Chính phủ coi biện pháp CPH là một trong những biện pháp tích cực nhất nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Làm tốt cổ phần hóa sẽ góp phần: @ Giải quyết tốt vấn đề sở hữu công cộng, cụ thể hoá quyền sở hữu của người lao động, tạo điều kiện cho quần chúng lao động tham gia làm chủ doanh nghiệp một cách thiết thực. @ Tăng vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước, giúp các doanh nghiệp có sức và có cơ hội mở rộng thị trường tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, ứng dụng công nghệ hiện đại. @ Góp phần đắc lực và tạo hiệu quả cao để thực hiện thành công chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước. III. Quan điểm, giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới: Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới: Cổ phần hoá nhưng không làm suy yếu vai trò kinh tế Nhà nước. Xác định vai trò và cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nước. Quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong một hệ thống đa dạng các loại hình doanh nghiệp hoạt động bình đẳng trước cơ chế thị trường và Pháp luật của Nhà nước đã được Đại hội Đảng VI xác định và đã phát triển thêm, được coi là quan điểm cơ bản trong đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đối với khu vực kinh tế Nhà nước nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nhờ những thay đổi trong tư duy lãnh đạo kinh tế và trong các chính sách quản lý, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến thực sự mà trong nền kinh tế cũ không bao giờ đạt được. Sự thay đổi nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước cũng được đặt ra trong mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ngay từ hội nghị trung ương lần VI khoá VI tháng 3 năm 1989 đã nêu rõ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không phải “có mặt” với tỷ trọng lớn ở tất cả mọi ngành mà chỉ chiếm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế đến năn 2000 đã được xác định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước như sau. Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp then chốt và nắm những hoạt động khác mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh. Mục tiêu cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay. Theo đề án thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần ban hành kèm theo quyết định 202-HĐBT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng thì mục tiêu cổ phần hoá bao gồm: @ Chuyển một phần sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. @ Huy động một khối lượng vốn nhất định trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. @ Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Với ba mục tiêu nêu trên có thể thấy rằng vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp Nhà nước cần phải giải quyết một cách cơ bản. Sự lựa chọn giải pháp cổ phần hoá là con đường hiệu quả để giải quyết được những vấn đề cơ bản này, đồng thời tạo ra một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường và đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh hiện đại-đó là các công ty cổ phần. Đối với các mục tiêu của cổ phẩn hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở các nước trên thế giới, các mục tiêu đặt ra ở đây có sự lựa chọn cơ bản và khiêm tốn hơn, không đạt ra quá sức và quá nhiều mục tiêu như một số nước. Những nhân tố tác động đến quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta: Các yếu tố thuận lợi: @ Điều kiện về môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “ thương mại hoá ” các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế là các tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. @ Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhằm thực hiện các chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước như: Luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp và sản xuất trong khu vực kinh tế Nhà nươc. @ Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, lạm phát đã được kìm chế đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh. . . Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt tâm lý cho mỗi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá. Về các yếu tố khó khăn cản trở: @ Như đã trình bày ở phần trên, khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá ở nhiều nước đang phát triển và ở Đông Âu là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Điều này cũng đúng với Việt Nam, khi hàng chục năm khu vực này được coi là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu và do đó làm cho việc tiến hành cổ phần hoá ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với hình thức phát triển hình thái công ty cổ phần cũng xác lập môi trường pháp lý tương ứng. Một số quan điểm cơ bản trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. @ Quan điểm thứ nhất: việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. @ Quan điểm thứ hai: việc lựa chọn các doanh nghiệp để cổ phần hoá thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến giám đốc và tập thể người lao động trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này được nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ quản của Nhà nước phân loại các doanh nghiệp do mình quản lý để thực hiện cổ phần hoá. @ Quan điểm thứ ba: dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần xác định các mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá. @ Quan đIểm thứ tư: mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu của Nhà nươc trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần “ vốn tự có ” của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và khấu hao mà Nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng nên đương nhiên là thuộc về Nhà nước và thuộc về vốn cổ phần hoá của Nhà nước trong công ty sẽ được hình thành. @ Quan đIểm thứ năm: việc xác định giá trị của doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá phải chú ý cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Trong yếu tố giá trị hữu hình có hai yếu tố giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và giá trị đất đai mà doanh nghiệp đang sử dụng là mặt bằng sản xuất kinh doanh. @ Quan điểm thứ sáu: phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Về cơ bản có thể sử dụng một hoặc kết hợp ba phương pháp bán cổ phần hoá sau: Bán cho đối tượng xác định trước. Bán rộng rãi cho mọi đối tượng. Bán cho nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. @ Quan điểm thứ bảy để thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá, Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà cần phải biết chấp nhận một khoản phí tổn nhất định. Đó là những khoản phí tổn cần thiết mà ở nước nào cũng có như những phí tổn bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động bị mất việc làm và tìm kiếm ngành nghề mới. . . @ Quan đIểm thứ tám: theo tinh thần của Nghị quyết 202-HĐBT các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá đương nhiên sẽ hoạt động trong khuôn khổ của luật công ty. Cả về hình thức tổ chức tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính. Vì vậy, cần phải có điều lệ mà quy chế hoạt động tuân thủ theo các quy định của luật công ty. Một vấn đề đặt ra ai sẽ là người thay mặt cho sở hữu Nhà nước cho các công ty này? @ Quan điểm thứ chín: các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hoá cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần. Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. Tạo môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự điều chỉnh của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Đó là các bộ luật và văn bản dưới dạng có ý nghĩa như là một điều kiện để xác lập và ổn định mối quan hệ kinh tế ở tầm vĩ mô, tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hoạt động các đơn vị kinh tế phù hợp với lợi ích kinh tế-xã hội của đất nước. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và chuyển đổi doanh nghiệp hoạt động theo mô hình côg ty cổ phần không thể thực hiện được nếu Nhà nước không tạo lập môi trường pháp lý cần thiết làm điều kiện và cơ sở cho quá trình này. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán. Ta đã biết thị trường chứng khoán là nơi tập chung phản ámh hoạt động kinh tế của các công ty,là nơi cung ứng các nguồn vốn và phân phối các cơ hội đầu tư cho các công ty và công chúng. Trên thực tế, thị trường chứng khoán là điều kiện chọ ra đời và hoạt động của cáccông ty cổ phần. Vì vậy, cùng với sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần theo luật công ty và phát triển cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước cần phải gấp rút tạo điều kiện để xây dựng thị trường chứng khoán và các cơ sở giao dịch chứng khoán. Thông thường thị trường chứng khoán bao gồm 2 bộ phận: @ Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành các chứng khoán mới. @ Thị trường thứ cấp là thị trường mua, bán các chứng khán đã phát hành. Hoạt động của thị trường này là được thực hiện qua các trung gian tài chính có tác dụng “ cầu nối ” giữa công chúng với các công ty. Các trung gian tài chính thường là các công ty tài chính, các ngân hàng thương mại công ty bảo hiểm. . .Các công ty này làm việc trong hệ thống sở giao dịch chứng khoán theo nguyên tắc phát hành các phiếu ghi nợ hoặc được quyền phát hành cổ phiếu. ở nước ta tuy đã có ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển sau khi đã chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp, nhưng phương thức và phương pháp chưa đuổi kịp với những đòi hỏi của thị trường vốn trong xã hội. Hệ thống các quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phần mới ra đời và hoạt động trong thời gian ngắn chưa đủ lực và kinh nghiêm để làm cho các công ty cổ phần ra đời và hoạt động. Thành lập một cơ quan Nhà nước có quyền lực để thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: Thực tiễn quá trình cổ phần hoá nước ta đặc biệt là ở Đông Âu cũng như giai đoạn thí điểm vừa qua ở nước ta đã cho thấy sự cần thiết phải có một cơ quan được Nhà nước thành lập và uỷ quyền được giải quyết các vấn đề đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó chuyên trách theo dõi , chỉ đạo và có đầy đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tên gọi đối với các cơ quan này tuy có sự khác nhau ở mỗi nước, như Bộ cải cách sở hữu ở BaLan, Đại lý tài sản Nhà nước của chính phủ Hungari. . .Nhưng đều có chung một nhiệm vụ là quản lý và thực hiện sự chuyển đổi và đa dạng hoá sở hưu đúng với pháp luật trong các doanh nghiệp Nhà nước, chống lại sự trục lợi, tham nhũng, tẩu tán tài sản của Nhà nước. Vì vậy, ở nước ta cần gấp rút thành lập một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với sự tụ họp của các chuyên gia am hiểu về các lĩnh vực này để chỉ đạo và điều hành có kết quả. Tài liệu tham khảo Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. PTS: Phạm Ngọc Quang. Tạp chí kinh tế phát triển 3/1998. Chương trình khoa học cấp Nhà nước KXO3, 05, 07 Bộ tài chính 1993. Các văn bản hiện hành, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội- 1998 về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tạp chí cộng sản số 17 ( 9/1998). Tạp chí cộng sản số 13 (7/1998). Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 11 (1998). Văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VII, VIII. Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin. Mục lục Đề mục Trang Lời mở đầu 1 i) Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. 2 1.1 Cơ sở khoa học 2 1.1.1 Cơ sở lý luận 2 1.1.2 Cơ sở thực tiễn 2 2.2 Kinh nghiệm cổ phần hoá các DNNN 14 2.2.1 Cổ phần hoá ở nhóm các nước tư bản phát triển 14 2.2.2 Cổ phần hoá ở nhóm các nước đang phát triển 16 2.2.3 Cổ phần hoá ở nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu 19 1. 3) Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới 20 1.3.1) Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá 20 1.3.2) Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá 21 1.3.3) Tính chiến lược của qúa trình cổ phần hoá 22 1.3.4) Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá: 22 1.3.5) Môi trường pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá. 23 1.3.6) Phí tổn của quá trình thực hiện cổ phần hoá: 24 II) Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam và thực trạng của nó 25 1.Thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước của nước ta 25 2.Cổ phần hoá, một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp Nhà nước 27 3.Cổ phần hoá- nhiệm vụ quan trọng và bức bách 28 III)Quan điểm, giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới: 29 1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới 29 2. Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. 33 3.Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới 33 Tài liệu tham khảo 35

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0809.doc
Tài liệu liên quan