Đề tài Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình của hội liên hiệp phụ nữ huyện Thanh Liêm – Tỉnh Hà Nam

Ngày nay vấn đề phụ nữ không còn là vấn đề riêng biệt của từng quốc gia mà nó trở thành mối quan tâm chung của toàn cầu.Dưới sự lãnh đạo của Đảng , Hội LHPN Việt Nam đã xác định “tạo điều kiện cho phụ nữ thực sự được bình đẳng phát triển, thực hiện tốt nghĩa vụ công dânvà chức năng người mẹ là một trong những nhân tố quan trọng, đảm bảo cho sự thành côngcủa sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá” (nghị quyết Đại hội phụ nữ Việt Nam lầnVIII 1997) Thấm nhuần quan điểm chỉ đạo đổi mới nội dung và phương thức hoạt động phụ nữ trong thời kỳ đổi mớicủa Đảng,hướng dẫn các cuộc vận động và các phong trào do Trung ương Hội phát động. Hội LHPN huyện Thanh Liêm đã chủ động sáng tạo, đổi mới nội dung và phương thức vận động phụ nữ trong tình hình mới cụ thể: Hội đã tập trung vào công tác chăm lo gia đình, giúp gia đình hội viên phát triển kinh tế gia đình, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đổi mới các hình thức tuyên truyền, tranh thủ các nguồn kinh phí hỗ trợ để phục vụ cho công tác tập huấn cán bộ, sinh hoạt học tập nâng cao kiến thức cho phụ nữ. Tham gia có hiệu quả các chương trình chăm sóc sưc khoẻ phụ nữ trẻ em , phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.

doc32 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1119 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình của hội liên hiệp phụ nữ huyện Thanh Liêm – Tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trải qua một quá trình đấu tranh gay go và quyết liệt. Người nói: “ nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà hôm sau em quét nhà nấu cơm, rửa bát thế là bình đẳng, bình quyền, lầm to!’’ Người nhận xét “ đó là một cuộc cách mạng to mà khó. Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại, vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người ở mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Vì không thể dùng vũ lực mà tranh đấu’’ ( HCM T6, 1995, Tr433). Phụ nữ chiếm một vị trí quan trọng ở trong gia đình nên khi bàn về quyền bình đẳng của họ trong gia đình Bác đã dẫn ra một số điều cơ bản trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và trong các cuộc nói chuyện, gặp gỡ với nhân dân cán bộ ở các địa phương Hồ chủ tịch cũng luôn nhắc nhở mọi ngượi phải tôn trọng phụ nữ và thực hiện quyên bình đẳng giữa nam giới và nữ giới. Tại mỗi địa phương căn cứ vào đối tượng mà Bác chọn cách nói và cách đặt vấn đề khác nhau nhưng đều ngắn gọn, rõ ràng, xúc tích, dễ hiểu, phân tích có tình có lý. Hồ chủ tịch thấu hiểu một khi người phụ nữ được giải phóng về tư tưởng, tình cảm, được học tập nâng cao năng lực và kiến thức họ sẽ cống hiến đóng góp nhiều cho gia đình và xã hội. Đánh giá đúng vị trí, vai trò của phụ nữ Bác đã chỉ ra hướng đi tất yếu của Cách mạng Việt Nam là giải phóng xã hội phải gắn liền với giải phóng gia đình và giải phóng phụ nữ. Đó là việc phải xoá bỏ tận gốc rễ tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, mỗi gia đình, toàn xã hội. Ngày nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường phát triển với những tác động tích cực và tiêu cực đến gia đình. Những luận điểm quan trọng của Bác đã được Đảng cộng sản Việt Nam phát triển và nhấn mạnh tại các kỳ đại hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã nói về vấn đề gia đình “ Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc truyền thụ những giá trị văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực hiện tốt luật Hôn nhân và Gia đình’’ (ĐCSVN 1996 tr112-113) và tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã ghi rõ “ Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa’’ ngăn chặn việc phục hồi các hủ tục, khắc phục tình trạng mê tín dị đoan đang có xu hướng lan rộng trong xã hội (ĐCSVN2001 tr126) Trên cơ sở đường lối chủ trương của Đảng về vấn đề gia đình Hội liên hiệp phụ nữ với chức năng nhiệm vụ của mình tại các kỳ đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII Hội đã đổi mới nội dung phương thức hoạt động từ chỗ nặng về khai thác sự đóng góp của phụ nữ sang quan tâm chăm lo đến quyền và lợi ích chính đáng lấy công tác chăm lo đời sống làm mục đích để tập hợp chị em vào tổ chức. Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình đã được hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam xây dựng thành một trong những chương trình trọng tâm. Tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VII vấn đề gia đình được đưa vào chương trình 3 “ Chăm sóc sức khỏe phụ nữ và trẻ em, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, nuôi dạy con tốt và xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, bền vững, tiến bộ’’ và mục tiêu của nó thông qua chương trình các cấp hội phụ nữ giúp chị em biết tổ chức cuộc sống gia đình, biết chăm sóc sức khoẻ bản thân và con cái thực hiện sinh đẻ có kế hoạch góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số xuống 0.6 hằng năm. Liên kết lực lượng xã hội chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em giáo dục nghĩa vụ đối với gia đình để xây dựng gia đình bền vững nâng cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ ( Đại hội phụ nữ toàn quốc lần VII 1992) Kế thừa và phát triển tiếp tục công tác chăm lo cho hội viên phụ nữ về vần đề gia đình. Tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII vấn đề gia đình cũng được đưa vào chương trình trọng tâm của Hội- đó là chương trình “ Chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hoá gia đình nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc’’ với mục tiêu “... phát huy vai trò tích cực của phụ nữ xây dựng gia đình thực sự là tổ ấm là nơi lưu giữ, truyền thụ và phát triển những giá trị văn hoá truyền thống đạo đức dân tộc, phòng chống các loại tệ nạn xã hội, nâng cao vị thế của người phụ nữ ‘’ và nội dung của chương trình “ Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của phụ nữ và các thành viên đối với gia đình, trang bị cho chị em kiến thức và kinh nghiệm cần thiết về truyền thống văn hoá gia đình Việt Nam, ứng xử trong gia đình, tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy con theo độ tuổi, giúp chị em có thêm hiểu biết xây dựng gia đình hạnh phúc, góp phần quan trọng trong bài trừ các hủ tục và phòng chống tệ nạn từ trong gia đình’’ Lần đầu tiên Đại hội phụ nữ toàn quốc đề ra một chương trình riêng về xây dựng gia đình. Đây là một trong 6 chương trình trọng tâm của Hội giai đoạn 2002-2007 và là một bộ phận của phong trào thi đua yêu nước “ Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc ‘’. Chương trình tập trung giải quyết các vấn đề đang đặt ra ở cấp gia đình có liên quan đến 4 chuẩn mực: no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Bốn chuẩn mực này có nội dung toàn diện cả về kinh tế, văn hoá,xã hội và đặc biệt có nội dung hết sức thiết thực và đặc thù với phụ nữ, liên quan đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ đó là nội dung bình đẳng giới trong gia đình. Trong các chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và các chiên lược ngành, lĩnh vực cũng đều đặt ra vấn đề gia đình. Đặc biệt ngày 4/5/2001 Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 28/6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam trong hướng dẫn thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng đã đề nghị các Bộ, ngành, địa phương phát động phong trào “ Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc’’. Vấn đề gia đình cũng là vấn đề quan tâm chung của thế giới. Năm 1994 Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố là năm quốc tế về gia đình chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển có một chương về gia đình. Phụ nữ Việt Nam chiếm 50.8% dân số và 50.6% lực lượng lao động xã hội. Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trước đây và ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đang sát cánh cùng nam giới phấn đấu vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh’’. Với trách nhiệm là người vợ,người mẹ- phụ nữ đã có những cống hiến xuất sắc trong việc nuôi dưỡng các thế hệ công dân của đất nước và chăm lo cho các gia đình Việt Nam theo chuẩn mực “ No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.’’ Đảng và Nhà nước ta luôn luôn nhận thức đúng đắn và đánh giá cao vai trò của phụ nữ, đồng thời chủ trương giải phóng phụ nữ gắn liền với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ngày 21/1/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số19/2002/QĐ- Ttg về phê duyệt chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010. Việc công bố chiến lược này thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta từng bước thực hiện bình đẳng giới với việc “ Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ. Tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.’’ Vì vậy việc xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình để có được gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc không chỉ là mục tiêu của mỗi cá nhân cần đạt được mà còn là mục tiêu chung của toàn bộ xã hội. Từ một góc độ nào đó có thể nói gia đình là thành quả văn hoá của con người. Nhân cách con người được hình thành từ nền tảng gia đình. Tục ngữ có câu “ trong ấm ngoài êm’’ nếu trong mỗi gia đình từng thành viên đều có ý thức vun đắp cuộc sống thì xã hội văn minh sẽ không còn xa vời, các mối quan hệ gia đình và quan hệ xã hội luôn luôn có tác động qua lại. Việc chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình, sự phát triển của gia đình sẽ đem lại nhiều hiệu quả tốt cho văn hoá xã hội cũng như sự phát triển của xã hội. Ngược lại, xã hội cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến gia đình, đến cả người phụ nữ. Đặc biệt trong đời sống xã hội hiện nay khi lối sống phương Tây có ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống gia đình. Chính vì thế chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình sao cho phù hợp với xu thế hiện nay nhưng vẫn giữ được giá trị truyền thống của nó là vấn đề của mỗi thành viên trong gia đình, các cơ quan ban ngành và toàn xã hội hướng tới. 1.2Cơ sở thực tiễn của đề tài Nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá gia đình cũng như chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình phù hợp với tình hình của tỉnh. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Hà Nam trong những năm qua công tác này luôn là vấn đề được ưu tiên trong các hoạt động của tỉnh hội. Để giúp chị em nâng cao kiến thức và năng lực để làm tốt vai trò của người vợ, người mẹ, người công dân, đồng thời tạo điều kiện cho chị em phát huy khả năng và khẳng định vai trò, vị trí của mình trong gia đình và toàn xã hội. Những năm gần đây, thực hiện nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII, IX các cấp hội trong toàn tỉnh đã tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ thực hiện phong trào thi đua yêu nước “ Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc’’và các chương trình trọng tâm trong đó có chương trình 3 “Xây dựng gia đình no ấm ,bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” với các hình thức luôn đổi mới, phong phú, đa dạng như tập huấn, nói chuyện chuyên đề, hội thi...”câu lạc bộ không sinh con thứ ba”, ”câu lạc bộ gia đình hạnh phúc”, “hội thi nuôi con khoẻ dạy con ngoan”, “hội thi bé khoẻ mẹ khéo”đã triển khai sâu rộng từ tỉnh đến cơ sở. Làm thay đổi nhận thức của chị em và cuốn hút sự tham gia của các thành viên trong gia đình.Thực sự là ngày hội củaphụ nữ và được cả xã hộiquan tâm, được các cấp các ngành đánh giá cao vai trò của Hội phụ nữ trong phong trào xây dựng làng văn hoá ,gia đình văn hoá.... Thấy rõ được vai trò to lớn của phụ nữ và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của phụ nữ huyện nhà.Hội liên hiệp phụ nữ huyện Thanh Liêmlà một tổ chức chính trị xã hội tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ trong toàn huyện để Hội phụ nữ làm tròn chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, chăm lo cho phụ nữ và hướng dẫn ,giúp đỡ cho phụ nữ tổ chức tốt cuộc sống gia đình là vấn đề trọng tâm trong giai đoạn hiện nay bằng các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, nói chuyện chuyên đề, tập huấn, thi tìm hiểu luật Hôn nhân và gia đình, quyền trẻ em... và các lớp tập huấn về bình đẳng giới trong gia đình, phòng chống bạo lực trong gia đình, phòng chống HIV/ AIDS... đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Là một huyện bán sơn địa chủ yếu làm nông nghiệp, các tầng lớp phụ nữ của huyện chủ yếu sản xuất nông nghiệp và đi làm thuê cho nên trình độ văn hoá thấp, không đồng đều, các tư tưởng phong kiến còn in sâu và nặng nề nên đã hạn chế sự nhận thức và tiếp thu các kiến thức khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng như tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy con theo khoa học. Do vậy với sự phát triển của xã hội chị em rất thiếu kiến thức về vấn đề gia đình. Khi các hoạt động của hội phụ nữ huyện phối kết hợp với các ban ngành tuyên truyền bằng nhiều hình thức tập huấn trang bị kiến thức về làm mẹ an toàn, nuôi dạy và giáo dục con, xây dựng các mối quan hệ trong gia đình, bình đẳng giới trong gia đình, thi tìm hiểu các luật, giao lưu giữa các làng xã với nhau đã làm thay đổi căn bản và chị em đã có những kiến thức cần thiết về vấn đề gia đình để xây dựng gia đình hạnh phúc. Đặc biệt hội phụ nữ phổ biến kỹ về bốn chuẩn mực no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và hướng dẫn đăng ký thực hiện gia đình văn hoá, gia đình không có chồng con nghiện ma tuý, gia đình không có trẻ suy dinh dưỡng... thúc đấy phong trào phụ nữ địa phương phát triển nhanh và mạnh mẽ. Được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của huyện trong các báo cáo sơ, tổng kết cũng như trong các cuộc họp các đồng chí lãnh đạo luôn coi trọng và chỉ đạo thực hiện tốt công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình cho nhân dân và cùng với các ban ngành đoàn thể trong huyện phối hợp chặt chẽ với hội phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc và xây dựng làng văn hoá, hưởng ứng cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư’’ 2. Thực trạng công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình của hội LHPN huyện thanh liêm 2.1 Khái quát đặc điểm tình hình chung của huyện Thanh Liêm Thanh Liêm là một huyện nằm ở vị trí Tây Nam của tỉnh Hà Nam với số dân 138590 người và diện tích tự nhiên 17048.93 ha sống tập trung ven đường quốc lộ 1A, đường 21 có dãy núi đất dài 10km, dãy núi đá vôi 99 ngọn, sông Đáy xuôi dòng từ bắc xuống nam huyện, Đông Bắc có sông Châu bao bọc tạo nên một miền đồng bằng chiêm trũng gồm 12 xã và 8 xã miền núi, địa hình bán sơn địa. Là một huyện rất có lợi thế trong việc mở rộng giao lưu phát triển kinh tế xã hội. Phát huy thế mạnh của phụ nữ huyện Thanh Liêm đã tham gia tích cực trong quá trình phát triển kinh tế của huyện nhà. Trong lĩnh vực nông nghiệp phụ nữ là lực lượng lao động đông đảo chiếm trên 70% có vai trò quan trọng trong trồng trọt và chăn nuôi. Chị em đã tích cực ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật- công nghệ mới vào sản xuất thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế mùa vụ từng bước đưa sản phẩm sản xuất nông nghiệp thành sản xuất hàng hoá. Với truyền thống lao động cần cù sáng tạo chị em đã tích cực tạo ra nhiều nghề mới phát triển kinh tế tiểu thủ công nghiệp, phát huy thế mạnh của các làng nghề thêu ren, khâu nón, mây giang đan.... Toàn huyện đã có trên 60% gia đình hội viên phụ nữ tạo được việc làm lúc nông nhàn, thu nhập đạt từ 200-300nghìn đồng/ tháng đáp ứng một phần hàng hoá xuất khẩu và nhu cầu của địa phương trong tiêu dùng. Những kết quả trên đã góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế do Đại hội Đảng bộ huyện đề ra. Vượt kế hoạch về năng suất, tổng sản phẩm lương thực thực phẩm và giá tri tiểu thủ công nghiệp cụ thể: nông nghiệp tăng 56%, công nghiệp tăng 90%, kinh tế hộ gia đình ngày càng tăng, hộ giàu tăng 25%, kinh tế trang trại, kinh tế tổ hợp đang hình thành và phát triển. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, tài chính, kho bạc, ngân hàng lao động nữ chiếm tỷ lệ cao. Dù ở lĩnh vực nào nữ công nhân viên chức và lao động ở các ngành cũng luôn phát huy đức tính lao động tận tuỵ, nhiệt tình, thông minh sáng tạo và ý thức trách nhiệm biết vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ công tác tích cực học tập để nâng cao năng lực công tác, kiên trì bền bỉ phấn đấu để xây dựng với vai trò tiên phong của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các hoạt động văn hoá xã hội và quốc phòng an ninh đều được phụ nữ tham gia nhiệt tình trong các hoạt động xây dựng làng văn hoá, đền ơn đáp nghĩa... trên quê hương có truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu quê hương đất nước, có tinh thần đoàn kết cộng đồng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề gia đình ở huyện hiện nay bao hàm nhiều nhân tố mới tích cực, bình đẳng trong quan hệ vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình.Bình đẳng ở đây là mối quan hệ hiểu biết, thông cảm hài hoà giữa cha mẹ, vợ chồng và con cái, trong đó mối quan hệ bình đẳng vợ chồng có vị trí quan trọng. Sự bền vững của gia đình phụ thuộc rất nhiều vào sự thông cảm, tôn trọng nhau, gia đình tốt, cha mẹ hoà thuận sẽ là môi trường tốt cho tương lai của con cái và ngược lại. Nhưng gia đình ở huyện Thanh Liêm cũng như gia đình trong cả nước đang đứng trước những thách thức mới bởi tác động của nền kinh tế thị trường.Tác động của cơ chế thị trường cũng có những điểm tốt là kinh tế tăng trưởng cao, đời sống vật chất tinh thần của người nông dân ngày càng được cải thiện. Đồng thời kinh tế thị trường cũng gây cho môi trường xã hội những biến động phức tạp . Trong bối cảnh đó một số chuẩn mực đạo đức gia đình và kỷ cương xã hội bị xói mòn, các tệ nạn xã hội như bạo lực gia đình, ma tuý, mại dâm,cờ bạc...có chiều hướng gia tăng. Những chuẩn mực, quan niệm thay đổi đang đặt gia đình vào một tình thế lúng túngngay trong việc giáo dục con cái. Sự giảm sút của giáo dục gia đình là nguyên nhân đem lại không ít hậu quả cho xã hội.Tình trạng các bậc cha mẹ làm ăn bất chính, thiếu gương mẫu , gia đình lục đục đổ vỡ làm cho trẻ em chán nản mất lòng tin và trở nên hư hỏng cung là do bản thân mỗi gia đìnhở huyện không chủ động và không có tác dụng ngăn chặn chung.Điều này được các cấp các ngành ở huyện đặc biệt quan tâm . Những biểu hiện sai lệch của một số gia đình vừa nêu là tất yếu trong quá trình chuyển đổi kinh tế nhưng không vì thế mà coi gia đình ở Thanh Liêm là khủng hoảng .Về cơ bản gia đình Việt Nam nói chung và gia đình ở Thanh Liêm nói riêng đang có những biến đổi lành mạnh. Tính chủ động, sáng tạo trong mỗi gia đình được khôi phục và phát triển. Gia đình đang có những đóng góp không nhỏ vào công cuộc đổi mới đất nước góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – chính trị , xã hội của huyện ,xây dựng huỵên Thanh Liêm giàu đẹp. 2.2 Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hội viên của Hội LHPN huỵên Thanh Liêm Hội LHPN huỵên Thanh Liêm có 20 đơn vị xã, thị trấn gồm 20ban chấp hành phụ nữ xã, thị trấn , 241 chi hội với tổng số 21700hội viên.Cán bộ chuyên trách của huyện có 5 đống chí , 1đống chí có trình độ đại học và chuyên môn,2 đống chí có trình độ cao đẳng và lí luận chính trị cao cấp,2 đống chí có trình độ lí luận chính trị và nghiệp vụ phụ vận.Các cán bộ được phân công và phụ trách từng phong trào và các chương trình trọng tâm của hội. Họ đều là những các bộ nhiệt tình , năng động, trách nhiệm, sáng tạo, có tinh thần đoàn kết quy tụ tập hợp được quần chúng , thiết tha với sự nghiệp gải phóng phụ nữ vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ. Để công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt Hội LHPN huỵên Thanh Liêm đã chủ động đổi mới về công tác tổ chức cán bộ, phân công cán bộ phù hợp với năng lực sở trườngnên đã phát huy được tính chủ động, sáng tạo của mỗi cán bộ hội ở lĩnh vực công tác được giao và tổ chức triển khai thực hiện xuống chi tổphụ nữ, hội viên. Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hội viên của Hội LHPN huỵên Thanh Liêm nằm trong chương trình 3 – do đồng chí Trần Thị Hằng phụ trách chung cùng 3 xã cơ sở .Hơn 10 năm gắn bó với Hội, đồng chí là một người năng động, sáng tạo đưa các sáng kiến hay vào thực tế, đồng chí dang học chương trình đại học của trường đại học khoa học xã hội và nhân văn. 2.2.1 Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hội viên về đời sống kinh tế. Chuẩn mực gia đình văn hoá lấy no ấm làm tiêu chuẩn đầu tiên không phải là ngẫu nhiên. Chúng ta đều biết rằng kinh tế có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt đọng xã hội . Trong gia đình cũng vậy, khi nền kinh tế gia đình ổn định thì mọi thành viên trong gia đình sẽ được tận hưởng những giá trị văn hoá tinh thần và vật chất đầy đủ . Trong xã hội ngày nay nhu cầu của con người thật phong phú. Họ lăn mình vào cuộc sống để đáp ứng những nhu cầu của mình và gia đình . Mục đích cuối cùng của lao động là thoả mãn nhu cầu của con người . Với đặc điểm là một huyện thuần nông tỷ lệ hộ nghèo còn 7.6%, tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao chủ yếu là phụ nữ. Những năm qua huyện hội đã bám sát các nội dung chỉ đạo của Trung ương Hội và Tỉnh hội gắn với các nhiêm vụ kinh tế của huyện. Xây dựng chương trình hoạt động hàng năm và chỉ đạo hội phụ nữ từ huyện xuống cơ sở tập trung vào giải quyết các vấn đề trọng yếu giúp phụ nữ là: kiến thức, kinh nghiệm, vốn đầu tư phong trào vào sản xuất kinh doanh dịch vụ, giống, vốn, kỹ thuật, công nghệ...bằng nhiều nội dung ,biện pháp thực hiện có hiệu quả. Huyện hội Thanh Liêm hằng năm phối hợp chặt chẽ với phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , ngân hàng, các công ty phân bón( Văn Điển,Ninh Bình, Bình Điền...) xây dựng chương trình kí kết và triển khai thực hiện xuống các xã, thị trấn, địa bàn khu dân cư. Các nội dung hoạt động tập trung vào bồi dưỡng kiến thức về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi, hướng dẫn cácgia đình ứng dụng khoa học công nghệ đưa các giống mới vào sản xuất, xây dựng và nhân rộng các mô hình làm điểm giống cây trồng vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhằm giúp chị em chuyển đổi nhận thức, tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế gia đình, tăng thu nhập. Kết quả đạt được hàng năm đã có 80- 90%phụ nữ nông thôn được tiếp cận và học tập các kiến thức về công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, 90%gia đình hội viên biết áp dụng tién bộ kỹ thuật vào sản xuất cây trồng vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt nhiều mô hình sản xuất nấm, mộc nhĩ, dưa chuột xuất khẩu, lợn siêu nạc, bò sinh sản...được nhân rộng ra toàn huyện . Duy trì thường xuyên và phát triển các câu lạc bộ IPM, câu lạc bộ khuyến nông sau mỗi khoá tập huấn cho chị em đi tham quan học tập các huyện bạn về các mô hìnhtrang trại VAC, RVAC, tham quan đầu bờ...nhằm giúp phát triển kinh tế gia đình. Hoạt động hỗ trợ vốn,tạo việc làm cho phụ nữ luôn được huyện hội chú trọng và tích cực chỉ đạo thực hiện. Hội đã tranh thủ sự hỗ trợ của các ngành các cấp trong huyện và các tổ chức quốc tế chủ động xây dựng các dự án khai thác các nguồn vốn giúp phụ nữ nghèo phát triển sản xuất kinh tế gia đình vươn lên làm giàu . Huyện hội đã chỉ đạo các xã , thị trấn rà soát các đối tượng là phụ nữ nghèo có địa chỉ hàng năm cho vay vốn và hướng dẫn làm kinh tế, xoá đói giảm nghèo xây dựng gia đình no ấmvà cuộc sống đạt chất lượng tốt hơn . Phát động phong trào “ phụ nữ làm kinh tế giỏi” để khuyến khích động viên bản thân phụ nữ tích cực thi đua làm ăn giỏi, làm giàu chính đáng,và khuyến khích phụ nữ thành đạt giúp đỡ làm đầu tầu lôi kéo phụ nữ khác hoặc tạo việc làm cho phụ nữ nghèo. Phong trào giúp nhau truyền thống trong sản xuất và đời sống luôn được khơi dậy và phát huy co hiệu quả góp phần gỉam tình trạng cho vay nặng lãi mà vận động tuyên truyền chị em phụ nữ giúp đỡ cho nhau vay không lấy lãi. Với tinh thần tương thân tương ái hội phụ nữ đã kịp thời giúp đỡ các gia đình hoạn nạn neo đơn tích cực tham gia chương trình xoá nhà tranh tre nứa lá đã được đông đảo chị em tham gia hưởng ứng nhiệt tình. Kết quả đạt được Hội phụ nữ huyện và 20xã, thị trấn duy trì thực hiện có hiệu quả các nguồn vốn ( ngân hàng người nghèo, vốn quốc tế, vốn tự có, quỹ quốc gia,,,)và tích cực khai thác các nguồn vốn mới, số vốn hiện naydo Hội quản lý và điều hànhlà 18tỉ361 triệu đồng, giải quyết cho10560 hội viên vay. Vận động cán bộ hội viên giúp đỡ cho nhau vay không lấy lãi toàn huỵên có837chị giúpcho1260chịvay không lãi số thóc giống18 tấn, 13950con giống, tiền+vàng 198 triệu. Với tinh thần tương thân tương ái hội phụ nữ đã kịp thời giúp đỡ các gia đình hoạn nạn neo đơn giúp 3 gia đình bị hoạn nạn ở thị trấn Kiện Khê135kg gạo, 150nghìn đồng,2 gia đình hội viên xoá nhà tranh tre ở xã Thanh Tuyền1150000đồng và 65 công, gia đình chị Vinh có con bị chết ở xã Thanh Nghị 970000 đồng và 70kg gạo. Hội viên được vay vốn và phát huy đồng vốn có hiệu quả thoát nghèo nghèo vuon len lam chủ trang trại có thu nhập từ 30 – 80triệu đồng/năm như chị Thu (Liêm Phong)nuôi gần 2000 con gia cầm,1mẫu ruộng lúa cá, chị Yên (Liêm Tuyền) nuôi lợn siêu nạc và dịch vụ,chị Đào (Thanh Thuỷ) phat triển kinh tế đồi rừng. Bên cạnh kết quả đạt được còn một số khó khăn nguồn vốn hỗ trợ chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay của hội viên trong phát triển kinh tế gia đình Cùng với việc giúp đỡ chuyển giao cong nghệ, hỗ trợ vốn Hội phụ nữ Thanh Liêm còn coi trọng công tác dạy nghề thủ công truyền thống, mở các lớp dạy nghề thêu ren, mây giang đan, làm bánh đa, khâu nón...cho 1500chị em co thu nhập ổn định từ 200- 400000đ/tháng tạo việc làm lúc nông nhàn và lao động dư thừa để ngày càng từng bước nâng cao đời sống gia đình cho hội viên phụ nữ. Ngoài ra Hội còn hướng dẫn chị em biết phân công sắp xếp công việc trong gia đình một cách hợp lý để mọi người trong gia đình đều biết phân công công việc tăng thu nhập và lao động trong gia đình . Huy động các nguồn lực và có kế hoạch thu chi tiết kiệm, biết sắp xếp sử dụng hợp lý các vật dụng trong gia đình để mọi thành viên đều có việc làm và có trách nhiệm trong phát triển kinh tế gia đình bằng cách tổ chức các buổi tập huấn, tuyên truyền miệng, lồng ghép trong các buổi sinh hoạt câu lạc bộ... Có thể nói với cố gắng vượt bậc của các cấp hội trong hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình đã giúp được bộ phận gia đình hội viên thoát khỏi đói nghèo vươn lên làm giàu ổn định đời sống hàng trăm gia đình làm kinh tế giỏi góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện xuống dưới 10% có cuộc sống ấm no là điều kiện quan trọng để hạnh phúc gia đình được đảm bảo bền vững. 2.2.2 Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình về văn hoá tinh thần. Gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ. Mặt khác với thiên chức của mình nên phụ nữ có vai trò trong mối quan tâm đặc biệt với gia đình. Vì vậy phụ nữ và hội phụ nữ từ huyện xuống cơ sở luôn là người đi tiên phong chủ động vận động khuyến khích mọi người trong gia đình và xã hội cùng có trách nhiệm xây dựng gia đình đạt bốn chuẩn mực mà Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đề ra. Hàng năm hội phụ nữ huyện phối hợp với uỷ ban Mặt trận tổ quốc, phòng văn hoá thể thao và các ban ngành khác triển khai cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá’’ thực hiện phong trào xây dựng đời sống văn hoá, làng văn hoá, bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, gia đình không có con em mắc tệ nạn xã hội và tội phạm, phòng chống HIV/AIDS, kiến thức bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm tới các tầng lớp phụ nữ trong toàn huyện. Tiếp tục tổ chức cho hội viên phụ nữ học tập, quán triệt bốn chuẩn mực gia đình Việt Nam “ No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc’’ đã có 23500 lượt cán bộ hội viên được học tập, 21000 gia đình cán bộ hội viên phụ nữ đăng ký thực hiện trong đó có gần 14000 gia đình cán bộ hội viên phụ nữ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Để giúp hội viên phụ nữ nâng cao kiến thức tổ chức cuộc sống gia đình huyện hội đã kịp thời biên soạn và hướng dẫn kịch bản sinh hoạt câu lạc bộ, tài liệu tuyên truyền phụ nữ với hạnh phúc gia đình, luật Hôn nhân và gia đình, gia đình an toàn cho trẻ em, 8 hoạt động dinh dưỡng tại gia đình, 10lời khuyên dinh dưỡng hợp lý, phòng chống tệ nạn xã hội HIV/AIDS, ma tuý, mại dâm, không hút thuốc lá và hưởng ứng chiến dịch bảo vệ môi trường xanh sạch. Các nội dung trên được tuyên truyền đa dạng hoá các hình thức sinh hoạt theo chuyên đề. Toàn huyện đã có 235 câu lạc bộ phụ nữ không sinh con thứ 3 trở lên và 85 tổ phụ nữ trong đó có gần 1600 thành viên trong ban chủ nhiệm và 19700 cán bộ hội viên tham gia, 240 câu lạc bộ gia đình hạnh phúc và 46 câu lạc bộ phụ nữ tìm hiểu pháp luật và các biện pháp tránh thai. Phối hợp với Công an huyện, Trung tâm y tế huyện, Ban an toàn giao thông huyện tổ chức các lớp tập huấn, nói chuyện chuyên đề, các hội thi tìm hiểu về phòng chống lao, sốt rét, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống ma tuý, mại dâm triển khai đến các chi tổ phụ nữ và được 80-90% hội viên tham dự. Đặc biệt hội phụ nữ huyện thường xuyên quan tâm đến những gia đình hội viên phụ nữ có con em nghiện ma tuý, trẻ em hư gặp gỡ tuyên truyền vận động các đối tượng đi cai nghiện để hoà nhập với cộng đồng. Hướng dẫn hội viên phụ nữ ký kết thực hiện với lực lượng công an về giáo dục con em trong gia đình không vi phạm pháp luật và sa vào các tệ nạn xã hội phòng chống ma tuý, mại dâm, tội phạm từ trong gia đình. Tham gia các tổ chức hoà giải nhân dân trong các thôn xóm, giải quyết kịp thời những bất an trong khu dân cư và gia đình. Trong những năm qua, hội phụ nữ đã tham gia hoà giải được 100 vụ mâu thuẫn giữa vợ và chồng, giữa mẹ chồng nàng dâu, 20 vụ có đơn xin ly hôn. Hội đã hoà giải và vợ chồng về đoàn tụ với nhau. Đồng thời thường xuyên bồi dưỡng nâng cao kiến thức về gia đình cho 18000 phụ nữ, nghệ thuật làm vợ, làm chồng, xây dựng mối quan hệ trong gia đình bình đẳng, nhân ái, tốt đẹp, biết giữ gìn vun đắp bảo vệ hạnh phúc gia đình... Hội phụ nữ huyện còn phối hợp với ban vì sự tiến bộ của phụ nữ huyện xây dựng và triển khai chiến lược vì sự phát triển của phụ nữ tới các chi hội, các ngành đoàn thể, tổ chức tập huấn nâng cao kiến thức về giới trong gia đình...tới các đồng chí lãnh đạo từ huyện đến cơ sở và đội ngũ cán bộ nữ và cán bộ hội, chị em phụ nữ. Xây dựng các tài liệu về giới đưa vào sinh hoạt hội viên ở 100% cơ sở hội. Thông qua tập huấn giúp hội viên phụ nữ nhận thức được nguyên nhân khoảng cách giới, bất bình đẳng giới từ trong gia đình và ngoài xã hội. Từ đó có kế hoạch hoạt động phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực công tạc, học tập, lao động sản xuất, tự hoàn thiện mình, biết chăm lo củng cố cuộc sống gia đình. Trong hoạt động này, tổ chức hội phụ nữ đã thực sự trở thành địa chỉ tin cậy để tư vấn thúc đấy thực hiện bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội cho đông đảo phụ nữ và nhân dân toàn huyện. Ngoài ra hội phụ nữ còn tổ chức hướng dẫn hội viên phụ nữ làm công tác vệ sinh môi trường, đường làng ngõ xóm ở khu dân cư, triển khai sinh hoạt câu lạc bộ về bảo vệ môi trường, sử dụng nguồn nước sạch, dùng muối iốt trong gia đình đã được chị em đồng tình ủng hộ đồng thời hướng dẫn chị em sắp xếp vật dụng trong gia đình, bày đặt trang thiết bị nội thất hợp lý tạo không khí gia đình thoải mái, vui vẻ sẽ làm cho các thành viên cảm giác đây là tổ ấm thật sự không ai muốn rời xa. Hiện nay người phụ nữ còn quá vất vả đối với công việc gia đình ít có thời gian nghỉ ngơi giải trí học tập. Việc tham gia hoạt động của phụ nữ còn hạn chế vì vậy không tránh khỏi sự thua thiệt với nam giới. Để có một gia đình hạnh phúc bên cạnh những nội dung trên thì hội đã quan tâm đặc biệt đến giáo dục cho chị em biết tổ chức tôt đời sống tinh thần trong gia đình. Quan tâm đến nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của mọi thành viên trong gia đình sẽ tạo được không khí sinh hoạt thoải mái, thân mật. Tạo điều kiện thời gian để mọi người trong gia đình sinh hoạt chung với họ hàng làng xóm như dự hội, lễ tết, cưới, thăm viếng. Tổ chức sinh hoạt ngày lễ, bữa ăn hàng ngày trong gia đình sẽ tạo bầu không khí thân mật cởi mở có tác dụng tốt cho mọi thành viên gia đình và tạo được mối quan hệ xóm làng thêm đầm ấm vui tươi. Xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hoà thuận hạnh phúc là trách nhiệm nghĩa vụ của vợ chồng, của các thành viên trong gia đình. Để góp sức xây dựng gia đình văn hoá chúng ta phải động viên các thành viên cần thực hiện đúng vai trò của mình thường xuyên rèn luyện nâng cao kiến thức mọi mặt, trong đó vai trò của phụ nữ vẫn là to lớn và quan trọng. Hội luôn giáo dục hướng dẫn phụ nữ biết huy động các thành viên cùng chăm lo xây dựng gia đình đạt 4 chuẩn mực đề ra. 2.2.3 Công tác chăm lo về chăm sóc sức khoẻ sinh sản- dân số kế hoạch hoá gia đình. Là một huyện bán sơn địa nên chị em ít được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Tử thực tế đó, hội phụ nữ huyện Thanh Liêm phối hợp với trung tâm y tế huyện tuyên truyền vận động các gia đình hội viên thực hiện kế hoạch hoá gia đình sinh đẻ có kế hoạch là một nội dung trong những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Mục đích của sinh đẻ là nhằm tái sản xuất con người phù hợp và hài hoà với những điều kiện để đảm bảo lớp người mới ra đời có khả năng phát triển cả trí tuệ và thể lực đem lại niềm hạnh phúc cho gia đình. Nhưng hiện nay quan niệm về con trai con gái vẫn còn là vấn đề nan giải, nam giới ít chia sẻ với phụ nữ trong việc thực hiện các biện pháp tránh thai ( Hiện nay trong toàn huyện có 90% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai). Tồn tại trên là do nhận thức của một bộ phận gia đình và chị em phụ nữ còn hạn chế. Do vậy hội phụ nữ các cấp trong huyện đang tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đặc biệt tập trung tuyên truyền vận động nam giới cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc thực hiện các biện pháp tránh thai cùng phụ nữ. Phối hợp cùng uỷ ban dân số gia đình trẻ em các cấp có biện pháp thực hiện. Thông qua mô hình truyền thông dân số lồng ghép, mô hình dân số nhóm nhỏ và hoạt động lồng ghép trong nội dung chương trình hoạt động: dân số- kế hoạch hoá gia đình với tăng thu nhập, dân số với sức khoẻ sinh sản và dân số- kế hoạch hoá gia đình với vay vốn... nhằm huy động sự hưởng ứng tham gia tích cực của các gia đình, các cặp vợ chồng trong việc thực hiện các biện pháp tránh thai. Thực hiện mô hình mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ 1-2 con góp phần làm hạ tỷ lệ dân số tự nhiên trong toàn huyện xuống còn 0.5% năm 2010. Bên cạnh việc vận động phụ nữ thực hiện sinh đẻ có kế hoạch hội phụ nữ các cấp phối hợp chặt chẽ với ngành y tế, uỷ ban dân số gia đình trẻ em huyện hướng dẫn cho hội viên phụ nữ nâng cao kiến thức chăm sóc sức khoẻ sinh sản trong gia đình giáo dục chăm sóc sức khoẻ tại nhà, vệ sinh thân thể, đẩy mạnh công tác giáo dục sức khoẻ sinh sản cho thanh niên và vị thành niên. Coi trọng bồi dưỡng kiến thức chăm sóc sức khoẻ sinh sản trong gia đình nuôi con theo khoa học, chăm sóc và hướng dãn làm mẹ an toàn, bảo vệ thai nghén, phòng chống các dịch bệnh cho trẻ dưới 5 tuổi, phòng chống suy dinh dưỡng, vận động các bà mẹ cho con đi uống vitaminA, tiêm phòng định kỳ hàng tháng. Đồng thời hội phụ nữ tử huyện đến cơ sở phối hợp với các ngành đoàn thể tổ chức các hội thi “mẹ khoẻ con ngoan’’, “ở nhà chủ nhật’’.... Ngày gia đình Việt Nam hàng năm 28/6 huyện hội đã tổ chức triển khai về các xã giao lưu theo các chủ đề “Gia đình là tổ ấm của mỗi người là tế bào lành mạnh của xã hội’’, “ Gia đình- truyền thống- hiện đại’’ và tặng quà cho các cháu thiếu nhi nhân ngày 1/6, rằm Trung thu, ngày khai trường. Đặc biệt hội đã làm tốt công tác chăm lo, giúp đỡ cho các gia đình có trẻ em bị suy dinh dưỡng, khó khăn hoạn nạn trong toàn huyện. Hội phụ nữ các xã, thị trấn đã tạo nguồn kinh phí bằng tuyên truyền cho chị em trong độ tuổi từ 18-55 đóng góp từ 10000-15000Đ/hội viên phụ nữ mời trung tâm y tế huyện về siêu âm xét nghiệm cho 18000 chị em phụ nữ khám và điều trị bệnh cho những chị em bị bệnh kịp thời. Trong tháng hành động vì trẻ em, ngày vi chất dinh dưỡng hội phụ nữ huyện phối hợp với uỷ ban dân số gia đình trẻ em giao lưu kiến thức cho các gia đình với chủ đề “ Gia đình an toàn cho trẻ’’. Đây là mô hình mới đã thu hút được đông đảo cán bộ hội viên và gia đình tham gia. Gia đình hạnh phúc khoẻ mạnh mọi người yêu thương chăm sóc cho nhau để mỗi thành viên có sức khoẻ có công rất lớn của người phụ nữ chăm lo cho gia đình mình. Để gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội thì hội phụ nữ luôn là người đi đầu trong việc tổ chức triển khai thực hiện nhăm đem lại cho gia đình hội viên đạt 4 chuẩn mực đề ra. 3. một số kết quả, nguyên nhân, giải pháp và khuyến nghị 3.1 Một số kết quả thành công và những hạn chế của công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình của Hội LHPN huyện Thanh Liêm 3.1.1 Những thành công Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình của huyện hội Thanh Liêm đã theo chỉ đạo của tỉnh hội Hà Nam vận dụng và đề ra những chương trình hoạt động cụ thể phù hợp với thực tiễn địa phương. Xây dựng những điểm mới, mô hình mới, giao lưu kiến thức, sinh hoạt câu lạc bộ, lồng ghép các chương trình để đảm bảo nội dung phong phú, đa dạng thiết thực và hiệu quả. Góp phần giảm tỷ lệ sinh từ 1.38% năm 2003 xuống 0.92% năm 2004, tỷ lệ sinh con thứ 3 năm 2003 là 13.8% xuống 11.03%năm 2004. Biết tranh thủ chủ động phối hợp với các ngành chức năng: uỷ ban dân số gia đình trẻ em, trung tâm y tế huyện, công an, tư pháp... tạo nguồn kinh phí huy động lực lượng các ngành liên quan cùng triển khai các hoạt động đạt hiệu quả và thu hút được đông đảo cán bộ hội viên và phụ nữ tham gia nhằm góp phần xây dựng gia đình như câu lạc bộ “ Dinh dưỡng- sức khoẻ hạnh phúc gia đình’’, giao lưu kiến thức “ Xây dựng xã, thị trấn phù hợp với trẻ em’’, “ Gia đình không có chồng con mắc tệ nạn xã hội’’... Kết quả của công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình của hội phụ nữ huyện đã phát huy được sự sáng tạo của đội ngũ cán bộ hội trong việc đa dạng hoá về nội dung và hình thức sinh hoạt. Thực sự đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho hội viên phụ nữ, đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của phụ nữ. Hội đã làm được nhiều việc thiết thực từng bước nâng cao chât lượng cuộc sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ và trẻ em tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh hạn chế các tệ nạn xã hội. Góp phần thực hiện xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ phụ nữ trẻ em, các tầng lớp phụ nữ luôn cùng hội phụ nữ làm nòng cốt trong phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư, thôn xóm bình yên gia đình hạnh phúc. 3.1.2 Những hạn chế Nội dung công tác chăm lo gia đình tuy đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn nghèo nàn, chưa sâu, tài liệu còn thiếu, giáo dục về giới còn hạn chế chưa thu hút được mọi đối tượng phụ nữ tham gia. Một bộ phận phụ nữ còn thiếu kiến thức về xây dựng gia đình nên chưa phát huy được vai trò làm vợ làm mẹ trong củng cố cuộc sống gia đình như: thiếu gương mẫu trong quan hệ xử sự gia đình, thiếu kiến thức chăm sóc con theo khoa học, chi tiêu trong gia đình không có kế hoạch, nhiều chị em sa vào mê tín dị đoan lãng phí trong ma chay, cưới hỏi... Hoạt động giúp phụ nữ phát triển kinh tế gia đình đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi, giúp nhiều hội viên thoát khỏi đói nghèo vươn lên làm kinh tế giỏi xây dựng cuộc sống ấm no. Song vốn vay mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu, còn một bộ phận hội viên còn quá nghèo, phụ nữ đơn thân chưa được hội giúp đỡ nên đời sống còn khó khăn dẫn đến con thất học và trẻ suy dinh dưỡng cao. 3.2 Một số nguyên nhân thành công và hạn chế 3.2.1 Một số nguyên nhân thành công Là do hội phụ nữ từ huyện đến cơ sở đã có nhận thức đúng đắn vai trò tầm quan trọng của phụ nữ đối với gia đình. Xác định được yếu tố cơ bản tác động đến gia đình với tư cách là tế bào của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Nắm được thực trạng vấn đề gia đình trong huyện nhất là vai trò của nó trong công tác đổi mới thông qua việc thực hiện chức năng của gia đình, mối quan hệ của gia đình và xã hội. Qua đó rút ra được vấn đề tập trung giải quyết, quan tâm chăm lo xây dựng và hỗ trợ tạo mọi điều kiện để phụ nữ vươn lên làm tròn chức năng người vợ, người mẹ, người công dân đối với gia đình và xã hội. Sự nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn trở ngại của cán bộ hội viên phụ nữ trong huyện. Đội ngũ cán bộ hội nhiệt tình trách nhiệm có nhiều cố gắng tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt kiến thức về gia đình trong thời kỳ mới để có sự vận dụng phù hợp về nội dung hình thức để thu hút, tập hợp, giáo dục chăm lo xây dựng hội viên phụ nữ. Quá trình hoạt động thực hiện công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình luôn được sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp uỷ Đảng, chính quyền như đầu tư ưu tiên các chương trình dự án phát triển kinh tế gia đình, chăm sóc sức khoẻ phụ nữ trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng, phòng chống ma tuý, mại dâm, dự án nâng cao kiến thức giới...cho hội phụ nữ thực hiện và phối hợp với các ban ngành đoàn thể triển khai 3.2.2 Những nguyên nhân còn hạn chế trong công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình của huyện hội Thanh Liêm. Tuy hội phụ nữ từ huyện đến cơ sở đã có nhiều cố gắng tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Song quá trình tổ chức thực hiện chưa có sự đồng bộ phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan, công tác chỉ đạo còn chung chung. Đội ngũ cán bộ hội cơ sở còn thiếu kiến thức về pháp luật, kỹ năng truyền thông tư vấn, thiếu nhạy cảm trong nắm bắt và xử lý thông tin về gia đình. Do năng lực trình độ còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới của công tác vận động quần chúng phụ nữ trong tình hình mới, đặc biệt chưa làm tốt công tác tham mưu đề xuất với cấp uỷ Đảng chính quyền, cho nên việc tâp hợp hội viên phụ nữ còn gặp khó khăn. Mặt khác ảnh hưởng của phong tục tập quán cũ ở một số địa phương còn quá nặng nề đã đè nặng lên vai người phụ nữ như trọng nam khinh nữ, dùng quyền cha mẹ áp đặt trong hôn nhân, ma chay, cưới hỏi, phó thác việc gia đình, công việc nội trợ cho phụ nữ... tất cả những tiêu cực trên chưa được khắc phục đang là trở ngại lớn trong việc phát huy vai trò của phụ nữ đối với xây dựng gia đình. Ngày nay với xu thế hội nhập quốc tế, đa phương hoá các mối quan hệ bên cạnh những thành tựu thu được là thế mạnh phát triển kinh tế thì lại chịu ảnh hưởng của nền văn hoá ngoại lai. Nền văn hoá đó hàng ngày tác động đến từng gia đình làm mất đi giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Một số nơi cấp uỷ Đảng, chính quyền còn coi nhẹ chưa chú trọng đúng mức đến sự nghiệp phát triển văn hoá xã hội gắn liền với mục tiêu kinh tế xã hội thậm chí còn khoán trắng cho hội phụ nữ và các tổ chức đoàn thể quần chúng trong công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình. 3.3 Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm đẩy mạnh công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình. 3.3.1 Đổi mới phương thức lãnh đạo của hội liên hiệp phụ nữ huyện trong công tác xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình. Hằng năm các cấp hội cần đưa nội dung giáo dục vào chương trình công tác của mình có sơ tổng kết để động viên kịp thời phong trào phụ nữ tham gia xây dựng gia đình văn hoá và làng văn hoá. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các phòng, ban ngành, đoàn thể xã hội để chỉ đạo triển khai công tác giáo dục gia đình với các chương trình phát triển kinh tế địa phương. Mở rộng quan hệ phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng của huyện, xã, hệ thống đài truyền thanh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng để phản ánh các hoạt động về giáo dục gia đình, biểu dương những gương điển hình người tốt việc tốt trong tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy con tốt. Đồng thời lên án mạnh mẽ bạo lực gia đình và ngăn ngừa các tệ nạn xã hội đang xâm nhập và đe doạ sự bền vững của gia đình. Vận động tích cực phụ nữ tham gia thực hiện các phong trào về xây dựng gia đình văn hoá, các quy ước quy chế về nếp sồng văn hoá, tiếp tục học tập quán triệt 4 chuẩn mực no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và đăng ký thực hiện gia đình văn hoá. Đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt để thu hút, vận động, tập hợp hội viên đến với tổ chức hội. Đưa nội dung giáo dục gia đình đến với mọi đôi tượng phụ nữ và nhân dân thông qua các hình thức: sinh hoạt tổ, nhóm phụ nữ, câu lạc bộ phụ nữ, toạ đàm, gặp mặt, hội thi văn hoá văn nghệ, nói chuyện chuyên đề nhân ra diện rộng câu lạc bộ gia đình hạnh phúc ở 100% cơ sở hội để công tác giáo dục gia đình đạt hiệu quả và mang tính xã hội hoá cao. 3.3.2 Xây dựng đội ngũ cán bộ hội, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên chuyên sâu về vấn đề gia đình. Tao điều kiện cho đội ngũ này phát huy khả năng và hoạt động có hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ hội, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và đội ngũ báo cáo viên của hội phụ nữ luôn là một khâu quan trọng nhất trong mọị hoạt động cách mạng. Người lãnh đạo “ phải có óc nghĩ, mắt thấy, tai nghe, chân đi, miệng nói tay làm, chứ không chỉ để nói riêng, ngồi chờ mệnh lệnh’’. Vì thế phải thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng và đổi mới đội ngũ cán bộ các cấp đảm bảo cho họ có đủ năng lực, phẩm chất cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Trước mắt cần tập trung khắc phục những tồn tại của phong trào phụ nữ nói chung và công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình nói riêng để động viên phụ nữ phát huy vai trò của mình trong xây dựng gia đình. Thường xuyên chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên về công tác phụ vận của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời chuyên sâu về công tác gia đình trong thời kỳ mới. Đi đôi với công tác đào tạo bồi dưỡng, hội còn phải có chính sách động viên kịp thời những cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên có thành tích trong phong trào xây dựng gia đình, làng văn hoá và các hoạt động của hội để họ phấn khới yên tâm công tác, ra sức phát huy trí tuệ và năng lực sáng tạo của mình trong công việc. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ hội không chỉ giỏi về chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực gia đình mà còn phải coi trọng đến tiêu chuẩn cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có trí tuệ và năng lực tổ chức thực hiện, có kiến thức thực tiễn, không dao động trước mọi khó khăn, có quyết tâm cao thực hiện đường lối của Đảng. Dũng cảm đấu tranh chống các quan điểm, khuynh hướng tư tưởng và hành động sai trên mọi lĩnh vực. Những chuẩn mực trên gắn bó mật thiết với nhau và thống nhất hữu cơ với nhau tạo nên phẩm chất năng lực uy tín cho mỗi người cán bộ hội. Đó là điều không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ, tuyên truyền viên để phát huy vai trò của mình trong công tác chăm lo xây dựng gia đình bền vững, hạnh phúc. * Một số khuyến nghị Để cấp hội phụ nữ phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác chăm lo xây dựng gia đình. Tôi xin có một số khuyến nghị sau: Đối với cấp uỷ Đảng cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề gia đình, kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng lạc hậu và coi vấn đề gia đình là quan trọng và làm thường xuyên. Đưa vấn đề gia đình vào chương trình công tác hàng năm. Đối với chính quyền, các ban ngành đoàn thể đầu tư kinh phí cho hoạt động phối hợp để xây dựng gia đình “ no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc’’ đạt hiệu quả cao và góp phần xây dựng thôn xóm bình yên, gia đình hạnh phúc và phát triển bền vững. Đề nghị Trung ương hội tăng mức khen thưởng hàng năm về số lượng, đơn vị được tặng bằng khen. Tỷ lệ khen thưởng hiện nay còn thấp chưa thoả đáng, nhiều cơ sở hội đã đạt và vượt chỉ tiêu thi đua hàng năm đạt loaị xuất sắc chưa được khen thưởng. Phần kết luận Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào những chiến công chung của dân tộc. Song từ khi có Đảng ra đời lãnh đạo phụ nữ mới thực sự phát huy hết khả năng vốn có của mìnhtrong xây dựng đất nước và xây dựng gia đình. Ngày nay vấn đề phụ nữ không còn là vấn đề riêng biệt của từng quốc gia mà nó trở thành mối quan tâm chung của toàn cầu.Dưới sự lãnh đạo của Đảng , Hội LHPN Việt Nam đã xác định “tạo điều kiện cho phụ nữ thực sự được bình đẳng phát triển, thực hiện tốt nghĩa vụ công dânvà chức năng người mẹ là một trong những nhân tố quan trọng, đảm bảo cho sự thành côngcủa sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá” (nghị quyết Đại hội phụ nữ Việt Nam lầnVIII 1997) Thấm nhuần quan điểm chỉ đạo đổi mới nội dung và phương thức hoạt động phụ nữ trong thời kỳ đổi mớicủa Đảng,hướng dẫn các cuộc vận động và các phong trào do Trung ương Hội phát động. Hội LHPN huyện Thanh Liêm đã chủ động sáng tạo, đổi mới nội dung và phương thức vận động phụ nữ trong tình hình mới cụ thể: Hội đã tập trung vào công tác chăm lo gia đình, giúp gia đình hội viên phát triển kinh tế gia đình, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đổi mới các hình thức tuyên truyền, tranh thủ các nguồn kinh phí hỗ trợ để phục vụ cho công tác tập huấn cán bộ, sinh hoạt học tập nâng cao kiến thức cho phụ nữ. Tham gia có hiệu quả các chương trình chăm sóc sưc khoẻ phụ nữ trẻ em , phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội... Trong những năm qua, Hội LHPNhuyện Thanh Liêm được sự quan tâm của Đảng , chính quyền và các ban ngành đoàn thể trong huyện . Đặc biệt với sự năng động , nhiệt huyết trong công tác hội của đội ngũ cácn bộ hội, sự cố gắng học hỏi kinh nghiệm trong việc xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hội viên phụ nữ đã đưa phong trào huyện nhà ngày càng phát triển. Bản thân tôi là một cán bộ hội tương lai tôi đã chọn đề tài này làm tiểu luận tốt nghiệp của mình. Tiểu luận mới chỉ là một vài suy nghĩ ,nghiên cứu nhỏ tính chất cá nhân. Những giải pháp khuyến nghị trong tiểu luận đã nêu cũng giúp cho việc nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của các cấp hội phụ nữ trong toàn huyện đối với công tác gia đình đạt hiệu quả tốt. Mặc dù các giải pháp đã nêu không phải là tất cả đã phủ hợp với thực tế, một thực tế muôn màu muôn vẻ và luôn biến động. Với vốn kiên thức lĩnh hội được từ trường Cán bộ phụ nữ Trung ương và qua thời gian thực tế ở địa phương, cùng với sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của cô giáo – Thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Khánh tôi đã hoàn thành đề tài này. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cô, cùng các bạn để đề tài của tôi được phong phú hơn. Tài liệu tham khảo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào phụ nữ huyện Thanh Liêm, báo cáo của uỷ ban nhân dân huyện Thanh Liêm Các tài liệu của chương trình trung cấp phụ vận Và một số tài liệu khác Mục lục Phần mở đầu....................................................................Trang 1 Phần nội dung.......................................................................... 1Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài........................................ Cơ sở lý luận 1.1.1Nhận thức chung về gia đình 1.1.2Các quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Mính, của Đảng,của Hội LHPN Việt Nam về vấn đề gia đình Cơ sở thực tiễn 2.Thực trạng công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hội viên của Hội LHPN huyện Thanh Liêm 2.1 Khái quát đặc điểm chung tình hình huyện Thanh Liêm 2.2 Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hội viên của Hội LHPN huyện Thanh Liêm 2.2.1 Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình hội viên của Hội LHPN huyện Thanh Liêm về đời sống kinh tế 2.2.2 Công tác chăm lo xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình về văn hoá tinh thần 2.2.3 Công tác chăm lo về chăm sóc sức khoẻ sinh sản-dân số kế hoạch hoá gia đình 3. Một số kết quả, nguyên nhân, giải pháp và khuyến nghị 3.1. Một số kết quả thành công và hạn chế 3.1.1 Kết quả thành công 3.1.2. Những hạn chế 3.2. Một số nguyên nhân thành công và hạn chế 3.2.1. Nguyên nhân thành công 3.2.2. Một số hạn chế 3.3 Một số giải pháp và khuyến nghị Phần kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0316.doc
Tài liệu liên quan