Đề tài Đánh giá đồng EURO sau hơn 3 năm lưu hành

Với những cơ sở kinh tế và chính trị chín muồi như trên đã trình bày, đồng tiền chung châu Âu đã chính thức ra đời vào ngày 1/1/1999. Hơn 50 năm tồn tại và phát triển cho thấy Liên minh châu Âu quả là một hình thức mẫu mực thành công nhất về liên kết khu vực. Nhân dịp đồng EURO ra đời, ông Stuart Eizenstat, Thứ trưởng phụ trách các vấn đề kinh tế Mỹ đã phát biểu: “EURO ra đời là một phần của tiến trình phát triển EU cả về chiều rộng và chiều sâu, là sự mở rộng lôgíc của thị trường duy nhất, đảm bảo được vai trò quốc tế của EU trong tương lai”. Với sự ra đời của đồng EURO, người ta đặt rất nhiều hy vọng vào nó: đồng EURO sẽ nhanh chóng lật đổ được vai trò “thống trị” của đồng Đôla trên thị trường quốc tế; đồng EURO sẽ tạo ra một thế cân bằng mới trong hệ thống tiền tệ thế giới; đồng EURO sẽ cải thiện vài trò của châu Âu trên trường quốc tế. Những hy vọng đó không phải là không có căn cứ, bởi vì đồng EURO được hình thành dựa trên một nền tảng kinh tế, chính trị vững chắc và EMU bao gồm các nước có trình độ phát triển tương đối cao. Tuy nhiên, nếu kỳ vọng một cách thái quá và đặt quá nhiều hy vọng, thậm chí cả những hy vọng viển vông trước sự ra đời của đồng EURO thì sẽ chỉ dẫn đến một sự thất vọng trước bất kỳ biến động tiêu cực nào xung quanh đồng EURO cho dù những biến động đó có thực sự tác động tiêu cực đến kinh tế EMU hay không. Đó là một cách nhìn thiển cận về sự ra đời của đồng EURO. Do vậy, để có một cái nhìn khoa học về sự ra đời của đồng EURO và để đánh giá được đồng EURO có thành công hay không và thành công ở mức độ nào? Chúng ta cần xác định được rõ mục tiêu của việc nhất thể hoá tiền tệ châu Âu - đâu là mục tiêu chính và đâu là mục tiêu phụ đặt ra trong dài hạn.

doc30 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 945 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá đồng EURO sau hơn 3 năm lưu hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3, các nước thành viên EU đã nhận ra rằng: trong điều kiện khủng hoảng đó mọi cơ chế điều chỉnh tỷ giá đều trở thành kém hiệu quả hơn bao giờ hết. Mâu thuẫn ở đây là, trong khi các nước cố gắng xúc tiến hoạt động của một thị trường chung thống nhất song lại thiếu đi một chính sách tiền tệ chung và do vậy những lỗ lực đó khó mà đạt hiệu quả được. Vì vậy, Grainville, một chuyên gia kinh tế châu Âu đã khẳng định: “Nếu không có một đồng tiền chung thống nhất, thị trường thống nhất sẽ trở thành một thị trường bất công nhất”. Những điều này đã thôi thúc các nước thành viên EU hợp tác với nhau hơn nữa mà kết quả là thoả thuận về một đồng tiền chung đã ra đời. Việc lưu hành một đồng tiền chung cùng với việc xoá bỏ tỷ giá hối đoái khác nhau giữa các nước khác nhau trong khu vực tạo nên động lực cho khả năng tăng cường sức mạnh kinh tế, tăng cường sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ nói chung, đồng thời tăng tổng cầu trên toàn lãnh thổ châu Âu (do giá hàng hoá tiêu dùng sẽ giảm vì phạm vi lựa chọn và cơ hội lựa chọn của người tiêu dùng cũng tăng lên). Điều đó dự báo cho một tương lai châu Âu đầy triển vọng trong một sự hợp tác về cả chiều rộng và chiều sâu, có khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thế giới cụ thể là Mỹ và Nhật Bản. Bảng 1: Tương quan về thị phần giữa EU, Nhật Bản và Mỹ (1998)- (%) Khu vực GDP (so với thế giới) Xuất khẩu (so với thế giới) Mức tăng GDP Lạm phát Bội chi ngân sách EU 15,5 30 2,9 1,6 2,6 Mỹ 20,4 13,7 3 2,3 0,3 Nhật 7,7 7,1 0 1,7 7,1 Nguồn IMF (1998), IMI (1998) 1.3. Cơ sở chính trị Ngoài những sơ sở kinh tế đã trình bầy như trên, sự ra đời của đồng EURO còn được cho là xuất phát từ các cơ sở chính trị nữa. Theo đa số các nhà phân tích châu Âu, thì đó là ba cơ sở chính trị quan trọng sau: a. Thứ nhất: Đó là sự tan rã của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa. Điều này đã làm thay đổi cục diện chính trị thế giới khi quyền lực ngày càng tập trung vào Mỹ, vì vậy việc hình thành một Liên minh châu Âu với sự phát triển kinh tế vững chắc và một đồng tiền chung ổn định có khả năng chi phối đáng kể thị phần thế giới sẽ trở thành một đối trọng trong các thoả thuận liên quan đến an ninh và trật tự thế giới. b. Thứ hai: Sự hình thành đồng tiền chung châu Âu xuất phát từ những ý tưởng chính trị nghiêm túc của các chính trị gia châu Âu đồng thời đó là kết quả của những cuộc dàn xếp chính trị khó khăn và vất vả giữa các nhà lãnh đạo ở khu vực này từ ngày mới thành lập cộng đồng cho đến nay. Hãy nhìn lại lịch sử ra đời đồng EURO ta sẽ thấy rõ hơn điều này: + Sau chiến tranh thế giới II, châu Âu đã lập lại trật tự thế giới mới với một bên là Tây âu chịu ảnh hưởng của Mỹ và bên khác là Đông âu chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Những hậu quả do chiến tranh gây ra đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngân sách của các quốc gia có chủ quyền hạn chế. Chính vì thế, để khôi phục kinh tế, ý tưởng mở rộng cơ sở lãnh thổ hành chính của những quốc gia này tới qui mô khu vực Tây âu được hình thành. Như vậy cơ cấu tổ chức quốc gia đã có thể chuyển thành liên hiệp châu Âu. Rút kinh nghiệm từ những thất bại trước, ông Jean Monnet - nhà ngoại giao Pháp, được gọi là người cha của châu Âu đã vạch ra phương hướng hoạt động cho giai đoạn đầu liên kết. Là tác giả và cũng là người chỉ huy kế hoạch hiện đại hoá nền kinh tế Pháp, ông Jean Monnet biết rõ nền kinh tế Pháp đang ở đâu so với nền kinh tế Cộng hoà liên bang Đức. Với kinh nghiệm và hiểu biết của mình về bối cảnh thế giới bấy giờ, về quan hệ trước đây và hiện nay giữa hai nước Pháp và Đức, ông cho rằng: Các nước đồng minh không thể tiếp tục những khống chế đối với nền kinh tế của Cộng hoà liên bang Đức, nhưng cũng rất nguy hiểm nếu để cho người Đức tự do hành động. Về quan hệ Pháp-Đức, ông cho rằng: Một trong những nguyên nhân gây ra hiềm khích giữa hai nước là việc phân chia không hợp lý đường biên giới thiên nhiên chung đối với vùng tam giác tài nguyên than và sắt trên lãnh thổ của hai nước và theo ông, để ngăn chặn nguy cơ Cộng hoà liên bang Đức tái vũ trang, cần phải có biện pháp khống chế hai sản phẩm chủ yếu và quan trọng lúc đó của nền công nghiệp chiến tranh đó là than và thép. Từ ý tưởng đó cùng với ý tưởng về một liên minh châu Âu, ông Jean Monnet đã “thai nghén” tuyên bố Schuman và coi như một đề nghị của Pháp mà các bộ trưởng ngoại giao Mỹ và Anh được chính thức thông báo vào ngày 10/5/1950 tại Landus. Theo tuyên bố này, chính phủ Pháp đề nghị: “đặt toàn bộ nền sản xuất than thép của CHLB Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung (Haute Autorite Commune), trong một tổ chức “mở cửa” để các nước châu Âu khác cùng tham gia. Bản tuyên bố nêu rõ đề nghị trên đây của Pháp nhằm đặt nền móng đầu tiên cho một “Liên bang châu Âu” để gìn giữ hoà bình”. Như vậy là tuyên bố Schuman, còn được gọi là kế hoạch Schuman, đã được xem như là “giấy khai sinh” cộng đồng châu Âu. Cộng hoà liên bang Đức hoan nghênh sáng kiến trên đây của Pháp và coi đó là biểu hiện của việc Pháp đã chủ động hoà giải và đối xử bình đẳng với Cộng hoà liên bang Đức. Từ lâu, Cộng hoà liên bang Đức đã chờ đợi một cử chỉ thiện chí của Pháp. Thủ tướng Cộng hoà liên bang Đức, ông Kót-Andenauer đã có lần nói với các nhà báo: “Điều rõ ràng là nếu một thị trường có người Pháp và người Đức cùng nhau hành động, cùng nhau gánh vác trọng trách chung thì đó sẽ là một bước tiến quan trọng về phía trước”. Và chính sự thoả thuận giữa hai nước này là cơ sở để ra đời Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) vào ngày 13/7/1952 với 6 thành viên ban đầu là Đức, Pháp, Italia, Bỉ, Hi Lạp, Lúc-xăm-bua, và sự hợp tác hơn nữa trong khu vực về sau này. + Chính phủ Anh đón nhận tuyên bố Schuman một cách lạnh nhạt, chỉ trích việc thành lập ECSC vì nó đụng chạm đến chủ quyền dân tộc. Nhưng sự ra đời tiếp theo của EEC và Euratom lại làm họ lúng túng. Thất bại trong ý đồ thành lập “Khu vực mậu dịch châu Âu rộng lớn” bao gồm các nước thuộc EEC và các nước còn lại của OECD (tổ chức hợp tác phát triển châu Âu), Anh chủ trương thành lập “Khu vực mậu dịch tự do châu Âu hẹp” bao gồm Anh, Na-uy, Thuỵ Điển, Đan Mạch, áo, Bồ Đào Nha, Thuỵ Sỹ, Phần Lan và Ireland. Tuy nhiên, do mục tiêu đơn thuần về kinh tế nên kế hoạch này đã không giúp cho Anh nâng cao được vị trí tại Tây Âu và trên trường quốc tế, nước Anh lại cô lập. Trong khi đó EC đã ít nhiều đạt được thành tựu về kinh tế và chính trị. Trước tình hình đó, chính phủ Anh đã thay đổi ý định và ngày 9/8/1961 tuyên bố chính thức gia nhập EEC. Cuộc đàm phán giữa Anh và EEC bắt đầu từ ngày 9/11/1961 diễn ra một cách khó khăn. Phía Anh đòi EEC phải sửa đổi chính sách về nông nghiệp. Cuộc tranh chấp đang xảy ra quyết liệt thì vào ngày 14/11/1963, tổng thống Pháp, tướng De-Gaulla đã tuyên bố phủ quyết Anh vào EEC. Đến ngày 10-11/5/1967, chính phủ Anh một lần nữa xin gia nhập EEC. Tiếp theo đó là Đan mạch, Ireland và Na-uy. Giai đoạn đầu của cuộc trao đổi diễn ra vẫn rất khó khăn mặc dù chính phủ Anh có đặt ít điều kiện hơn. Cuối cùng hai bên cũng phải nhân nhượng và đi đến ký kết Hiệp ước ngày 22/1/1972. Kể từ ngày 1/1/1973, EC chính thức thêm 3 thành viên mới là Anh, Ireland và Đan mạch và trở thành EC - 9. Bất đồng giữa Anh và EEC được giải quyết đã mở ra triển vọng mới cho sự hợp tác hơn nữa giữa các nước trong khu vực. Và sau 3 lần mở rộng tiếp theo đó, số lượng thành viên của liên minh hiện nay là 15, một liên minh ngày càng lớn mạnh về nhân lực, nhất là đội ngũ đông đảo các quốc gia có nền kinh tế phát triển và có ảnh hưởng trên thế giới. c. Thứ ba: Sự hình thành đồng tiền chung châu Âu là kết quả tất yếu của mong muốn chia sẻ quyền lực tiền tệ giữa các quốc gia thành viên EU: một mặt đảm bảo lợi ích các quốc gia thành viên trong các quan hệ kinh tế, mặt khác hạn chế quyền lực của Đức trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến tiền tệ. Sự kiện tái hợp nước Đức (Đông và Tây Đức) là một trong những tác động trực tiếp thúc đẩy sự nhất trí đưa đến Hiệp ước Maastricht (năm 1990, tổng thống Pháp đề xuất nước Đức chia sẻ quyền lực tiền tệ để đổi lấy sự đồng ý thống nhất nước Đức của các nước đồng minh). Thời gian đó, đồng DM có sức mạnh trong hệ thống tiền tệ thế giới chỉ sau Đôla. Khi ấy nước Đức như một anh cả về kinh tế trong các nước EC. Vì vậy, để tất cả các nền kinh tế khác lớn mạnh, điều cần phải làm là phải không để quyền lực tiền tệ rơi vào tay nước Đức. Bức tranh chính trị của châu Âu những năm 91-92 biến đổi sâu sắc, mau lẹ. Đứng trước bối cảnh đó, để sớm ổn định tình hình và chấm dứt tình trạng đối đầu về chính trị, các nước EU xúc tiến mạnh việc nhất thể hóa thị trường nhằm giảm bớt những khác nhau về quan điểm trong các thương lượng chính trị đó và cũng là nhân tố thúc đẩy Hiệp ước Maastricht ra đời. Có thể nói, sự ra đời của EURO là kết quả của sự thay đổi sâu sắc của bức tranh địa lý, chính trị của châu Âu vào thời điểm này. 2. Mục tiêu của việc nhất thể hoá tiền tệ châu Âu Với những cơ sở kinh tế và chính trị chín muồi như trên đã trình bày, đồng tiền chung châu Âu đã chính thức ra đời vào ngày 1/1/1999. Hơn 50 năm tồn tại và phát triển cho thấy Liên minh châu Âu quả là một hình thức mẫu mực thành công nhất về liên kết khu vực. Nhân dịp đồng EURO ra đời, ông Stuart Eizenstat, Thứ trưởng phụ trách các vấn đề kinh tế Mỹ đã phát biểu: “EURO ra đời là một phần của tiến trình phát triển EU cả về chiều rộng và chiều sâu, là sự mở rộng lôgíc của thị trường duy nhất, đảm bảo được vai trò quốc tế của EU trong tương lai”. Với sự ra đời của đồng EURO, người ta đặt rất nhiều hy vọng vào nó: đồng EURO sẽ nhanh chóng lật đổ được vai trò “thống trị” của đồng Đôla trên thị trường quốc tế; đồng EURO sẽ tạo ra một thế cân bằng mới trong hệ thống tiền tệ thế giới; đồng EURO sẽ cải thiện vài trò của châu Âu trên trường quốc tế... Những hy vọng đó không phải là không có căn cứ, bởi vì đồng EURO được hình thành dựa trên một nền tảng kinh tế, chính trị vững chắc và EMU bao gồm các nước có trình độ phát triển tương đối cao... Tuy nhiên, nếu kỳ vọng một cách thái quá và đặt quá nhiều hy vọng, thậm chí cả những hy vọng viển vông trước sự ra đời của đồng EURO thì sẽ chỉ dẫn đến một sự thất vọng trước bất kỳ biến động tiêu cực nào xung quanh đồng EURO cho dù những biến động đó có thực sự tác động tiêu cực đến kinh tế EMU hay không. Đó là một cách nhìn thiển cận về sự ra đời của đồng EURO. Do vậy, để có một cái nhìn khoa học về sự ra đời của đồng EURO và để đánh giá được đồng EURO có thành công hay không và thành công ở mức độ nào? Chúng ta cần xác định được rõ mục tiêu của việc nhất thể hoá tiền tệ châu Âu - đâu là mục tiêu chính và đâu là mục tiêu phụ đặt ra trong dài hạn. Nhìn lại lịch sử ra đời đồng EURO, ta thấy tương ứng với mỗi một cấp độ hợp tác thì sẽ có mục tiêu tương ứng. Ngày nay, khi sự hợp tác đã ở mức cao nhất -Liên minh kinh tế và tiền tệ, thì mục tiêu chính đặt ra cũng ở mức độ cao hơn, thể hiện rõ được mức độ hợp tác của Liên minh. Trong hàng ngàn trang văn bản của Hiệp ước Maastricht, EMU đều đề ra một mục tiêu mang tính chất chiến lược đó là: ổn định giá cả, thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước thành viên, tạo đà phát triển kinh tế các nước EMU nói riêng và cả Liên minh châu Âu nói chung, lấy tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu trên cơ sở đó giải quyết các vấn đề nóng bỏng của liên minh đó là thất nghiệp và việc làm. Như vậy ta thấy EMU đánh giá cao mức độ tăng trưởng kinh tế, đây là mấu chốt của mọi vấn đề, là cơ sở để khắc phục những khó khăn khác trong nội bộ Liên minh. Do đó mà tiêu chí tăng trưởng kinh tế trở thành tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá xem sự ra đời của EURO có thành công hay không? Ngoài mục tiêu chính trên, EMU còn đề ra các mục tiêu khác, đó là các mục tiêu sau: 1-Tạo ra một thị trường tài chính tiền tệ thống nhất trong toàn khu vực châu Âu EU là khu vực chịu tác động trực tiếp của đồng tiền chung. Thị trường ngoại hối nội khối giữa các đồng tiền châu Âu mất đi. Các nước châu Âu cũng không còn phải dùng đồng USD như trước kia để làm trung gian chuyển đổi giữa các nước EU. Do đó, EURO giúp cho nền kinh tế các nước thành viên ít bị đe doạ trước những dao động về tỷ giá hối đoái từ bên ngoài vào vì vai trò của đồng tiền thứ ba USD trong khu vực này sẽ bị giảm. Mặt khác, trước đây do việc sử dụng nhiều đồng tiền khác nhau, nên xuất hiện tình trạng nước có đồng tiền mạnh sẽ thu được nhiều lợi thế hơn, gây ra tình trạng thiếu thống nhất và bình đẳng trong toàn khu vực. Nay với đồng EURO, các hoạt động của thị trường ngoại hối thế giới có ba cặp chính là: EURO/USD, YEN/USD, EURO/YEN. Cùng với sự ra đời của đồng EURO, vai trò của Mark suy giảm, làm giảm đáng kể một khoản thu nhập từ đồng tiền này của Đức (theo tạp chí “Tấm gương”số 27/99 thì năm 1996 Đức đã lãi 8,8 tỷ Mark nhờ bán đồng tiền của mình thông qua ngân hàng liên bang Đức). Từ nay những khoản lãi nhờ phát hành đồng tiền EURO thuộc ECB quản lý và phân lãi sẽ phân lãi cho tất cả các quốc gia thành viên. Điều này sẽ tạo ra sự bình đẳng và thống nhất giữa các nước thành viên. Bảng 2: Các nước thu nhập nhiều thêm và các nước thu nhập ít đi sau khi đồng EURO ra đời Nhiều Số lượng (tỷ Mark) ít Số lượng (tỷ Mark) Pháp 46,9 Đức 51,4 Italia 18,5 Tây Ban Nha 21,4 Bồ Đào Nha 6,5 áo 4,1 Ireland 6,1 Hà Lan 3,2 Lucxemburg 0,5 Bỉ 0,2 Nguồn: Center for Economic Studies, 1998 Việc ra đời đồng EURO sẽ giúp hợp nhất các thị trường tài chính tiền tệ trong khối với các mức lãi suất ngắn hạn như nhau. Điều này giúp cho công trái nhà nước tăng mạnh. Đối với cổ phiếu, thị trường này sẽ tăng chậm hơn do chịu ảnh hưởng của mức thuế và luật lệ các nước khác nhau. Quan điểm đầu tư chứng khoán sẽ thay đổi theo ngành công nghiệp chứ không phải theo quốc tịch như trước (trước kia, các công ty muốn đầu tư chứng khoán ra ngoài thì không được vượt quá 20% số vốn do lo ngại rủi ro về tỷ giá, nay những cản trở này không còn trong khu vực EURO). Với một thị trường thống nhất, các công ty trong nội bộ EU sẽ có nhiều điều kiện vay vốn trực tiếp trên thị trường mà không phải qua trung gian ngân hàng (hiện nay tín dụng ngân hàng trung bình chiếm 50% vốn của các xí nghiệp châu Âu; ở Pháp và Đức tỷ lệ này là 70%, Tây Ban Nha là 80%, trong khi ở Mỹ chỉ có 20%). Ngoài ra đồng EURO sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các thị trường tài chính châu Âu đặc biệt là với thị trường Lon đôn vốn được coi là trung tâm tài chính châu Âu từ trước đến nay. Đồng tiền chung sẽ tạo ra cơ hội giúp Đức và Pháp xây dựng và phát triển thị trường tài chính của mình. Đối với các ngân hàng, đồng tiền chung sẽ có tác động trực tiếp đụng chạm đến toàn bộ vấn đề tổ chức của ngân hàng: thanh toán, thông tin, quan hệ liên ngân hàng..., lúc này hệ thống các ngân hàng sẽ phải điều chỉnh lại sao cho thống nhất, dưới sự điều hành của ngân hàng trung ương của từng nước, cao nhất là sự điều hành của Ngân hàng trung ương châu Âu-ECB. Chắc chắn rằng công việc của ECB và các ngân hàng các nước thành viên sẽ phức tạp và khó khăn hơn ở giai đoạn đầu, nhưng với chính sách tiền tệ thống nhất của ECB và tinh thần “đoàn kết” của các nước thành viên, EMU sẽ vượt qua được những thử thách này. 2-Cải thiện vai trò của châu Âu trên trường quốc tế Sự ra đời của đồng EURO sẽ góp phần nâng cao vị thế của châu Âu trên trường quốc tế, đồng thời đưa châu Âu lên một tầm cao mới: * Trước hết, thống nhất tiền tệ như một làn gió mới mang đến cho châu Âu một sức mạnh mới. Thống nhất tiền tệ là bằng chứng khẳng định chân lý “đoàn kết tạo ra sức mạnh”. Thống nhất tiền tệ tổng hợp sức mạnh và tiềm năng của cả châu Âu vào một khối, tạo cho châu Âu một vị thế mới hùng mạnh hơn trên trường quốc tế để tiến vào thế kỷ XXI với sức cạnh tranh ngang ngửa với Mỹ, vượt xa Nhật Bản. *Hai là lưu hành đồng tiền chung duy nhất cùng với vận hành Liên minh kinh tế tiền tệ đã đưa châu Âu tới đỉnh điểm của sự phát triển, xét trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hoá kinh tế. Nếu như trước đây châu Âu được mệnh danh là châu lục già cỗi, thiếu sự thống nhất cao trong cạnh tranh quốc tế, thì sự ra đời của đồng tiền EURO sẽ là một trong những yếu tố cơ bản giúp châu Âu vững vàng tiến bước trên con đường toàn cầu hoá kinh tế và đủ sức mạnh đương đầu với cuộc cạnh tranh quyết liệt với Mỹ, Nhật và với cả Trung quốc, Nga sau này. Đó là hệ quả của nguyên lý “đoàn kết tạo ra sức mạnh”. 3-Tạo thế cân bằng mới trong hệ thống tiền tệ quốc tế Như mọi người đều biết, Hiệp định Bretton Woods (1944) đã đưa ra 3 quyết định quan trọng: thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế, thành lập ngân hàng thế giới và xác lập hệ thống tỷ giá cố định dựa trên cơ sở quy định chuyển đổi đô la Mỹ ra vàng theo giá 35 USD/1 ouce vàng. Chính quyết định này đã tạo ra điều kiện tiên quyết cho việc đô la hoá thế giới sau này. Thật vậy, từ sau Bretton Woods, USD nghiễm nhiên trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế và chính thức độc chiếm ngôi hoàng đế trong đời sống tiền tệ thế giới. Mặc dù đến tháng 8/1971 khi tuyên bố ngừng đổi tự do USD ra vàng, tổng thống Ních xơn đã đặt dấu chấm hết cho hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods. Nhưng vị trí của đồng đô la Mỹ trên trường quốc tế vẫn còn rất lớn. Hiện nay, đồng USD đang chi phối mạnh mẽ quan hệ tiền tệ thế giới. Đô la Mỹ được sử dụng đến 50% trong các giao dịch hoạt động thương mại và 80% trên thị trường hối đoái quốc tế nhưng xuất khẩu của Mỹ chỉ chiếm khoảng 16-18% xuất khẩu của thế giới. Hơn nữa, thâm hụt tài khảon vãng lai của Mỹ mỗi ngày một trầm trọng: năm 1991 mới chỉ có 4,4 tỷ USD nhưng đã tăng nhanh chóng lên 230 tỷ vào năm 1998. Rõ ràng đang có sự mất cân đối giữa vị trí thương mại của Mỹ và ảnh hưởng của đồng USD đến hệ thống tiền tệ thế giới. Sự mất cân đối đó làm mất ổn định hệ thống tiền tệ quốc tế và EURO sẽ thay đổi tình trạng này. Lập lại cân bằng giữa mức độ sử dụng tiền tệ với tỷ trọng thương mại mà đồng tiền đó đại diện sẽ tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế vĩ mô và hợp tác tiền tệ quốc tế, đặc biệt sẽ làm giảm đáng kể biên độ biến động tỷ giá hối đoái. Và như vậy, khi phân chia lại quyền lực tiền tệ, tất cả các nước chứ không phải chỉ riêng châu Âu sẽ cùng có lợi. Trong bối cảnh đấy, việc cho ra đời đồng EURO sẽ làm cho vai trò độc tôn của USD giảm đi đáng kể. Thế giới sẽ bớt lệ thuộc vào USD hơn, rủi ro về biến động tỷ giá sẽ được phân tán, hệ thống tiền tệ thế giới do đó sẽ có cơ sở ổn định hơn. Đến cuối năm 1995, có 56,4% dự trữ ngoại tệ quốc tế bằng USD, 25,8% bằng đồng ECU và 7,1% bằng đồng YEN Nhật tỷ lệ đó tương ứng trên thị trường hối đoái thế giới tháng 4/1995 tương ứng là 41,5%, 35% và 12%; trong tổng kim ngạch buôn bán quốc tế năm 1992 là 48%, 31% và 5%. EURO ra đời còn được như là một nhân tố mới góp phần chuyển dịch sự cân bằng của hệ thống tiền tệ toàn cầu hướng về một thế giới tiền tệ đa cực USD, EURO và YEN. Sự thống trị của riêng “hoàng đế USD” trong thế giới tiền tệ sẽ chưa sớm chấm dứt. EURO đã ra đời, YEN Nhật đã được kích hoạt và sẽ sớm trở nên tích cực hơn. Ba đồng tiền này sẽ cùng vươn tới hoàn thiện chức năng tiền tệ quốc tế của mình và nhờ đó, thế giới sẽ cùng hưởng lợi. 4-Tăng cường xu thế khu vực hóa trong nền kinh tế thế giới Thật vậy, ta biết rằng thế giới của hội nhập quốc tế và khu vực hóa phát triển theo 5 cấp độ, từ khu vực mậu dịch tự do đến liên minh hải quan, khối thị trường chung, xây dựng liên minh kinh tế và cuối cùng là liên minh kinh tế và tiền tệ. Hiện nay, Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu là trường hợp duy nhất trên thế giới đạt được mức thống nhất tiền tệ. Hãy nhìn lại châu á, các nước ASEAN mới đang dừng ở mức “hiệp hội” (xin nhấn mạnh hiệp hội chứ không phải là cộng đồng kinh tế) và Hiệp hội các nước đông nam á của chúng ta đang nỗ lực phấn đấu xây dựng khu vực mậu dịch tự do AFTA vào năm 2003 trở ra. Đương nhiên trong bối cảnh mới, những người đi sau có thể tiết kiệm phần nào thời gian nhưng không thể bỏ qua các bước của tiến trình vận động. Nói như vậy để thấy được sự vĩ đại của EMU và gắn liền với nó là đồng EURO. 5-Tạo ra một sự hợp tác nhất định về chính trị giữa các nước thành viên, tạo cơ sở cho một liên minh chính trị trong tượng lai. Nhất thể hoá kinh tế châu Âu đã phát triển đến trình độ cao mà đỉnh điểm của nó là sự ra đời của EMU. Nhưng so với nhất thể hoá kinh tế thì nhất thể hóa chính trị của EU lại tỏ ra lạc hậu hơn rất nhiều. EU không phải là một nhà nước liên bang, một đơn vị chính trị thống nhất của các quốc gia có chủ quyền, thậm chí việc xây dựng một liên minh chính trị với ý nghĩa thông thường nhất (tức là xây dựng EU trở thành một thực thể pháp lý độc lập có ý trí tương đối khác biệt so với các nước thành viên) cũng chưa bắt đầu. Trong EU không có những lợi ích dân tộc được thống nhất ở một mức độ cao, vì vậy khi chính sách tiền tệ chung mâu thuẫn với lợi ích của từng nước thành viên thì rất dễ xảy ra xung đột. Do đó, Liên minh chính trị châu Âu là cần thiết đối với liên minh tiền tệ, tuy nhiên không phải là dưới góc độ “Liên minh chính trị là hậu quả của Liên minh tiền tệ mà phải là tiền đề và điều kiện cho sự phát triển của nó”. Bởi vì: + Chính sách tiền tệ chung nhất thiết phải có một sự phối hợp với chính sách tài chính trên phạm vi châu Âu. Mà bản thân sự phối hợp chính sách tài chính giữa các quốc gia lại đòi hỏi một sự đồng thuận nhất định về chính trị. + Hầu như ở khắp các nước châu Âu, nhà nước phúc lợi xã hội đang lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính sâu sắc. Đứng trước tình hình này, xuất hiện xu hướng cắt giảm dần những khoản chi cho mục tiêu bảo hiểm xã hội ở nhiều nước. Bên cạnh đó, cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước EMU nhằm giảm chi phí sản xuất cũng đòi hỏi phải loại bỏ dần những chi phí bảo hiểm xã hội vì nó phụ thuộc vào chi phí lương của doanh nghiệp. Để tránh những khả năng có thể dẫn đến ngày càng hạ thấp các tiêu chuẩn xã hội, trong toàn EU cần có sự hợp tác về chính sách xã hội. Bản thân sự phối hợp về chính sách xã hội giữa các nước cũng cần phải có sự nhất trí về chính trị. + Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước trong khu vực đồng EURO là khá lớn. Để những nước nghèo và kém phát triển trong EU không trở thành những nước với quy chế thường xuyên đứng “ngoài rìa”, thì sự phát triển của chúng phải trở thành nhiệm vụ chung của toàn EU, và được thực hiện thông qua sự tợ cấp và chu chuyển tài chính từ những nước giầu trong liên minh. Điều này chỉ có khả năng thực hiện được với một sự nhất trí về chính trị giữa các nước thành viên trong EU. + Việc Liên minh tiền tệ châu Âu tồn tại bên ngoài một Liên minh chính trị là một điều rất đáng lo ngại, bởi nó đe doạ sự tồn tại của chính liên minh tiền tệ. Những hợp đồng tiền tệ thuần tuý giữa các nhà nước đều không bên vững và lâu dài. Việc giải tán một liên minh chính trị cũng sẽ dẫn đến việc giải tán một liên minh tiền tệ. Như vậy việc đồng EURO ra đời với mục tiêu chính là tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực EMU nói riêng và toàn EU nói chung sẽ phần nào góp phần vào việc thực hiện mục tiêu hợp tác chính trị cho dù ở một phạm vi rất hạn chế. Bởi vì hiện tại nói tới một liên minh chính trị châu Âu là còn quá sớm nếu không muốn nói là quá xa vời. Trên đây là những mục tiêu mà EMU đã đặt ra. Mặc dù có những cơ sở nhất định để hình thành các mục tiêu này nhưng việc có đạt được hay không và đạt được ở mức độ nào lại là cả là một vấn đề mà chúng ta không thể nói được ngay bây giờ. Thời gian sẽ giúp chúng ta dần trả lời câu hỏi này. II. Những lợi ích và chi phí phải bỏ ra đối với việc nhất thể hóa tiền tệ châu Âu. Châu âu (Tây Âu) được phát triển theo một trình tự lôgíc, từ Cộng đồng châu Âu, ra đời trên cơ sở tiền thân Cộng đồng than thép (1951), đến Liên minh châu Âu; Từ Cộng đồng kinh tế (thị trường chung) phát triển thành Liên minh kinh tế và chính trị; Từ “rổ tiền tệ - ECU” phát triển thành đồng tiền thực thụ, duy nhất châu Âu - đồng EURO. Trải qua những lần mở rộng, Liên minh châu Âu hiện có 15 quốc gia thành viên, trong đó 12 quốc gia đã tham gia EMU, còn lại 3 quốc gia chưa nhập Liên minh tiền tệ. Không phải ngẫu nhiên 12 nước Đức, Pháp, Ailen, áo, Bỉ, Hà lan, Bồ Đào Nha, Lúc-xăm-bua, Phần Lan, Tây Ban Nha, Italia và Hi Lạp lại sẵn sàng tiến hành những cải cách kinh tế phức tạp, thực hiện chế độ thắt lưng buộc bụng để có thể đáp ứng đầy đủ các tiêu chí gia nhập EMU đầy khắt khe và cũng không phải ngẫu nhiên 3 nước Anh, Đan mạch và Thuỵ điển lại chần chừ chưa gia nhập EMU. Cái gì cũng có nguyên nhân sâu xa bên trong của nó. Cũng giống các liên kết khu vực khác, Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu EMU không tránh khỏi những thiếu sót bên cạnh những thành công mà nó tạo ra. Những nước tham gia EMU vì họ thấy rằng thông qua EMU họ sẽ thu được nhiều lợi ích hơn những chi phí mà họ phải bỏ ra, ngược lại những nước chưa tham gia vì họ còn lo ngại trước những khoản chi phí mà họ phải gánh chịu. Vậy những lợi ích và chi phí mà EMU phải bỏ ra là gì? Câu trả lời sẽ nằm trong phần II này. 1. Những lợi ích của nhất thể hoá tiền tệ châu Âu. Trong mỗi liên minh tiền tệ (MoneytaryUnion - MU) giữa hai hay nhiều nước đều bao gồm hai bộ phận chính là: liên minh tỷ giá và liên kết hoàn toàn thị trường vốn. Liên minh tỷ giá là việc các nước thành viên cam kết với nhau duy trì tỷ giá cố định thường xuyên với biên độ dao động bằng 0 (nghĩa là tỷ giá không thể điều chỉnh trong bất cứ trường hợp nào); như vậy, trên thực tế liên minh tỷ giá giống như việc tạo ra một đồng tiền chung; theo lôgíc thì một đồng tiền chung sẽ ra đời để thay thế cho liên minh tỷ giá. Liên kết hoàn toàn thị trường vốn có nghĩa là mọi cản trở trong chu chuyển vốn giữa các nước thành viên đều được dỡ bỏ; ngoài ra, liên kết hoàn toàn thị trường vốn còn yêu cầu mọi đối xử trên thị trường vốn giữa các nước thành viên phải được công bằng và bình đẳng. Xuất phát từ nguyên tắc đó, việc cho ra đời đồng EURO sẽ đem lại những lợi ích sau đây: 1.1. Lợi ích quan trọng nhất mà các nước thành viên tham gia thu được là: kích thích phát tiển thương mại trong nội bộ EU, tạo đà phát triển kinh tế các nước thành viên Đặc trưng cơ bản của EU là việc dỡ bỏ những hàng rào thương mại để kích thích tăng khối lượng thương mại trong nội bộ EU nhằm mục đích cuối cùng là đẩy mạnh sự phồn vinh kinh tế của các nước thành viên. Để đạt được khối lượng thương mại tối đa và một thị trường chung thực sự cho tất cả các nước thuộc EU, đòi hỏi phải có một phương tiện chung duy nhất, tức phải tạo ra một đồng tiền chung cho tất cả các nước EU. Thực tế đã chỉ ra rằng, những đồng tiền quốc gia khác nhau thường xuyên biến động đã hạn chế khối lượng thương mại. Điều này xảy ra là vì, khi các đồng tiền biến động làm cho kết quả kinh doanh của các công ty thương mại cũng biến động (tức kết quả kinh doanh của các công ty là không chắc chắn), để hạn chế sự không chắc chắn của kết quả kinh doanh, do đó làm phát sinh các chi phí bổ sung, tức làm giảm lợi nhuận kinh doanh và kéo theo là làm giảm khối lượng giao dịch thương mại. Lý lẽ này là thuyết phục và rất quan trọng thúc đẩy sự hình thành một đồng tiền chung châu Âu. Một số ý kiến không đồng tình với lý luận trên và cho rằng sự biến động của tỷ giá trong ngắn hạn có thể dễ dàng được bảo hiểm và ảnh hưởng của biến động tỷ giá đến khối lượng thương mại là không đến kể; điều này bao hàm ý rằng những lợi ích mà đồng tiền chung mang lại có thể chỉ là rất nhỏ. Tuy nhiên, các tác giả Peree và Steinherr (trong một tuyên bố vào năm 1989) đã chỉ ra rằng vấn đề này không phải là những biến động trong ngắn hạn có thể dễ dàng bảo hiểm, mà vấn đề cơ bản lại là những biến động trong trung hạn và dài hạn, bởi vì trên thực tế các thị trường kỳ hạn có kỳ hạn trung hạn và dài hạn chưa phát triển. Họ đã chứng minh rằng, những biến động trung hạn và dài hạn đã hạn chế rất nhiều đến khối lượng thương mại quốc tế, do đó một liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung mới thực sự loại bỏ được những biến động trong trung và dài hạn, thực sự kích thích phát triển thương mại giữa các nước thành viên. Một động lực khác kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối EU đó là việc hạn chế được các chi phí giao dịch liên quan đến chuyển đổi các đồng tiền khác nhau. Chi phí giao dịch này bao gồm chi phí về thời gian và chi phí về hoa hồng trả cho ngân hàng. Hội đồng châu Âu đã dự tính rằng khoản tiết kiệm hàng năm từ các giao dịch này vào khoảng 0,4% GDP của EU. 1.2 Việc đồng EURO ra đời sẽ làm cho các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả hơn trong EU Ngoài việc tạo ra một đồng tiền chung, EMU còn bao gồm việc dỡ bỏ hoàn toàn các hạn chế trong chu chuyển vốn và xoá bỏ mọi phân biệt đối xử đối với vốn tài chính giữa các nước EU. Thực tế đã chỉ ra rằng, trong quá khứ giữa các nước EU do đã áp dụng các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn và có sự phân biệt đối xử vốn tài chính làm cho các nguồn vốn trong nội bộ EU không được phân bổ tối ưu. Không còn nghi ngờ gì nữa, một khi đã xoá bỏ hoàn toàn các biện pháp kiểm soát tỷ gía (tức tạo ra đồng tiền chung) sẽ tạo điều kiện để các nguồn vốn được phân bổ có hiệu quả nhất trong nội bộ EU. Tương tự, khi tiền lương và thu nhập được tính bằng một đồng tiền chung, EMU sẽ cho phép phân bố tốt hơn nguồn lực lao động, nghĩa là lao động sẽ tự do lưu chuyển từ khu vực có năng suất lao động thấp đến khu vực có năng suất lao động cao hơn. 1.3 Đồng EURO ra đời sẽ góp phần tiết kiệm dự trữ ngoại hối và tạo ra lợi ích từ phát hành tiền Thông thường, những dự trữ ngoại hối bằng USD của các nước thành viên EU mang lại mức lãi suất tương đối thấp, và sức mua của USD luôn bị sói mòn bởi lạm phát. Khi các nước EU tiết kiệm được khối lượng dự trữ ngoại hối bao hàm ý rằng nguồn lợi từ phát hành USD của Mỹ sẽ giảm xuống. Những lý luận cho rằng, khi đồng tiền chung ra đời, thì các nước EU sẽ giảm được ít nhất là số sự trữ ngoại hối dùng để giao dịch trong nội bộ khối EU. Hơn nữa, so với tùng đồng tiền đơn lẻ thì đồng tiền chung có xu hướng biến động đối với đồng tiền của nước thứ ba là ít hơn. Điều này xảy ra là vì mức hoạt động trung bình của nhiều nền kinh tế được tính trung bằng một đồng tiền thường là ổn định hơn là so với từng nền kinh tế đơn lẻ với từng đồng tiền riêng của mình, điều này bao hàm ý rằng nhu cầu dự trữ ngoại hối đối với đồng tiền chung được giảm xuống. Hơn nữa, đồng tiền chung châu Âu EURO chắc chắn sẽ trở thành một trong những đồng tiền thế giới chính yếu, điều này làm tăng thành phần của EURO trong dự trữ của các nước ngoài EU, kết quả là EU sẽ thu được những nguồn lợi thông qua phát hành EURO cho thế giới. Các tác giả Cohen và Wyplosz (1989) đã dự tính lợi ích từ phát hành EURO cho thế giới đạt khoảng 0,75% GNP của EU. Một lợi ích to lớn từ EMU là việc các công ty tiết kiệm được chi phí hành chính liên quan đến quản lý rủi ro ngoại hối và liên quan đến hoạt động kinh doanh trong những đồng tiền khác nhau của EU. Với những đồng tiền trong EU khác nhau và sự biến động của chúng bao hàm ý rằng các công ty phải sử dụng những nguồn lực của mình để kiểm soát rủi ro ngoại hối và để kiểm tra chiến lược giá cả trên các thị trường châu Âu khác nhau. Một đồng tiền chung châu Âu cho phép giảm được đáng kể chi phí này. 1.4 Tăng cường thanh khoản và hợp lý hóa thị trường tài chính Cho dù trước khi đồng tiền chung ra đời, các thị trường trái phiếu chính phủ và thị trường cổ phiếu của từng nước nhìn chung là rất linh hoạt, nhưng ở một mức độ nhất định thì các thị trường này vẫn bị phân đoạn giữa các nước với nhau. Khi EMU ra đời, mọi khoản vay của các chính phủ thành viên đều được thể hiện bằng đồng tiền chung EURO, điều này bào hàm ý rằng thị trường trái phiếu chính phủ càng trở nên linh hoạt hơn và đồng thời giảm được chi phí giao dịch. Hơn nữa, thị trường cổ phiếu sẽ trở nên hợp lý hoá hơn khi mà toàn bộ các cổ phiếu của công ty đều được niêm yết bằng một đồng tiền chung, điều này sẽ giúp cho các giao dịch trên thị trường cổ phiếu được hiệu quả, do đó kích thích tăng doanh số giao dịch trên thị trường này. Do thị trường tài chính hoạt động hiệu quả hơn cho nên các chính phủ và các công ty có thể giảm được chi phí tiếp cận với các nguồn vốn trên thị trường tài chính, đây là một trong những lợi ích đáng kể của EMU. 1.5 Sự xuất hiện đồng EURO sẽ góp phần làm cho giá cả trở nên trung thực hơn Một trong những lợi ích của EMU là người tiêu dùng và các doanh nghiệp biết được gía cả hàng hoá dịch vụ một cách rõ ràng và trung thực hơn. Một khi tất cả các hàng hóa và dịch vụ trong toàn khu vực EU đều được yết giá bằng đồng EURO, thì sẽ là khó khăn đối với những nhà sản xuất muốn duy trì chênh lệch giá cả giữa các thị trường khác nhau. Quy luật cạnh tranh buộc các công ty đa quốc gia phải áp dụng chính sách định giá hàng hóa thống nhất trên cơ sở mức giá thấp nhất trong khu vực EU. Điều này bao hàm ý rằng, người tiêu dùng và các doanh nghiệp sẽ thu được lợi ích (vì giá cả hàng hoá là thấp nhất ở mọi nơi) trên cơ sở lợi nhuận của các công ty đa quốc gia giảm xuống. 2. Những chi phí cho quá trình nhất thể hoá tiền tệ châu Âu 2.1 Chi phí lớn nhất mà các nước EMU phải bỏ ra khi tiến hành nhất thể hoá tiền tệ châu Âu đó là: Mất quyền tự chủ trong lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ Việc sử dụng một đồng tiền chung (EURO) và NHTƯ châu Âu (European Central Bank- ECB) là người duy nhất xác định chính sách tiền tệ và lãi suất của EURO là biểu hiện rõ ràng về chi phí cơ bản liên quan đến sự hình thành EMU. Khi EMU bao gồm một hệ thống tỷ giá cố định không điều chỉnh và việc ra đời một đồng tiền chung với sự không hạn chế trong chu chuyển vốn sẽ kéo theo sự hình thành mức lãi suất ngắn hạn thống nhất giữa các nước thành viên. Điều này làm phát sinh tình thế khó xử đối với ECB khi mà nó phải làm hài hoà những nhu cầu của các nước đang bùng nổ tăng trưởng kinh tế với những nước đang trải qua thời kỳ suy thoái kinh tế. Nếu EMU không tồn tại, thì NHTƯ của những nước đang bùng nổ tăng trưởng kinh tế thường là tăng mức lãi suất ngắn hạn để hãm tốc độ phát triển kinh tế, trong khi đó, những NHTƯ của những nước đang trải qua suy thoái thường là hạ mức lãi suất ngắn hạn để kích thích các hoạt động kinh tế. Một mức lãi suất chung thống nhất trong EMU thường là không đủ cao để kìm hãm tốc độ bùng nổ tăng trưởng kinh tế và đồng thời là quá cao để có thể giúp các nền kinh tế đang trải qua thời kỳ suy thoái. 2.2 Mất quyền tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô. Một trong những lý lẽ cơ bản chống lại EMU cho rằng việc chấp nhận một đồng tiền chung có nghĩa là các quốc gia bị mất đi quyền tự chủ trong việc hình thành chính sách tiền tệ và lựa chọn một tỷ lệ lạm phát riêng cho mình. Trong kinh tế học, điều được thừa nhận rộng rãi là sự đánh đổi giữa lạm phát và công ăn việc làm theo thuyết đường cong Phillips. Một số quốc gia ưu tiên có tỷ lệ lạm phát thấp và sẵn sàng chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp cao; trong khi đó, các quốc gia khác lại ưu tiên công ăn việc làm đầy đủ với một tỷ lệ lạm phát cao. Trong chế độ tỷ giá thả nổi, những chênh lệch trong tỷ lệ lạm phát này được phản ánh bằng sự lên gía của đồng tiền có tỷ lệ lạm phát thấp. Đối với liên minh tiền tệ đòi hỏi một tỷ lệ lạm phát chung như nhau cho tất cả các nước thành viên, do đó những quốc gia muốn ưu tiên đánh đổi giữa lạm phát và công ăn việc làm sẽ không thực hiện được. Lý lẽ này được mô tả trên đồ thị dưới. Giả sử những nhà hoạch định chính sách của Anh ưu tiên tỷ lệ lạm phát cao, trong khi đó các nhà hoạch định của Đức lại ưu tiên tỷ lệ lạm phát thấp. Trạng thái đánh đổi tối ưu giữa lạm phát và công ăn việc làm đối với UK là PUK và UUK , trong khi đó, trạng thái đánh đổi tối ưu giữa lạm phát và công ăn việc làm đối với Đức là Pg và Ug. Trong liên minh tiền tệ thì cả hai nước này đều phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát chung là PU. ứng với mức tỷ lệ lạm phát chung này có tỷ lệ thất nghiệp ở Anh là cao hơn so với những nhà hoạch định chính sách mong muốn, còn ở Đức thì tỷ lệ lạm phát lại cao hơn so với những nhà hoạch định chính sách mong muốn. Đồ thị1: Đường cong Phillips của Anh và Đức. 0 U *UK UUK Thất nghiệp PUK* PU UK inflation (a) Đường Phillips của UK 0 UG U*G Thất nghiệp PU PG* German inflation (b) Đường Phillips của Đức Đồ thị a) biểu diễn đường cong Phillips đối với Anh, còn đồ thị b) biểu diễn đường cong Phillips đối với Đức. Có rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn đề liệu việc đánh đổi theo nguyên lý đường cong Phillips có thực sự tồn tại? Nhiều nhà kinh tế học chấp nhận rằng, trong ngắn hạn thì sự đánh đổi này là có xảy ra trong thực tế, nhưng nó không tồn tại trong dài hạn. Trong dài hạn, đường cong Phillips của mỗi quốc gia là một đường thẳng đứng tại mức thất nghiệp tự nhiên của quốc gia đó. Do đó, những chi phí liên quan đến sự mất tính tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có tính chất ngắn hạn. 2.3 Bất bình đẳng khu vực. Một trong những mối quan tâm xung quanh EMU đó là: EMU có thể mang lại những lợi ích cho EU như một thể thống nhất, nhưng EMU cũng có thể làm cho một số quốc gia trong EU thu được nhiều lợi ích hơn so với các quốc gia khác. Sự ra đời EMU sẽ kích thích các nguồn vốn và lao động di chuyển từ những khu vực hay quốc gia có năng suất lao động thấp đến nơi có năng suất lao động cao, điều này làm nổi lên vấn đề khu vực với những hậu quả xã hội không mong muốn. Di chuyển lao động sẽ tạo ra hậu quả xã hội đặc biệt nghiêm trọng, bởi vì lực lượng lao động di chuyển từ nơi có năng suất lao động thấp đến nơi có năng suất lao động cao chủ yếu là những lao động chính có tầm quan trọng trong khu vực. Để làm dịu hậu quả xã hội có thể xảy ra, một số người ủng hộ EMU lý luận rằng cần thiết phải có một chính sách điều chỉnh khu vực với nội dung là: những nước được lợi từ EMU phải có những biện pháp tài chính bù đắp cho những nước thiệt hại từ EMU. Mặc dù vấn đề mất bình đẳng giữa các khu vực nổi lên như là kết quả của EMU, người ta thường xuyên thảo luận xung quanh vấn đề liệu chính sách khu vực có thể làm dịu được hậu quả xã hội hay không. Với hàng loạt các lý do khác nhau, cuối cùng thì chính sách khu vực không được triển khai trong thực tế, những lý do bao gồm các thao tác về chính trị, lý do hỗ trợ vốn cho các ngành công nghiệp (chứ không phải khu vực) kém hiệu quả, và sự chậm trễ trong việc điều chỉnh kinh tế theo dự kiến. Ngoài ra, trong thực tế rất khó có thể đánh giá được sự thua thiệt của một khu vực nào đó là do EMU hay do các nguyên nhân khác gây ra. 2.4 Chi phí thời kỳ quá độ Có một số chi phí trong thời kỳ quá độ không thể tránh khỏi phát sinh cùng với sự ra đời của EMU, bao gồm chi phí thu hồi các đồng bạc quốc gia hiện đang lưu hành, in ấn đồng bạc chung, giáo dục và đào tạo, thay đổi hệ thống công nghệ thông tin phù hợp với đồng tiền chung, thay đổi máy rút tiền tự động và máy bán hàng tự động. Hội Liên hiệp Ngân hàng châu Âu (European banking Federation) năm 1995 đã dự tính chi phí cho thời kỳ quá độ lên tới 8-19 tỷ ECU, hoặc tương đương với 2% tổng chi phí hàng năm của ngân hàng trong thời kỳ quá độ từ 3 đến 4 năm. Đây là khoản chi phí lớn phát sinh một lần, do đó chúng cần được bù đắp bằng những lợi ích tương lai mà EMU mang lại như những khoản tiền tiết kiệm từ việc các công ty giao dịch chỉ với một đồng tiền, các ngân hàng giao dịch với ít đồng tiền hơn... Một cách tổng quát, bên cạnh những lợi ích thì cũng có những hạn chế nhất định phát sinh cùng với sự ra đời của EMU. Cho dù về tổng thể những lợi ích đó có lớn hơn những chi phí, thì điều này cũng không bao giờ hàm ý rằng EMU là tối ưu trong mọi khía cạnh. Sự lựa chọn của các quốc gia để hình thành một EMU tối ưu là một câu hỏi chưa có câu trả lời. Một vấn đề khác nữa là một số quốc gia có thể trở thành người thu lợi nhưng số khác lại trở thành người thua thiệt từ EMU, hay lợi ích từ EMU được trải rộng mong manh cho hầu hết tất cả mọi người trong EU, trong khi đó phần thua thiệt lại tập trung đổ lên một số phận nhất định. Cuối cùng, đối với từng quốc gia thành viên thì những chi phí và những lợi ích chính xác một phần còn phụ thuộc vào tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia và EURO. Nếu đồng tiền quốc gia nào được định giá cao, ví dụ so với PPP, thì sẽ làm tăng sức mua thực tế của quốc gia đó; tuy nhiên, mặt trái của đồng tiền định giá quá cao là nền kinh tế của quốc gia này có thể trải qua thời kỳ giảm sức cạnh tranh thương mại và kết quả là kìm hãm phát triển kinh tế sau này. III. Những thách thức đặt ra đối với việc thực hiện các mục tiêu của nhất thể hóa tiền tệ châu Âu Để đi đến nhất thể hoá tiền tệ châu Âu mà đỉnh cao là sự ra đời của đồng EURO, châu Âu đã phải trải qua hơn 4 thập kỷ hợp tác, cùng bên nhau giải quyết những khó khăn mà đôi lúc tưởng như không thể vượt qua được. Việc hình thành Liên minh kinh tế và tiền tệ EMU và đồng EURO là một khó khăn và nỗ lực rất lớn của Liên minh châu Âu, nhưng việc duy trì thực hiện các mục tiêu của nó đặt ra lại là một việc càng khó hơn bởi trong tình hình đầy biền động hiện nay, những thách thức vẫn không ngừng đặt ra đối với EMU. Phần này sẽ nêu lên hai nhóm thách thức: 1. Những thách thức xuất phát từ các nhân tố bên trong EMU * Liên minh châu Âu gồm 15 nước thành viên tuy nhiên mới chỉ có 12 nước tham gia EMU (11 nước tham gia đợt đầu và Hy Lạp tham gia vào ngày 1/1/2001). Như vậy rõ ràng trong 1 Liên minh tồn tại hai phái, điều này chắc chắn phải có nguyên do của nó và cũng chứng tỏ rằng việc hình thành EMU và đồng EURO chưa thực sự có được sự ủng hộ của toàn Liên minh EU. * Hiệp ước Maastrich 1993 đặt ra 5 tiêu chí gia nhập EMU. Tuy nhiên hiện vẫn còn nhiều bất đồng xung quanh các tiêu chí này: ủng hộ và phản đối. Thứ nhất: Các tiêu chí hội nhập này có tính tuỳ hứng trong mối quan hệ với các mục tiêu, không dựa trên một cơ sở khách quan cụ thể. Thứ hai: Tiêu chí nợ chính phủ thực tế là không hợp lý vì nó chỉ được nhìn nhận từ góc độ vế tài sản nợ mà không đề cập đến vế tài sản có thuộc nhà nước. Bởi vì cùng một tỷ lệ % nợ quốc gia trên GDP, nhưng đối với quốc gia có tài sản thuộc sở hữu nhà nước lớn hơn thì tỷ lệ thanh khoản sẽ cao hơn và ngược lại đối với các quốc gia có tài sản thuộc sở nhà nước thấp hơn thì tỷ lệ thanh khoản sẽ thấp hơn. Như vậy tiêu chí nợ quốc gia trên GDP là không đồng nhất, không bình đẳng và không phản ánh được mức độ thanh khoản của mỗi quốc gia. Thứ ba: Hiệp ước Maastricht bao gồm nhiều điều khoản ràng buộc trước khi gia nhập EMU nhưng lại không có các điều khoản qui định những điều kiện sau khi gia nhập là như thế nào. Như vậy ở một chừng mực nhất định, Hiệp ước tỏ ra không thật lôgíc. Một quốc gia có thể cố gắng sử sự thật tốt (thực hiện các tiêu chí hội nhập) để hội tụ đủ các điều kiện trở thành thành viên của EMU nhưng sau đó có thể sử sự tuỳ hứng. * Trên thực tế, EU là một liên minh tập hợp nhiều quốc gia độc lập có truyền thống văn hoá, tập quán và trình độ phát triển là khác nhau. EURO là đại diện tiền tệ chung và duy nhất cho một liên minh kinh tế khu vực nhưng liên minh ấy lại không có một thể chế pháp lý tương tự như một nhà nước thực thụ, thuần nhất có đầy đủ sức mạnh. Đây là yếu tố quan trọng nhất tác động trực tiếp đến việc tổ chức thực hiện các mục tiêu thống nhất tiền tệ tài chính của châu âu. * Hiện tại EMU bao gồm 12 nước thành viên (mới kết nạp thêm Hy lạp 1/1/2001), tuy nhiên mức độ đồng đều giữa các nước thành viên này là rất kém. Điều đó có nghĩa rằng mục tiêu đặt ra là sớm khắc phục chênh lệch giữa các nước nhỏ và các nước lớn là điều rất khó. Mặt khác, trong nội bộ các nước EMU cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn cơ bản tác động trực tiếp đến các mục tiêu đặt ra: + GDP của cả khối năm 1997 là 6600 tỷ USD, thì chỉ tính riêng 3 nước Đức, Pháp, Italia đã chiếm đến 3/4. So với Đức GDP của Bồ Đào Nha chỉ bằng 1/22. Mặt khác tốc độ phục hồi kinh tế rất không đồng đều giữa các nước trong khối. Theo Uỷ ban châu Âu, hiện nay tại Đức, Pháp, Italia dấu hiệu phục hồi kinh tế là khá khiêm tốn, tăng trưởng kinh tế vẫn rất chậm (dưới 3%), nhưng tại “các nước nhỏ” như Phần Lan, Ailen, Hà lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha lại bộc lộ nguy cơ có nhiều dấu tăng trưởng nhanh, dấu hiệu của một nền “kinh tế nóng”đã xuất hiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tại các nước này năm 1998 là 4% tại Ailen là khoảng 5,8%. Nếu tình trạng này kéo dài, điều gì sẽ xảy ra đối với kinh tế các nước thuộc EURO? Trước hết “Kinh tế nóng” gắn liền với nguy cơ lạm phát. Và chính sách “nới lỏng ngân sách” sẽ ảnh hưởng xấu đến ổn định tiền tệ chung, điều mà EMU không hề mong muốn. Để sửa chũa hoặc ngăn chặn, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) sẽ phải tăng lãi suất. Nhưng lãi suất tăng sẽ làm kìm hãm tăng trưởng tại “các nước lớn” như Đức, Pháp, Italia. Đứng trước mâu thuẫn này, ECB và EU chỉ còn con đường thuyết phục “các nước nhỏ” áp dụng chính sách “thắt chặt ngân sách” mà thôi-một điều không hoàn toàn khó nhưng cũng chẳng dễ chút nào. + Về sức mua: mặc dù khi đồng EURO ra đời, cả 12 quốc gia thành viên sẽ cùng sử dụng chung một đồng tiền nhưng sức mua của người dân giữa các nước khác nhau lại rất khác nhau. Bằng chứng rõ nhất là mức độ khác biệt rất lớn về chỉ tiêu GDP bình quân đầu người của mỗi nước. Tại Lúc xăm bua, GDP/người đạt 45.745 USD, trong khi đó tại Bồ Đào Nha chỉ có 11.420 USD. Còn bình quân của cả khối EURO là 25.789 USD. Như vậy, nơi có sức mua cao nhất lớn gấp 4 lần nơi có sức mua thấp nhất. So với mức bình quân EU, độ chênh lệch lên tới 200%-một khoảng cách không hề nhỏ. + Về thất nghiệp cũng vậy. Năm 1997, tại Tây Ban Nha, nơi có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất là 20,7% trong khi đó tại Lúc xăm bua, nơi có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất chỉ có 3,5%. Tỷ lệ thất nghiệp bình quân của cả khối EU là 10,7% tương đương với 18 triệu người thất nghiệp và 11,2% đối với EU-11, cao hơn bình quân của cả cộng đồng. Trong khi đó ở Mỹ là 4,6% còn Nhật là 3,5%. Tuy đây chỉ là những số liệu trong quá khứ trước khi cho ra đời đồng EURO, tuy nhiên nó cũng cho thấy một thách thức rất lớn đặt ra đối với EMU, rằng: liệu sự ra đời của đồng EURO có giúp EU đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp hay không?- một căn bệnh mãn tính của EU. Đây là một câu hỏi hóc búa đối với Liên minh châu Âu nhưng lại không được ghi như là một điều kiện tiên quyết đối với các nước thành viên phải tôn trọng khi muốn gia nhập khối EURO, không phải là một tiêu chí hội nhập. Đây là một thách thức lớn đối với EMU trong tương lai, thậm chí trước mắt có thể đồng EURO còn làm cho nhiều người mất việc làm vì dưới sức ép cạnh tranh mới, sinh ra từ việc lưu hành đồng tiền duy nhất châu Âu, các công ty buộc phải hợp lý hóa sản xuất, tiến hành rà soát lại sản suất, cơ cấu lại... và “sa thải” là “quả bồ hòn” tất yếu phải ngậm. * Việc thành lập EMU và cho ra đời đồng tiền EURO là cố gắng, nỗ lực của tất cả các thành viên trong đó đặc biệt phải kể đến những nỗ lực to lớn của hai đầu tầu kinh tế là Đức và Pháp. Đây cũng chính là lý do tại sao hai nước này lại có tiếng nói quyết định trong các chính sách của EMU. Hiện tại vẫn còn tồn tại sự bất đồng về vấn đề trọng lượng của “tiếng nói” trong các quyết định của EU giữa các nước thành viên với nhau. Cho đến nay, các nước đông dân vẫn chiếm nhiều lá phiếu hơn trong các cuộc biểu quyết. Sự tranh cãi mang tính định chế này đã tập hợp các nước áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hi Lạp và Phần Lan thành một liên minh chống đối khi các nước này vì lẽ sự phân bố số phiếu, tức số ghế đại biểu Nghị viện châu Âu theo tỷ lệ dân số là không thể chấp nhận được, cả Bỉ và Hà Lan đều không hài lòng ngay cả với nhau: Trước kia hai nước này cùng số phiếu, nay thì Hà Lan với 16 triệu dân sẽ nhiều phiếu hơn Bỉ vốn chỉ có 10 triệu dân. Cũng thế, Đức đông dân nhất sẽ chiếm nhiều phiếu hơn Pháp (trước kia Đức và Pháp có cùng số phiếu). Như vậy, trong một liên minh mà tồn tại những bất đồng như vậy thì việc tạo ra một tiếng nói chung trong các quyết sách là hết sức khó khăn điều này trực tiếp tác động đến mục tiêu tạo ra sự ổn định và hợp tác nhất định về chính trị giữa các nước thành viên EMU. * Việc thiếu một Liên minh chính trị sẽ gây nên những khó khăn trong việc hoạch định chính sách và điều hành hoạt động của EMU. Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu được coi là đỉnh cao của sự hợp tác khu vực về kinh tế, là trường hợp duy nhất dẫn đến sự hợp tác về tiền tệ. Tuy nhiên xét về mặt hợp tác chính trị thì còn rất sơ đẳng, nếu không muốn nói là quá non trẻ. Thực chất trong Liên minh kinh tế này chưa có một cơ chế chính trị thống nhất, đây chính là một điểm yếu lớn nhất của Liên minh EU mà nó sẽ tác động rất lớn đến EU trong một thế giới đầy bất biến này. Chính vì vậy mà việc tạo ra một sự hợp tác nhất định về chính trị giữa các nước thành viên hiện nay là một yêu cầu cấp bách, ở đây muốn nhấn mạnh là “hợp tác” chứ chưa đề cập đến “Liên kết” bởi vì trong tương lai tới, việc Liên minh kinh tế châu Âu sẽ trở thành một Liên minh chính trị là chưa thể trở thành sự thật vì mâu thuẫn giữa lợi ích quốc gia dân tộc của các nước thành viên và lợi ích chung của toàn EU vẫn chưa được giải quyết. Tuy nhiên, để đạt được một sự hợp tác nhất định đó cũng không phải là một điều dễ dàng, nó đang trở thành một câu hỏi làm đau đầu các cơ quan chức trách của EU. 2. Những thách thức xuất phát từ các nhân tố bên ngoài EMU * Việc đồng EURO ra đời sẽ tạo ra một tam giác tiền tệ thế giới: USD-EURO-YEN, tuy nhiên với sức mạnh của nền kinh tế Mỹ và vị thế “thống trị” của đồng USD trên trường quốc tế thì việc theo đuổi mục tiêu lật đổ ngôi vị hiện tại của đồng USD cũng như tạo ra một đối trọng ngang ngửa với Mỹ là rất khó. * Sự biến động thất thường của nền kinh tế toàn cầu, những cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính-tiền tệ mang tính chu kỳ, những cuộc xung đột vũ trang của các thế lực khủng bố trên thể giới (điển hình là vụ khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ)... Tất cả những biến động thất thường đó sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế EU, đến hệ thống tiền tệ châu Âu- vốn đang ở giai đoạn đầu lại thiếu một thể chế chính trị thống nhất nên chắc chắn không thể không có những khó khăn trong việc hoạch định chính sách cũng như điều hành toàn Liên minh. Tóm lại, sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu là kết quả tất yếu của một thị trường thống nhất. Nó được thúc đẩy và hình thành dựa trên cơ sở lý thuyết cụ thể và các cơ sở kinh tế, chính trị chín muồi; nó có những mục tiêu rõ ràng trong ngắn hạn và trong dài hạn; và các nước sử dụng đồng tiền chung này sẽ thu được những lợi ích bên cạnh những chi phí tất yếu mà họ phải bỏ ra. Tuy nhiên, trong thời gian hơn 3 năm qua các nước trong Liên minh có đạt được những kỳ vọng mà họ đã đặt ra hay không? Phần giải đáp cho câu hỏi này sẽ nằm trong chương tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docEuro_ Chapter 1 (formated).doc
  • doctrang bia.doc
  • docEuro_Chapter 3 (formated).doc
  • docEuro_Chapter 2 (formated).doc
  • doceuro_ Loi noi dau (formated).doc
Tài liệu liên quan