Đề tài Đánh giá tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Xuất phát từ vai trò của kinh tế nói chung và KTNB trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc hình thành KTNB ở nước ta hiện nay là một vấn đề tất yếu cần thiết để đảm bảo tính trung thực của báo cáo tài chính trong doanh nghiệp cũng như tính tuân thủ, tính hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đưa ra các kiến nghị và giải pháp về chế độ kế toán, hình thức quản lý, tính hiệu quả của doanh nghiệp.Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp phải tự vươn lên bằng chính sức lực của bản thân mình, KTNB giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình mà từ đó ra các quyết định quản lý, đảm bảo kinh doanh một cách có lãi. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay ở Việt Nam, KTNB còn là vấn đề rất mới mẻ, chưa được đề cập tới nhiều, do đó cho nên việc hình thành bộ phận KTNB trong các DNNN ở nước ta hiện nay còn gặp phải nhiều khó khăn và hoạt động của KTNB còn kém hiệu quả. Đề tài này nghiên cứu một số khó khăn và giải pháp đối với việc hình thành KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Giải quyết các vấn đề cấp bách nói trên sẽ giúp ích thực tiễn cho việc hoạch định chính sách không chồng chéo, không trùng lắp, không mâu thuẫn nhau và tránh sai sót dẫn đến thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung quá nhiều lần với nhiều quy định khác nhau. Nhờ đó, đảm bảo cho hệ thống chính sách được hình thành có tính hệ thống hoàn chỉnh, tính kỷ cương, hiệu lực, tính hiệu quả trong soạn thảo, ban hành và thực thi các chính sách đồng thời thúc đẩy sự phát triển của bộ phận KTNB trong các DNNN ở nước ta hiện nay.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lý luận chung về KTNB và thực trạng tổ chức KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 4 I- Những vấn đề lý luận chung về KTNB 4 1. KTNB và vai trò của KTNB trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 4 2. Vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của KTNB 5 3. Mô hình, nguyên tắc và nhiệm vụ tổ chức KTNB 7 II- Thực trạng của việc tổ chức KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 11 1. Sự cần thiết của KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 11 2. Đánh giá sự phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 13 3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 15 III- Một số giải pháp trong việc giải quyết khó khăn trong việc hình thành KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 19 1. Hoàn thiện về mặt chính sách 19 2. Hỗ trợ về mặt đào tạo và các điều kiện khác để nâng cao và phát triển đội ngũ KTVNB 21 3. Về chính sách vật chất và phương tiện kỹ thuật 21 4. Về tổ chức bộ máy KTNB 22 IV- Một số kiến nghị rút ra từ thực tế 23 1. Mô hình tổ chức 23 2. Về cơ cấu bộ phận KTNB ở các tổng công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn 24 3. Hướng nghiên cứu mới 24 Kết luận 26 Tài liệu tham khảo 27 Lời nói đầu Theo thời gian, cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, cơ chế thị trường ra đời làm cho các hoạt động tài chính và sở hữu ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, chức năng kiểm tra kế toán không đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin. Chính vì thế, kiểm toán ra đời như một đòi hỏi khách quan để đáp ứng nhu cầu đó. Càng ngày, kiểm toán càng trở nên có vai trò quan trọng và càng phát triển, khẳng định là một môn khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu riêng. Cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vươn lên từ chính bản thân mình, các nhà quản trị phải có những quyết định và phương pháp quản lý đúng đắn để đảm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả. Cũng từ đó, kiểm toán nội bộ (KTNB ) ra đời như một nhu cầu tất yếu, cần thiết để giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình, về các báo cáo tài chính được lập để làm cơ sở cho việc quản trị doanh nghiệp. ở Việt Nam hiện nay, KTNB có một vai trò hết sức to lớn trong đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ hoạt động trong doanh nghiệp, tạo niềm tin cho những người sử dụng thông tin và là cơ sở để ra các quyết định của nhà quản trị. Tuy nhiên, KTNB là lĩnh vực rất mới mẻ ở Việt Nam, việc tổ chức KTNB trong các DNNN có một ý nghĩa rất to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và nhất là trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Do còn mới mẻ nên việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay vẫn còn có nhiều vấn đề khó khăn. Đề tài với chủ đề: "Đánh giá tổ chức bộ máy KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam " sẽ giúp ta nhìn nhận rõ hơn về thực trạng của việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay cũng như đề cập tới một số kiến nghị và giải pháp để giải quyết những khó khăn đó. Đề tài được chia làm 2 phần: Phần I: những vấn đề lý luận chung về KTNB và thực trạng tổ chức KTNB trong các DNNN ở nước ta hiện nay. Phần II: một số kiến nghị và giải pháp tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - giảng viên: Bùi Minh Hải đã hướng dẫn tận tình và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2001. Sinh viên thực hiện: Phạm Thái Sơn Phần I Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán nội bộ và thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong các DNNN ở nước ta hiện nay. I- Những vấn đề lý luận chung về KTNB. 1. KTNB và vai trò của KTNB trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. a) Kiểm toán nội bộ là gì? Lịch sử phát triển hoạt động kiểm toán ở các nước có nền kinh tế thị trường cho thấy KTNB là một nghề nghiệp mới mẻ. Tuy lúc đầu KTNB mang tính chất không chuyên, không tồn tại ở các doanh nghiệp hoặc được coi như một phần của kiểm toán độc lập, nhưng về sau nó đã trở thành một nghề có tính chuyên nghiệp. Một cách cơ bản có thể hiểu KTNB là một bộ phận được lập ra trong một đơn vị, thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát để giúp các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị đó gia tăng được quyền lực của mình nhằm quán xuyến đựoc các hoạt động đã và đang diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những quy tắc đặt ra có được tuân thủ không? Tài sản có được toàn vẹn không? Cán bộ, CNV làm việc có hiệu quả không? Các quy định hiện hành có phù hợp khi điều kiện thay đổi? Đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính...... Như vậy, KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lý của bản thân doanh nghiệp. KTNB thực hiện chức năng đánh giá một cách độc lập và khách quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Phạm vi của KTNB bao gồm tất cả các mặt hoạt động của của doanh nghiệp và ở tất cả các cấp quản lý khác nhau. KTNB xem xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những phân tích, kiến nghị, tư vấn mang tính chất chuyên nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp có cơ sở tin cậy trong việc quản lý thành công các hoạt động của doanh nghiệp. b) Vai trò và ý nghĩa của KTNB trong các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một hệ thống kiểm soát nội bộ là điều kiện cần thiết và lý tưởng để Ban Giám đốc và Hội đồng Quản trị chỉ đạo, quản lý kinh doanh một cách có hiệu quả, cũng như mang lại sự đảm bảo chắc chắn, tin cậy và hiệu quả cho các quyết định và chế độ quản lý. KTNB là một bộ phận cơ bản và quan trọng trong hệ thống kiểm soát nội bộ, vì thế KTNB có một ý nghĩa rất quan trọng và tồn tại như một nhu cầu cần có của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ác liệt hiện nay, đối tác kinh doanh được mở rộng với sự cạnh tranh của các luật chơi trên thị trường. Trong điều kiện các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chỉ có ý nghĩa công khai với các đối tượng bên ngoài khi có xác nhận của kiểm toán độc lập thì KTNB cũng ý nghĩa và cần thiết đối với người quản lý và điều hành doanh nghiệp, cũng như đối với tổ chức kiểm toán độc lập khi xem xét và kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Xuất phát từ mục tiêu của KTNB là nhằm củng cố cơ cấu kiểm soát nội bộ, thúc đẩy việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp, ta thấy việc tổ chức bộ máy KTNB trong các doanh nghiệp trong điều kiện thị trường hiện nay là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong công tác quản trị doanh nghiệp. 2. Vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của KTNB. Trước hết cần phải khẳng định rằng KTNB là nhu cầu tự thân của các doanh nghiệp, chính vì thế phạm vi của KTNB là rất linh hoạt và tùy thuộc vào quy mô, cơ cấu của doanh nghiệp cũng như nhu cầu quản lý đơn vị, do vậy KTNB trong các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau và phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp. a) Chức năng và vị trí của KTNB: KTNB hình thành do nhu cầu quản lý nên chức năng của nó cũng trải qua quá trình phát triển từ thấp tới cao cùng với khoa học quản lý kinh tế, trình độ và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chức năng của KTNB hiện đại là đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhưng chức năng truyền thống của KTNB là xem xét , đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu hiệu vốn và tài sản của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho KTNB cần phải xem xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế, từng ngành và từng đơn vị. Về vị trí của KTNB: Trong sơ đồ quản lý doanh nghiệp, trách nhiệm và nhiệm vụ càng lớn thì vị trí càng cao. Do tính chất đặc thù của hoạt động kiểm toán, đảm bảo tính khách quan trong công việc, bộ phận KTNB cần được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ( Tổng ) Giám đốc hoặc HĐQT của doanh nghiệp. b) Nhiệm vụ của KTNB: Về cơ bản, nhiệm vụ của KTNB bao gồm các nhiệm vụ sau: - Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nước. - Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo quyết toán do kế toán và các bộ phận khác trong doanh nghiệp lập ra. - Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của doanh nghiệp và các đối tác tham gia liên doanh với doanh nghiệp. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lý, đầy đủ của số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh. - Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn thiện chúng. - Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này. - Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên KTNB có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toán và các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các quyết định quản lý, xử lý về tài chính và các nội dung xử lý khác. c) Quyền hạn của KTNB: Do đặc trưng của KTNB là thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, cho nên KTNB có những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động. KTNB có quyền: - KTNB độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp, độc lập về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ pháp luật và các chuẩn mực, phương pháp nghiệp vụ chuyên môn. - Có quyền yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên quan tới nội dung được kiểm toán. - Có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan tới đối tượng được kiểm toán ở trong và ngoài doanh nghiệp. - Có quyền kiến nghị với chủ thể được kiểm toán có biện pháp sửa chữa sai phạm và có quyền ghi kiến nghị của mình vào báo cáo kiểm toán. - Đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp những kiến nghị và biện pháp về quản lý. Đó là một số quyền hạn cơ bản của KTNB, bên cạnh đó tùy thuộc vào từng doanh nghiệp, từng điều kiện mà KTNB có thể có thêm các quyền khác. d) Nội dung hoạt động của KTNB: Hoạt động của KTNB trong doanh nghiệp thực hiện một số nội dung chủ yếu sau: - Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống này cũng như tham gia hoàn thiện chúng. - Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính, bao gồm việc soát xét lại các phương tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và báo cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư và các bước công việc. - Kiểm tra tính hiệu quả, sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động, kể cả các quy định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp. Như vậy, lĩnh vực hoạt động của KTNB bao gồm cả kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ trong doanh nghiệp. 3. Mô hình, nguyên tắc và nhiệm vụ tổ chức KTNB. a) Mô hình tổ chức: Từ những vai trò của KTNB trong doanh nghiệp thì việc tổ chức KTNB trong doanh nghiệp là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy theo quy mô của doanh nghiệp mà tổ chức bộ máy kiểm toán cho phù hợp. Bộ phận KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước nên được tổ chức như thế nào ? Về vấn đề này, có 2 loại quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất: Bộ phận KTNB trực thuộc HĐQT mà trực tiếp là chịu sự chỉ đạo của Ban kiểm soát. Có như vậy bộ phận KTNB mới phát huy được tính độc lập, kết quả KTNB mới có tính khách quan, khắc phục tình trạng " vừa đá bóng vừa thổi còi". Mô hình 1: Mô hình bộ máy KTNB theo quan điểm này như sau Hội đồng Quản trị. Các bộ phận khác Ban Giám đốc Ban kiểm soát Quan hệ trực thuộc Quan hệ kiểm tra Luồng thông tin phản hồi Cán bộ quản lý cấp trung gian Bộ phận KTNB Cán bộ quản lý cấp DN Mô hình trên được coi là mô hình lý tưởng, nó bảo đảm điều kiện về tính độc lập của KTNB nhưng không có tính thực tế. Đó là vì HĐQT và Ban kiểm soát không trực tiếp điều hành và quản lý doanh nghiệp, hơn nữa, HĐQT ở Tổng Công ty nhà nước hiện nay còn nhiều thành viên kiêm chức nên không đảm bảo được tính độc lập đặt ra. Quan điểm thứ hai: Bộ phận KTNB nên đặt trực thuộc Tổng Công ty (Giám đốc) của doanh nghiệp. Quan điểm này dựa trên cơ sở KTNB là một bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, đặt tại doanh nghiệp, tiếp cận thường xuyên, liên tục với mọi hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá kệ thống kiểm soát nội bộ và phát hiện kịp thời những sai sót, sơ hở, những điểm yếu để báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để có các kiện pháp khắc phục, hoàn thiện. Để đạt được mục tiêu, vai trò của KTNB cần phải đặt KTNB trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Mô hình 2: ktnb trực thuộc Tổng Công ty (giám đốc) của dn Cán bộ quản lý cấp DN Bộ phận KTNB Cán bộ quản lý cấp trung gian Hội đồng Quản trị ( HĐQT ) Tổng Công ty ( Giám đốc) Quan hệ trực thuộc. Quan hệ kiểm tra. Luồng thông tin phản hồi. Cách tổ chức theo mô hình này phù hợp với điều kiện thực tiễn của các DNNN trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên để KTNB thực sự có hiệu quả thì người đứng đầu bộ phận KTNB phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban kiểm soát của HĐQT (nếu doanh nghiệp có HĐQT). Như vậy qua việc phân tích những chức năng, đặc điểm của KTNB thì việc hình thành KTNB trong các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển đa chiều, cạnh tranh gay gắt là một điều cần thiết để nâng cao tính hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp, chỉ ra các vấn đề, các hướng để hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống kế toán trong doanh nghiệp, đồng thời tùy theo mỗi nhu cầu tự thân, mỗi điều kiện hoàn cảnh của các doanh nghiệp mà có cơ cấu tổ chức KTNB cho phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả của bộ phận này trong quá trình kiểm toán và kiến nghị chiến lược cho các nhà quản trị trong quá trình lãnh đạo doanh nghiệp ở cả tầm vĩ mô và vi mô. b) Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy KTNB. Bộ máy kiểm toán bao gồm con người và các phương tiện chứa đựng các yếu tố cấu thành của kiểm toán để thực hiện chức năng của kiểm toán. Tổ chức bộ máy kiểm toán chính là việc tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành kiểm toán, giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán và chín giữa bản thân của hệ thống kiểm toán với các yếu tố khác trong môi trường hoạt động của kiểm toán. Chính từ việc tổ chức bộ máy kiểm toán mà các mối liên hệ được duy trì đảm bảo cho hệ thống thực hiện tốt chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến. Tổ chức bộ máy KTNB phải đảm bảo: - Tính khoa học: Tổ chức bộ máy KTNB phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết kiểm toán. Tùy theo đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp là tổ chức theo phương pháp chức năng hay trực tuyến tham mưu mà đưa ra mô hình tổ chức bộ máy KTNB cho phù hợp. - Tính nghệ thuật: Tổ chức bộ máy KTNB phải chú ý tới nhân tố con người. Trong sơ đồ tổ chức bộ máy kiểm toán cần phải phân công rõ ràng chức năng và nhiệm vụ của mỗi ktv nhằm đạt hiệu quả và hiệu suất cao. - Phải đảm đủ về số lượng nhân viên trong bộ phận kiểm toán cũng là một vấn đề quan trọng. Số lượng nhân viên kiểm toán có thể được xác định qua công thức sau: Số lượng nhân viên KTNB = Trong đó: ai: Thời gian cần thiết để tiến hành kiểm toán một hoạt động hoặc một bộ phần của doanh nghiệp bao gồm cả thời gian kiểm toán dự tính, thời gian đi lại nếu có. t: Tần suất kiểm toán các bộ phận hoặc các hoạt động tương ứng/năm. b: Thời gian dự kiến phát sinh cho các hoạt động đào tạo, nghỉ phép, hội họp.. k: Thời gian làm việc trung bình của một KTV/năm. n: Tổng số bộ phận hoặc hoạt động cần được kiểm toán. - Điều quan trọng trong tổ chức KTNB là phải xác định quy mô của doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thực sự cần bộ máy KTNB hay không, quy mô của doanh nghiệp như thế thì bộ máy KTNB nên có quy mô như thế nào thì thích hợp...... - Tùy theo cơ cấu của doanh nghiệp như thế nào mà tổ chức KTNB cho phù hợp sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, tốn chi phí ít nhất. - Tổ chức bộ máy KTNB phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán. - Hệ thống bộ máy KTNB bao gồm các mối liên hệ trong và ngoài khác nhau và phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết tổ chức và quy luật biện chứng về mối liên hệ. Để tổ chức bộ máy KTNB thì cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phải xác định kiểu mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. - Xác định kiểu liên hệ trong từng mô hình. - Xây dựng mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống KTNB với KTV. Đó là những nguyên tắc và nhiệm vụ cần phải tuân thủ khi tiến hành tổ chức bộ máy KTNB. II- thực trạng của việc tổ chức KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ những lý luận chung về KTNB, từ vai trò và ý nghĩa của KTNB đối với sự phát triển của doanh nghiệp chúng ta đi tìm hiểu về thực trạng KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay, những khó khăn trong việc hình thành KTNB, những tồn tại trong việc tổ chức KTNB hiện nay. 1. Sự cần thiết của KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay: KTNB là hoạt động trong phạm vi doanh nghiệp, do người của doanh nghiệp thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính của bản thân doanh nghiệp. Với mục tiêu như vậy, đặc biệt là trong cơ chế quản lý tài chính kiện nay - doanh nghiệp được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính đến mức cao nhất - thì KTNB càng là một đòi hỏi cấp bách với tất cả các DNNN. Theo Nghị định số 59/NĐ-CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ, từ năm 1997 cơ quan quản lý tài chính các cấp sẽ không tiến hành kiểm tra phê duyệt quyết toán sản xuất kinh doanh hàng năm của các DNNN. Các DNNN phải công khai báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về các số liệu, chỉ tiêu đã công bố. Đây là một quy định nhằm nâng cao tính chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các DNNN nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, lúng túng cho họ. Từ trước năm 1997, sau khi quyết toán năm được duyệt, lãnh đạo doanh nghiệp hoàn toàn yên tâm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, về các mặt hoạt động và giải pháp tài chính trong năm vì đã được các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xác nhận. Mọi sai sót, vi phạm của doanh nghiệp cũng đã được giải quyết hoặc xóa bỏ thông qua việc duyệt quyết toán. Chính vì vậy, trong điều kiện không còn kiểm tra phê duyệt quyết toán hàng năm, KTNB với chức năng kiểm tra, xác nhận tính trung thực và hợp lý, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tài chính và công khai báo cáo tài chính theo cơ chế về quản lý tài chính DNNN. ở Việt Nam hiện nay, mô hình HĐQT ở các Tổng công ty được thành lập theo Nghị định 90/CP và 91/CP có khác so với các nước. Trong mỗi Tổng công ty nhà nước có Ban kiểm soát trực thuộc HĐQT, ngoài các thành viên chuyên trách, HĐQT còn có một số thành viên kiêm nhiệm. Trong Ban kiểm soát, ngoài Trưởng Ban kiểm soát, phần lớn các ủy viên là các thành viên kiêm nhiệm, có thành viên không thuộc Tổng công ty. Với bộ máy như vậy, Ban kiểm soát khó lòng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm theo quy định của nhà nước mới được ban hành theo điều lệ mẫu của Tổng công ty nhà nước. Vì vậy, ở các DNNN mà trước hết là các Tổng công ty cần thiết phải tổ chức bộ phận KTNB để giúp chủ doanh nghiệp điều hành và quản lý mọi mặt hoạt động có hiệu quả. Đó là một nhu cầu cần thiết và nên làm vì sự phát triển của doanh nghiệp. Đối với nước ta hiện nay đang tiến hành quá trình cổ phần hóa các DNNN, việc cổ phần hóa sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phải luôn luôn cố gắng vươn lên để đứng vững trên thị trường, hơn nữa các cổ đông đòi hỏi phải biết thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp để chia sẻ các lợi ích và rủi ro cũng như tham gia quản lý doanh nghiệp, do vậy KTNB lại càng cần thiết hơn bao giờ hết đối với các DNNN đang tiến hành cổ phần hóa, và nó không thể thiếu đối với các doanh nghiệp đã chuyển đổi sang hình thức cổ phần. Nước ta đang phát triển và mở rộng hoạt động của thị trường chứng khoán, thông tin tài chính của doanh nghiệp là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với những người tham gia thị trường, theo đó, KTNB cung cấp thông tin và kiến nghị các biện pháp quản lý về doanh nghiệp sẽ tạo niềm tin cho các cổ đông và giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt, có các biện pháp để phát triển sản xuất kinh doanh. Như vậy, xét tình hình hiện nay, việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay là một nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động tốt, và là cơ sở để doanh nghiệp cạnh tranh, tồn tại vững trên thị trường. 2. Đánh giá sự phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay: Như đã nói ở trên, KTNB có một vai trò và vị trí đặc biệt trong doanh nghiệp, tuy nhiên chúng ta còn hiểu biết quá ít về lĩnh vực này so với KTNN và KTĐL. Trên thực tế, chúng ta chưa có một công trình, một đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc về KTNB, trong điều kiện đó, vướng mắc về nhận thức là lẽ đương nhiên, việc triển khai hoạt động KTNB ở các doanh nghiệp lại càng lúng túng. ở Việt Nam đã xuất hiện những nhu cầu và điều kiện cần thiết cho việc thiết lập hệ thống KTNB trong các đơn vị kinh tế lớn như các Tổng công ty 90, 91; các Bộ, ngành, địa phương trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu của việc hình thành một hệ thống KTNB trong hầu hết các doanh nghiệp, chính vì thế KTNB mới hình thành được rất ít, còn chập chững, tập trung chủ yếu ở các Tổng công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn. Hơn nữa, KTNB bước đầu còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc tổ chức và hoạt động, bộ phận KTNB còn quá mỏng manh so với cả một khối lượng công việc khổng lồ. Chúng ta có thể lấy ví dụ về hoạt động KTNB trong các Tổng công ty tiêu biểu: Xin lấy mô hình KTNB của Tổng công ty xây dựng Sông Đà và Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex): Tổng công ty xây dựng Sông Đà là một doanh nghiệp có quy mô tầm trung bình trong số những tổng công ty 90 của Nhà nước, hình thành và hoạt động hơn 30 năm qua với nhiều công trình xây dựng lớn. Xác định đúng đắn sự cần thiết của KTNB đối với sự phát triển của Tổng công ty, ngày 1/1/1998 phòng KTNB Tổng công ty chính thức ra đời. Giai đoạn đầu, phòng KTNB gồm 5 cán bộ KTV có trình độ chuyên môn sau đại học chuyên ngành tài chính kế toán và trình độ đại học, có nhiều năm thực tế công tác trong lĩnh vực kiểm tra kiểm soát nội bộ hoặc trong lĩnh vực tài chính của Tổng công ty. Vừa xây dựng vừa hoạt động, trong năm 1998 kiểm toán Tổng công ty xây dựng Sông Đà đã hoàn thành một khối lượng công việc đáng kể. Tại các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty tuy còn đang hoàn thiện về công tác tổ chức nhưng 100% đơn vị đã bổ nhiệm được KTV hoặc thành lập tổ KTNB. Tuy nhiên, chỉ một số đơn vị sớm tuyển chọn bổ nhiệm được KTV đủ năng lực và ổn định tổ chức thì phát huy được tác dụng bước đầu, có đóng góp vào công tác chấn chỉnh quản lý tại doanh nghiệp. Sau khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 171/TT-BTC, phần lớn KTNB tại các doanh nghiệp thành viên trong hệ thống KTNB Tổng công ty vẫn chưa thực sự đi vào hoạt động. Có nhiều lý do nhưng nguyên chính là sự khó khăn về tuyển chọn và điều động cán bộ. Để hoạt động KTNB đi vào nền nếp, hiện nay Dự thảo quy chế KTNB của Tổng công ty đang được hoàn thiện khâu cuối cùng. Petrolimex là một trong những doanh nghiệp đặc biệt của Nhà nước, doanh số và luân chuyển vốn hàng năm rất lớn, mạng lưới kinh doanh rộng khắp. Tháng 2/1999 Phòng KTNB Tổng công ty ra đời và đi vào hoạt động. Qua một quá trình hoạt động, do khối lượng công việc là rất lớn và do tính ưu thế của KTĐL trong lĩnh vực này, phòng KTNB Tổng công ty đã đề xuất phương án tiến tới thuê kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, KTNB chỉ phối hợp hỗ trợ và học hỏi kinh nghiệm. Theo đề xuất, nhiệm vụ chính của KTNB là kiểm toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ, điều này phù hợp với lực lượng kiểm toán trong nội bộ, đồng thời giảm chi phí đáng kể so với thuê kiểm toán độc lập hoàn toàn. Như vậy có thể thấy rằng hiện nay hệ thống KTNB ở Việt Nam chưa phát triển mà đang trong giai đoạn đầu hình thành, lực lượng KTV còn quá ít, hệ thống chính sách, quy chế về KTNB chưa được xây dựng và hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động chưa cao, còn nhiều lúng túng, khó khăn trong quá trình hình thành và hoạt động. Hiện nay Nhà nước cũng đang khuyến khích các DNNN hình thành bộ phận KTNB trong doanh nghiệp. Theo điều 36, chương V - Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996 quy định: "Doanh nghiệp tự tổ chức KTNB báo cáo tài chính của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết" chính là nhằm tạo cho DNNN cơ hội lựa chọn việc có nên tổ chức bộ phận KTNB trong doanh nghiệp hay không. Mặt khác, giữa thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay và nhu cầu đòi hỏi của Nhà nước về khía cạnh pháp lý còn có một số mâu thuẫn: Theo Điểm 3, Mục I - Thông tư 73 TC/TCDN ngày 12/11/1996 của Bộ Tài chính: "...báo cáo tài chính được coi là hợp pháp, hợp lệ khi có đủ chữ ký của người lập, người kiểm toán, Kế toán trưởng, giám đốc và đóng dấu của doanh nghiệp", trong điều kiện hiện nay khi mà lực lượng cán bộ kiểm toán và hệ thống KTNB chưa phát triển và hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán ở tất cả các DNNN thì việc quy định như trên là chưa thỏa đáng. Như vậy xét về thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam thì chúng ta thấy rõ ràng KTNB mới đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, mới đang thí điểm ở một số Tổng công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn, việc hình thành KTNB còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng, tuy nhiên phát triển hệ thống KTNB trong các DNNN ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường là tất yếu cần thiết và tất sẽ phát triển, vì sự tồn tại, sự phát triển của DNNN trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt. 3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. a) Về mặt pháp lý: Tại Việt Nam, khái niệm KTNB mới chính thức xuất hiện kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 59/CP ( 3/10/1996 ) về: “Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN”. Theo đó, các báo tài chính của các DNNN buộc phải được kiểm toán bởi các KTVĐL hoặc các KTVNB. Trên cơ sở Nghị định 59/CP này, Bộ Tài chính đã ban hành QĐ số 832TC/QĐ/CĐKT (28/10/1997) về quy chế kiểm toán nội bộ và Thông tư sô 52/1998-TT/BTC (16/04/1998) hướng dẫn thực hiện quy chế này nhằm đưa ra những quy chế về kiểm toán nội bộ và tổ chức thực hiện công việc thành lập bộ máy KTNB tại các DNNN. Với các Quyết định và Thông tư này thì việc tổ chức bộ máy KTNB tại các DNNN là yêu cầu bắt buộc. Xét về khía cạnh pháp lý thì mọi DNNN phải lập bộ phận KTNB và nó có thể thay thế cho KTĐL, tuy nhiên KTNB phụ thuộc rất lớn vào người lãnh đạo cao nhất trong doanh nghiệp, cho nên tính độc lập của KTNB chưa cao và kém hiệu quả. Mặt khác bộ phận KTNB tuy độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp nhưng vẫn là một bộ phận của doanh nghiệp nên không thể hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp. Vì vậy báo cáo kiểm toán nội bộ được doanh nghiệp rất tin tưởng nhưng lại ít có giá trị pháp lý. Chính điều này làm cho các doanh nghiệp không tích cực trong việc thành lập bộ phận KTNB trong doanh nghiệp mình vì phải bỏ chi phí ra thành lập, mà hiệu quả đem lại chưa cao, chưa tạo được niềm tin cho những người sử dụng thông tin về báo cáo tài chính do KTNB thực hiện kiểm toán. Đồng thời, trong quá trình thực hiện Nghị định 59/CP và QĐ số 832 TC/QĐ/CĐKT (28/10/1997) và Thông tư số 52/1998-TT- BTC(16/ 04/1998) đã nảy sinh những vướng mắc rằng có những doanh nghiệp với quy mô hoạt động nhỏ, lĩnh vực hoạt động đặc thù và đội ngũ kế toán viên đủ mạnh, không nhất thiết phải thiết lập bộ máy KTNB. Đối với các DNNN có quy mô nhỏ, lãnh đạo doanh nghiệp có thể kiểm tra chặt chẽ mọi hoạt động thì việc thành lập một bộ phận KTNB ở những doanh nghiệp này là hoàn toàn không cần thiết và hạn chế khi thành lập là không có cán bộ làm công tác này. Như đã nói ở trên, nhu cầu thiết lập bộ phận KTNB là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp, nhiều trường hợp lợi ích từ việc thành bộ phận KTNB nhỏ hơn so với chi phí bỏ ra nên sự bắt buộc đối với toàn bộ các DNNN phải thiết lập bộ phận KTNB là không hợp lý. Chính vì thế, Bộ Tài chính tiếp tục ra Thông tư số 171/1998 - TT - BTC (22/12/1998) nhằm thay thế Thông tư số 52 /1998 - TT - BTC (16/04/1998). Theo đó, việc tổ chức bộ máy KTNB là không bắt buộc đối với các DNNN mà phải tùy theo quy mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động, trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán... mà tổ chức bộ máy KTNB cho phù hợp hoặc không cần tổ chức bộ máy KTNB. Các DNNN đã tổ chức bộ máy KTNB theo quy định tại Thông tư số 52/1998-TT-BTC thì tùy theo tình hình của doanh nghiệp có thể tiếp tục duy trì và hoạt động hoặc tổ chức lại theo quy định ở Thông tư này. Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu về kế toán và kiểm toán, Quy chế KTNB hiện hành đã có được các nội dung cơ bản về loại hình KTNB, tạo cơ sở để các doanh nghiệp xây dựng bộ máy KTNB của mình. Tuy nhiên, ngoài những nội dung đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 171 cho thấy còn một số điểm gây lúng túng cho các doanh nghiệp, cụ thể : “ Doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức KTNB nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế - tài chính.....” (Điều 3), “....báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp phải có báo cáo KTNB đính kèm” (Điều 7), “ các doanh nghiệp phải tổ chức bộ máy KTNB như hướng dẫn tại Thông tư 171 thì không thể thực hiện được Điều 3. Nếu hiểu rằng Điều 3 chỉ quy định đối với các doanh nghiệp có tổ chức KTNB thì các doanh nghiệp không tổ chức bộ máy KTNB thực hiện Điều 7 như thế nào? Trong khi đó, tại Thông tư 171, ngoài một vài nội dung sửa đổi bổ sung như đã nêu trên tại điểm 2, phần 1 thông tư quy định: “ Phạm vi, nhiệm vụ của KTNB, nội dung trình tự, phương pháp KTNB và các nội dung khác được thực hiện theo quy định tại Quy chế về KTNB . Với quy định như vậy xin được hiểu là, ngoài các nội dung gồm hủy bỏ Thông tư 52 và những điểm sửa đổi bổ sung đã được quy định cụ thể tại Thông tư 171, mọi quy định khác ( điều 3, 7 và 16 ) tại Quy chế KTNB vẫn còn nguyên hiệu lực. Như vậy phải chăng giữa hai văn bản chưa có được sự thống nhất, gây lúng túng cho các doanh nghiệp một cách không cần thiết? Như vậy một hệ thống chính chưa toàn diện, triệt để lại hay thay đổi khiến cho các DNNN lúng túng trong việc thành lập bộ phận KTNB, các doanh nghiệp đang thực hiện theo chính sách này thì lại chuyển đổi sang chính sách khác, gây lãng phí tiền của, công sức và thời gian. Đồng thời do tính chất chưa ổn định của hệ thống pháp lý làm cho các DNNN chần chừ trong việc thành lập bộ phận KTNB mà vẫn còn chờ đợi tính hoàn thiện của hệ thống pháp lý, thấy rõ tính thiệt hơn khi thành lập bộ phận KTNB so với thuê KTNN hoặc KTĐL thì mới thành lập. Đây cũng là những lý do làm cho tiến trình thành lập KTNB trong các DNNN ở nước ta còn chậm và chưa hiệu quả. Mặt khác, tại Điều 6, Mục 2, Quyết định 832 TC/QĐCĐKT đã nêu rõ: “ bộ phận KTNB được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp (cả Phòng Kế toán - tài chính); chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp. Đây là quy định hoàn toàn đúng với nguyên tắc và thông lệ chung về tổ chức bộ máy KTNB. Tuy vậy, đến Thông tư 171/1998/TT-BTC ở điểm 3 lại “nới lỏng”: “Tùy thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể của trình độ năng lực đội ngũ kế toán, doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức bộ máy KTNB cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy KTNB không bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Vậy đối với các doanh nghiệp tổ chức bộ máy KTNB thì (Tổng ) giám đốc doanh nghiệp lựa chọn và quyết định hình thức tổ chức bộ máy KTNB cho phù hợp”. Theo dự nới lỏng này, nhiều đơn vị đã sát nhập trở lại bộ phận KTNB vào bộ máy kế toán, từ đó làm mất đi nguyên tắc tối quan trọng của tổ chức bộ máy KTNB là: “độc lập với các bộ phận còn lại và chỉ phụ thuộc vào người lãnh đạo cao nhất của đơn vị”. Chính điều này đã làm mất đi tính hiệu quả trong công việc của KTNB do phụ thuộc vào bộ phận kế toán, tạo cái nhìn thiếu tin tưởng vào hiệu quả hoạt động của KTNB đối với các doanh nghiệp chưa thành lập bộ máy KTNB, làm cho các doanh nghiệp này chưa thực dự muốn hình thành bộ phận KTNB trong doanh nghiệp mình. Đó là những nguyên nhân chủ yếu của hệ thống chính sách pháp lý ảnh hưởng tới sự hình thành bộ phận KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. b) Về mặt cán bộ và quy mô của các DNNN ở nước ta hiện nay: Trước hết về mặt tiêu chuẩn KTVNB: Do KTVNB là người kiểm toán các hoạt động của doanh nghiệp cả về tài chính, hoạt động cho nên đòi hỏi về mặt đạo đức KTVNB phải là người thẳng thắn, trung thực, trong sáng, công minh, nhiệt tình với công việc; có tác phong làm việc thận trọng, có uy tín trong doanh nghiệp, được lãnh đạo và CNV tin tưởng. Về trình độ chuyên môn, KTVNB phải là những chuyên gia có trình độ nghề nghiệp vững vàng. Trước hết, phải là có trình độ nghiệp vụ kinh tế thành thạo , có thể là nhũng cán bộ đã tốt nghiệp Đại học kế toán hoặc các ngành kinh tế, Ngân hàng, Tài chính nhưng làm nghiệp vụ kế toán ít nhất là 5 năm hoặc đã qua chức kế toán trưởng đơn vị. Nói chung về mặt nghiệp vụ, KTVNB ít nhất phải tương đương với kế toán trưởng đơn vị. Tuy nhiên, một thực tế đang xảy ra là do lĩnh vực kinh tế mới hình thành ở nước ta cho nên cán bộ về kế toán chưa có nhiều do đó nhu cầu về kế toán viên là rất lớn và vẫn đang khan hiếm. Việc lập bộ phận KTNB lại đòi hỏi KTVB phải hội đủ các tiêu chuẩn như đã nói ở trên. Do vậy thực tế một số doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ rất khó khăn khi thành lập bộ phận KTNB, vì không có nhân sự hội đủ điều kiện của quy chế kiểm toán viên nội bộ nhất là chọn Trưởng phòng (Trưởng ban) KTNB. Nếu có thì điều động phòng kế toán sang làm công tác KTNB, dẫn đến thiếu nhân sự chỉ huy bộ phân kế toán và họ phải kiêm nhiệm kế toán một thời gian, điều này trái với nguyên tắc "bất kiêm nhiệm"trong quy chế KTNB. Hơn thế nữa khi thành lập bộ phận KTNB thường làm phát sinh tăng biên chế, chi phí, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó đối với các doanh nghiệp nhỏ việc hình thành KTNB là rất khó và không mấy hiệu quả. Trong Điểm 4, Thông tư 171/1998/TT-BTC lại "bổ sung thêm tiêu chuẩn…của kiểm toán viên như sau: "Trường hợp KTVNB chưa có bằng đại học chuyên ngành kế toán, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh thì tối thiểu phải có trình độ từ trung cấp chuyên ngành kinh tế tài chính hoặc quản trị kinh doanh, đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính kế toán ít nhất 5 năm, đã làm việc tại doanh nghiệp 3 năm trở lên nhưng không thấp hơn trình độ nghiệp vụ chuyên môn của kế toán trưởng doanh nghiệp đó". Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay quy định tiêu chuẩn KTVNB như vậy là chưa thật hợp lý. Trước hết ở Việt Nam bộ máy đào tạo của các doanh nghiệp chưa phát triển và do đó đào tạo ở các trường đại học còn phải mang tính chuyên sâu thì việc đồng nhất trình độ nghiệp vụ của các cử nhân quản trị kinh doanh với cử nhân kế toán, kiểm toán chưa thể có tức thời. Mặt khác, quy định này đối với KTVNB có phần quá cao, có thể chỉ phù hợp đối với kiểm toán trưởng của đơn vị. Hơn nữa "trình độ chuyên môn nghiệp vụ" của kế toán và kiểm toán có phần gần gũi nhưng không hoàn toàn "đồng chất" và thuộc các chức danh công chức khác nhau nên rất khó so sánh. Mặt khác, khi hình thức tổ chức bộ máy KTNB đã do đơn vị tự quyết định (nêu ở điểm 3 thông tư này và tiêu chuẩn KTVNB là " đã qua huấn luyện nghề nghiệp vụ kế toán, kiểm toán bộ theo nội dung chương trình thống nhất của Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ" (Điều 12 mục 4 quyết định 823/TC/QĐ/CĐKT) thì quy định này cũng không hoàn toàn cần thiết và nhất quán… Như vậy, ngay trong bản thân các chế độ pháp lý đã có những điểm không phù hợp như vậy cho nên việc thành lập KTNB có các KTV đang đáp ứng đủ các tiêu chuẩn KTVNB là rất khó khăn. Một nguyên nhân chính nữa dẫn đến sự khó khăn và chậm chạp trong việc thi hành KTNB ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay là đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước là có quy mô nhỏ và trung bình . Như đã nói ở trên, việc hình thành bộ phận KTNB trong các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ là rất khó khăn, chỉ có Doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn hay các Tổng Công ty mới có điều kiện để thành lập bộ phận KTNB mà số này lại rất ít. Với những khó khăn như vậy, hiện nay, KTNB trong các Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam còn rất ít tập trung, chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn. Các Tổng Công ty trong quá trình hình thành bộ phận KTNB trong các Doanh nghiệp Nhà nước còn chậm và gặp nhiều trở ngại . 4. Khó khăn về phương tiện vật chất , kỹ thuật Hiện nay, do giới hạn về phương tiện vật chất, ở nước ta chưa có đủ điều kiện vật chất cơ sở để áp dụng các thành tựu KHKT vào công việc cho nên một khối lượng công việc kiểm toán rất lớn như vậy trong một doanh nghiệp đòi hỏi phải có nhiều KTVNB, tốn nhiều thời gian, công sức, tiền của mà hiệu qủa kinh tế lại không cao. Hoặc có các Doanh nghiệp Nhà nước nào có đủ điều kiện để áp dụng các phương tiện thiết bị vào KHKT vào kinh tế thì lại bị giới hạn về trình độ sử dụng, không phát huy hết tính năng của công cụ hiện đại gây lãng phí giá trị sử dụng của máy móc . Đây là hai mặt của một vấn đề cần phải giải quyết để phát huy tính hiệu quả hữu ích của KTNB, vấn đề này không thể giải quyết một sớm một chiều, nó đòi hỏi phải có thời gian vật chất và chiến lược phát triển ở tầm vĩ mô. Đó là một số khó khăn và nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng chậm chạp, kém hiệu quả của quá trình hình thành KTNB trong các Doanh nghiệp Nhà nước và ở Việt nam hiện nay, đòi hỏi phải có biên pháp khắc phục chúng. III- Một số giải pháp trong việc giải quyết khó khăn trong việc hình thành KTNB trong các Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1. Hoàn thiện về mặt chính sách: Hoạt động KTNB trong các đơn vị của nền kinh tế không những tăng cường hiệu quả hoạt động của đơn vị mà còn tạo ra một sự ổn định và tính hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy Nhà nước cần định hướng và tạo ra môi trường cần thiết cho loại hình kiểm tra này hoạt động và phát huy hiệu quả trong nền kinh tế của ta hiện nay. Tính độc lập và tính khách quan của KTNB chỉ có thể được đảm bảo bằng một hành lang pháp lý tương xứng với chức năng nhiệm vụ của nó. Điều đó còn có ý nghĩa quyết định cả tính hiệu lực và tính hiệu quả của hoạt động KTNB. Nếu tính hiệu lực và tính hiệu quả của hoạt động KTNB không được quy định chặt chẽ, hợp lý sẽ có tác dụng ngược trở lại, đặc biệt là đối với Doanh nghiệp hạch toán độc lập là thành viên của Tổng Công ty. Từ thực tế trên, vấn đề đặt ra ở đây là phải hoàn thiện chính sách về KTNB như thế nào ở nước ta trong thời gian trước mắt. a) Về chính sách vĩ mô: - Các văn bản của Nhà nước , Nghị định, Thông tư hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền, nhất là của Bộ Tài chính cần phải rõ ràng về quy chế KTNB và quy chế kinh tế, không nên để các Doanh nghiệp có thể hiểu KTNB giống như KTĐL, và thực thi như nhau: - Cần sớm hoàn thiện các chuẩn mực kế toán và kiểm toán ở Việt Nam. - Tổ chức các đoàn khảo sát ở nước ngoài về KTNB để nâng vị trí KTNB ngang tầm một kiểm toán cho các kiểm toán trưởng của các công ty có nhu cầu với nguồn kinh phí của các công ty đóng góp để học tập kinh nghiệm về KTNB ở các nước có điều kiện tương tự. - Tổ chức lại hội thảo rút kinh nghiệm sau hai năm thực hiện quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng với các Doanh nghiệp Nhà nước ban hành theo quyết định 832/ TC/QĐ/CĐKT, trước hết là ở các Tổng Công ty Nhà nước . - Kết hợp việc sửa đổi bổ sung những điểm đã nêu ở trên với việc mở rộng phạm vi áp dụng để nâng cấp Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT có kết hợp Thông tư 171/1998/TB-BTC thành Nghị định của chính phủ và ban hành quy chế mẫu về KTNB theo Nghị định này. - Để cho báo cáo tài chính của Doanh nghiệp Nhà nước mang tính pháp lý cao, Bộ Tài chính cần có quy định và hướng dẫn việc thực hiện KTĐL đối với Doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên như vậy thì báo cáo tài chính của doanh nghiệp chỉ được công khai và có tính pháp lý khi đã có xác nhận của KT ĐL còn xác nhận của KTNB chủ yếu có giá trị trong nội bộ doanh nghiệp. Vì vậy các cấp cũng cần xem xét thêm về vấn đề này. b) Về quản lý vi mô: - Doanh nghiệp phải có kế hoạch xây dựng bộ phận KTNB, nhất là các Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu chủ như công ty TNHH, công ty cổ phần… nhằm thực hiện tốt mục tiêu của hệ thống kiểm soát doanh nghiệp. - Cần thực hiện nghiêm túc quy chế KTNB mà Bộ Tài chính ban hành. - Có thể DNNN có quy mô nhỏ gặp khó khăn khi bố trí nhân sự cho bộ phận KTNB, nhất là Trưởng phòng (Trưởng ban) KTNB, nhưng nhất thiết không được bố trí nhân viên KTNB kiêm nhiệm công việc kế toán tại doanh nghiệp như thực tế phát sinh ở một số doanh nghiệp hiện nay,. - Cần xây dựng quy chế hoạt động tại công ty riêng cho bộ phận KTNB, để bộ phận này thực hiện thuận lợi nhiệm vụ KTNB. 2. Hỗ trợ về mặt đào tạo và các điều kiện khác để nâng cao và phát triển đội ngũ KTVNB. Vấn đề tổ chức - cán bộ là yếu tố quyết định sự thành công trong hoạch định chính sách. Để có một đội ngũ cán bộ, cần có sự quan tâm đặc biệt đến bồi dưỡng, đào tạo tương xứng, đặc biệt với đội ngũ đầu ngành kết hợp sử dụng chuyên gia nước ngoài ở một số khâu công việc và một số lĩnh vực cần thiết. Theo QĐ số 237 TC/QĐ/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính và quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ KTVĐL quy định người dự thi phải đạt yêu cầu cả 8 môn thi bắt buộc quy định mới được cấp chứng nhận trúng tuyển KTV. Đối với KTVNB hiện nay chưa có quy định cụ thể. Tuy nhiên, trang bị những kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cho KTVNB cũng cần đạt được tương đương như đối với KTVĐL. Mặt khác, cũng cần chú ý là cán bộ của doanh nghiệp cử ra nên yêu cầu và bước đi trong công việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ này có thể không nhất thiết phải giống hệt với yêu cầu bồi dưỡng thi tuyển KTVĐL. KTVNB cần được tuyển chọn từ bộ phận kế toán tài vụ và được huấn luyện, đào tạo thêm để quay trở lại làm KTVNB cho doanh nghiệp. Có như vậy mới đảm bảo cho KTVNB nắm chắc tình hình của đơn vị và không làm tăng biên chế, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị trong điều kiện các DNNN hiện đang gặp khó khăn vì dôi thừa lao động. Trong khi chính phủ tạo ra các cơ sở pháp lý cho nghề kiểm toán tồn tại và phát triển thì các tổ chức chuyên môn trong quản lý nghề kiểm toán có một trách nhiệm lớn lao trong việc chăm lo cho các lợi ích của kiểm toán viên, thiết lập, duy trì và theo dõi các yêu cầu đối với việc vào nghề, tổ chức hoặc giám sát các kì thi chuyên môn để cấp giấy phép hành nghề kiểm toán, giám sát việc tuân thủ các yêu cầu về giáo dục chuyên môn thường xuyên, theo dõi đánh giá năng lực, việc chấp hành Bộ luật đạo đức và khi cần thiết thì áp dụng biện pháp kỷ luật đối với những người không tuân thủ, đồng thời giúp cho các KTV cập nhật kiến thức, tiếp cận với sự phát triển nghề nghiệp của quốc gia cũng như quốc tế. Có như vậy mới đảm bảo cho hệ thống KTNB hoạt động có hiệu quả và thiết thực hơn đối với các doanh nghiệp. 3. Về chính sách vật chất và phương tiện kĩ thuật. Do đòi hỏi đối với KTV là phải trung thực, chính xác cho nên cần phải có các chính sách đãi ngộ thích hợp đối với các KTV để các KTV có điều kiện làm việc tốt, an tâm hơn trong công việc và tránh được nạn tham nhũng, thiếu trung thực của KTV, giúp cho hoạt động kiểm toán ngày càng có hiệu quả. Bên cạnh đó để thúc đẩy tiến trình hình thành bộ phận KTNB ở nước ta đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất kĩ thuật vững mạnh, các doanh nghiệp cần đầu tư các máy móc, công cụ, thiết bị hiện đại để giúp cho các KTVNB của mình có thể giải quyết một khối lượng công việc lớn của doanh nghiệp với một chất lượng cao. Đây là hoạt động cần thiết vì việc đầu tư thiết bị hiện đại trong kiểm toán sẽ giúp cho hiệu quả kiểm toán cao và có thể sử dụng lâu dài. 4. Về tổ chức bộ máy KTNB: Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách hữu hiệu, bộ phận KTNB phải trực thuộc cấp cao nhất trong doanh nghiệp. ở các đơn vị không có HĐQT, bộ phận KTNB nên được tổ chức trực thuộc và báo cáo trực tiếp cho Giám đốc. Có thể mô hình hoá sau: Mô hình 3: Bộ phận KTNB trực thuộc Tổng Giám đốc Báo cáo kiểm toán Giám đốc Các phòng ban khác Bộ phận kế toán Bộ phận KTNB Thực hiện kiểm toán Thực hiện kiểm toán ở các doanh nghiệp có HĐQT, bộ phận KTNB nên trực thuộc Uỷ Ban kiểm soát của HĐQT. Uỷ ban này gồm 1 số thành viên của HĐQT nhưng không giữ chức vụ hay đảm trách công việc gì trong đơn vị. Tính chất độc lập giúp cho UBKT thực hiện tốt chức năng giám sát của mình đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp . Mô hình 4: bộ phận KTNB trực thuộc ủy ban kiểm soát là các thành viên trong HĐQT HĐQT Báo cáo kiểm toán Ban Giám đốc Uỷ Ban kiểm soát Thực hiện kiểm toán Bộ phận KTNB Các phòng ban khác Bộ phận kế toán Trên đây là một số giải pháp để khắc phục khó khăn và đẩy nhanh quá trình thành lập bộ phận KTNB ở nước ta hiện nay - một nhân tố cần thiết trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay để đảm bảo sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp. IV- Một số kiến nghị rút ra từ thực tế Trước hết cần phải khẳng định một lần nữa là việc thành lập bộ phận KTNB trong các DNNN là cần thiết, tuy nhiên tùy vào tình hình cụ thể và nhu cầu tự thân của các doanh nghiệp mà các doanh nghiệp xác định có nên thành lập bộ phận KTNB hay không. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp là tốt, xét thấy việc thành lập bộ phận KTNB là tốn nhiều chi phí hơn so với việc thuê các Giám định viên kế toán bên ngoài thì doanh nghiệp có thể không cần thành lập bộ phận này. Có thể rút ra một số kiến nghị trên cơ sở các giải pháp đã nêu ở trên, phù hợp với tình hình nước ta hiện nay như sau: 1. Mô hình tổ chức: Do đặc điểm các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên nếu thành lập bộ phận KTNB thì bộ phận này nên đặt trực thuộc Giám đốc doanh nghiệp. Đối với các Tổng Công ty thì bộ phận nên đặt trực thuộc ủy Ban kiểm soát của HĐQT. Mô hình đưa ra như đã nêu ở phần giải pháp bên trên. Cách tổ chức như vậy sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác KTNB và thích ứng với tình hình hiện nay ở nước ta, có tính năng động cao và đảm bảo được các nguyên tắc về tổ chức KTNB. 2. Về cơ cấu bộ phận KTNB ở các Tổng Công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn. Bộ máy ktnb của doanh nghiệp có quy mô lớn (thường ở cấp Tổng Công ty) được xây dựng bao gồm: Trưởng phòng kiểm toán, Phó phòng kiểm toán, nhóm trưởng kiểm toán và các KTVNB. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi trong công tác tổ chức và điều hành bộ phận kiểm toán nội bộ có thể xây dựng theo mô hình sau: Mô hình 5: Tổ chức trong bộ phận KTNB Trưởng bộ phận kiểm toán Trưởng nhóm kiểm toán Trưởng nhóm kiểm toán Trưởng nhóm kiểm toán Trợ lý kiểm toán viên Kiểm toán viên Kiểm toán viên cao cấp Số lượng kiểm toán viên được xác định theo công thức như đã nêu ở trên. Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì việc tổ chức bộ phận kiểm toán phải gọn nhẹ, và tốt nhất cũng nên đặt trực thuộc sự quản lý, điều hành của Giám đốc doanh nghiệp. Đó là một số kiến nghị đối với việc tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các DNNN ở nước ta hiện nay. 3. Hướng nghiên cứu mới: Qua việc nghiên cứu đề tài này, đề tài mở ra cho chúng ta một hướng nghiên cứu mới đó là: “Tổ chức bộ máy KTNB ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay”. Việc tổ chức KTNB ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có tính chất bắt buộc mà tùy thuộc vào yêu cầu, sự cần thiết trong quản lý của doanh nghiệp và nó do doanh nghiệp tự quyết định. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu để đưa ra thành quy định pháp lý cho phù hợp, nhằm đảm bảo sự tin cậy đối với các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là các báo cáo của các Công ty cổ phần và các Công ty TNHH, lành mạnh hóa môi trường và cơ chế tài chính hiện nay. Kết luận Xuất phát từ vai trò của kinh tế nói chung và KTNB trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc hình thành KTNB ở nước ta hiện nay là một vấn đề tất yếu cần thiết để đảm bảo tính trung thực của báo cáo tài chính trong doanh nghiệp cũng như tính tuân thủ, tính hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đưa ra các kiến nghị và giải pháp về chế độ kế toán, hình thức quản lý, tính hiệu quả của doanh nghiệp.Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp phải tự vươn lên bằng chính sức lực của bản thân mình, KTNB giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình mà từ đó ra các quyết định quản lý, đảm bảo kinh doanh một cách có lãi. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay ở Việt Nam, KTNB còn là vấn đề rất mới mẻ, chưa được đề cập tới nhiều, do đó cho nên việc hình thành bộ phận KTNB trong các DNNN ở nước ta hiện nay còn gặp phải nhiều khó khăn và hoạt động của KTNB còn kém hiệu quả. Đề tài này nghiên cứu một số khó khăn và giải pháp đối với việc hình thành KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Giải quyết các vấn đề cấp bách nói trên sẽ giúp ích thực tiễn cho việc hoạch định chính sách không chồng chéo, không trùng lắp, không mâu thuẫn nhau và tránh sai sót dẫn đến thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung quá nhiều lần với nhiều quy định khác nhau. Nhờ đó, đảm bảo cho hệ thống chính sách được hình thành có tính hệ thống hoàn chỉnh, tính kỷ cương, hiệu lực, tính hiệu quả trong soạn thảo, ban hành và thực thi các chính sách … đồng thời thúc đẩy sự phát triển của bộ phận KTNB trong các DNNN ở nước ta hiện nay. Hà Nội, tháng 10 năm 20001. Sinh viên thực hiện - Phạm Thái Sơn- Danh mục tài liệu tham khảo 1. Tạp chí Kiểm toán số 3 năm 2001 2. Tạp chí Kiểm toán số 4 năm 2001 3. Tạp chí Kiểm toán số 2 năm 2000 4. Giáo trình Lý thuyết kiểm toán ĐHKTQD- NXB Tài chính. 5. Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996 của Chính phủ. 6. Thông tư 171/TT - BTC ngày 22/12/1998. 7. Thông tư 73TC/TCDN ngày 12/11/1996 của Bộ Tài chính. 8. Thông tư số 52/1998-TC-BTC ngày 16/4/1998. 9. Quyết định số 832 TC/QĐ/CĐKT ngày28/10/1997.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35129.doc
Tài liệu liên quan