Đề tài Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Lời Mở Đầu Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách tiền tệ , chúng em quyết định chọn đề tài : “Điều hành CSTT của NHNN Việt Nam từ năm 2007 đến nay và những vấn đề đặt ra.” Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khác nhau để phân tích và có thể đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Chính sách tiền tệ của NHNN VN trong giai đoạn 2007 -2010 rất rộng lớn, có thể kiến thức của chúng em chưa đáp ứng được yêu cầu của các thầy (cô) yêu cầu. Chúng em rất mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng em được tốt hơn nữa. Mục Lục Chương I: 3 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 3 I) Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ 3 a. Khái niệm chính sách tiền tệ : 3 b. Vị trí chính sách tiền tệ : 3 II .Mục tiêu của chính sách tiền tệ : 3 a. Ổn định giá trị đồng tiền : 3 b. Tăng công ăn việc làm: 4 c. Tăng trưởng kinh tế: 4 III. Các công cụ điều tiết: 4 Chương II: 8 THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT Ở VIỆT NAM NĂM 2007 TỚI NAY 8 Thực trạng CSTT ở Việt Nam: 8 Bối cảnh chung: 8 Diễn biến về việc điều hành CSTT 10 Đánh giá việc điều hành CSTT ở VN trong giai đoạn 2007 đến nay: 22 Những thành công: 22 Những hạn chế: 25 .Những vấn đề đặt ra trong việc điều hành CSTT ở VN: 27 Giai đoạn: trong năm 2007- đầu 2008 27 Giai đoạn năm 2008: 28 Giai đoạn trong năm 2009 : 29 Chương III: 31 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NHNN VIỆT NAM 31 Cung ứng tiền hợp lý: 32 Xây dựng hệ thống thanh toán điện tử: 32 Các giải pháp hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách tiền tệ: 33 Công tác thanh tra kiểm soát nội bộ với hoạt động thanh tra nhà nước đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động ngân hàng: 33 Điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả: 34

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam và những vấn đề đặt ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cư trú nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn ngoại tệ. Thứ hai, sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc (DTBB), thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể: - Tăng tỷ lệ DTBB (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn). - Tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động bằng VND trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương). - 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được thực hiện nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền, cụ thể : + Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm, lãi suất chiết khấu lên 11%/năm. + Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 15%/năm, lãi suất chiết khấu lên 13%/năm. +) Nâng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và qui định các NH mua tín phiếu NHNN: - Ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng. Cụ thể, mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay vì áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống như thời gian qua. Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay. Không điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông nghiệp nông thôn. - Ban hành quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng VND dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng với nội dung chủ yếu là: tổng giá trị tín phiếu NHNN phát hành bắt buộc đợt này là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,80%/năm; hình thức phát hành là ghi sổ; giá trị tín phiếu được phân bổ cho từng tổ chức tín dụng theo quy mô, tỷ trọng huy động vốn bằng đồng Việt Nam của từng tổ chức tín dụng; thời điểm phát hành tín phiếu là ngày 17/3/2008. +) Bình ổn thị trường ngoại hối: - Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày, thực hiện minh bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối. - Bên cạnh đó, NHNN thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cấm các tổ chức tín dụng (TCTD) không được mua - bán USD thông qua ngoại tệ khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường và thiết lập đường dây nóng. Hành động này đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường, góp phần tích cực tạo bình ổn thị trường. 6 tháng cuối năm: Chính sách tiền tệ 6 tháng cuối năm 2008 để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng. Theo ý kiến chỉ đạo của Công văn số 970/TTg-KTTH ban hành ngày 25/6/2008 về việc thực hiện biện pháp kiềm chế lạm phát và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô những tháng cuối năm 2008, NHNN đã thực hiện một loạt các giải pháp sau: +) Điều chỉnh lãi suất : - Đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%/năm, 12%/năm, 10%/năm và 8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 14%/năm 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm xuồng 12%/năm và 11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng thương mại từ 15%/năm xuống 14%/năm, 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm. Bảng 1 Lãi suất CB Quyết định Ngày thực hiện 8,5% 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008 10% 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008 11%/năm 2808/QĐ--NHNN ngày 20/11/2008 21/11/2008 12%/năm 2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 05/11/2008 13.0%/năm 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008 14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008 - Đã tăng lãi suất tiền gửi DTBB bằng đồng Việt Nam đối với các TCTD từ 5%/năm lên 10%/năm và giảm 1% tỷ lệ DTBB đối với tiền nội tệ và 2% tỷ lệ DTBB tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các TCTD. Tiếp đến tháng 11 giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc xuống 7 % và hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn mức 5% đối với Việt Nam đồng. Bảng 2: Lãi suất DTBB Quyết định Ngày thực hiện 8,5%/năm 3162/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008 9%/năm 2950/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008 5/12/2008 10%/năm 2321/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008 5,0%/năm 2133/QĐ-NHNN ngày 25/9/2008 01/10/2008 3,5%/năm 1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008 01/9/2008 -Ban hành Quyết định 2811 ngày 20/11/2008 theo đó, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam từ 10%/năm xuống còn 8%/năm, rồi từ 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158). +) Điều chỉnh tỷ giá: - Ngày 6/11/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2635/QĐ-NHNN, theo đó,cho phép Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua bán giao ngay giữa VND và USD trong biên độ ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tăng ±1% so với mức ±2% đã được áp dụng. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 07/11/2008. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 09/10/2008, theo đó yêu cầu các TCTD áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong đó chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tác động của khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh; đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế trên cơ sở khả năng huy động vốn trong và ngoài nước, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn… Giai đoạn 2009-nay: Trong năm 2009: Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. NHNN đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. +) Dự trữ bắt buộc: Từ 1/3/2009, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các tổ chức tín dụng, đồng thời tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản VND. Cụ thể, lãi suất cơ bản được giữ nguyên ở mức 7%/năm và lãi suất cho vay tối đa là 10,5%/năm. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng được điều chỉnh đối với mọi loại hình tổ chức tín dụng - Ngày 3/4/2009, Thống đốc NHNN (NHNN) đã ban hành Quyết định số 790/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với tổ chức tín dụng (TCTD) và lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại NHNN. Theo quyết định này, kể từ ngày 3/4/2009, NHNN áp dụng mức lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ gửi tại NHNN của các TCTD là 0,1%/năm, áp dụng kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 4/2009. Tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại NHNN cũng được áp dụng mức lãi suất 0,1%/năm. +) Hỗ trợ tín dụng: -Ngày 29/9, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 20/2010/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn. +) Lãi suất: Lãi suất tái cấp vốn: Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng 08% 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009 7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009 7% 837/QĐ-NHNN 10/04/2009 10/04/2009 7% 173/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009 - Ngày 23/01/2009 Thống đốc NHNNVN ra Quyết định số 173/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các ngân hàng. -Ngày 10/04/2009 Phó Thống đốc Trần Minh Tuấn ký ban hành Quyết định số 837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt  vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các Ngân hàng. Theo quy định các mức lãi suất của NHNNVNnhư sau: Lãi suất tái cấp vốn: 7,0%/năm. Lãi suất tái chiết khấu: 5,0%/năm. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt  vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các ngân hàng: 7,0%/năm. -Ngày 25/11/2009, Thống đốc NHNN (NHNN) Việt Nam đã ban hành các Quyết định điều chỉnh mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và tỷ giá. Quy định các mức lãi suất của NHNNVNnhư sau: 1. Lãi suất tái cấp vốn: 8,0%/năm 2. Lãi suất tái chiết khấu: 6,0%/năm. 3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các ngân hàng: 8,0%/năm. Lãi suất cơ bản: Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng 8% 2665/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009 7% 2459/QĐ-NHNN 28/10/2009 01/11/2009 7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009 7% 2024/QĐ-NHNN 26/08/2009 01/09/2009 7% 1811/QĐ-NHNN 30/07/2009 01/08/2009 7% 1539/QĐ-NHNN 30/06/2009 01/07/2009 7% 1250/QĐ-NHNN 22/05/2009 01/06/2009 7% 1015/QĐ-NHNN 29/04/2009 01/05/2009 7% 626/QĐ-NHNN 24/03/2009 01/04/2009 7% 378/QĐ-NHNN 24/02/2009 01/03/2009 7,0%/năm 172/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009 -Trước khi nghỉ Tết 2009, NHNN đưa lãi suất cơ bản của VND từ mức 8,5% xuống còn 7% một năm. Mức cắt giảm 1,5% cũng được áp dụng với các loại lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm. Với phần dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng mà các ngân hàng thương mại gửi ở NHNN, lãi suất giảm mạnh hơn, từ 8,5% xuống còn 3,6% một năm. +) Trên thị trường ngoại hối: - 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như: - Mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng. - Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009). - Đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. - Ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 đồng/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá. - Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. 6 tháng đầu năm 2010: +) Điều hành lượng tiền cung ứng thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn để đảm bảo an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng và hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế: Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng sẽ phải nâng lên mức 9% thay cho 8% như hiện nay, thời gian áp dụng từ ngày 1/10/2010. Đó là một trong những nội dung chính tại Thông tư số 13/TT-NHNN mà Thống đốc NHNN vừa ký ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. +) Điều hành linh hoạt công cụ lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật, mục tiêu kinh tế vĩ mô và điều kiện của thị trường, kết hợp với các công cụ khác nhằm điều tiết lãi suất thị trường ở mức hợp lý, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng huy động vốn và cho vay đối với nền kinh tế: - Giữ ổn định lãi suất cơ bản 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu 6%/năm. Lãi suất cho vay VND của NHTM tối đa là 12%/năm, lãi suất thị trường liên ngân hàng biến động không lớn (8 – 10%/năm), lãi suất huy động VND kỳ hạn dưới 12 tháng dưới 11%/năm; lãi suất huy động bằng USD khoảng 3 – 4%/năm và cho vay khoảng 5 – 8%/năm. - NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của TCTD đối với khách hàng, trong đó, mở rộng cho vay trung, dài hạn bằng VND theo lãi suất thỏa thuận phù hợp với Nghị quyết số 23/2008/QH12 ngày 06/01/2010 của Quốc hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và chỉ đạo của Thường trực Chính phủ. +) Điều chỉnh tỷ giá, thực hiện các biện pháp chống găm giữ và đầu cơ, can thiệp bán ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thiết yếu nhằm từng bước tạo sự chuyển biến tích cực của thị trường ngoại tệ: - Ngày 10/02/2010, Thống đốc NHNNVNban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng (TCTD) là 1%/năm và quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 11/02/2010 là 18.544 VND/USD (tăng 3,36%). - Thực hiện hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, hạ lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp và nâng tỷ giá danh nghĩa lên thêm 3,36%. Cùng lúc, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực mua lại ngoại tệ của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đồng thời, NHNN bán ngoại tệ ở mức hợp lý để hỗ trợ ngoại tệ nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất. Ngoài ra, cơ quan này cũng tiến hành đóng cửa sàn vàng, góp phần quan trọng ổn định tỷ giá cũng như ổn định thị trường ngoại hối. +)Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn thị trường vàng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: - Để bình ổn thị trường vàng trong nước, đưa giá vàng trong nước quy đổi bằng tỷ giá thị trường tự do về sát với giá vàng thế giới để tránh tình trạng nhập lậu vàng, từ ngày 5/2 đến ngày 24/2/2010, NHNN đã cho phép Công ty SJC nhập khẩu 6 tấn vàng. Theo báo cáo, Công ty đã bán hết ra thị trường. Sau khi triển khai biện pháp can thiệp thị trường vàng, đến nay, về cơ bản đã đạt được các mục tiêu nói trên - Về tình hình đóng cửa sàn vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài; đối với các NHTM, hiện nay có 3 NHTM đã đóng cửa Sàn giao dịch vàng, các NHTM có Sàn giao dịch vàng khác đều đang tiến hành thực hiện các biện pháp cần thiết để đóng cửa Sàn giao dịch vàng theo đúng thời hạn quy định. Đối với sàn giao dịch vàng khác, theo thông tin từ các trang thông tin điện tử của các Sàn giao dịch vàng thuộc các Công ty chứng khoán và các Sàn giao dịch vàng khác không thuộc NHTM, các Sàn giao dịch vàng này đều đã có thông báo chính thức đóng cửa Sàn giao dịch vàng trước ngày 30/3/2010 theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. +)Chỉ đạo các TCTD trong các hoạt động tín dụng, hỗ trợ lãi suất và kinh doanh ngoại hối: - Chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng đi đôi với mở rộng tín dụng, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực nông thôn, chi phí sản xuất nông – lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp, thu mua nông sản, chế biến và xuất khẩu và các dự án lớn trọng điểm của nhà nước. - Chỉ đạo các TCTD thực hiện việc quyết toán hỗ trợ lãi suất đối với các khoản cho vay ngắn hạn bằng VND phát sinh trong năm 2009 theo Quyết định số 131/QĐ-TTg và triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất đối với những khoản vay trung và dài hạn bằng VND. - Tăng cường giám sát hoạt động kinh doanh của các TCTD (tỷ lệ an toàn, thực hiện các quy định của pháp luật về lãi suất và quản lý ngoại hối); hệ thống TCTD nhìn chung hoạt động an toàn, hầu hết các TCTD thực hiện đảm bảo các tỷ lệ về chi trả, an toàn hoạt động; một số NHTM có khó khăn tạm thời, NHNN đã có biện pháp hỗ trợ vốn để tránh tác động xáo trộn thị trường. Đánh giá việc điều hành CSTT ở VN trong giai đoạn 2007 đến nay: Những thành công: Giai đoạn 2007: Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau: - Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế + Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. + Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND. - Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực + Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007. + Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế. - Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế + Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội. + Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững. + Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. · Giai đoạn 2008: -Thành công bước đầu trong kiềm chế lạm phát : Trong hai tháng 3 và 4 chúng ta đã hạn chế được phần nào sự gia tăng của CPI so với mức 3,56% của tháng 2. Cụ thể, tháng 3 CPI đã giảm xuống còn 2,99%, đến tháng 4 tiếp tục giảm xuống còn 2,2% . Thế nhưng, như đã biết, đến tháng 5 thì CPI lại tiếp tục tăng vọt lên 3,91 % so với tháng 4, khiến cho CPI của cả 5 tháng đầu năm đã tăng đến mức 15,96% so với cuối năm 2007. Thế nhưng đến tháng 6 vừa qua, do những nỗ lực phấn đấu kiềm chế lạm phát, CPI đã giảm mạnh, chỉ còn khoảng 2,14%, thấp hơn nhiều so với chỉ số của tháng 5 là 3,91% và là con số thấp nhất từ đầu năm đến nay. - Tăng niềm tin về sự đúng đắn trong chính sách tiền tệ Mức lãi suất huy động tiền VND phổ biến từ 17-17,5%/năm (khối các ngân hàng thương mại nhà nước) và 17,5-18%/năm (khối các ngân hàng thương mại cổ phần). Và hầu hết các ngân hàng thương mại đã điều chỉnh lãi suất cho vay về sát mức tối đa 21%/năm và đã ngừng thu tất cả mọi loại phí. - Có sự cải thiện dần các chỉ số lạm phát và thâm hụt thương mại, và do đó mối lo về cuộc khủng hoảng tiền tệ đã dịu đi.     Từ tháng 6, 7/2008  trở lại đây, tốc độ tăng CPI trên thị trường trong nước đã chững lại khá rõ rệt dù chưa thật vững chắc. Chỉ số CPI cả nước trong tháng 8/2008 còn 1,56%. Thanh toán quốc tế vẫn được duy trì ổn định, sự căng thẳng thâm hụt trong cán cân thanh toán trong tháng 4 và 5/2008 đang dần được cải thiện, nguy cơ về một sự suy giảm mạnh thị trường tiền tệ đã dịu đi, tuy rằng áp lực do tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, trong khi lãi suất huy động và cho vay không thể giảm sâu nhanh được. Thị trường nội tệ và ngoại tệ đã có sự ổn định trở lại sau cú sốc tỷ giá và thiếu tính thanh khoản trên thị trường trong quý II/2008... -Điều hành linh hoạt công cụ chính sách tiền tệ : NHNN đã áp dụng nhiều công cụ chính sách tiền tệ để chặn lạm phát bao gồm: Tăng tỷ lệ bắt buộc; phát hành tín phiếu; tăng lãi suất; nới lỏng biên độ tỷ giá để VNĐ tăng giá so với USD... Các công cụ này triển khai nhằm hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế và thị trường, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Đồng thời, NHNN đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức  tín dụng. Sau khi áp dụng chính sách thắt chặt, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ, mũi tên mang nhiều mục đích này nhằm kịp thời điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nâng lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay. -Cơ bản hoàn thành nhiệm vụ được giao, bảo đảm an toàn cho nền kinh tế. Qua một năm đầy sóng gió nhưng hoạt động của hệ thống Ngân hàng đã góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng kinh tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn. Lãi suất, tỷ giá biến động ở mức hợp lý. Khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được đảm bảo. Tin dụng tăng trưởng ở mức phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn đảm bảo an toàn và có bước phát triển. Giai đoạn 2009-nay: Đóng góp lớn nhất của chính sách tiền tệ vào sự ổn định và phát triển của đất nước là tiếp tục giữ ổn định thị trường tiền tệ, giảm các chi phí vốn cho doanh nghiệp và cung ứng kịp thời các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước trong phạm vi an toàn tín dụng cho phép; từng bước khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới; củng cố niềm tin của nhà đầu tư và của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng và các giải pháp kích cầu của Chính phủ. Bên cạnh đó, các công cụ chính sách tiền tệ ngày càng đa dạng, đồng bộ được NHNN điều hành ngày càng linh hoạt, phù hợp cơ chế và bám sát các tín hiệu thị trường cũng như xu thế vận động chung của chính sách tiền tệ thế giới. NHNN điều hành chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và hộ sản xuất tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp (4%-6,5%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) để sản xuất-kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế suy giảm.Việc tăng vốn cho mở rộng đầu tư phát triển sản xuất-kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu là rất cần thiết nhưng đây cũng là nhân tố tác động làm cho tăng trưởng tín dụng ở mức cao (9 tháng qua là 29,3%). Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD ở thời điểm này sẽ giúp các TCTD tăng khả năng huy động vốn và thanh toán cũng như giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất có thêm nguồn cung từ nguồn vốn vay ngân hàng nhằm thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển. -Cho đến nay, một vài bất cập trong cơ chế huy động vốn đã được cơ quan quản lý điều chỉnh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có thêm nguồn vốn cho vay, giảm áp lực phải tăng huy động vốn của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại có cơ sở để giảm lãi suất huy động và cho vay. Để tiếp tục hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm mặt bằng lãi suất, từ nay đến cuối năm, NHNN sẽ tiếp tục chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ: mở rộng hoạt động của thị trường mở, bổ sung thêm kỳ hạn giao dịch, giảm nhẹ lãi suất giao dịch thị trường mở; lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu tiếp tục ổn định ở mức thấp 2. Những hạn chế: Giai đoạn 2007: Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều. Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng. Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh nghiệp cũng có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã gây sức ép mở rộng tín dụng tăng quá nhanh của các NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro. Giai đoạn 2008: -Thị trường tiền tệ còn diễn biến phức tạp, thị trường chứng khoán chưa ổn định; giá cả tiếp tục tăng ở mức cao. -Bên cạnh kết quả đạt được, điểm hạn chế của chính sách tiền tệ trong năm 2008 là ở thị trường ngoại hối .Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện nay, nhiều lúc khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra. -Giới hạn về chủng loại và khối lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường tiền tệ, thiếu hệ thống môi giới minh bạch, thiếu luật điều chỉnh, trong khi sự thống trị của đồng tiền quốc gia bị giới hạn vì đồng USD chiếm phần lớn trong lưu lượng tiền tệ trên thị trường... là những căng thẳng mà NHNN đang gặp phải trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả. -Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản sụt giảm thị trường chứng khoán Việt Nam có kết quả tồi tệ nhất tại châu Á. Chỉ số VN-Index tính tới giữa tháng 12 đã giảm gần 68% so với đầu năm Tóm lại,cuối năm 2008, kinh tế thế giới vẫn trên đà suy thoái gây ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Đó cũng chính là thách thức cho chính sách tiền tệ năm 2009 Giai đoạn 2009: Cơ chế hỗ trợ lãi suất có một số quy định chưa phù hợp với thực tế và trong những tháng cuối năm 2009, một số biểu hiện mặt chưa tích cực của hỗ trợ lãi suất đã bộc lộ. Cụ thể như cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn kết quả đạt thấp là do có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất, thủ tục cho vay chặt chẽ và việc xử lý các vướng mắc của các bộ, ngành còn chậm. Bên cạnh đó, việc triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất trong ngắn hạn, trên phạm vi cả nước, đối tượng thụ hưởng rộng, gây khó khăn cho công tác thanh tra, giám sát của các bộ, ngành. Không những thế, việc làm này cũng phát sinh khối lượng lớn công việc và chi phí đối với ngân hàng thương mại. Lãi suất cho vay hỗ trợ lãi suất ở mức tương đương lãi suất cho vay bằng USD và thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn hiện nay đã tác động làm tăng trưởng tín dụng ở mức cao, gây sức ép tăng lãi suất và tỷ giá, có thể phát sinh các hiện tượng lợi dụng cơ chế để trục lợi. Mặt khác, đối tượng thụ hưởng là doanh nghiệp, hộ sản xuất thuộc nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, nếu kéo dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại, giá cả và lợi nhuận sản phẩm không phản ánh đúng năng suất, hiệu quả của hoạt động sản xuất-kinh doanh và sẽ ảnh hưởng lớn đến tính cạnh tranh và phát triển bền vững. Mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát là hai mục tiêu phải được thực hiện song hành về lâu dài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn và đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế còn bị đe doạ bởi những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, hai mục tiêu này có khả năng xung đột nhau vì kích thích tăng trưởng là phải tăng cung tiền và dễ đưa đến tỉ lệ lạm phát cao. Và ngược lại, để kiềm chế lạm phát, cung tiền phải được kiểm soát chặt chẽ đưa đến sự suy giảm mức tăng trưởng kinh tế. Hiện nay thanh khoản của hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế, lãi suất có vấn đề trong khi các biện pháp chưa đạt hiệu quả cao. do hệ thống NHTM nước ta chưa đồng đều, chỉ có vài ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán, có chênh lệch lớn về quy mô, có ngân hàng tổng tài sản gần 500.000 tỷ đồng, một số ngân hàng quy mô nhỏ, tổng tài sản chỉ vài ngàn tỷ đồng, nhưng chịu sự chi phối và điều chỉnh chung bởi một hệ thống văn bản pháp luật. Những vấn đề đặt ra trong việc điều hành CSTT ở VN: Giai đoạn: trong năm 2007- đầu 2008 Từ cuối năm 2006 đến giữa đầu năm 2007, nền kinh tế VN nổi lên với nhiều sự kiện, chỉ tiêu đầy hứa hẹn. Khi VN chính thức là thành viên của WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). 2007 là năm ảm đạm trong nề Kinh tế Mĩ khi mà đồng đô la xuống giá nghiêm trọng. Sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác trên thế giới chịu ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam. Đồng tiền mất giá là ấn tượng đáng nhớ nhất trong năm 2007 và đầu năm 2008. Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng.Tuy nhiên NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND. Tuy nhiên, mặt trái của chính sách thị trường mở là NHNN đã phải cung ra số lượng khổng lồ tiền đồng để mua hết số đô la này, Đồng đô la mất giá, đồng ghĩa với việc tiền Việt lên giá. Người ta lại dồn dập bán đô la để thu tiền Việt. Cung tiền đồng lại phải tăng thêm để giữ tỉ giá hối đoái (VND/USD) khỏi xuống quá thấp, làm cho lượng cung tiền của VN từ năm 2005 đến hết tháng 6/2007 tăng tổng cộng 110%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đối với lạm phát. Con số lạm phát lên đến 12.63% so với chỉ số tăng GDP là 8.5% - nghĩa là về thực chất chúng ta tăng trưởng âm. Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế. Mặc dù ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%, nhưng với biên độ dao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường bên ngoài. Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD. 2. Giai đoạn năm 2008: Là năm có nhiều khó khăn và thử thách đối với hoạt động của ngành Ngân hàng lạm phát tăng cao và không có dấu hiệu dừng và chia làm 2 giai đoạn: a. Giai đoạn từ đầu năm đến tháng 6: NHNN Việt Nam quyết định nâng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và qui định các NH mua trái phiếu NHNN. Kèm với đó là hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng bằng việc khống chế ở mức 30%. Ngoài ra, còn hàng loạt chính sách để hỗ trợ thị trường chứng khoán, hạn chế cho vay đối với bất động sản. - Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá dầu thô tăng cao, cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có hiện tượng “bốc hoả” về giá. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%). +Trước tình hình đó, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ là mục tiêu chủ yếu của NHNN, với ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. +Tiền tệ thắt chặt lập tức bằng cách ngân hàng Trung Ương tung ra hơn 20.000 tỉ dồng tín phiếu buộc các ngân hàng thương mại phải mua vào. +NHNN liên tục tăng LSCB trong 6 tháng đầu năm, đỉnh điểm là vào tháng 6/2008 lên đến 14%. Lãi suất Quyết định Ngày thực hiện 14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008 12%/năm 1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 19/05/2008 8.75%/năm 305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008 01/02/2008 + Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của NHNN (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng . Lãi suất cho vay rất cao đồng nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó nghiệp sẽ đẩy có khả năng vay vốn kinh doanh. Giá cả cũng chưa chắc xuống thấp được vì dù đồng tiền tăng giá vì lượng tiền lưu thông giảm xuống nhưng chi phí vốn của các doanh giá lên (lạm phát chi phí đẩy). b. Giai đoạn từ tháng 6 đến cuối năm 2008: - Chính phủ đã có chủ trương giảm tăng trưởng, tập trung chống lạm phát. - Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08). Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23%. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô. 2.Giai đoạn trong năm 2009 : - Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. - Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá. - NHNN đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. - Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. - NHNN mở rộng biên độ tỷ giá mua bán USD/VND từ +/-3% lên +/-5%. - Lãi suất cho vay ngoại tệ giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống 3%/năm kê từ ngày 01/6/2009 không quá lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm. - Bán nguồn ngoại tệ thu được phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN ; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ. - Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ c ủa các DN và ngưòi dân như đẩy m ạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình ng ại hối, tỷ giá.yêu cầu các NHTM nhà nuớc giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ ( lãi suất cho vay giảm t ừ 6 – 6.5%/năm xuống không quá 1.5%/năm kể từ ngày 01/06/2009). - Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND. Nguyên nhân: Mặc dù đạt được những kết quả nhất định trong việc điều hành CSTT của NHNN Việt Nam, song bên cạnh đó vẫn tồn tại một số bất cập trong công tác quản lý, điều hành CSTT. Chính vì vậy hiệu quả của CSTT đạt được là chưa cao. Có thể đưa ra một vài nguyên nhân sau: Về việc thực hiện các công cụ điều tiết CSTT: nghiệp vụ thị trường mở còn chưa được sử dụng rộng rãi, một số công cụ về phòng ngừa bảo hiểm rủi ro tỷ giá cũng chưa được các doanh nghiệp sử dụng nhiều Tính độc lập, trách nhiệm của NHNN chưa thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Kỹ thuật thu thập, xử lý thông tin chưa đáp ứng được với tình hình biến động của nền kinh tế do đó việc đưa ra quyết định điều hành CSTT đôi lúc còn chậm. Năng lực dự báo yếu kém, lúng túng, bị động, giải pháp chưa sát với yêu cầu thực tế. Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đôi khi chưa thống nhất dẫn đến những bất lợi cho nền kinh tế (ví dụ: khi lãi suất cho vay tăng lên trong điều kiện lạm phát tăng cao hầu hết các doanh nghiệp không chịu được lãi suất cao thì Nhà nước cần có chính sách tài khóa, tức là giảm thuế). Công tác kiểm tra giám sát hoạt động NHNN còn lỏng lẻo, thiếu rõ ràng. Cơ sở hành lang pháp lý còn thiếu tính đồng bộ. Thói quen thanh toán qua ngân hàng còn chưa phổ biến, điều này làm tăng lượng tiền cung ứng cho thị trường là nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Ngoài ra, thị trường tài chính tài chính ở Việt Nam vẫn chưa phát triển, hệ thống ngân hàng còn thiếu môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chương III: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NHNN VIỆT NAM Thực tế cho thấy, điều quan trọng và đóng góp lớn nhất của chính sách tiền tệ vào sự ổn định và phát triển của đất nước là tiếp tục giữ ổn định thị trường tiền tệ, giảm các chi phí vốn cho doanh nghiệp và cung ứng kịp thời các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của  đất nước trong phạm vi  an toàn tín dụng cho phép. Yêu cầu này cần được tiếp tục trong thời gian tới, với việc sử dụng đồng bộ hơn các công cụ của chính sách tiền tệ, trong đó có chính sách tỷ giá và lãi suất theo hướng thị trường và mềm hơn… Cung ứng tiền hợp lý: -Hướng  dòng vốn cho khu vực sản suất thực, giảm bớt đầu cơ quá mức. Khi dòng vốn ngân hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay; hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất. Đặc biệt khi dòng vốn được định hướng đúng đắn,  tình trạng bong bóng (chứng khoán, nhà đất,... vàng) sẽ giảm và qua đó sẽ không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi suất sẽ ổn định. Chính phủ cần giảm bớt (hoặc kiểm soát chặt) tình trạng đầu cơ thái quá trong nền kinh tế (như sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính quá mức trên TTCK, tiền tệ; các loại kinh doanh quá mạo hiểm không cần thiết cho khu vực sản xuất vật chất,...). -Khi Chính phủ kiên quyết giảm thiểu  tình trạng đầu cơ quá mức thì chắc chắn tình trạng dễ tổn thương của nền kinh tế nói chung và khu vực tài chính ngân hàng nói riêng sẽ giảm. Khi đó thị trường tiền tệ và ngoại hối (mà cụ thể là lãi suất và tỷ giá) sẽ ổn định. -Tiếp tục nâng cao quản trị rủi ro tại các NHTM so với vốn ngày càng tăng. Theo định hướng  của NHNN, đến năm 2010, các NHTMCP VN phải đạt 3.000 tỷ VND. Cùng với mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa thêm công cụ mới vào hoạt động trong thời gian qua, các NHTM đang lớn lên nhưng vấn đề quản lý lại chưa theo kịp (nhất là quản lý tài sản nợ, tài sản có và trong đó có quản  lý rủi ro lãi suất). Xây dựng hệ thống thanh toán điện tử: - Đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đặc biệt là hiện đại hóa công nghệ thanh toán, góp phần mơ rộng thanh toán không dùng tiền mặt và tạo ra các tiện ích hiện đại cho nền kinh tế, để tạo tiền đề tốt cho người dân mở tài khoản và giao dịch qua ngân hàng, giảm bớt lượng thanh toán bằng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán. - Xây dựng đề án thí điểm trả lương qua tài khoản cho cán bộ công nhân viên chức thuộc một số cơ quan bộ, ngành tại Hà Nội và việc trả tiền các khoản dịch vụ thường xuyên như điện sinh hoạt, điện thoại, nước... - Nghiên cứu triển khai từng bước có hiệu quả việc sư dụng thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, cùng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt phải phù hợp với khu vực và quốc tế. -Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra nếp thói quen mới trong tâm lý của các cá nhân, các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện CSTT được hiệu quả hơn. Ví dụ: thói quen thanh toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh doanh, thói quen sử dụng hoạt động thị trường mở của các tổ chức tín dụng… Các giải pháp hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách tiền tệ: a. Phát triển thị trường tài chính: - Cần phải phát hành cổ phiếu NHTM cổ phần và các công ty tài chính cổ phần, tăng vốn điều lệ, và phát triển loại hình DN này trong nền kinh tế. - Tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động. b. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng về thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác - Đối với NHNN: Triển khai nhanh và có hiệu quả dự án hiện đại hóa công nghệ ngân hàng do WB tài trợ tập trung và hệ thống mã hóa điện tư, thanh toán bù trừ... - Các NHTM và TCTD: Cũng là triển khai các nội dung của dự án hiện đại hóa do WB tài trợ tập trung là trong quan hệ giao dịch với khách hàng, nghiệp vụ ngân hàng tại nhà (Banking home), tốc độ xư lý chứng từ, giao dịch tại quầy... c. Mở rộng các quan hệ đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng, về vay vốn, đầu tư, thanh toán, đại lý, đào tạo, chuyển giao công nghệ... - Đối với NHNN: Nâng cao trình độ xây dựng chính sách, trình độ thanh tra, quản lý... Tốt nhất là tuyển chọn từ cán bộ đã kinh qua thực tiễn của các NHTM. Duy trì và phát triển mối quan hệ với các cổ chức tài chính tiền tệ quốc tế: WB, IMF, ADB... và Ngân hàng Trung ương các nước. - Đối với NHTM và các TCTD: Duy trì và đảm bảo uy tín đối với các ngân hàng đại lý, hợp tác, liên doanh đồng thời đa dạng hóa các quan hệ hợp hợp tác đào tạo cán bộ có trình độ quốc tế. Công tác thanh tra kiểm soát nội bộ với hoạt động thanh tra nhà nước đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động ngân hàng: Cần có sự phối hợp chặt chẽ, những chức năng vi phạm và chức năng rõ ràng, đồng thời nâng cao hiệu quả của các tổ chức: a. Thanh tra NHNN với thanh tra các chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố b. Kiểm soát nội bộ của các TCTD c. Thanh tra nhà nước ở các cấp d. Kiểm toán quốc tế, độc lập, nhà nước e. Các cơ quan hành pháp khác: tòa án, công an, viện kiểm sát... Những giải pháp cụ thể là: - Ban hành hệ thống cơ chế, quy chế mới phù hợp với nội dung quy định của Luật NHNN, Luật các TCTD, tạo hành lang bảo đảm an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. - Tiến hành phân tích đánh giá chất lượng hoạt động của các NHTMCP, tiến hành củng cố và sắp xếp lại các NHTMCP hoạt động yếu kém - Phối hợp với Bộ tài chính sớm ban hành các cơ chế về trích lập quỹ dự phòng rủi ro để xử lý khoản nợ tổn thất của NHTM, tránh tình trạng để nợ khoanh, nợ tồn đọng lâu ngày, gây nguy cơ mất an toàn của hệ thống ngân hàng. - Tăng cường công tác thanh tra kiểm soát của NHNN và kiểm soát nội bộ của bản thân tổ chức tín dụng để phát hiện và xư lý kịp thời các vi phạm quy chế, chế độ trong hoạt động ngân hàng. Điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả: Hoàn thiện môi trường pháp lý: -Luật NHNN và Luật các TCTD: cần được cải cách phù hợp với tình hình mới khi thị trường tài chính VN đã phát triển, hội nhập sâu rộng hơn - Các văn bản Luật khác có liên quan trực tiếp: Luật đất đai, Luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật đầu tư nước ngoài... xem xét chỉnh sửa những bất hợp lý, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và hiệu lực pháp lý của luật. - Thể lệ, chế độ cụ thể của các TCTD cần được chỉnh sưa cho phù hợp với Luật các TCTD, đảm bảo đồng bộ các luật khác có liên quan: Luật dân sự, Luật thương mại, Luật NSNN, Luật doanh nghiệp... - Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng để cơ chế thực thi CSTT được nghiêm minh và hiệu quả hơn. Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ - Nguyên tắc chung: không chỉ hiểu và có chuyên môn nghiệp vụ về mặt tài chính - ngân hàng mà còn am hiểu về thương mại, kinh doanh, pháp lý, ngoại ngữ, tin học... nói chung. Kết hợp đào tạo trong nước và hợp tác quốc tế, đào tạo và đào tạo lại. - Có chiến lược đào tạo cán bộ cụ thể của cả hệ thống NHNN, hệ thống các TCTD.. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ:           Đẩy mạnh việc đổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở xem thị trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo “lãi suất liên ngân hàng định hướng”; mở rộng việc kết nạp thành viên tham gia trên thị trường mở; đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mua bán lại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa tổ chức tín dụng với khách hàng.          Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN. Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN phải thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN trong xây dựng dự án chính sách tiền tệ; chủ động trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự; tự chủ về tài chính trong bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ NHNN. Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ. Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng thành viên tham gia thị trường; nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Sự phát triển của thị trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác: Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài..). Trong điều kiện dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều như một số năm trước đây (trong đó có dòng vốn ngắn hạn), nếu không kiểm soát tốt dòng vốn này, sẽ ảnh hưởng đến việc chống lạm phát. Do đó, cần có sự phối hợp chặt giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài : đánh thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng vốn ngắn hạn vào Việt Nam. Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc điều hành chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp chính sách tài chính nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước, nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát. Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdieu_hanh_chinh_sach_ty_gia_cua_viet_nam_va_nhung_van_de_dat_ra_2018.doc
Tài liệu liên quan