Đề tài Giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của công ty tài chính bưu điện trong tổng công ty theo hướng tập đoàn kinh tế

Như trên đã phân tích, đầu tư tài chính là một hoạt động quan trọng của CTTC trong Tổng công ty. Chính vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của việc ra đời PTF là thực hiện chức năng đầu tư tài chính cho VNPT thông qua các công ty cổ phần đầu tư hay đầu tư trực tiếp bằng các hình thức như: Mua các giấy tờ có giá; đầu tư trực tiếp vào các dự án của TCT, các đơn vị thành viên dưới dạng ký kết các hợp đồng hợp tác đầu tư; uỷ thác đầu tư; hùn vốn, góp vốn với các doanh nghiệp khác; thay mặt TCT đầu tư vào các dự án trọng điểm của TCT, đầu tư vào công ty cổ phần, công ty khác mà TCT không chiếm 100% vốn. Và đặc biệt, khi Tổng công ty phát triển thành tập đoàn, CTTC sẽ thay mặt Tổng công ty đầu tư ra ngoài ngành, ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên muốn phát triển hoạt động này đòi hỏi nhiều yếu tố về môi trường đầu tư, chính sách của Nhà nước và tiềm lực tài chính của công ty. Vì mới thành lập nên thời gian qua công ty chủ yếu tập trung vào xây dựng các đề án, các phương án đầu tư để khi có điều kiện sẽ triển khai kịp thời và có hiệu quả. Cụ thể trong năm 2000, công ty đã xây dựng được một số dự án như xây dựng các hình thức hợp tác đầu tư với VASC để chuẩn bị khi có dự án đầu tư, xây dựng và thống nhất với NHTMCPQĐ về các hình thức hợp tác đầu tư vào các dự án trong ngành BC-VT để thu hút thêm vốn và chia sẽ rủi ro. Sang năm 2001, công ty đã hoàn thành việc xây dựng thêm một số dự án quan trọng khác như: phương án đầu tư vào cổ phiếu của PTC, Công ty cổ phần du lịch Bưu điện, Khách sạn Bưu điện; xây dựng Đề án thành lập Công ty cổ phần tư vấn và môi giới bảo hiểm.

doc83 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1094 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của công ty tài chính bưu điện trong tổng công ty theo hướng tập đoàn kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín dụng thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng của PTF không được vượt quá 15% vốn tự có của PTF. Mà toàn bộ Tổng công ty và các đơn vị hạch toán phụ thuộc lại chỉ được coi là một khách hàng. Vì vậy, cho dù có huy động vốn trong ngành được bao nhiêu thì PTF cũng chỉ cho VNPT và các đơn vị phụ thuộc vay tối đa là 15% vốn tự có.(tương đương 10,5 tỷ đồng). Trong khi đó, đặc điểm của ngành Bưu chính-Viễn thông là nhu cầu đầu tư rất lớn, trung bình một dự án cần huy động tới hàng nghìn tỷ đồng. Hơn nữa, đặc thù Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là hoạt động kinh doanh dịch vụ trên mạng toàn quốc nên chủ yếu hạch toán tập trung toàn ngành, hơn 90% doanh số và tài sản của ngành đều tập trung ở các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị hạch toán độc lập chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ và là những đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính hỗ trợ. Do đó, nhiều trường hợp, PTF đã tiếp nhận được dự án nhưng không thể cho vay được. Giải pháp đối với PTF trong trường hợp này là tiến hành cho vay hợp vốn. Tuy nhiên, giải pháp này cũng còn nhiều bất cập. Mặt khác, một trong những hoạt động tín dụng mà PTF được phép thực hiện là cho vay ngắn hạn đối với các đơn vị trong ngành. Việc không huy động được nguồn vốn ngắn hạn(kỳ hạn <1năm) cũng gây khó khăn cho PTF trong việc tìm nguồn đáp ứng cho các hoạt động tín dụng ngắn hạn của các đơn vị thành viên. Về hoạt động đồng tài trợ, theo Điều 79.1b luật tổ chức tín dụng PTF được phép cho vay hợp vốn, nhưng theo Điều 5 QĐ 154/1998/QĐ-NHNN14(29-4-1998) cuả Thống đốc NHNN về ban hành quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng thì PTF chỉ được tham gia đồng tài trợ chứ không được làm tổ chức tín dụng đầu mối (đứng ra tổ chức đồng tài trợ). Nên thực tế, khi tìm được nguồn thì PTF không được trực tiếp cho vay mà tổ chức đồng tài trợ với PTF thực hiện kiểm soát các món vay. PTF chỉ lo tổ chức đồng tài trợ, tổ chức xong rồi phải chuyển giao cho tổ chức đồng tài trợ . PTF chỉ được tham gia một phần trong đó. Vì vậy, với phần vốn tham gia ít ỏi này đã không đủ bù đắp các chi phí đã bỏ ra khi PTF đứng ra lo thu xếp món vay. Quy định này đã gây khó khăn cho PTF trong việc huy động vốn cũng như quản lý dự án của ngành. Về hoạt động ngoại hối, theo quy định hiện nay thì PTF không được thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối như huy động tiền gửi bằng ngoại tệ, cho vay bằng ngoại tệ, dịch vụ bảo lãnh bằng ngoại tệ. Thế nhưng thực tế, nhu cầu vay bằng ngoại tệ của các đơn vị trong ngành là rất lớn do đặc thù của ngành luôn phải đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, các đơn vị sản xuất kinh doanh thường xuyên nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài cũng như quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài. Việc PTF không được thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối là một bất lợi đối với công ty trong cạnh tranh cho vay các đơn vị trong ngành và các đơn vị cùng ngành kỹ thuật. Ngoài ra, quy định về khung lãi suất đối với CTTC trong Tổng công ty cũng không thực tế, gây không ít khó khăn cho PTF. Theo Điều 11, Quyết Định 324/1998/QĐ-NHNN1 của NHNN (ngày 30/9/98) về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD thì lãi suất cho vay của TCTD do TCTD và khách hàng thỏa thuận trên cơ sở quy định về lãi suất của NHNN tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên theo quyết định 104/QĐ-NHNN5 ngày 2/5/1996 về việc ban hành điều lệ mẫu của CTTC trong Tổng công ty thì lãi suất huy động và cho vay của PTF phải do Tổng Giám Đốc Tổng công ty quyết định theo uỷ quyền của Hội Đồng Quản Trị. Thông thường một quyết định của Tổng Giám đốc Tổng công ty phải mất khoảng 3 tuần sau khi đi qua các khâu trình duyệt trong khi đó NHTM được tự quyền đưa ra các mức lãi suất trong trần khung lãi suất do Thống đốc NHNN quy định. Điều này rõ ràng đã làm giảm tính chủ động và linh hoạt của PTF trong hoạt động cho vay và huy động vốn, gây bất lợi trong cạnh tranh cho vay với các NHTM. Hơn nữa, lãi suất trên thị trường lại biến đổi liên tục nên tính cạnh tranh trong lãi suất của PTF lại càng thấp nếu như PTF không được chủ động đưa ra các mức lãi suất thích ứng với từng thời điểm nhất định. Về hình thức uỷ thác đầu tư, lâu nay, công ty tài chính vẫn thực hiện nhưng thực tế, NHNN chưa có quy chế quy định về việc uỷ thác đầu tư. Vì vậy, nhiều tổ chức tín dụng chưa muốn thực hiện hình thức này. Điều này cũng hạn chế hoạt động của PTF. Hiện nay, trong quá trình dự thảo Nghị định về tổ chức và hoạt động của CTTC, bản thân Ngân hàng cũng đang khá lúng túng trong việc đưa ra quy định đối với hoạt động của mô hình mới này. Vấn đề nan giải là làm sao để Nghị định phù hợp với luật pháp hiện hành, đặc biệt là luật tổ chức tín dụng và làm sao để tạo ra môi trường hoạt động thông thoáng, tạo sự cạnh tranh bình đẳng của các CTTC. Về môi trường kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam vẫn được xếp là nền kinh tế đang phát triển. Tuy tốc độ phát triển cao và ổn định nhưng tiềm lực kinh tê-tài chính quốc gia đang còn quá nghèo nàn so với trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các yếu tố của thị trường đang từng bước được xây dựng, vì thế chưa đầy đủ và hoàn thiện. Các công cụ của thị trường tài chính vừa thiếu, vừa yếu. Do đó sự phát triển của các định chế tài chính cũng bị hạn chế. Trong đó, Các công ty tài chính là tổ chức tài chính còn non trẻ và đang được định hình ở Việt Nam. Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường và TTCK là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế thị trường ấy. TTCK Việt Nam ra đời đánh giấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp phát triển thị trường tài chính, là một bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, giúp cho môi trường đầu tư được cải thiện. Thực tế cho thấy TTCK Việt Nam ra đời là phù hợp với chính sách phát huy nội lực để phát triển, đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp là có một kênh thu hút vốn với nguồn vốn lớn trong dài hạn. Đồng thời, TTCK cũng là một động lực thúc đẩy doanh nghiệp thay đổi cách thức hoạt động trong điều kiện mới. Với thời gian hoạt động hơn một năm, vai trò thực sự của nó còn rất hạn chế với lượng hàng hoá còn nghèo nàn, giá trị giao dịch thấp, các nhà đầu tư thực hiện mua bán theo phong trào mang tính tâm lý, các chỉ số chưa phản ánh đúng thực trạng phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện đó thì VNPT mới chỉ tham gia TTCK với vai trò là cổ đông lớn nhất của công ty cổ phần cáp và vật liệu Viễn thông(SACOM) với tỷ lệ nắm giữ là 49%. Vì thế cho nên hiện nay hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán của PTF hầu như chưa thực hiện được ngoài việc mua bán cổ phiếu của SACOM. Với điều kiện như vậy, để mở rộng và phát triển hoạt động của PTF đòi hỏi phải có thời gian dài nữa. Hạn chế trong ngành và bản thân công ty Ngoài những vướng mắc về môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, một nguyên nhân nữa khiến hoạt động của PTF chưa tương xứng với vai trò của nó là do hạn chế về tiềm lực của PTF. Vốn tự có quá nhỏ là một điểm yếu của PTF. So với các công ty tài chính trong Tổng công ty khác thì PTF đứng thứ hai về mức vốn điều lệ (CTTC Dầu khí có vốn điều lệ là 100 tỷ, các CTTC còn lại có vốn từ 30-50 tỷ đồng). Vốn tự có quá nhỏ đã hạn chế mở rộng đầu ra của PTF. Về hoạt động huy động vốn, Công ty đã triển khai nghiên cứu các phương thức huy động vốn cho Tổng công ty như phát hành trái phiếu, tín phiếu...Nhưng đến nay, Tổng công ty chưa thực sự có nhu cầu đối với nguồn vốn huy động bằng phát hành trái phiếu và các chứng từ có giá khác. Và vì việc vay Ngân hàng và việc sử dụng các quỹ vẫn đảm bảo cho nhu cầu đầu tư của Tổng công ty. Hơn nữa tuy việc Phát hành trái phiếu mang lại hiệu quả cao hơn so với các hình thức huy động khác nhưng phải thực hiện nhiều thủ tục phức tạp và phải có phương án sử dụng vốn hợp lý nên đến nay, công ty chưa triển khai được hình thức huy động này. Về hoạt động tín dụng, hiện nay, mới chỉ có 5/16 đơn vị hạch toán độc lập và 1/8 công ty liên doanh vay vốn của PTF. Phần lớn đơn vị đều đã mối quan hệ lâu đời với NHTM, được hưởng những ưu đãi (thủ tục đơn giản, lãi suất thấp...) nên việc thu hút họ vay PTF không phải đơn giản. Đây là nguyên nhân chủ yếu. Về lãi suất, hiện nay, PTF chưa được chủ động đưa ra lãi suất, lãi suất do Tổng công ty đưa ra còn khá cao. Lãi suất này được tính bằng: Lãi suất tiền gửi 12 tháng bình quân của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn Hà Nội + Mức lãi biên đối với các Ngân hàng. Trên thực tế, PTF phải chịu chi phí huy động vốn cao do các hình thức huy động chi phí thấp hơn chưa áp dụng được, công ty chủ yếu huy động vốn bằng hình thức đồng tài trợ và nhận ủy thác của Ngân hàng. Hai hình thức này có chi phí thấp hơn so với vay trực tiếp ngân hàng. Tuy nhiên, do sức ép từ phía ngân hàng, cộng với chi phí hoạt động của công ty nên chi phí huy động không là một lợi thế của PTF. Hiệu quả tài chính của công ty phụ thuộc rất nhiều vào quy định lãi suất nội bộ và mức phí ủy thác của Tổng công ty. Về dịch vụ tư vấn, Các đơn vị trong ngành chưa có thói quen do chưa nhận thức được lợi ích của việc sử dụng dịch vụ tư vấn trong việc xây dựng dự án đầu tư, đặc biệt là tư vấn tài chính. Quan hệ giữa công ty tài chính và các đơn vị trong và ngoài ngành mới bước đầu được thiết lập nên trong thời gian vừa qua, đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác các kênh thông tin phục vụ cho việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh.0 Một điều quan trọng nữa là Việc tư vấn quản lý vốn cho Tổng công ty đã được PTF chuẩn bị từ cuối năm 2000, nhưng cho đến nay, do Tổng công ty chưa ban hành quy chế rõ ràng nên chưa triển khai được. Hơn nữa, Các dự án trong ngành thường có nhiều yêu cầu về các mặt công nghệ- kỹ thuật. Đây chính là điểm hạn chế trong quá trình PTF tư vấn hoàn chỉnh một dự án mà chỉ có thể tập trung tư vấn tài chính dự án. Về nguồn nhân lực, Mô hình CTTC trong Tổng công ty còn rất mới mẻ, đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty được tập trung một phần từ các đơn vị trong Tổng công ty, một phần mới được tuyển lựa và đào tạo nên kinh nghiệm trong hoạt động tài chính tiền tệ chưa nhiều. Đây không phải là hạn chế lớn đối với công ty. Ngoài ra, hoạt động của công ty cũng bị hạn chế do một số yếu tố từ phía công tác hoạt động chung của ngành như : Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên trong VNPT còn chậm. Ví dụ như trong năm 2001, Tổng công ty mới chỉ hoàn thành cổ phần hoá được hai đơn vị là Xí nghiệp điện nhẹ và Công ty CT-IN và thành lập công ty cổ phần du lịch Bưu điện, so với kế hoạch thì còn một số công ty chưa hoàn thành cổ phần hoá như COKYVINA, PTC, Potmasco... Xét thấy, nhu cầu đầu tư của các đơn vị trong ngành trong thời gian tới là rất lớn, tuy nhiên, hầu hết các dự án trong ngành đã có kế hoạch và nguồn vốn để thực hiện. Cụ thể: +Dự án đầu tư của các đơn vị HTĐL đã được Tổng công ty duyệt kế hoạch đầu tư và trực tiếp đầu tư hoặc nhận uỷ thác đầu tư thông qua PTF. +Đối với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, một phần đã được Tổng công ty đầu tư(nguồn vốn này được hưởng lãi suất ưu đãi của Tổng công ty ) và một phần doanh nghiệp tự vay các Ngân hàng hoặc thông qua PTF +Dự án đầu tư của các đơn vị liên doanh chủ yếu sử dụng nguồn vốn tái đầu tư của doanh nghiệp và vốn đầu tư bổ sung của các bên góp vốn. +Các công ty cổ phần Tổng công ty góp vốn có ít dự án đầu tư hơn và chủ yếu dùng nguồn vốn đi vay hoặc vốn tự có của doanh nghiệp. +Khối các đơn vị công nghiệp có 9 dự án của năm 2001 chưa được thực hiện và dự kiến triển khai trong năm 2002. Trong đó, 6 dự án PTF có khả năng tham gia đầu tư. Vì thế, công ty cần phải chủ động xây dựng và phát triển các mối quan hệ với các đơn vị trong và ngoài ngành, khai thác tốt các kênh thông tin phục vụ cho việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư tài chính. Mặt khác, cổ phiếu ngành Bưu chính-Viễn thông được thị trường đánh giá là những cổ phiếu tốt, do các doanh nghịêp hoạt động ổn định và có tỷ lệ cổ tức cao.Cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá trong Tổng công ty không nhiều trong khi nhu cầu mua là rất lớn, các đối thủ trong việc mua cổ phiếu cạnh tranh mạnh: các cổ phiếu này được ưu tiên bán cho các Bưu điện tỉnh( đang và sẽ là khách hàng truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hoá.) nên khả năng PTF mua được khối lượng lớn là rất khó. Ngoài các chứng khoán của ngành, PTF còn được đầu tư vào các loại chứng khoán của Chính phủ. Nhìn chung mức độ rủi ro của các loại chứng khoán này là rất thấp, nên lãi suất thường không cao và không dễ giao dịch trên thị trường. 2.3.2.Đánh giá về vai trò của Công ty tài chính Bưu điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông hiện nay. Qua đánh giá chung về hoạt động của công ty trong 3 năm vừa qua cũng đã phần nào nói lên được khả năng và vai trò của công ty trong Tổng công ty. Để làm rõ hơn, phần tiếp sẽ phân tích những thành công và hạn chế của công ty trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. 2.3.2.1.Thành công Trong phạm vi hoạt động của mình, PTF đã rất cố gắng tích cực mở rộng các hình thức huy động vốn đáp ứng đủ vốn cho các dự án mà Tổng công ty giao vay với mức độ khẩn trương và hiệu quả. Đến nay, công ty đã hoàn thành phương án huy động bằng phát hành trái phiếu cho công ty, phương án làm đại lý phát hành cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên. Công ty đã nhanh chóng thiết lập và mở rộng được mối quan hệ tín dụng với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Trong điều kiện nhu cầu vốn của Tổng công ty rất lớn và Tổng công ty khó khăn trong việc tìm nguồn vốn tài trợ thì sự hoạt động tích cực của công ty tài chính đã góp phần giải quyết khó khăn này cho Tổng công ty. Trong khi vốn ngân sách còn hạn chế, vốn tích luỹ của nền kinh tế còn thấp, việc vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng thương mại không dễ dàng thì việc huy động vốn thông qua công ty tài chính trong ngành là một giải pháp hữu hiệu đối với các đơn vị trong Tổng công ty. PTF đã thực hiện hoạt động này khá hiệu quả. Kết Cụ thể đã được phân tích trong phần hoạt động tín dụng của công ty ở trên. Ngoài ra, PTF đã hoàn thành phương án trọn gói cổ phần hóa cho một số đơn vị như công ty xây dựng Bưu điện... góp phần thúc đẩy cổ phần hoá trong doanh nghiệp nhà nước. Mà việc đẩy mạnh cổ phần hoá cũng có tác động tích cực ngược lại đối với công ty, tạo cho công ty có thêm cơ hội để thực hiện đầu tư, cụ thể là đầu tư vào cổ phiếu của các công ty cổ phần. Những thành công trên của công ty đã thể hiện được hoạt động của công ty trong Tổng công ty là không thể thiếu cả về trước mắt và lâu dài và phần nào thể hịên được là một công cụ quan trọng của Tổng công ty trong thực hiện quản lý vốn có hiệu quả hơn. 2.3.2.2.Hạn chế So với yêu cầu đặt ra là một cơ quan có chức năng điều hoà vốn trong nội bộ nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty, là một kênh để thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước và hỗ trợ, tư vấn về tài chính tiền tệ cho các doanh nghiệp thành viên thì hoạt động của PTF hiện nay còn nhiều hạn chế và một số vướng mắc: Về vai trò là một kênh huy động vốn cho Tổng công ty: PTF đã bước đầu phát huy được chức năng trung gian của nó, nhưng còn ở mức thấp. Thực tế cho thấy mức độ huy động vốn qua công ty tài chính còn thấp so với tiềm năng. Đối với việc thu hút các nguồn vốn trong nước, hiện nay theo quy định thì PTF được thực hiện nhiều hình thức huy động vốn như đã phân tích ở phần trên, nhưng trên thực tế, PTF chưa thực hiện huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu hay nhận tiền gửi có kỳ hạn trên một năm của CBCNV bởi vì đây là những nguồn có nhiều hạn chế về tiềm năng, cách thức huy động và sử dụng do đối tượng huy động giới hạn trong ngành mà địa bàn lại phân tán trên diện rộng dẫn đến chi phí cao, kết quả thấp. Nhu cầu vay của các đơn vị thành viên Tổng công ty chủ yếu là vay trung và dài hạn, đòi hỏi lãi suất thấp. Về thu hút nguồn vốn của các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài, với vị thế và uy tín và năng lực của mình trong thời gian qua, thì việc tự tiếp cận và khai thác các nguồn vốn này còn là khoảng cách khá xa, còn phải dựa chủ yếu vào Tổng công ty . Nhìn chung, hiện nay, khả năng khai thác thu hút các nguồn vốn của công ty còn bị giới hạn quá hẹp cho thấy sự cần thiết phải mở rộng phạm vi hoạt động của của công ty tài chính. Về vai trò điều hoà vốn: PTF được thành lập dựa trên toàn bộ vốn do Tổng công ty cấp chứ không phải do các doanh nghiệp thành viên đóng góp để thành lập vì thế đã giảm khả năng chi phối của công ty đối với các doanh nghiệp thành viên. Hiện nay, VNPT đã uỷ thác cho PTF thực hiện cho vay đối với một số doanh nghiệp thành viên và một số dự án theo kế hoạch của VNPT(VNPT chỉ định các doanh nghiệp này vay qua PTF). Nhờ vậy đã tạo điều kiện cho PTF mở rộng hoạt động của mình. Tuy nhiên, vai trò của PTF chưa thực sự phát huy một cách đầy đủ vì PTF chỉ đơn thuần có nhiệm vụ quản lý vốn vay, giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và hưởng lãi chứ không phải chịu trách nhiệm về rủi ro và hiệu quả đầu tư của dự án. Một hạn chế nữa là đến nay, Tổng công ty vẫn chưa đồng ý giao cho PTF quản lý phần tiền của các quỹ hiện nay do Tổng công ty quản lý, phần tiền nhàn rỗi của Tổng công ty và các đơn vị thành viên tại Ngân hàng. Mặt khác, do vai trò huy động các nguồn lực tài chính trong nội bộ Tổng công ty còn hạn chế, khả năng cho vay của PTF đối với các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty cũng chưa ... cho nên vai trò điều hoà vốn còn hạn chế, nếu không muốn nói là chưa thực hiện được vai trò này. Chương 3: Giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của công ty tài chính Bưu điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. 3.1.Định hướng phát triển của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam 3.1.1.Sự cần thiết đổi mới tổ chức của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam Trong giai đoạn công nghiệp hoá-hiện đại hoá hiện nay ở nước ta, việc đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước mà trọng tâm là các doanh nghiệp Nhà nước được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Việc tìm kiếm một mô hình mới nhằm phát huy vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên bức xúc. Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng đang nằm trong bối cảnh này. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là chủ trương đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Thứ nhất, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện các chiến lược phát triển Tổng công ty Bưu chính Việt Nam, đặc biệt là chiến lược đầu tư tài chính ( 5 chiến lược phát triển của VNPT là Chiến lược sản phẩm, chiến lược công nghệ, chiến lược thị trường cạnh tranh, chiến lược đầu tư tài chính, chiến lược phát triển nguồn nhân lực). Chiến lược đầu tư tài chính của VNPT là nhằm xây dựng một cơ chế liên kết tài chính giữa các đơn vị thành viên, sử dụng cơ chế tài chính như là một công cụ điều hành hoạt động chung của VNPT. Trên cơ sở các nguồn tài chính, xây dựng một chính sách tài chính cân đối, đảm bảo "sức khoẻ" cho tập đoàn, dự phòng các tác động rủi ro từ bên ngoài như khủng hoảng tài chính tiền tệ, rủi ro tỷ giá...Trong chiến lược tài chính, hướng tập trung của VNPT bao gồm: + Tăng cường tiềm lực, sự tích tụ vốn tích luỹ từ bản thân các hoạt động kinh doanh của tập đoàn, thay đổi phương thức quản lý hạch toán, tạo động lực thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả khai thác mạng cũng như hiệu quả từ các hoạt động khác của tập đoàn +Thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước bằng việc thúc đẩy hoạt động của công ty tài chính. Khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước tham gia đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh Bưu chính-Viễn thông, đặc biệt trong các địa bàn, thị trường có sự cạnh tranh gay gắt; tranh thủ sự đầu tư, vay vốn của ngân hàng trong nước và các khoản vay trung dài hạn. +Thu hút nguồn vốn nước ngoài trong các khoản vay vốn của Chính phủ từ các nguồn ODA, IMF, ADB, WB, vốn vay từ những hãng cung cấp thiết bị và các dự án liên doanh, các dự án hợp đồng hợp tác liên doanh. +Ưu tiên sử dụng vốn ngân sách đầu tư cho sự phát triển thông tin ở các vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa phục vụ an ninh quốc phòng. Nghiên cứu xây dựng quỹ phát triền Bưu chính Viễn thông quốc gia. Thứ hai, Đổi mới tổ chức, hình thành tập đoàn là biện pháp hữu hiệu để khắc phục những tồn tại hiện nay của Tổng công ty. Đây là bước cải tiến căn bản dây chuyền công nghệ, tổ chức lao động khoa học và lề lối làm việc, nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả đầu tư, phân tách hạch toán kinh doanh và phục vụ công ích, taọ động lực khuyến khích thu hút người lao động. Thứ ba, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là biện pháp thích ứng với tốc độ phát triển nhanh của khoa học, công nghệ trên thế giới, tạo điều kiện triển khai công nghệ mới trong cuộc "cách mạng về công nghệ thông tin" Thứ tư, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là biện pháp để thích ứng với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và đối phó với thách thức của cạnh tranh quốc tế. Thứ năm, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Thứ sáu, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn tạo điều kiện để Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam giữ được tốc độ phát triển cao, đảm bảo các yêu cầu chính trị, an ninh quốc phòng trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông. 3.1.2.VNPT có đủ điều kiện để tiến tới thành lập tập đoàn kinh tế. Sau thời gian 8 năm hoạt động "thí điểm theo mô hình tập đoàn", VNPT đã đạt được những thành quả to lớn (đã trình bày trong chương 2). Xét về các yếu tố của một tập đoàn kinh tế thì VNPT đã có "dáng dấp của một tập đoàn". Thể hiện trên các mặt sau: Về trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất kinh doanh, Thực tế cho thấy đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, trên cả góc độ toàn ngành và góc độ từng doanh nghiệp thành viên thì mức độ tích tụ và tập trung đều đạt ở trình độ cao. Hiện tại Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam có 103 đơn vị thành viên, có tổng tài sản cố định trên 15 nghìn tỷ đồng. Về sự phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các đơn vị thành viên, Các đơn vị thành viên của Tổng công ty bao gồm cả khối hạch toán phụ thuộc, khối hạch toán độc lập, khối các đơn vị sự nghiệp, khối liên doanh và công ty cổ phần đều có mối quan hệ, liên kết kinh tế chặt chẽ với nhau, thể hiện rõ nét tính đơn ngành của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Hơn nữa, trong mô hình tổ chức hiện nay của VNPT đã xuất hiện công ty tài chính- một trong những đặc trưng của mô hình tập đoàn kinh tế. Công ty tài chính làm đầu mối huy động vốn và cho vay đáp ứng yêu cầu đầu tư của Tổng công ty và các đơn vị thành viên, thực hiện tư vấn các dự án đầu tư tài chính của Tổng công ty và tiến đến sẽ thực hiện các dự án đầu tư thay Tổng công ty trong nước và trên thị trường quốc tế. Quan hệ giữa Công ty Tài chính với các đơn vị thành viên của Tổng công ty được thực hiện theo nguyên tắc có vay, có trả, theo lãi suất nội bộ Tổng công ty, là biểu hiện của quan hệ tài chính chứ không phải quan hệ hành chính như trước đây. Trong tương lai, CTTC sẽ đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của TCT, phát huy ảnh hưởng của TCT trong nền kinh tế thị trường. Về môi trường kinh doanh, VNPT chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong ngành Bưu chính-Viễn thông, trong nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm của VNPT chiếm đại bộ phận số lượng sản phẩm của toàn ngành. Sự phát triển của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hơn nữa Tổng công ty hoạt động trên lĩnh vực trọng yếu được Nhà nước ưu tiên, khuyến khích phát triển, có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong những năm tới. Về tổ chức, qua 10 năm đổi mới, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớn mạnh, có năng lực trình độ cao, có khả năng đáp ứng được các mục tiêu chiến lược của tập đoàn... 3.1.3.Mô hình tập đoàn Viễn thông Việt Nam Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhận thức được sự cần thiết đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn, VNPT đã va đang xây dựng mô hình và lộ trình tiến tới thành lập tập đoàn Bưu chính- Viễn thông Việt Nam. Sau nhiều lần thay đổi, hiện nay, VNPT đã xác định mô hình tập đoàn Bưu chính Viễn thông như sau: Sơ đồ: Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông Việt Nam Tổng công ty Viễn thông (công ty mẹ) (Liên kết mềm) Tổng công ty Bưu chính (Liên kết cứng) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công ty cổ phần Công ty liên doanh Công ty Viễn thông khu vực 3 Công ty Viễn thông khu vực 2 Công ty viễn thông khu vực 1 Theo mô hình này, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông được xây dựng trên mô hình công ty mẹ- công ty con, trong đó hình thành cả liên kết cứng và liên kết mềm. Tổng công ty Viễn thông là đóng vai trò là công ty mẹ, tạo ra các "liên kết cứng" với các công ty con thông qua việc nắm giữ đa số cổ phiếu của công ty con, đồng thời tạo "liên kết mềm " với Tổng công ty Bưu chính thông qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong tập đoàn, Công ty mẹ là Tổng công ty Viễn thông Việt Nam tổ chức dưới hình thức Nhà nước chiếm giữ 100% vốn, là công ty có tiềm lực kinh tế mạnh nhất và năng lực trí tuệ cao nhất bao gồm: Những bộ phận có khả năng kinh doanh tốt, những bộ phận then chốt có thể quản lý thống nhất được mạng lưới như: đường trục viễn thông quốc gia và quốc tế ; Bộ phận kinh doanh tài chính; Các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, chăm sóc sức khỏe; Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam sẽ sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty con và hưởng lợi nhuận từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty con theo tỷ lệ góp vốn. Các công ty con là những pháp nhân độc lập với công ty mẹ, được công ty mẹ sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ dưới các hình thức: +Công ty hữu hạn một thành viên: do công ty mẹ sở hữu 100 vốn điều lệ. Các công ty này được hình thành từ việc chuyển đổi các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty không nằm trong đối tượng cổ phần hoá. +Các công ty cổ phần phần lớn được hình thành bằng cách cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên hiện nay của Tổng công ty mà trong đó Tổng công ty góp vốn với tư cách là một cổ đông sáng lập. +Các công ty liên doanh, trong đó một phần vốn điều lệ do công ty mẹ sở hữu nếu các công ty này tự nguyện gia nhập tập đoàn. +Thành lập các Công ty viễn thông vùng. Việc phân vùng dựa trên quy mô và lưu lượng, có thu- chi tương đối cân bằng. Chức danh điều hành cao nhất của các công ty này là Tổng Giám đốc. Các công ty Viễn thông vùng hạch toán độc lập, trong nội bộ các Công ty Viễn thông vùng thực hiện hạch toán phụ thuộc. Để xây dựng Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam hiện nay theo mô hình trên đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Vì vậy, Tổng công ty cũng đã xây dựng lộ trình thực hiện như sau: -Bước 1, năm 2001:Triển khai thí điểm đổi mới tổ chức và quản lý kinh doanh khai thác Bưu chính Viễn thông trên địa bàn 10 Bưu điện tỉnh, thành phố theo hướng: Hạch toán rõ và riêng hai lĩnh vực Bưu chính và Viễn thông theo từng dịch vụ trong mỗi lĩnh vực trên để tiến tới hạch toán độc lập. -Bước 2, năm 2002-2004: Triển khai đồng bộ mô hình trên trong toàn bộ 61 Bưu điện tỉnh, thành phố, đồng thời với việc nghiên cứu sớm việc thí điểm mô hình Công ty mẹ-công ty con sau khi có hướng dẫn của Nhà nước; Chuyển 8 doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:Công ty thông tin di động VMS, Công ty các Dịch vụ Viễn thông GPC, Công ty điện toán và truyền số liệu VDC, Công ty phát triển phần mềm VASC, Công ty tiết kiệm Bưu điện, Công ty tư vấn xây dựng và phát triển Bưu điện, Xí nghiệp In Bưu điện, Xí nghiệp In Tem Bưu điện; tiếp tục cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên khối công nghiệp, thương mại, xây lắp: Nhà máy vật liệu Bưu điện, Nhà máy thiết bị Bưu điện, Công ty thiết bị điện thoại, Công ty xây lắp Bưu điện tp Hồ Chí Minh...;Xây dựng cơ chế hach toán riêng giữa dịch vụ Bưu chính và Viễn thông. Xây dựng cơ chế hạch toán của các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Nghiên cứu chiến lược giá các dịch vụ Bưu chính Viễn thông và chính sách phục vụ sự cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. -Bước 3, đến năm 2005: Hoàn thành tổ chức và cơ chế quản lý Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông sẽ sử dụng hai hình thức liên kết cứng và liên kết mềm. Công ty mẹ sẽ liên kết cứng với các công ty con thông qua cơ chế vận hành do Nhà nước quy định, điều lệ của Tổng công ty(Công ty mẹ).Việc liên kết mềm được thực hiện thông qua các hợp đồng và quy chế của tập đoàn, giữa Tổng công ty Viễn thông Việt Nam và Tổng công ty Bưu chính Việt Nam . Tập đoàn sẽ có Ban lãnh đạo chung để điều hành, phối hợp sử dụng văn phòng Công ty mẹ làm cơ quan tư vấn chuyên môn. 3.2.Định hướng phát triển của PTF 3.2.1.Vị trí của PTF trong mô hình mới Như vậy, theo mô hình trên thì công ty tài chính thuộc công ty mẹ, với vai trò quản lý tập trung hệ thống tài chính trong tập đoàn. Để chuẩn bị cho tiến trình xây dựng tập đoàn theo mô hình trên, cả Tổng công ty nói chung và công ty tài chính nói riêng đều phải xây dựng cho mình mục tiêu chiến lược cụ thể định hướng hoạt động trước mắt và lâu dài, đồng thời cần tìm ra các giải pháp đồng bộ để thực hiện. 3.2.2.Mục tiêu chiến lược trong thời gian tới của PTF: Với những kết quả đã đạt được trong 3 năm hoạt động vừa qua, bước sang năm 2002, công ty đã vạch ra chiến lược phát triển với những mục tiêu quan trọng như sau: -Tiếp tục hoàn thiện quy chế tài chính và cơ cấu tổ chức trong giai đoạn mới, tạo dựng một công ty phát triển bền vững, ổn định và lâu dài. -Xây dựng một quy trình tác nghiệp có hệ thống thống nhất, trình độ cao, hiện đại hoá các trang thiết bị thích ứng với tốc độ đổi mới và phát triển. - Đẩy mạnh kế hoạch nghiên cứu và phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán nhằm mục đích tham gia vào thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả. -Nâng cao vai trò của công ty tài chính trong Tổng công ty, thực hiện tốt chức năng chuyên môn hoá trong điều hành quản lý tài chính, trở thành công cụ tài chính quan trọng của Tổng công ty. -Nâng cao khả năng cạnh tranh về huy động vốn và hoạt động đầu tư -Tối đa hoá lợi nhuận bằng cách giảm chi phí và đầu tư có hiệu quả hơn, tích luỹ vốn để tăng cường thế mạnh cho công ty. Để thực hiện đựơc các mục tiêu đó, nhiệm vụ trước mắt của công ty là triển khai tốt việc tài trợ cho các dự án của các đơn vị trong ngành, đặc biệt tập trung vào các dự án của các đơn vị hạch toán độc lập và cổ phần; tìm kiếm các dự án mới để triển khai công tác đầu tư ngay từ những bước ban đầu; đầu tư vào cổ phiếu của các công ty sẽ cổ phần hoá trong thời gian tới: Công ty xây dựng Bưu điện PTC, Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin II (KASATI), công ty vật tư Bưu điện I (COKYVINA), Công ty vật tư Bưu điện II(POMASCO), công ty xây lắp và phát triển Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh(SAICOM), công ty cổ phần du lịch Bưu điện, Khách sạn Khánh Hoà; tư vấn quản lý vốn và nhận uỷ thác đầu tư cho Tổng công ty; Tư vấn lập dự án đầu tư cho Tổng công ty. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới các dự án trọng điểm mang tính chiến lược của Tổng công ty, bao gồm các dự án đầu tư ra nước ngoài dưới các hình thức khác nhau; thực hiện tốt các đề tài khoa học cấp Tổng công ty. Công ty cũng đã xây dựng phương hướng phát triển kinh doanh đến năm 2005-với tên gọi là chiến lược phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường. Trên cơ sở mục tiêu nhiệm vụ của công ty đã được quy định và phạm vi hoạt động trong nội bộ Tổng công ty, phương hướng phát triển kinh doanh, phát triền sản phẩm và mở rộng thị trường của công ty được tập trung vào những vấn đề quan trọng sau: -Thông qua nghiệp vụ phát hành, công ty sẽ huy động vốn từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước phục vụ cho dự án đầu tư của Tổng công ty -Thông qua nghiệp vụ cho vay theo uỷ thác của Tổng công ty, công ty sẽ góp phần thực hiện chủ trương chuyển quan hệ cấp phát sang quan hệ vay trả đối với các đơn vị nhằm đạt hiệu quả cao hơn cho nguồn vốn đầu tư của Tổng công ty. -Với những phương thức quản lý điều hành ngân quỹ, công ty tài chính Bưu điện sẽ cung cấp dịch vụ quản lý ngân quỹ cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên mang lại hiệu quả lớn nhất từ nguồn vốn bằng tiền. -Nghiệp vụ tư vấn đối với doanh nghiệp ngày càng quan trọng. Công ty tài chính sẽ phát triển các nghiệp vụ tư vấn nhằm nâng cao hiệu quả của các đơn vị, bao gồm Tư vấn cổ phần hoá, tư vấn quản lý doanh nghiệp và các nghiệp vụ tư vấn khác. 3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của PTF trong VNPT Với chủ trương xây dựng các Tổng công ty phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh do đó điều tất yếu các Tổng công ty phải gắn mình vào hệ thống thị trường tài chính tiền tệ. Chính vì vậy cần thiết phải có các giải pháp hữu hiệu để từng bước hoàn thiện hoạt động của công ty tài chính trong các Tổng công ty. 3.3.1.Giải pháp nâng cao vai trò huy động vốn Bản thân công ty tài chính là một trung gian tài chính trong 1 Tổng công ty lớn, phải thực sự năng động sáng tạo. Phải khai thác tốt thị trường nội bộ của Tổng công ty mở rộng hình thức hoạt động ra bên ngoài Tổng công ty trong phạm vi cho phép. Công ty cũng cần tận dụng sự hỗ trợ đặc biệt của Tổng công ty vì đầy là một mô hình mới ra đời chưa có kinh nghiệm. Một số biện pháp để thực hiện tốt công tác này: -Tìm cách để Giảm tối thiểu chi phí huy động vốn, khi công ty được chủ động về lãi suất thì công ty cần xây dựng khung lãi suất đảm bảo tính cạnh tranh cao hơn, giảm các chi phí khác liên quan đến công tác huy động như xây dựng đội ngũ thực hiện nghiệp vụ đơn giản có hiệu quả. -Triển khai các phương thức huy động mới có hiệu quả hơn -Tìm Các biện pháp để mở rộng hoạt động cho vay bởi vì khi hoạt động cho vay được mở rộng thì mới tạo điều kiện để thực hiện huy động vốn tốt hơn. Các biện pháp mở rộng hoạt động cho vay có thể là: Xây dựng phát triển hơn nữa các mối quan hệ tín dụng với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, mở rộng hoạt động đồng tài trợ với các tổ chức tín dụng khác ngoài các ngân hàng công ty đã thiết lập quan hệ, nghiên cứu để khi có điều kiện thì triển khai dịch vụ tín dụng mới như dịch vụ bao thanh toán, dịch vụ tài trợ cho khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngành. 3.3.2.Giải pháp nâng cao vai trò đầu tư tài chính -Tăng cường công tác khách hàng, xây dựng các kênh thông tin phục vụ cho hoạt động đầu tư tài chính. -Tích cực liên hệ với các ban chức năng VNPT để tìm kiếm các dự án khả thi và phù hợp với điều kiện đầu tư của PTF. -Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên để góp phần thực hiện đầu tư đúng tiến độ. -Tiếp cận các dự án đầu tư trọng điểm của ngành ngay từ lúc mới sơ khai, lập kế hoạch thu xếp vốn cho dự án. -Theo sát tiến trình cổ phần hoá của các đơn vị cổ phần trong thời gian tới để thực hiện đầu tư kịp thời có hiệu quả, với mục tiêu đầu tư tối đa vào cổ phiếu của các công ty này theo khả năng và quan hệ với các đơn vị cổ phần hoá. -Quản lý chặt chẽ các khoản vốn đã đầu tư vào các công ty cổ phần . -Nghiên cứu hình thành và phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới như dịch vụ uỷ thác qua công ty cho thuê tài chính, hình thức hợp tác đầu tư trực tiếp với các đối tác. 3.3.3.Giải pháp nâng cao vai trò điều hoà vốn -Để thực hiện được vai trò điều hoà vốn không thể tách rời việc thực hiện kiểm soát về mặt tài chính đối với các đơn vị thành viên. Vì vậy, để góp phần vào nhiệm vụ này, công ty tài chính không thể tách rời các phòng ban của Tổng công ty nhất là phòng(ban tài chính). Vì vậy, công ty tài chính cần kiến nghị Tổng công ty làm rõ và phân định ranh giới nhiệm vụ giữa công ty tài chính và các phòng ban của Tổng công ty và cần phối hợp với chặt chẽ với các ban ngành của Tổng công ty để có thể tiếp nhận thông tin cần thiết về tình hình tài chính của các đơn vị thành viên để làm tốt phần nhiệm vụ của mình. -Hiện nay, vốn điều lệ của PTF không lớn, nhận uỷ thác đầu tư của Tổng công ty là một hình thức tăng vốn hoạt động cho PTF. PTF nên tận dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả hơn... -Hoàn thiện công tác ngân quỹ của công ty, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh nguồn tiền của công ty để từ đó làm tốt hơn công tác này cho Tổng công ty. 3.3.4.Các giải pháp khác -Phối hợp với Tổng công ty xây dựng kế hoạch bổ sung vốn điều lệ, tạo điều kiện để công ty tham gia vào công cuộc đầu tư vào các công trình của Tổng công ty có hiệu quả hơn. -Mở rộng đa dạng hóa loại hình sản phẩm dịch vụ, trước hết là trong các hoạt động kinh doanh chủ yếu. Đối với hoạt động tín dụng : sử dụng tối đa các nguồn để tài trợ cho các dự án của các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật, triển khai cho vay cán bộ công nhân viên, cho vay trả góp, hình thành các sản phẩm cho vay mới như loại hình bao thanh toán(chiết khấu các khoản phải thu của khách hàng.) -Đẩy mạnh các phát triển các dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ như tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, tư vấn đánh giá giá trị doanh nghiệp... -Phát triển nguồn nhân lực cả về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác trong từng lĩnh vực. Kết hợp cả tự đào tạo nội bộ và đào tạo bên ngoài. Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vai trò của PTF trong VNPT. Tuy nhiên, công ty tài chính không thể thực hiện được những giải pháp trên nếu như cơ chế chính sách của Nhà nước và quy định của Tổng công ty vẫn bó buộc hoạt động của công ty. Sau đây, là một số kiến nghị vơi các cơ quan quản lý công ty tài chính Bưu điện nhằm tạo môi trường hoạt động thông thoáng cho công ty. 3.4.Một số kiến nghị 3.4.1.Kiến nghị về cơ chế chính sách của Nhà nước Hiện nay, hoạt động của PTF gặp rất nhiều vướng mắc do cơ chế chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ, thể hiện là còn nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn khiến hoạt động của công ty gặp nhiều khó khăn. Để môi trường hoạt động của các công ty tài chính trong Tổng công ty nói chung và PTF nói riêng thông thoáng hơn. Với giới hạn nghiên cứu của mình, tôi xin mạnh dạn nêu một số kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động của PTF và tăng tính chủ động, linh hoạt hơn cho PTF. Một là, cần sớm ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang trong quá trình soạn thảo Nghị định này, nhưng do có nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau nên việc ra đời văn bản này đã chậm so với dự định. Mục tiêu ra đời của các công ty tài chính trong Tổng công ty đã được xác định rõ với vai trò hết sức quan trọng. Thế nhưng, thực tế hoạt động của tất cả các công ty tài chính trong Tổng công ty đều gặp rất nhiều vướng mắc, vai trò của các công ty này chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn khi thành lập. Quan điểm của các cơ quan quản lý cũng chưa rõ ràng. Trước khi đưa ra dự thảo Nghị định về công ty tài chính, nhiều quan chức NHNN còn cho rằng nên đưa công ty tài chính trong Tổng công ty ra ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghị định. Điều này thật phi lý! Vì thế, điều trước tiên là trong Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính cần có một khoản mục làm rõ vị trí của công ty tài chính trong Tổng công ty. Công ty tài chính trong Tổng công ty có vị trí, chức năng riêng nên không thể ghép vào hình thái ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác để xoá bỏ phần này hay phần khác khi quy định phạm vi hoạt động cũng như hành vi hoat động của nó. Cũng không nên trói buộc hoạt động của công ty tài chính trong Tổng công ty như các CTTC khác. CTTC trong Tổng công ty phải được thực hiện tất cả các hoạt động như một công ty tài chính bình thường khác, hơn nữa nó phải được thực hiện một số hoạt động đặc thù phù hợp. Vì thế, trong Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính trong Tổng công ty cần phải có các quy định mở rộng phạm vi hoạt động của công ty tài chính trong Tổng công ty nói chung và PTF nói riêng. Cụ thể là một số quy định sau: -Mở rộng phạm vi huy động tiền gửi của PTF ra dân cư nói chung và phạm vi cho vay ra cả hộ gia đình và cá nhân để dễ dàng thu hút vốn và sử dụng được nguồn có lãi suất thị trường... -Cho phép PTF được huy động nguồn vốn có kỳ hạn 3 tháng trở lên. Vì thực tế nguồn vốn chưa đầu tư có thê huy động của các đơn vị thành viên là rất lớn.(>900 tỷ ) nhưng lại có kỳ hạn <1 năm. Nếu PTF được huy động nguồn vốn có kỳ hạn từ 3tháng trở lên thì sẽ góp phần tăng hiệu quả công tác chu chuyển vốn trong nội bộ ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế --Cho phép PTF được làm tổ chức tín dụng đầu mối. Là thành viên của VNPT, PTF có điều kiện để tìm hiểu các dự án của ngành một cách nhanh chóng, đầy đủ. Qua các cuộc tiếp xúc, làm việc với PTF, một số ngân hàng và tổ chức tín dụng khác bày tỏ sự quan tâm và sẵn sàng tham gia đồng tài trợ cho các dự án của ngành trong trường hợp PTF đứng ra làm tổ chức tín dụng đầu mối. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng này cũng nhấn mạnh việc PTF đứng ra làm đầu mối trong các khoản cho vay các dự án trong ngành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc thu thập thông tin, đánh giá và thẩm định dự án cho vay tốt hơn là khi bản thân họ đứng ra làm đầu mối. -Xoá bỏ quy định về việc khung lãi suất huy động và cho vay của PTF phải do Tổng Giám đốc Tổng công ty quyết định. Biện pháp này làm tăng tính độc lập, tự chủ kinh doanh của PTF, tăng tính cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cho PTF -Cho phép PTF được thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối để thu hút các nguồn vôn ngoại tệ nhằm đáp ứng toàn diện nhu cầu vốn của Tổng công ty và các đơn vị thành viên: VNPT là Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam mạnh, đã và đang thiết lập được thị phần và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường khu vực và quốc tế trong xu hướng toàn cầu hoá. Vì vậy, mối quan hệ kinh tế của VNPT với các tổ chức nước ngoài và quốc tế có liên quan mật thiết và bắt buộc phải sử dụng các đồng tiền có khả năng chuyển đổi như USD, DM, FFr...chưa kể VNPT còn có các doanh nghiệp liên doanh hoặc có vốn đầu tư nước ngoài lên tới hàng trăm triệu USD. Trong điều kiện như vậy, PTF thực tiễn đòi hỏi cần sớm được thực hiện các hoạt đọng ngoại hối như NHTM mới có htể thực hiện nguồn ngoại tệ không nhỏ cho nền kinh tế. Tóm lại, nội dung Nghị định về tổ chức hoạt động của công ty tài chính phải tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa công ty tài chính trong Tổng công ty và các tổ chức tín dụng khác. Hơn nữa, không nên trói buộc loại CTTC trong Tổng công ty phải hoàn toàn giống như CTTC đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, mà cần phải mở rộng chức năng đầu tư của nó. Chính đầu tư mới là mục tiêu chủ yếu của Tổng công ty trong việc huy động vốn. Và đây cũng là một chức năng quan trọng, là nhu cầu cần thiết thành lập CTTC trong Tổng công ty. Hai là, về chế độ thu thuế thì nên bỏ quy định về thu thuế VAT đối với dịch vụ nhận uỷ thác từ nguồn vốn nội bộ của Tổng công ty vì thực chất đây chỉ là một biện pháp để điều hoà vốn nội bộ. Ba là, cần có những giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động của các công ty tài chính cũng không thể tách rời hoạt động của thị trường chứng khoán. Do đó, việc phát triển thị trường chứng khoán là một nội dung quan trọng và cần thiết. Các biện pháp để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam có thể là: tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế chính sách cho hoạt động của thị trường chứng khoán, đào tạo nhân lực cho thị trường chứng khoán... 3.4.2.Kiến nghị về quy chế quản lý tài chính trong tập đoàn Bưu điện Sự xuất hiện công ty tài chính trong Tổng công ty sẽ dẫn đến một số thay đổi về hệ thống và cơ chế quản lý tài chính của Tổng công ty. Do mới thành lập và tính chất hoạt động của công ty tài chính thuộc loại hình này ở nước ta chưa có kinh nghiệm nên không tránh khỏi những lúng túng khó khăn ban đầu. Các công ty tài chính và bản thân Tổng công ty đều phải xây dựng cơ chế hoạt động và cơ chế quản lý mới để tự thích ứng vơi điều kiện riêng trong Tổng công ty. Một trong những khó khăn gây trở ngại đối với PTF đó là cơ chế quản lý bên trong Tổng công ty chưa thông suốt, chưa tạo điều kiện cho công ty tài chính hoạt động. Một số vướng mắc giữa công ty tài chính và ban tài chính của Tổng công ty về chức năng, quyền hạn và sự phối hợp lẫn nhau? Hơn nữa, Qua những thực tế đã trình bày ở phần trên cho thấy việc phát huy vai trò thực sự của công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước phải gắn liền với việc xây dựng một cơ chế tài chính trong mô hình Tổng công ty phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan. Cơ chế đó cho phép Tổng công ty thực sự có hiệu lực trong việc điều tiết, chi phối về mặt tài chính đối với các đơn vị thành viên nhưng không phải dựa vào ý muốn chủ quan và bằng biện pháp hành chính mà chủ yếu dựa trên các quan hệ của kinh tế thị trường (thông qua hoạt động đầu tư tín dụng của một định chế tài chính trung gian như Công ty Tài chính); cơ chế ấy cho phép tập trung thu hút được các nguồn lực tài chính cần thiết cho phát triển nhưng đồng thời cũng đảm bảo việc sử dụng các nguồn đó có hiệu quả nhất; ...cơ chế đó có phân định rõ ràng về lĩnh vực trách nhiệm về quan hệ phối hợp giữa Công ty tài chính và các phòng ban chức năng của Tổng công ty. Với yêu cầu như vậy, một mô hình công ty tài chính như một công ty mẹ thực hiện điều tiết, đầu tư vốn của Tổng công ty có thể là mô hình phù hợp trong tương lai khi các yếu tố của thị trường vốn hình thành hoàn chỉnh, khi yêu cầu tích tụ, tập trung vốn của Tổng công ty đã ở mức cao, vượt ra khỏi khả năng đảm bảo và tầm kiểm soát của cơ chế truyền thống, tự thân đòi hỏi phải có một công ty tài chính có đủ năng lực đáp ứng, chi phối về mặt tài chính đối với các đơn vị thành viên. Trước mắt, công ty tài chính vẫn chỉ nên như một đơn vị thành viên của Tổng công ty nhưng để phát huy được vai trò và dần vươn lên đáp ứng được yêu cầu mới cần có một số biện pháp như sau: -Xây dựng quy chế tập trung được các nguồn quỹ chuyên dùng nhàn rỗi về Tổng công ty thông qua công ty tài chính để cho vay và đầu tư có hiệu quả, tránh lãng phí, giảm dần việc điều động cấp phát...Đây là một biện pháp quan trọng tạo điều kiện để công ty tài chính có thể thực hiện được vai trò điều hoà vốn trong Tổng công ty. Và thực tế, công ty tài chính chỉ có thể thực hiện được tốt vai trò này chỉ khi các nguồn lực tài chính trong Tổng công ty được tập trung qua công ty tài chính và công ty tài chính được thực hiện quản lý điều chuyển các nguồn vốn này cho toàn Tổng công ty. -Giao toàn bộ phần vốn phải vay và huy động của Tổng công ty cho công ty tài chính để PTF chủ đông có kế hoạch, với nhiều hình thức, quan hệ với nhiều đối tác nhằm sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Biện pháp này giúp Tổng công ty dần không bao vốn qua việc cấp phát va hạn chế việc các đơn vị ỷ lại. -Cho phép PTF nhận uỷ thác quản lý và điều hành phần vốn đầu tư gián tiếp qua hình thức công ty cổ phần nhằm điều chuyển vốn đúng mục tiều và hiệu quả cao hơn. -Hoàn thiện quy chế giao PTF tư vấn quản lý vốn của Tổng công ty ở các doanh nghiệp thành viên, các công ty cổ phần,... và thúc đẩy nhanh chóng đưa vào thực thi. -Cho phép Công ty tài chính tham gia nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý điều hành kinh tế của Tổng công ty. --Cơ chế tài chính phải có những quy định đảm bảo tính tự chủ về tài chính của các đơn vị thành viên, nâng cao sự hoà nhập thực sự của các đơn vị thành viên vào cơ chế thị trường 3.4.3.Kiến nghị khác về mở rộng hoạt động cho công ty tài chính -Bao thanh toán là một hình thức chiết khấu chứng từ được thể hiện thông qua việc tài trợ tín dụng của công ty tài chính đối với doanh nghiệp. CTTC mua lại hoá đơn ghi các khoản nợ phải thu của các doanh nghiệp phát sinh từ việc bán hàng trả chậm, thực hiện quản lý sổ sách cho các doanh nghiệp.Nghiệp vụ bao thanh toán nếu được thực hiện cũng sẽ nâng cao được vai trò hỗ trợ về mặt tài chính của công ty tài chính đối với các đơn vị thành viên, giảm được các chi phí thanh toán trong các hợp đồng mua bán hoặc nhập khẩu vật tư thiết bị của các đơn vị thành viên. -Cho phép công ty tài chính tham gia một số nghiệp vụ chứng khoán như môi giới, tư vấn đầu tư hoặc được mua bán cổ phiếu của thị trường chứng khoán trong một giới hạn nhất định để tập sự trong môi trường của thị trường vốn. Nghiệp vụ này càng có lợi ích thiết thực hơn đối với các công ty tài chính trong Tổng công ty có nhiều đơn vị thành viên thực hiện cổ phần hoá. -Tổng công ty cho phép công ty tài chính tham gia vào quá trình chuẩn bị đầu tư tài chính của Tổng công ty như việc chuẩn bị đầu tư vốn vào các liên doanh, BBC, công ty cổ phần và uỷ nhiệm cho công ty tổng hợp phân tích tài chính, đánh giá hiệu quả về vốn, ... -Tổng công ty uỷ thác công ty tài chính cho vay từ các nguồn ODA, và các nguồn vốn khác của chính phủ hoặc Tổng công ty ký kết với nước ngoài. Kết luận Công ty tài chính Bưu điện ra đời đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển Tổng công ty nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Công ty đã bước đầu thể hiện được vai trò hết sức cần thiết trong Tổng công ty, là đầu mối quan trọng trong việc thực hiện huy động vốn và cho vay các đơn vị thành viên, đầu tư vào các dự án của Tổng công ty, tư vấn quản lý tài chính cho các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty đồng thời đang trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện các hoạt động ngân quỹ thay cho Tổng công ty để tiến đến thực hiện đầy đủ hơn vai trò là công cụ quản lý tài chính toàn diện của Tổng công ty. Ngoài ra, công ty tài chính Bưu điện cũng đã bước đầu tham gia các hoạt động trên thị trường chứng khoán, góp phần cùng các định chế tài chính khác làm "sôi động" thêm hoạt động trên thị trường này. Tuy nhiên, với thời gian hoạt động chưa dài, những kết quả đạt được chưa thể hiện đầy đủ tiềm lực của nó. Thêm vào đó là cơ chế hoạt động cho loại hình công ty này còn nhiều vướng mắc và mâu thuẫn. Nhằm tăng cường vai trò thực sự của công ty tài chính Bưu điện nói riêng và các công ty tài chính trong Tổng công ty nói chung trong điều kiện hiện nay và đặc biệt là trong tiến trình xây dựng các tập đoàn kinh tế Nhà nứơc mạnh ở Việt Nam đòi hỏi phải có nhiều biện pháp đồng bộ từ các cấp quản lý và cả trong bản thân các công ty tài chính. Với trình độ còn hạn chế, nhất là kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và với thời gian nghiên cứu ngắn, trong bài viết này không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự quan tâm và đánh giá của cô giáo hướng dẫn. &

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0061.doc
Tài liệu liên quan