Đề tài Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNT

 Về kỳ hạn của các hợp đồng giao dịch SWAP. Trong giao dịch SWAP ngoại tệ có hình thức giao dịch trong đó hai bên ngoài việc trao đổi tiền vốn gốc vào thời điểm ký kết hợp đồng và thời điểm kết thúc hợp đồng, hai bên còn trao đổi với nhau lãi xuất của đồng tiền mình vay vào các thời hạn khi SWAP còn hiệu lực. Với các loại lãi suất thay đổi hay cố định được trao đổi theo SWAP, NHTM có thể sử dụng hình này để phòng tránh, giảm rủi ro về lãi suất có hiệu quả. Vậy NHNN nên quy định thêm hình thức này vào “quy chế giao dịch hối đoái”, đồng thời không nên quy định thời hạn cụ thể tối đa của SWAP, vì với SWAP có lãi suất cố định thì thời hạn cần tương đối dài.  Về hình thức cho vay bằng ngoại tệ tài trợ xuất khẩu: Hiện nay NHNN không cho phép vay tài trợ xuất khẩu bằng ngoại tệ. Tuy nhiên hình thức cho vay này rất có lợi dựa vào các lý do sau: + Xét về khả năng thu hồi nợ khá đảm bảo, vì bằng nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu( trong khi đó, cho vay, ( bảo lãnh ) để thanh toán L/C hàng nhập thì rất khó tạo nguồn ngoại tệ để trả nợ lại được vay bằng USD ). + Hình thức cho vay này tạo cho khách hàng xuất khẩu có trạng thái ngoại tệ đóng, tránh được rủi ro hối đoái. Bởi vì ngoài USD, khách hàng còn vay nhiều loại ngoại tệ khác như : JPI, DEM, + Nhà xuất khẩu không chỉ sử dụng nhân công và nguyên liệu trong nước mà có khi còn phải nhập một số vật tư, thiết bị từ bên ngoài. +Với lãi suất vay USD thấp hơn một chút so với nay VND sẽ khuyến khích nhà xuất khẩu trong sản xuất kinh doanh từ đó sự thúc đẩy của cả nền kinh tế. Như vậy NHNN nên cho phép vay bằng ngoại tệ tài trợ cho xuất khẩu. Hơn nữa cho vay ngoại tệ, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ có liên quan mật thiết, thúc đẩy cùng nhau phát triển. Vậy NHNN sẽ tạo điều kiện cho tất cả hoạt động trên phát triển.

doc63 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác thanh toán quốc tế Thanh toán xuất nhập khẩu: Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua NHNT năm 2002 đạt 9.092 triệu USD, giảm 4,1% so với năm 2001. Thị phần thanh toán qua Ngân hàng Ngoại thương so với kim ngạch XNK của cả nước là 29,3%, đạt chỉ tiêu đề ra từ đầu năm (29%). Biểu 4.Thanh toán XNK Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 ± % Doanh số thanh toán xuất khẩu Dầu thô Thủy sản Gạo 4490 2336 384 244 3940 1656 503 136 -12,2% -21,9% 30,2% - 44,3% Doanh số thanh toán nhập khẩu Xăng dầu Máy móc, thiết bị Sắt thép 4994 1686 388 334 5152 1480 746 344 3,2% -12,2% 92,3% 3,0% Tổng số 9484 9092 - 4,1% Phát hành và thanh toán thẻ: Phát hành thẻ: Tổng số thẻ tín dụng do NHNT phát hành trong năm là 2.500 thẻ, tăng hơn hai lần so với cùng kỳ năm ngoái. Số tiền sử dụng là 85 tỷ đồng, tăng 35%. Đặc biệt từ tháng 4 năm 2002, NHNT đã triển khai dịch vụ thẻ rút tiền tự động ATM với số thẻ phát hành trên 8.000 thẻ, số rút tiền mặt là 16 tỷ đồng và số tiền chuyển khoản là 1,3 tỷ đồng. Thanh toán thẻ: Doanh số thanh toán thẻ 6 tháng đầu năm 2002 đạt 50 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2001. Nguyên nhân tăng là do công nghệ thanh toán thẻ đã được cải thiện, mạng quản lý, thanh toán đã ổn định. c) Kinh doanh ngoại tệ. Một thế mạnh truyền thống của Ngân hàng Ngoại thương là nguồn vốn ngoại tệ và kinh nghiệm kinh doanh ngoại tệ. Ngân hàng Ngoại thương đã và đang tích cực đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp, trợ giúp các doanh nghiệp trong việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và đóng vai trò là trợ thủ đắc lực cho Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ bình ổn tỷ giá, cải thiện cán cân thanh toán. Ngân hàng Ngoại thương đã thực hiện SWAP với NHNN 58 triệu USD để cân đối nhu cầu vốn tiền VNĐ, đây cũng là điểm mới trong năm 2002 thể hiện khả năng sử dụng ngày càng có hiệu quả các công cụ phát sinh trên thị trường ngoại hối của NHNT. Năm 2002, NHNT tiếp tục là ngân hàng chủ lực cung ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu với doanh số bán lên tới 1.093 triệu USD. 2.2.5. Kết quả kinh doanh. Kết thúc năm 2002, nền kinh tế việt nam đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tốc độ GDP đạt7%, công nghiệp, nông nghiệp, và một số hoạt động dịch vụ tăng khá hơn năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng đạt 4%, xuất khẩu tăng 9,8% cho thấy sức mua trong nước tăng đồng thời mở thêm thị trường ở nước ngoài. Năm 2002 là năm hàng loạt các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng lớn được triển khai. Tuy nhiên sự yếu kém của các nền kinh tế lớn cùng với sự bất ổn về chính trị đã làm xói mòn lòng tin của giới kinh doanh và người tiêu dùng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường thương mại, đầu tư, đến diễn biến của thị trường thế giới. Bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước đã gây những tác động ngược chiều đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương. Do lãi suất ngoại tệ trong năm 2002 giảm mạnh tới mức thấp nhất trong vòng 40 năm qua đã tác động mạnh đến kết quả thu/chi của NHNT vốn là một ngân hàng có tỷ trọng vốn ngoại tệ chiếm trên 70% tổng nguồn vốn. Thu nhập và chi phí về lãi đều giảm, song chi phí giảm mạnh hơn thu nhập. Thu nhập năm 2002 đạt 4.005 tỷ VND, giảm 28,5%, trong khi chi phí đạt 3.676 tỷ VND, giảm 34% so với năm 2001. Trong năm 2002, mặc dù NHNT tăng chi khá lớn cho nhu cầu mở rộng mạng lưới, phát triển sản phẩm, nhưng nhờ có các giải pháp tăng cường quản lý thu chi và đẩy mạnh hoạt động tín dụng nên tốc độ giảm thu vẫn thấp hơn tốc độ giảm chi. Chính vì vậy, sau khi đã trích lập gần 1.000 tỷ VND vào quỹ dự phòng, lợi nhuận vẫn đạt 329 tỷ tăng 5,3% so với năm 2001. Công tác tài chính kế toán đã có nhiều cố gắng trong quản lý, giảm sát góp phần tích cực cho sự phát triển ổn định của toàn hệ thống. II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG. 1.Các hoạt động liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong nền kinh tế đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó không thể phủ nhận được mối quan hệ giữa kinh doanh mua bán ngoại tệ với các hoạt động kinh doanh đối ngoại khác của Ngân hàng, trong đó phải kể đến: cho vay ngoại tệ và thanh toán xuất nhập khẩu(thanh toán quốc tế). Cho vay ngoại tệ hay thanh toán quốc tế, tất yếu sẽ dẫn đến nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Ngược lại chính nhờ nghiệp vụ kinh doanh mua bán ngoại tệ giúp cho các hoạt động này được diễn ra một cách suôn sẻ và thúc đẩy chúng phát triển hay nói cách khác mua bán ngoại tệ nó chính là một phần trong toàn bộ quy trình cho vay và thanh toán quốc tế. Cho vay ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa hay để sản xuất thu gom hàng xuất khẩu cuối cùng đều phát sinh nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Ngân hàng cần mua ngoại tệ để thanh toán L/C đến hạn, khách hàng khi đến hạn phải mua ngoại tệ để trả nợ tiền vay, doanh nghiệp xuất khẩu cần bán ngoại tệ lấy VNĐ để chi tiêu trong nước; thanh toán quốc tế thực hiện thanh toán tiền hàng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp nhập khẩu phải mua ngoại tệ để trả tiền hàng nước ngoài, doanh nghiệp xuất khẩu cần bán ngoại tệ từ nguồn thu nhập khẩu, như vậy đều phát sinh nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Xuất phát từ mối quan hệ trên, trước khi phân tích thực trạng về hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, chúng ta sẽ xem xét thực trạng các hoạt động trên và ảnh hưởng của chúng tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng như thế nào? 1.1. Hoạt động cho vay ngoại tệ. Từ năm 1995 Ngân hàng Ngoại thương Việt nam thực hiện cho vay ngoại tệ trực tiếp đối với các doanh nghiệp theo quyết định 04/NHNT ngày 3/01/1995. Hoạt động cho vay ngoại tệ được thực hiện theo quyết định số 143/NHNT ngày 5/10/1996 của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt nam quy định rõ - Đối tượng cho vay: + Cho vay để nhập khẩu vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước. + Góp vốn bổ sung liên doanh ( nếu có nguồn trả nợ) + Cho vay bắt buộc trả nợ bảo lãnh đến hạn do Ngân hàng Ngoại thương bảo lãnh. + Cho vay tạm nhập tái xuất. + Chi trả chi phí vân tải, bảo hiểm. - Cách phát tiền vay: Tiền vay được phát bằng chuyển khoản, tiền mặt hoặc phương tiện thanh toán khác của Ngân hàng. Trường hợp đặc biệt có sự thỏa thuận giữa bên vay với Ngân hàng thì Ngân hàng có thể chuyển tiền vay vào tài khoản tiền gửi của bên vay. Khách hàng có thể rút vốn bằng loại ngoại tệ khác với loại ngoại tệ ghi trên hợp đồng tín dụng thông qua việc mua bán ngoại tệ theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương tại thời điểm rút vốn. - Thu nợ: Bên vay nhận nợ bằng loại ngoại tệ nào thì trả nợ gốc và lãi bằng loại ngoại tệ đó. Nếu bên vay không có loại ngoại tệ thích hợp thì có thể dùng loại ngoại tệ tự do chuyển đổi khác hoặc đồng VN quy đổi ra loại ngoại tệ cần thiết qua việc mua bán ngoại tệ theo tỷ giá mua bán ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam không cho vay ngoại tệ để: Trả nợ vay Ngân hàng và các tổ chức kinh tế trong nước. Bán lại cho Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng thương mại để lấy tiền Dư nợ ngoại tệ tính đến 31/12/2002 đạt 707,7 triệu USD tăng so với năm 2001 về tuyệt đối là 426 triệu USD và về số tương đối 151,6%. Tỷ trọng cho vay USD trong năm 2001 chỉ chiếm 29%, bước sang năm 2002 tăng vọt lên 41% trong tổng dư nợ. Sự thay đổi được đánh giá là tích cực, phù hợp với cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng Ngoại thương và tăng cao hiệu quả sử dụng vốn trong bối cảnh lãi suất tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài đang giảm thấp. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam cho vay ngoại tệ ngắn hạn để nhập khẩu vật tư hàng hóa để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Trước đây phân bón là mặt hàng cấm nhập do trong nước đã sản xuất được. Nhưng từ tháng 4/2002 Chính phủ đã cho phép nhập phân NPK nên các doanh nghiệp đã vay vốn để nhập khẩu phục vụ cho sản xuất vụ đông xuân trong cả nước. Ngân hàng cho vay nhập khẩu khí đốt để thực hiện chủ trương của Nhà nước về bình ổn giá. Ngoài cho vay ngắn hạn Ngân hàng cũng đầu tư cho vay trung dài hạn để nhập khẩu máy móc thiết bị cho các đơn vị giúp các đơn vị đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế. 1.2. Thanh toán quốc tế. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế ra đời đã thúc đẩy rất nhiều sự phát triển của hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở Ngân hàng. Bởi vì thanh toán quốc tế gắn liền với nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng và Ngân hàng cần phải đáp ứng nhu cầu ấy. Ngược lại, hoạt động mua bán ngoại tệ tạo điều kiện để thanh toán quốc tế được hoàn thành, tạo uy tín cho Ngân hàng và thu hút khách hàng mới. Khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đối với khách hàng vay để nhập khẩu đều phải thanh toán qua Ngân hàng. Ngân hàng kiểm soát được mục đích sử dụng tiền vay, thời gian hàng về…Từ đó đảm bảo cho việc thu nợ của Ngân hàng. Còn đối với khách hàng xuất khẩu đã xuất trình bộ chứng từ tại Ngân hàng để chiết khấu hoặc để nhờ đòi tiền hộ. Điều này giúp việc thu nợ của Ngân hàng rất thuận lợi và đây cũng là nguồn cung cấp ngoại tệ của Ngân hàng. Qua đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu, người mua ngoại tệ để trả nợ Ngân hàng hay bán ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu, quy mô hoạt động mua bán ngoại tệ đã tăng liên tục cùng với sự gia tăng doanh số thanh toán quốc tế từ hàng năm qua Ngân hàng. Hiện nay mặc dù tất cả các NHTM đều được phép hoạt động kinh doanh đa năng nhưng trên thực tế Ngân hàng Ngoại thương với ưu thế về trình độ nghiệp vụ thanh toán quốc tế, về uy tín trong quan hệ quốc tế nên vẫn giữ vai trò là ngân hàng chủ lực của Việt Nam trong lĩnh vực phục vụ kinh tế đối ngoại. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu tăng nhanh qua các năm. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua Ngân hàng Ngoại thương Việt nam năm 2002 chiếm 28,5% thị phần cả nước. Lần đầu tiên doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã vượt qua ngưỡng của 10 tỷ đô la Mỹ (10.216 triệu đô la Mỹ), trong đó doanh số thanh toán xuất khẩu đạt 4.675 triệu đô la Mỹ, tăng 7,7% so với năm 2001, chiếm 28,3% thi phần xuất khẩu của cả nước; doanh số thanh toán nhập khẩu đạt 5.541 triệu đô la Mỹ, tăng 24,6% chiếm 28,7% thi phần nhập khẩu cả nước. Đó là nhờ những nguyên nhân sau: Phục hồi được hai thị trường truyền thống là Nhật bản và EU, đồng thời khai thông thêm một loạt thị trường mới là Mỹ, Hồng Kông, Trung Quốc,…đối với mặt hàng thủy hải sản xuất khẩu. Một số mặt hàng như dệt may, giầy da…tăng kim ngạch xuất khẩu do được cải tiến về mặt thủ tục xuất nhập khẩu. Giá dầu thô, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng cao. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đang đẩy mạnh việc cung ứng dịch vụ chọn gói : cho vay – thanh toán – mua bán ngoại tệ nên đã khuyến khích khách hàng thanh toán qua Ngân hàng. Một số mặt hàng như máy móc thiết bị, phụ tùng, hóa chất, thép, giấy có khối lượng nhập khẩu tăng đáng kể. Giá xăng dầu trên thị trường tăng. 2. Tình hình hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ. 2.1. Cơ sở pháp lý. Hiện nay hoạt động mua bán ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thực hiện theo các văn bản pháp luật sau: - Quyết định số 64/1999/QĐ - NHNN 7 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ. - Quyết định số 65/1999/QĐ NHNN 7 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. - Quyết định số 18/1998/QĐ - NHNN 7 ngày 10/01/1998 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định về trạng thái ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối. - Công văn số, 767 CV/NHNN 7 ngày 24/08/1998 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc mua bán ngoại tệ với khách hàng của các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ. - Quyết định số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/09/1998 của Thủ tướng Chính phủ về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức. - Quyết định số 232/1998/QĐ-TTg ngày 01/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi Khoản 1 và 2 Điều 1 Quyết định số 173/198/QĐ-TTg. 2.2.Nguồn mua ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng Ngoai thương Việt Nam có thể huy động nguồn mua ngoại tệ từ các doanh nghiệp, các Ngân hàng Thương mại khác, của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác, trong đó chủ yếu là mua của các doanh nghiệp, tiếp đến là Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng Thương mại khác. - Mua từ các doanh nghiệp Lượng ngoại tệ mua được từ các khách hàng mà doanh nghiệp mà chủ yếu là các doanh nghiệp xuất khẩu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam là tương đối lớn. Vả lại, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam là ngân hàng truyền thống trong thanh toán xuất- nhập khẩu mà moi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đều cần vốn ngoại tệ mạnh để thanh toán. - Mua từ Ngân hàng Nhà nước Đây là nguồn mua lớn của Ngân hàng Ngoại thươngViệt nam với tỷ giá thường thấp hơn so với tỷ giá trên thị trường ngoại tệ chính thức (tuy nhiên chênh lệch không đáng kể). Ngân hàng Nhà nước Việt nam cũng chỉ bán ngoại tệ cho Ngân hàng Ngoại thương Việt nam khi chương trình nhập khẩu một số mặt hàng nhất định mà Chính phủ quy đinh như xăng, dầu, phân bón…và hàng không. - Mua từ các Ngân hàng thương mại khác Đây là nguồn mua chủ yếu của Ngân hàng Ngoại thương. Tuy nhiên chỉ những Ngân hàng nào cân đối thừa ngoại tệ mới bán cho ngân hàng. Các ngân hàng này thường bán với giá kịch trần do NHNN quy định. 2.3.Nguồn bán ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Khách hàng mua ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương cũng không ngoài các doanh nghiệp, các Ngân hàng Thương mại, các tổ chức cá nhân và Ngân hàng Nhà nước. Khách hàng mua ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp mua ngoại tệ thường là các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh nhập khẩu, có quan hệ lâu dài với Ngân hàng và họ cũng là những khách hàng chủ yếu vay ngoại tệ. Các doanh nghiệp này mua ngoại tệ để thanh toán L/C và trả nợ các khoản vay nước ngoài đến hạn trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. 2.4.Kinh doanh ngoại tệ trong nước. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNT vẫn diễn ra trong hoàn cảnh mất cân đối cung cầu ngoại tệ. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu giảm,tỷ giá gia tăng liên tục, cùng với việc hạ tỷ lệ kết hối ngoại tệ đã ảnh hưởng tới doanh số mua ngoại tệ của Ngân hàng. Doanh số mua ngoại tệ từ các doanh nghiệp và cá nhân năm 2002 giảm 1,9% so với năm 2001. Tuy nhiên, trong 4 tháng cuối năm 2002 doanh số mua ngoại tệ tăng mạnh, đạt mức bình quân 253 triệu USD/tháng so với mức mua ngoại tệ bình quân là 188 triệu USD/tháng trong 8 tháng đầu năm. Kết quả này đạt được là do việc đưa vào áp dụng các hình thức kinh doanh linh hoạt như hoán đổi, kỳ hạn; vừa mua bán giao ngay vừa cho giữ lại tiền đồng với mức lãi suất hấp dẫn; cho vay va ứng trước tiền đồng với lãi suất thấp. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp quản trị rủi ro nên cung cầu ngoại tệ vẫn điều hòa,đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng, góp phần bình ổn giá thị trường ngoại tệ trong nước. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam tiếp tục duy trì vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng về ngoại tệ. Trong năm 2002 Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ phía Ngân hàng Nhà nước trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu (1 222 triệu USD) và một số lĩnh vực khác như hàng không, điện lực. Năm 2002, Ngân hàng Nhà nước đã bán cho Ngân hàng Ngoại thương 1 240USD. Doanh số bán ngoại tệ năm 2002 đạt 3890 triệu USD tăng 4,7% so với năm 2001, trong đó bán cho các mặt hàng phi xăng dầu tăng mạnh: 16,7%. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian tới vẫn đứng trước thách thức do cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế tiếp tục mất cân đối và cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một gia tăng Biểu 5. Doanh số mua bán ngoại tệ trong nước Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 ± % 1. Doanh số mua vào 3684 3885 5,5% + NHNN và TCTD 1115 1364 22,3% + Doanh nghiệp và cá nhân 2569 2521 - 1,9% 2. Doanh số bán ra 3721 3890 4,7% + NHNN và TCTD 174 60 - 65,5% + Doanh nghiệp và cá nhân 3547 3830 8,1% Tổng doanh số mua bán 7405 7775 5,0% (Ghi chú : Doanh số không bao gồm mua bán nội bộ và thị trường ngoài nước) 2.5.Kinh doanh ngoại tệ nước ngoài Song song với việc mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở thị trường trong nước, Vietcombank cũng đã nhanh chóng tiếp cận với thị trường hối đoái quốc tế, từng bước đảm bảo nhu cầu thanh toán đa dạng các loại ngoại tệ cho khách hàng như USD, JPY, GBP, AUD, EUR…thực hiện chuyển đổi từ ngoại tệ này sang ngoại tệ khác với giá cả phù hợp sự biến động tức thời của tỷ giá trên thị trường. Trong năm 2002, do thị trường có nhiều rủi ro nên kinh doanh mua bán ngoại tệ trên thị trường quốc tế cũng hạn chế hơn, các cán bộ kinh doanh đã cố gắng thực hiện nghiêm túc hạn mức giao dịch. Doanh số mua bán ngoại tệ nước ngoài của Ngân hàng Ngoại thương năm 2002 đạt 5.162 triệu USD, tăng 36,5% so với năm 2001. Do những biến động phức tạp trên thị trường tiền tệ quốc tế trong năm nên Ngân hàng Ngoại thương đã chuyển hướng kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro theo hướng giảm đầu tư kiếm lời để tập trung vào hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng. Biểu 6. Doanh số mua bán ngoại tệ nước ngoài Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 ± % Doanh số mua 1895 2586 + 36,5% Doanh số bán 1896 2576 + 35,9% Tổng 3791 5162 + 36,2% III.Đánh giá hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Dấu hiệu khởi sắc của nền kinh tế và tình hình biến động lãi suất trên thị trường quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống các ngân hàng nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt nam nói riêng trong việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Tuy nhiên vấn đề cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các NHTM trên nhiều lĩnh vực như huy động vốn, tìm kiếm khách hàng đầu tư, mua bán ngoại tệ … đang trở thành thách thức lớn đối với các NHTM trong hoạt động nghiệp vụ của mình. 1.Đánh giá kết quả đạt được. Thứ nhất: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tăng qua các năm, tổng doanh số mua bán ngoại tệ có ít nhiều chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính nhưng vẫn đảm bảo được doanh số vượt kế hoạch và có xu hướng tăng. Thứ hai: Ngay từ khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa, Ngân hàng Ngoại thương đã nhanh chóng tiếp cận thị trường hối đoái quốc tế, mở rộng nghiệp vụ kinh doanh với nhiều loại ngoại tệ.Mặc dù đây là lĩnh vực dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài nhưng Vietcombank luôn hoạt động một cách có hiệu quả. Theo đánh gia của các chuyên gia trong lĩnh vực này thi trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh hiện nay của Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương là ngân hàng có bề dày truyền thống và kinh nghiệm hàng đầu về kinh doanh đối ngoại nói chung và kinh doanh ngoại tệ nói riêng. Thứ ba: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Vietcombank đã góp phần đáp ứng nhu cầu thanh toán đa dạng về các loại ngoại tệ của khách hàng, qua đó thúc đẩy các mặt hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng phát triển như hoạt động thanh toán quốc tế, cho vay ngoại tệ… thu hút thêm nhiều khách hàng mới sử dụng các dịch vụ Ngân hàng, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, hạn chế rủi ro. Thứ tư : Trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam nói riêng và của các ngân hàng nói chung tuân theo các quy định hiện hành đã góp phần thực hiện, củng cố chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tiền tệ của Nhà nước. Thứ năm: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ sẽ thúc đẩy quá trình thương mại hóa quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại với thế giới. Việc phát triển rộng rãi các ngân hàng đại lý giúp Ngân hàng ngoại thương mở rộng các nghiệp vụ quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, đa dạng hóa các dịch vụ và tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, giảm được chi phí trung gian, khai thác được nhiều nguồn tài trợ xuất nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu vốn ngoại tệ cho các doanh nghiệp. Có được kết quả trên phải kể đến nguyên nhân sau: - Hành lang pháp lý ngày càng được mở rộng, cải tiến phù hợp với hoạt động phát triển của Ngân hàng, của khách hàng, từng bước thiết lập cơ sở cho thị trường hối đoái hoàn chỉnh sau này. Các văn bản quy định về xác định tỷ giá, quản lý ngoại hối thường xuyên được sửa đổi cập nhật để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế. - Tình hình chính trị ổn định và nền kinh tế liên tục tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, qua đó ảnh hưởng tích cực tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ. - Ngân hàng đã áp dụng chính sách khách hàng khá mềm dẻo và linh hoạt. Không gây sức ép cho khách hàng nhưng cũng rất nghiêm khắc, không dễ dãi, buông lỏng, luôn cố gắng tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển có hiệu quả kinh doanh. Ngân hàng đã tập hợp và lập hồ sơ khách hàng một cách khoa học, cập nhật sau mỗi lần giao dịch với khách hàng. Từ đó, Ngân hàng giảm được thời gian và chi phí của khách hàng cũng như của bản thân Ngân hàng trong các lần giao dịch tiếp theo. - Ngân hàng Ngoại thương đã có định hướng phát triển hoạt động Ngân hàng đối ngoại, mở rộng nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, trở thành thành viên chính thức của hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng toàn cầu (Swift) - Đầu tư trang thiết bị hiện đại, lắp đặt đầy đủ máy móc, thiết bị điện tử phục vụ việc theo dõi kịp thời các diễn biến trên thị trường hối đoái quốc tế, phát triển nhanh các nghiệp vụ đầu cơ, thực hiện nhanh chóng các giao dịch hối đoái với các thành viên trền thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. - Chú trọng việc tuyển chọn và đào tạo cán bộ có khả năng tiếp thu kiến thức mới, có trình độ ngoại ngữ cao, có trách nhiệm… 2.Những tồn tại và nguyên nhân. Việc xác định tỷ giá qua hai trung tâm giao dịch ngoại tệ (tại hội sở Vietcombank Trung ương và chi nhánh Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh) chưa phản ánh được thực chất và đúng với mối quan hệ cung cầu của thị trường do những mục tiêu và điều kiện đặc thù khác nhau của từng vùng lãnh thổ và nhất là sự can thiệp của Nhà nước còn khá lớn. Kinh doanh ngoại tệ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt nam chủ yếu sử dụng nghiệp vụ Forward(mua bán ngoại tệ có kỳ hạn), nghiệp vụ Abitrage, còn nghiệp vụ Swap hay Option chỉ được sử dụng khi ngân hàng cảm thấy thực sự thiếu vốn ngoại tệ . Ngân hàng chưa có khả năng năm bắt kịp thời các thông tin quốc tế có giá trị áp dụng được vào hoạt động kinh doanh của mình. Doanh số hoạt động trên thị trường quốc tế còn thấp, chưa tận dụng được nhiều cơ hội để thu lợi nhuận và khả năng phòng ngừa rủi ro trên thị trường này chưa tốt. Việc cạnh tranh giữa các Ngân hàng diễn ra gay gắt đã làm Ngân hàng Ngoại thương mất dần thị phần trong nhiều mặt hoạt động. Ngân hàng Ngoại thương đang phải đối mặt với nhiều ngân hàng, đăc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, có ưu thế hơn trong lĩnh vực thông tin, kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường, cùng khả năng tài chính của họ. Tốc độ và quy mô mua bán ngoại tệ chưa tương xứng với khả năng và nhu cầu của nền kinh tế, đặc biệt nhu cầu ngoại tệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Các hình thức kinh doanh ngoại tệ còn nghèo nàn, thiếu đa dạng. Trong kinh doanh mua bán ngoại tệ chủ yếu mới sử dụng nghiệp vụ mua bán giao ngay, rất hạn chế sử dụng nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn… CHƯƠNG III GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM I.ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRONG NHỮNG NĂM TỚI. 1. Định hướng phát triển và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra quan điểm mở cửa nền kinh tế và từ đại hội VII đến nay quan điểm phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu, mở cửa thu hút đầu tư đã ngày càng được chú trọng đồng thời đã thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu và tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh chứng tỏ chính sách phát triển kinh tế mở cửa của đảng và nhà nước ta đúng đắn và phù hợp. Về xuất nhập khẩu: Duy trì thế mạnh trong thanh toán xuất nhập khẩu, phấn đầu giữ vững thị phần thanh toán quốc tế trong điều kiện ngày càng có nhiều Ngân hàng Thương mại tham gia vào lĩnh vực này. Kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong thẩm quyền giải quyết của Ngân hàng thương mại để giữ vững khách hàng truyền thống, thu hút thêm khách hàng mới nhằm nâng cao doanh số thanh toán xuất nhập khẩu. Thường xuyên tổ chức nghiên cứu các tập quán về thanh toán quốc tế, nâng cao trình độ nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm và rút ra các bài học để nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn trong thanh toán quốc tế. Thu hút và sử dụng nguồn vốn: Tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn song song với việc điều chỉnh nguồn vốn theo hướng nâng cao tỉ trọng nguồn vốn VND, nguồn vốn từ dân cư; duy trì và mở rộng nguồn vốn Tổ chức Kinh tế; tranh thủ nguồn vốn đầu tư, vốn nhàn rỗi của các Công ty Bảo hiểm. Đặc biệt lưu ý các giải pháp huy động các nguồn vốn trung, dài hạn, coi đây là khâu then chốt có tính quyết định tiếp tục duy trì và đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng trung- dài hạn phục vụ nhu cầu ngày một tăng của nền kinh tế trong những năm tới,đặc biệt đối với các nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng. Tiếp tục đẩy mạnh tín dụng một cách vững chắc,có chất lượng trên cơ sở tiếp tục các chương trình đầu tư, chú trọng đầu tư cho các ngành, lĩnh vực có khả năng cạnh tranh, có thị trường tiêu thụ. Tiếp tục phát huy thế mạnh của NHNT trong việc thu xếp vốn cho các dự án lớn có tính khả thi theo đúng hướng. Về cơ cấu tổ chức và điều hành: Triển khai thí điểm việc thành lập bộ phận quản lý khách hàng ở một số Chi nhánh với chức năng phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng, cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng. Trên cơ sở đó tổng kết kinh nghiệm để triển khai đồng bộ trong toàn hệ thống Bước đầu triển khai mô hình tổ chức quản lý theo hệ thống dọc đối với một số mảng nghiệp vụ như tài trợ dự án, quản lý khách hàng… Hoàn thiện thêm một bước mô hình quản lý rủi ro theo chuẩn mực quốc tế, trong đó đặc biệt quan tâm đến quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng. Về công nghệ và dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ -Mở rộng và phát triển thêm tiện ích cho thẻ VCB connect 24 trên cơ sở phát triển thêm tính năng giao dịch thanh toán, giao dịch đầu tư nhằm đưa thẻ VCB connect 24 trở thành công cụ giao dịch ngân hàng từ xa. -Phát triển dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng kể cả dịch vụ ATM sang thị trường Lào -Phát triển thêm dịch vụ trên hệ thống E-Banking cho phép các khách hàng là Doanh nghiệp, thể nhân trực tiếp giao dịch thanh toán qua mạng điện tử. Mở rộng mạng lưới chi nhánh: Điều chỉnh lại bộ máy ở trung ương và các chi nhánh. Tăng cường bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo có đủ năng lực và phẩm chất trong toàn bộ hệ thống. 2. Định hướng hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Tiếp tục thực hiện định hướng phát triển 10 năm của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam theo phương châm an toàn, hiệu quả, phát triển. Khai thác mọi nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn từ nước ngoài đặc biệt quan tâm các nguồn ưu đãi của các tổ chức quốc tế, góp phần mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao uy tín của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Tập trung ngoại tệ cho vay các chương trình dự án lớn. Thực hiện cho vay khép kín, gắn chặt tín dụng – thanh toán nội ngoại tệ. Duy trì thế mạnh trong thanh toán xuất nhập khẩu, phấn đấu giữ vững thị phần thanh toán quốc tế trong điều kiện ngày càng có nhiều Ngân hàng Thương mại tham gia lĩnh vực này. Kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong thẩm quyền giải quyết của Ngân hàng Thương mại để giữ vững những khách hàng truyền thống, thu hút thêm khách hàng mới để nâng cao doanh số thanh toán xuất nhập khẩu.Thường xuyên tổ chức nghiên cứu các tập quán về thanh toán quốc tế, nâng cao trình độ nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm và rút ra các bài học để nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn trong thanh toán quốc tế. Quản lý chặt chẽ tín dụng, bảo lãnh L/C trả chậm chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, bảo đảm không để xảy ra vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc về quản lý ngoại hối và chế độ tín dụng. II.GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam trong những năm qua đã thu được nhiều kết quả tốt, đáng chú ý là doanh số mua bán ngoại tệ không ngừng gia tăng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế,tồn tại cản trở hiệu quả hoạt động kinh doanh cần được khắc phục. Dưới đây em xin có một vài đề xuất đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. 1.Đầu tư – hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng. Để có thể hội nhập, theo kịp các nước trong khu vực và thế giới, hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt nam cần đảm đương tốt vai trò mở đường và thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Muốn vậy, nhu cầu cấp thiết trước mắt là phải đầu tư, nâng cấp công nghệ Ngân hàng. Chi phí là rất cao, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ. Ngân hàng Ngoại thương cần kêu gọi sự đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế cùng với sự nỗ lực của bản thân để nâng cấp công nghệ hoạt động ngân hàng, tránh tụt hậu với các nước khu vực và thế giới. Tạo lập thông tin thông suốt giữa Ngân hàng với các Ngân hàng khác và với bạn hàng, sử dụng Website riêng của Ngân hàng Ngoại thương, kịp thời quảng bá rộng rãi các loại hình dịch vụ, xây dựng hệ thống ngân hàng điện tử/ngân hàng Internet kết nối qua mạng phục vụ cho tất cả các đối tượng khách hàng. 2.Thực hiện chính sách chiến lược khách hàng Hiện nay, khi trên thị trường, mức độ cạnh tranh của các Ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt thì các Ngân hàng phải tìm mọi cách để ngân hàng mình đứng vững, có ưu thế hơn các Ngân hàng khác. Và một trong những biện pháp đó là chính sách khách hàng phải phù hợp, hấp dẫn - Cần đẩy mạnh hoạt động tiếp cận và hiểu biết thêm nhu cầu khách hàng như tổ chức các buổi hội nghị khách hàng, các diễn đàn trao đổi cởi mở thẳng thắn giúp Ngân hàng và khách hàng xích lại gần nhau hơn để Ngân hàng có thể hiểu và đáp ứng tôt hơn các đòi hỏi của khách hàng. - Ngoài các hoạt động giới thiệu cho khách hàng về Ngân hàng mình thì công tác giao tiếp với khách hàng là vô cùng quan trọng bởi chính nhân viên Ngân hàng là người tạo ra hình ảnh của Ngân hàng mình trước khách hàng. Những ấn tượng ban đầu là rất quan trọng. Một phong cách đẹp, lịch sự nhã nhặn và nhiệt tình với khách hàng của nhân viên giao dịch sẽ ảnh hưởng rất lớn tới quyết định chọn lựa Ngân hàng của khách hàng. Bên cạnh thái độ cởi mở, nhiệt tình, người cán bộ Ngân hàng còn cần quan tâm đến việc xử lý nghiệp vụ nhanh chóng, chính xác. Đặc biệt đối với khách hàng lớn là doanh nghiệp thì họ quan tâm nhiều đến chất lượng dịch vụ, tính chính xác, nhạy cảm và phong cách giao dịch. - Ưu đãi hơn nữa đối với khách hàng lâu năm, có uy tín, hạn chế bớt đối với họ các thủ tục giao dịch không cần thiết, đáp ứng một cách đầy đủ và kịp thời nhất cho đối tượng khách hàng này. - Các chính sách với khách hàng phải luôn là mối quan tâm lớn của Ngân hàng. Ngày nay, ngân hàng không chỉ chú trọng duy nhất vào các khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp mà cần phải nhanh chóng mạnh mẽ lựa chọn khách hàng là cá nhân. Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ thì việc thu hút khách hàng là cá nhân bước đầu còn khó khăn, nhưng nguồn thu ngoại tệ từ tầng lớp này có tiềm năng không phải là nhỏ.Các cá nhân thường chỉ giao dịch mua bán ngoại tệ với các cửa hàng tư nhân bởi giá cả hấp dẫn hơn. Do đó, chính sách giá cả không chỉ cần thiết đối với các doanh nghiệp mà cũng cần thiết với các cá nhân này. Một bộ phận dân cư đã có mức thu nhập khá, thâm chí có những người rất cao và ổn định. Ngoài việc cho phép mở các tài khoản ngoại tệ cá nhân như hiện nay thì việc thu hút nguồn ngoại tệ trôi nổi khác vào ngân hàng mà trước mắt là nguồn kiều hối, nguồn ngoại tệ xuất khẩu địa phương qua biên giới rất cần được chú trọng. Giá cả hấp dẫn, dịch vụ nhanh chóng và tiện lợi là những gì mà Ngân hàng cần làm để mở rộng thị trường của mình. - Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và hoạt động vay và cho vay ngoại tệ có quan hệ khăng khít. Vậy nên chăng có sự ưu đãi cho khách hàng xuất khẩu trong việc vay ngoại tệ chuẩn bị cho quá trình xuất khẩu, đến lúc thu được tiền các khách hàng này sẵn sàng bán ngoại tệ cho ngân hàng, từng bước giải quyết khó khăn về nguồn ngoại tệ. - Các khách hàng bán ngoại tệ thường xuyên cho ngân hàng cũng cần được tạo diều kiện trong việc được vay ngoại tệ để khuyến khích họ chủ động bán ngoại tệ cho ngân hàng khi họ thu được tiền xuất khẩu. - Trước sức ép cạnh tranh lôi kéo khách hàng của các Tổ chức Tín dụng, đặc biệt là nếu các Ngân hàng Nước ngoài được nâng hạn mức vốn tiền đồng, việc tiếp tục chính sách khách hàng nhằm giữ các khách hàng là các Tổng Công ty lớnđặc biệt quan trọng. Đây cũng là nguồn vốn tương đối rẻ tạo cơ sở cho Ngân hàng Ngoại thương Việt nam có khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn từ dân cư( nhằm tăng tính ổn định cho nguồn vốn) và cạnh tranh để mở rộng hoạt động tín dụng. Tiếp tục và đẩy mạnh quan hệ với các khách hàng truyền thống, mở rộng đối tượng khách hàng là các Công ty Bảo hiểm như: Công ty bảo hiểm Mannulife và AIA… để tăng nguồn tiền gửi trung dài hạn tai Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. 3.Mở rộng các hình thức kinh doanh ngoại tệ: Với xu hướng đa dạng hóa trong quan hệ kinh doanh của các doanh nghiệp thì việc đa dạng hóa các hình thức kinh doanh ngoại tệ là một yêu cầu nội tại để phát triển. Theo logic vấn đề thì việc đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ngân hàng là hệ quả tất yếu của quyền tự do kinh doanh. Một trong những vấn đề cơ bản của việc đa dạng hóa các hoạt động ngân hàng chính là đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ sẽ giúp ngân hàng mở rộng quy mô kinh doanh, tạo sự tăng trưởng cả về lượng và chất trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Đối với các nghiệp vụ hối đoái giao ngay, ngân hàng cần tiếp tục mở rộng quy mô của loại hình nghiệp vụ này với các biện pháp sau: - Mở rộng quan hệ với các NHTM khác, các ngân hàng liên doanh và ngân hàng trong các giao dịch thương mại. - Thu hút số lượng khách hàng giao dịch ngoại tệ với ngân hàng nhiều hơn nữa. - Luôn vì lợi ích khách hàng, Ngân hàng thanh toán đúng hạn, đáp ứng mọi nhu cầu ngoại tệ chính đáng của khách hàng, tạo cho khách hàng sự an tâm, tin tưởng khi giao dịch với ngân hàng. Đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn và nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ thì trước hết phải làm cho khách hàng hiểu rõ về các nghiệp vụ này và lợi ích của chúng. Hiện nay nói chung những hiểu biết về những giao dịch hối đoái nhằm phòng tránh rủi ro trên ở các doanh nghiệp Việt Nam chua cao. Vì thế nhu cầu sử dụng các giao dịch này chưa cao.Ngân hàng Ngoại thương Việt nam có vai trò quan trọng trong hướng dẫn, giới thiệu về nghiệp vụ cho khách hàng để họ có thể sử dụng hiệu quả trong kinh doanh. Mở rộng quan hệ với các Ngân hàng thương mại khác là điều kiện tất yếu trong quá trình hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là đối với các hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Để các giao dịch kỳ hạn cũng như là giao dịch hoán đổi ngoại tệ phát triển đòi hỏi ngân hàng phải có quan hệ thường xuyên, liên tục đối với ngân hàng thương mại khác. Từ đó ngân hàng có thể thực hiện được các giao dịch đối ứng tránh được tình trạng thực hiện các giao dịch đơn lẻ, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến độ an toàn trong kinh doanh ngoại tệ đặc biệt là khi thực hiện các giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi đối với khách hàng. Giữ vững và mở rộng được các mối quan hệ thường xuyên, liên tục với các ngân hàng khác. Nó không chỉ giúp ngân hàng thực hiện tốt nghiệp vụ liên hàng, tránh rủi ro trong kinh doanh mà còn giúp cho ngân hàng thực hiện tốt được các nghiệp vụ khách hàng từ đó góp phần đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. 4.Phát triển mạng lưới : Trước xu thế cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, mạng lưới chi nhánh đóng một vai tro quan trọng trong việc phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh ngoại tệ nói riêng. Số lượng các chi nhánh mới thành lập của Ngân hàng Ngoại thương đã tương đương với số chi nhánh phát triển trong 40 năm xây dựng và trưởng thành, tăng từ 23 chi nhánh năm 1999 lên 40 chi nhánh vào năm 2002.Việc tổ chức một mạng lưới chi nhành phù hợp, rộng khắp có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chung của Ngân hàng trong đó có hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Mạng lưới này sẽ đem lại sức mạnh cạnh tranh lớn cho Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. 5.Đẩy mạnh quan hệ đối ngoại: Có thể nói Ngân hàng Ngoại thương là Ngân hàng có quan hệ quốc tế rộng nhất trong số các ngân hàng Thương mại tại Việt nam hiện nay. Đó là do kết quả của 40 năm hoạt động đối ngoại của VCB. Thực tế, quan hệ giữa Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng nước ngoài ngày càng được tăng cường và phát triển. Tuy nhiên, để hoàn thành mục tiêu hướng ra bên ngoài, trở thành một Ngân hàng quốc tế ở khu vực thì Ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động quan hệ đối ngoại. 6.Quản lý rủi ro hối đoái: Rủi ro hối đoái là một yếu tố phát sinh ngay trong nội tại hoạt động tiền tệ quốc tế. Quản lý tốt rủi ro hối đoái sẽ đem lại hiệu quả rõ rệt cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Ngân hàng Ngoại thương cần có biện pháp cụ thể tích cực hơn nữa để hạn chế rủi ro tỷ giá như đặt ra các hạn chế giao dịch, bám sát thông tin thị trường, theo dõi sát sao diễn biến của thị trường tiền tệ thế giới, đặc biệt là các hoạt động ngoại tệ mạnh mà VCB thường có nhu cầu. Tìm hiểu kỹ khách hàng, bạn hàng… Đồng thời, đối với cán bộ tác nghiệp và kỹ thuật thì Ngân hàng Ngoại thương phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng hiệu quả, và thường xuyên được trau dồi thêm kiến thức. 7.Về đào tạo và đào tạo lại cán bộ: Đồng bộ với quá trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, mở rộng mạng lưới là việc đào tạo nhanh chóng và liên tục đội ngũ cán bộ có năng lực. Trước thực tế là các hình thức đào tạo coi trọng bằng cấp,thiếu kiến thức thực tiễn, thiếu khả năng sáng tạo, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam cần có chế độ tuyển dụng và đào tạo chặt chẽ. Một đội ngũ cán bộ được tuyển lựa kỹ càng là cơ sở để tăng hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Bởi vậy việc tuyển dụng cần phải được mở rộng, thông báo rộng rãi để Ngân hàng có nhiều cơ hội lựa chọn người tài. Đối với cán bộ đã làm việc tại Ngân hàng cần có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng kịp thời cho phù hợp với sự đổi mới dựa trên các hình thức sau: -Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, cập nhật thông tin. -Kiểm tra năng lực để nâng cao trình độ. -Tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm với nước ngoài. -Mời các chuyên gia tới hướng dẫn tại Ngân hàng, các cán bộ các chi nhánh cũng cần tập huấn thường xuyên tại sở đầu mối. Vấn đề đào tạo chuyên môn phải gắn liền với đào tạo phẩm chất, đạo đức, tránh những sự tha hóa biến chất và thái độ vô trách nhiệm của cán bộ. Con người là yếu tố quyết định cho mọi sự thành bại trong kinh doanh. Bởi vậy con người là trung tâm của sự phát triển và sự nghiệp đào tạo con người sẽ không bao giờ kết thúc. III.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC 1.Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước: Đổi mới và hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối - Ngân hàng nhà nước cần xây dựng quy chế thông tin, thống kê hệ thống hóa kịp thời số liệu luồng ngoại tệ ra vào trong nước, từ đó dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường,làm căn cứ điều hành chính sách tỷ giá về quản lý ngoại hối. - Cần có biện pháp hành chính xử lý những đơn vị còn chần chừ trong việc bán số ngoại tệ thu về cho Ngân hàng. - Tăng cường công tác kiểm tra thị trường kể cả các ủy nhiệm thu đổi ngoại tệ, có biện pháp cương quyết hơn đối với những nguồn ngoại tệ buôn bán bất hợp pháp như tại các cửa hàng tư nhân không được phép mua bán ngoại tệ, giúp các đơn vị yên tâm chấp hành nghiêm túc chế độ quản lý ngoại hối. - Có nhu cầu mua ngoại tệ cần phải đáp ứng đầy đủ. - Khơi tăng nguồn thu kiểu hối thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi ngoại tệ lấy Việt Nam đồng, khuyến khích các Ngân hàng mở rộng mạng lưới thu đổi ngoại tệ tại các sân bay, bến cảng, cửa khẩu, khu du lịch, khách sạn… - Quản lý chặt các khoản nợ vay nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm soát tốt việc bảo lãnh vay trả chậm của các Ngân hàng Thương mại cho các doanh nghiệp vay từ nước ngoài. - Tổ chức tốt công tác tuyên truyền giáo dục thông qua nhiều hình thức như hội thảo, tuyên truyền qua đài, báo, đưa vào chương trình trong các trường đại học để mọi người có ý thức và trách nhiệm thực hiện tốt các biện pháp quản lý ngoại hối. - Riêng về quy chế giao dịch đối hoái kỳ hạn, hoán đổi, việc áp đặt tỷ giá theo một biên độ quy định không phu hợp và không sát thực với thị trường, vì vậy để giải quyết tình trạng này thì Ngân hàng Nhà nước có thể đưa ra công thức tính cụ thể dựa vào tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền và bắt buộc các tổ chức tín dụng phải áp dụng. Về chính sách tỷ giá hối đoái - Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, một cơ sở căn bản để phát triển thị trường hối đoái hoàn thiện ở Việt Nam. Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng phải hoạt động thông suốt liên tục, tăng số thành viên tham gia thị trường lớn, tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh và sự sôi động của thị trường. - Củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên Ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó. Hai thị trường nội tệ và ngoại tệ phải thông suốt nhịp nhàng. - Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao dự trữ ngoại tệ tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu,từ đó Ngân hàng Nhà nước đảm bảo được vai trò là người mua, bán cuối cùng trên Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, đủ sức can thiệp vào thị trường khi tỷ giá biến động ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế. Cơ cấu ngoại tệ cũng phải được tính toán hợp lý, giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng USD. - Đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ sẽ giúp Ngân hàng mở rộng quy mô kinh doanh, tao sự tăng trưởng cả về lượng và chất trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đồng thời góp phần vào sự phát triển tổng thể các hoạt động của Ngân hàng. 2.Kiến nghị về phía Nhà nước Qua phân tích thực tế ở trên cho thấy rằng, cùng với sự chuyển hướng sang cơ chế thị trường của nền kinh tế, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Kết quả đó đạt được là do sự tổng hợp của nhiều nhân tố, nhiều giải pháp đã được thực hiện trong thời gian qua. Song bên cạnh đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng không phải không còn những vướng mắc tồn tại cần nhanh chóng khắc phục. Là một Ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam trực tiệp chịu sự quản lý vĩ mô từ phía nhà nước. Tuy đã có nhiều đổi mới nhưng cho tới nay sự quản lý này vẫn còn chưa đựng nhiều yếu tố bất lợi với quá trình kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng. Do vậy thiết nghĩ Nhà nước và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cần quan tâm xem xét một số vấn đề sau: Chính sách ngoại hối. Nhà nước cần xây dựng quy chế thông tin thống kê, hệ thống hóa kịp thời số liệu nguồn ngoại tệ ra vào trong nước từ đó có dự báo về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, làm căn cứ tỷ giá và quản lý ngoại hối thích hợp. Các quy định về quản lý ngoại hối hiện hành phải được thực thi nghiêm chỉnh, cơ chế phải xử phạt nghiêm minh mọi nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế đều phải được thực hiện qua hệ thống Ngân hàng. Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện để các Ngân hàng Thương mại thu hút nguồn ngoại tệ trôi nổi tự do, nghiêm cấm hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do song hành với thị trường chính thức, gây ra những bất ổn mà Nhà nước không kiểm soát được. Chính sách xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất nhập khẩu trong những năm qua tăng trưởng mạnh. Nhà nước cần thực hiện nhất quán chính sách xuất khẩu, bao gồm cả việc bảo hiểm về giá cho hàng xuất khẩu, điều tiết tỷ giá hối đoái hợp lý có lợi cho xuất khẩu. Về một số văn bản liên quan tới điều kiện ngoại tệ của các NHTM Về quyết định số 430/QĐ/Ngân hàng Ngoại thương Việt nam 13 ngày 24/12/1997 của Thống đốc NHNN về việc thực hiện giao dịch SWAP giữa NHNN và các NHTM là thành viên TTNTLNH. Trong quyết định này, NHNN quy định thực hiện giao dịch SWAP USD/VND (và các loại ngoại tệ khác khi điều kiện cho phép), trong đó các NHTM bán ngoại tệ giao ngay cho NHNN và mua ngoại tệ từ NHNN vào kỳ hạn của SWAP. Như vậy NHNN đã không quy định cụ thể giao SWAP ngược chiều trong số các NHTM mua ngoại tệ giao ngay từ NHNN và bán kỳ hạn ngoại tệ cho NHNN vào kỳ hạn của SWAP. Mà hình thức này rất cần thiết khi thời điểm thanh toán L/C của các NHTM dồn dập, ngoại tệ trên thị trường lại khá khan hiếm vì chưa đến thời điểm có nguồn thu xuất khẩu. Do đó, NHNN nên quy định cụ thể các hình thức SWAP kể trên. Về kỳ hạn của các hợp đồng giao dịch SWAP. Trong giao dịch SWAP ngoại tệ có hình thức giao dịch trong đó hai bên ngoài việc trao đổi tiền vốn gốc vào thời điểm ký kết hợp đồng và thời điểm kết thúc hợp đồng, hai bên còn trao đổi với nhau lãi xuất của đồng tiền mình vay vào các thời hạn khi SWAP còn hiệu lực. Với các loại lãi suất thay đổi hay cố định được trao đổi theo SWAP, NHTM có thể sử dụng hình này để phòng tránh, giảm rủi ro về lãi suất có hiệu quả. Vậy NHNN nên quy định thêm hình thức này vào “quy chế giao dịch hối đoái”, đồng thời không nên quy định thời hạn cụ thể tối đa của SWAP, vì với SWAP có lãi suất cố định thì thời hạn cần tương đối dài. Về hình thức cho vay bằng ngoại tệ tài trợ xuất khẩu: Hiện nay NHNN không cho phép vay tài trợ xuất khẩu bằng ngoại tệ. Tuy nhiên hình thức cho vay này rất có lợi dựa vào các lý do sau: + Xét về khả năng thu hồi nợ khá đảm bảo, vì bằng nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu( trong khi đó, cho vay, ( bảo lãnh ) để thanh toán L/C hàng nhập thì rất khó tạo nguồn ngoại tệ để trả nợ lại được vay bằng USD ). + Hình thức cho vay này tạo cho khách hàng xuất khẩu có trạng thái ngoại tệ đóng, tránh được rủi ro hối đoái. Bởi vì ngoài USD, khách hàng còn vay nhiều loại ngoại tệ khác như : JPI, DEM,… + Nhà xuất khẩu không chỉ sử dụng nhân công và nguyên liệu trong nước mà có khi còn phải nhập một số vật tư, thiết bị từ bên ngoài. +Với lãi suất vay USD thấp hơn một chút so với nay VND sẽ khuyến khích nhà xuất khẩu trong sản xuất kinh doanh từ đó sự thúc đẩy của cả nền kinh tế. Như vậy NHNN nên cho phép vay bằng ngoại tệ tài trợ cho xuất khẩu. Hơn nữa cho vay ngoại tệ, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ có liên quan mật thiết, thúc đẩy cùng nhau phát triển. Vậy NHNN sẽ tạo điều kiện cho tất cả hoạt động trên phát triển. Về quy định tỷ giá kỳ hạn. NHNN hiện đang quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn bằng cách khống chế mức tối đa được phép dưa trên tỷ giá giao ngay tối đa được phép cộng với một tỷ lệ % cố định nào đó tùy theo từng kỳ hạn. Với quy định này, NHNN có thể kiểm soát chiều tăng của tỷ giá hối đoái, tức là kiểm soát chiều mất của đồng Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ giá kỳ hạn thực chất được tính toán dựa trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền và tỷ giá giữa chúng tại thời điểm ký kết hợp đồng. Nếu một hai bên không tham gia nguyên tắc sẽ phải chịu thiệt hại, điều mà không bên nào mong muốn. Vì vậy để tiến tới hoàn thiện thị trường hối đoái ở Việt Nam, NHNN nên quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn một cách tổng quát dựa trên chênh lệch lãi suất, thay vì cách tính có tính hành chính hiện hành. Ngoài ra NHNN cần nghiên cứu, đưa ra những quy định cụ thể hơn về chế độ hạch toán kế toán những nghiệp vụ hối đoái mới. Một số nghiệp vụ khác như giao dịch tương lai, giao dịch quyền chọn cũng cần được phát triển để ngày càng hoàn thiện thị trường hối đoái ở Việt Nam. KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp, nhiều tập quán cũ cản trở đến cuộc cải cách kinh tế nước nhà, bởi vậy các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng nói riêng cần có một giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn. Ngoài việc thực hiện vai trò của mình đối với nền kinh tế như : đầu tư vốn vào các ngành mũi nhọn, các thành phần kinh tế được xác định trong chiến lược…Ngân hàng còn tìm kiếm đối tác của mình. Song trong những năm qua, do tình hình đất nước và nội tại các Ngân hàng, việc đi sâu đi sát tìm hiểu tình hình hoạt động của các đơn vị, các tổ chức kinh tế…còn rất nhiều trở ngại. Nắm giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế, ngân hàng hơn bất cứ một doanh nghiệp nào luôn phải nghiên cứu và đi trước thời đại. Điều này không những tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đất nước mà còn là nhân tố quyết định đến sự lớn mạnh của Ngân hàng. Giờ đây khi thị trường với nhiều nhân tố còn chưa ổn định, việc nghiên cứu còn nhiều khó khăn và phức tạp, nhưng điều đó không có nghĩa rằng chúng ta không thể không tiếp cận và làm chủ trong thời gian tới. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế, các hoạt động thương mại quốc tế không ngừng mở rộng nhiệm vụ đặt ra với Ngân hàng ngày càng cấp bách. Việc đổi mới trong hệ thống cả về các văn bản ban hành, phát triển nghiệp vụ, hiện đại hóa cơ sở vật chất cũng như đào tạo đội ngũ nhân viên là các vấn đề phải được từng bước giải quyết kịp thời. Ngoài ra về phía Ngân hàng Nhà nước và chính phủ, các biện pháp về quản lý ngoại hối sát thực với tình hình cũng được tiến hành đồng bộ để tạo mội trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Thương mại. Kinh tế Việt Nam đang phát triển theo hướng mở cửa, thị trường ngoại hối hoạt động không biên giới. Bởi vậy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ luôn phải được hoàn thiện để giúp nền kinh tế hòa nhập vào xu thế phát triển chung của thế giới. Hà Nội Tháng 12 năm 2003 TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo Thường niên (Annual Report) của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam năm 2001,2002. Các văn bản và quy định của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam về nghiệp vụ tín dụng thanh toán xuất nhập khẩu. Tài liệu Hội nghị Giám đốc năm 2000, 2001, 2002. Thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ – nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Tiền tệ – Ngân hàng – Nhà xuất bản Thống kê Một số văn bản về quản lý ngoại hối của NHNN, các quy định về xác định tỷ giá hối đoái của VND với ngoại tệ. Tạp chí Ngân hàng năm 2002 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26991.doc
Tài liệu liên quan