Đề tài Hế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện

An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các TCTD. Do hoạt động của các TCTD là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của rủi ro mang tính phản ứng dây chuyền; vì vậy ở các quốc gia hoạt động tín dụng được đặt trong một hành lang pháp lý chặt chẽ với những điều khoản đặc biệt, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động của các TCTD được điều chỉnh bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày 15/06/2004. Tại điều 20 khoản 1, khoản 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày 15/06/2004 quy định: “TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng” “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.” Theo những quy định này, cho thấy TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Vậy nội dung hoạt động chủ yếu của TCTD là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Qua nội dung hoạt động chủ yếu này, cho thấy các TCTD

doc71 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động giám sát của BHTG Việt Nam chủ yếu chỉ thông qua báo cáo định kỳ của tổ chức tham gia BHTG. BHTG Việt Nam chưa được trao đủ thẩm quyền trong việc ngăn chặn, xử lý vi phạm phát sinh của tổ chức tham gia BHTG mà mới chỉ dừng lại ở mức “kiến nghị” với cơ quan chức năng. Mặt khác, cơ chế phối hợp giữa BHTG với Ngân hàng Nhà nước còn chưa rõ ràng, sự hỗ trợ của BHTG Việt Nam đối với tổ chức tham gia BHTG bằng các hình thức như cho vay, bảo lãnh, mua lại các khoản nợ của khách hàng tại tổ chức tham gia BHTG còn chưa quy định cụ thể, đặt ra vấn đề về sự cần thiết phải làm rõ vai trò của BHTG với Ngân hàng Nhà nước khi cùng là người cho vay với TCTD trong trường hợp tổ chức đó mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và việc giải thể, phá sản các tổ chức này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng và sự ổn định chính trị, kinh tế – xã hội Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về BHTG ở Việt Nam” – Th.S Phạm Nguyệt Thảo , trang 55 (Tạp chí Luật học số 12/2007 – ngân hàng nhà nước Việt Nam.) . Những quy định pháp luật hiện hành cần phải xem xét làm rõ vai trò của BHTG trong hoạt động giám sát và xử lý tổ chức nhận tiền gửi bị phá sản cụ thể và đầy đủ hơn, từ đó tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của BHTG tránh những mâu thuẫn, chồng chéo với cơ quan tổ chức khác trong quá trình thực thi quyền hạn. 2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật BHTG ở Việt Nam: Có mặt trên thị trường Tài chính không lâu, tổ chức BHTG ở nước ta được biết đến với tư cách là một tổ chức tài chính thay mặt Chính phủ bảo vệ người gửi tiền và duy trì sự an toàn của các TCTD. Tầm vóc của BHTG cũng lớn lên nhiều, quy mô hoạt động ngày càng được mở rộng với các bước đi và tầm nhìn dài hạn. DIV cũng luôn chủ động nghiên cứu triển khai các nghiệp vụ mới trên cơ sở đón đầu các xu hướng tiên tiến và thông lệ quốc tế phù hợp với Việt Nam để có thể đảm nhiệm tốt nhất sứ mệnh của một tổ chức tài chính vì sự ổn định kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập. Hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam đã đi vào cuộc sống với nhiều thành tích đáng kể, song vẫn còn tồn tại những khó khăn hạn chế, cụ thể trên những phương diện sau: Thứ nhất : Trên phương diện về tổ chức mạng lưới và cơ sở pháp lý cho hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam: BHTG Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, là định chế tài chính quan trọng và duy nhất trong lĩnh vực BHTG được Chính phủ thành lập, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, an toàn cho hoạt động ngân hàng. Tuy mới đi vào hoạt động không lâu, DIV đã hình thành một mạng lưới các chi nhánh, hoạt động trên phạm vi cả nước, với bộ máy tổ chức ngày càng hoàn thiện, gồm trụ sở chính tại Hà Nội và 6 chi nhánh tại các khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước: Chi nhánh khu vực Hà Nội – trụ sở tại Thành phố Hà Nội (tháng 05/2002), Chi nhánh khu vực Thành phố Hồ Chí Minh – trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 12/2000), Chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ – trụ sở tại Thành phố Hải Phòng (tháng 12/2001), Chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ – trụ sở tại Thành phố Vinh –Nghệ An (tháng 09/2002), Chi nhánh đồng bằng sông Cửu Long – trụ sở tại Thành phố Cần Thơ (tháng 06/2001), Chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên – trụ sở tại Thành phố Nha Trang (tháng 09/2001) Báo cáo thường niên của DIV năm 2005 đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Trên cơ sở chiến lược phát triển của mình, BHTG Việt Nam đang triển khai thực hiện kế hoạch tái cấu trúc bộ máy theo định hướng lấy khách hàng làm tâm điểm, quản lý tập trung từ trụ sở chính đến các chi nhánh, tập trung nguồn nhân lực cho các hoạt động nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của BHTG Việt Nam. Năm 2007, BHTG Việt Nam đã hoàn thành tái cấu trúc bộ máy chi nhánh khu vực. Từ tháng 02 năm 2003, DIV trở thành thành viên của Hiệp hội BHTG quốc tế; DIV đã giữ vị trí phó chủ tịch khu vực Châu Á nhiệm kỳ 2006-2007; DIV cũng là thành viên Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam Báo cáo thường niên của DIV năm 2005 đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Các chi nhánh của BHTG Việt Nam được đặt ở các địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nước, nơi có hoạt động tài chính – ngân hàng diễn ra sôi động. Với việc mở rộng chi nhánh trên cả nước, BHTG Việt Nam đã thực sự dễ dàng hơn trong việc kiểm tra giám sát hệ thống ngân hàng trên phạm vi cả nước, từ đó thực hiện có hiệu quả hơn hoạt động của mình, góp phần đảm bảo sự an toàn cho cả hệ thống tín dụng. Cơ sở pháp lý cho tổ chức hoạt động BHTG Việt Nam đã bước đầu được hoàn thiện, tuy nhiên văn bản quy phạm pháp luật về BHTG cao nhất đang ở mức nghị định của Chính phủ, chưa có Luật về BHTG tương xứng với các luật điều chỉnh hoạt động tài chính-tiền tệ ở nước ta như: Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các TCTD... Điều này dẫn đến hạn chế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của BHTG Việt Nam. Chính vì vậy, BHTG Việt Nam đã chủ động thành lập ban nghiên cứu xây dựng Luật BHTG có sự tham gia của các Bộ, Ngành liên quan nghiên cứu xây dựng dự thảo theo các chuẩn mực quốc tế và vận dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm hoạt động kể từ ngày thành lập, kết hợp với kinh nghiệm quốc tế, với mong muốn xây dựng BHTG Việt Nam ngày càng lớn mạnh, phát triển ổn định, bền vững, hiệu quả và hội nhập; BHTG Việt Nam đã tiến hành xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2006-2015, dựa trên 5 trụ cột và những giải pháp, lộ trình cụ thể cho việc triển khai chiến lược phát triển dài hạn Bài viết “BHTG Việt Nam 7 năm xây dựng và hội nhập” - Đỗ Khắc Hải, trang 51 (Tạp chí Ngân hàng số 3+4 tháng 02/2007-ngân hàng nhà nước Việt Nam.) . Thứ hai: Trên phương diện cấp và thu hồi giấy chứng nhận BHTG cho các tổ chức tham gia BHTG Việt Nam: Thực hiện cấp giấy chứng nhận BHTG để các tổ chức tham gia BHTG công khai niêm yết tại trụ sở và các điểm gia dịch có nhận tiền gửi của khách hàng, giúp khách hàng nhận biết được sự đảm bảo quyền lợi của mình và yên tâm gửi tiền tại các TCTD; khẳng định vai trò của BHTG Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính – ngân hàng của quốc gia. Sau một thời gian ngắn, BHTG Việt Nam đã hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận BHTG cho các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đủ điều kiện theo quy định của Luật các TCTD. Đến cuối năm 2006, đã cấp cho 1114 tổ chức nhận tiền gửi. Tuy nhiên, do trong quá trình hoạt động, một số tổ chức tham gia BHTG mất khả năng thanh toán và bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt động, BHTG Việt Nam đã chấm dứt bảo hiểm và tu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm của 120 tổ chức nhận tiền gửi. Cùng với việc cấp giấy chứng nhận cho các tổ chức tham gia BHTG; tháng 11/2006, BHTG Việt Nam đã hoàn thành việc cấp đổi giấy chứng nhận BHTG, phù hợp với quy định tại Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ và chiến lược phát triển của BHTG Việt Nam trong thời gian tới Bài viết “BHTG Việt Nam 7 năm xây dựng và hội nhập” - Đỗ Khắc Hải, trang 51 ( Tạp chí Ngân hàng số 3+4 tháng 02/2007-ngân hàng nhà nước Việt Nam.) . Năm 2007, DIV đã tiếp nhận, thẩm tra hồ sơ và thực hiện cấp mới, cấp đổi, cấp lại, cấp bổ sung 830 chứng nhận BHTG và nội dung BHTG, thu hồi chứng nhận BHTG của một quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 5 đơn vị không có chức năng huy động tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm và 41 chứng nhận của các ngân hàng do đổi tên và thay đổi mô hình hoạt động. Như vậy, tính đến 31/12/2007 DIV đã cấp giấy chứng nhận BHTG cho 1078 tổ chức tham gia BHTG; trong đó bao gồm 76 ngân hàng thương mại, 10 TCTD phi ngân hàng, 992 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và quỹ tín dụng nhân dân TW Báo cáo thống kê của DIV năm 2007, đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Việc cấp giấy chứng nhận BHTG thể hiện sự cam kết của tổ chức BHTG Việt Nam thay mặt Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền; hay có thể nói việc cấp giấy chứng nhận BHTG là thông điệp của Nhà nước đối với người dân về quyền lợi của họ khi gửi tiền vào các ngân hàng. Vì vậy, việc cấp giấy chứng nhận BHTG luôn được DIV quan tâm nhằm tạo lòng tin của người gửi tiền đồng thời nâng cao uy tín của tổ chức BHTG Việt Nam. Thứ ba: Về công tác theo dõi, kiểm tra và giám sát việc chấp hành các quy định của Chính phủ về BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG: Xuất phát từ mục tiêu hoạt động của tổ chức BHTG là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn, lành mạnh hoạt động của tổ chức ngân hàng. Hoạt động giám sát của BHTG Việt Nam hiện nay được thực hiện thông qua hai hình thức là giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Giám sát từ xa là thông qua các báo cáo của tổ chức tham gia BHTG nộp, các nguồn thông tin mà BHTG Việt Nam có được từ Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan giám sát khác để phân tích, đánh giá việc tuân thủ các quy định về BHTG, quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; từ đó đưa ra các kiến nghị yêu cầu tổ chức tham gia BHTG chỉnh sửa cũng như cảnh báo về rủi ro để tổ chức tham gia BHTG phòng ngừa. Kiểm tra tại chỗ là căn cứ vào kết quả của hoạt động giám sát từg xa để tiến hành kiểm tra nhằm xác định mức độ vi phạm, nguyên nhân của các vi phạm để yêu cầu tổ chức tham gia BHTG chỉnh sửa. Từ khi thành lập và đi vào hoạt động đến nay, tính đến ngày 31/12/2007 BHTG Việt Nam đã thực hiện giám sát từ xa 100% tổ chức tham gia BHTG; bao gồm 76 ngân hàng thương mại, 10 TCTD phi ngân hàng, 992 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và quỹ tín dụng nhân dân TW. Cùng với hoạt động giám sát từ xa đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra tại chỗ, trong 8 năm hoạt động, DIV đã thực hiện trên 2000 cuộc kiểm tra tại chỗ đối với các tổ chức tham gia BHTG ; trong đó tập trung chủ yếu vào kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG là quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, các ngân hàng thương mại Nhà nước và các ngân hàng thương mại cổ phần mới chỉ kiểm tra việc chấp hành quy định về BHTG Báo cáo thống kê của DIV năm 2007, đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Qua hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ không chỉ đưa ra những kiến nghị và cảnh báo giúp tổ chức tham gia BHTG chỉnh sửa và phòng ngừa mà còn tư vấn để tổ chức BHTG hoạt động hiệu quả hơn. Những kết quả giám sát, kiểm tra mà BHTG Việt Nam đạt được trong thời gian qua có thể khái quát trên một số mặt sau đây: - Hoạt động giám sát ngày càng được nâng cao về chất lượng bằng việc áp dụng các chỉ tiêu theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế về phân tích rủi ro. Báo cáo giám sát của DIV đã thực sự giúp cho các cơ quan hữu quan trong việc quản lý rủi ro đối với hoạt động của hệ thống tài chính – ngân hàng. - Đã xây dựng được quy trình giám sát từ xa và hệ thống thông tin khách hàng phục vụ cho hoạt động giám sát. Đến nay BHTG Việt Nam đã triển khai việc truyền chỉ tiêu báo cáo điện tử và quy trình thư nhận thông tin báo cáo nội bộ theo quy định về thông tin báo cáo giữa các tổ chức tham gia BHTG và BHTG Việt Nam. Qua đó đã xây dựng hệ thống thông tin khách hàng một cách chủ động, đảm bảo nguyên tắc bảo mật thông tin, thuận lợi cho khách hàng. Ngoài các thông tin, báo cáo nhận từ tổ chức tham gia BHTG, và tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà nước, BHTG Việt Nam còn thu thập thông tin khách hàng từ Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC), các tổ chức định mức tín nhiệm và các nguồn thông tin khác làm cơ sở phân tích đánh giá rủi ro khách hàng để có báo cáo giám sát được đầy đủ và toàn diện. - Phương pháp giám sát đã được cải tiến trên cơ sở nghiên cứu các phương pháp giám sát theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, hiện BHTG Việt Nam đang hướng tới thực hiện giám sát rủi ro là chủ yếu để đưa ra các cảnh báo sớm giúp các tổ chức tham gia BHTG có biện pháp phòng ngừa một cách hiệu quả. - Đối với hoạt động kiểm tra tại chỗ, không thực hiện kiểm tra dàn trải mà tập trung kiểm tra các đơn vị yếu kém theo kết quả của hoạt động giám sát từ xa vừa tiết kiệm chi phí và không bị chồng chéo với hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước. Năm 2007, tổ chức BHTG Việt Nam đã tiến hành kiểm tra hệ thống quỹ tín dụng TW, 236 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 23 ngân hàng thương mại (gồm Ngân hàng thương mại Nhà nước, liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại cổ phần), 01 công ty tài chính trong việc chấp hành quy định của BHTG về an toàn hoạt động. - Đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát kiểm tra đã ngày càng trưởng thành hơn về khả năng phân tích, đánh giá hoạt động ngân hàng, không chỉ đưa ra những kiến nghị, cảnh bảo xác đáng về vi phạm của tổ chức tham gia BHTG mà còn dự báo được xu hướng biến động của tổ chức tham gia BHTG. Qua đó đã góp phần nâng cao vị thế và vai trò của BHTG Việt Nam đối với các Bộ, Ngành và tổ chức tham gia BHTG Bài viết “Bàn về việc xây dựng luật BHTG”-Th.S. Đỗ Quốc Tình (tạp chí ngân hàng số 22/2007 ngày 07/12/2007-ngân hàng nhà nước Việt Nam.) . Tình hình thực hiện công tác giám sát của DIV giai đoạn 2005 – 2007 “Báo cáo thống kê năm 2007 của DIV trên trang web: www.div.gov.vn” Đơn vị tính: tỷ đồng TT Nội dung Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Thực hiện Tăng, giảm so với năm trước (+/- tỷ lệ) Thực hiện Tăng, giảm so với năm 2005 (+/- tỷ lệ) Thực hiện Tăng, giảm so với năm 2006 (+/- tỷ lệ) 1 Số tổ chức tham gia BHTG 987 1,8% 1.023 3,6% 1.078 5,3% - Ngân hàng 66 15% 73 10% 76 4% - Quỹ tín dụng, TCTD phi ngân hàng 921 2% 950 3% 1.002 5% 2 Tổng huy động vốn 674.641 28,8% 922.090 36,6% 1.420.627 54% - Ngân hàng 665.054 28% 907.092 36% 1.385.519 52% - TCTD phi ngân hàng 9.587 40% 14.997 56% 35.108 134% 3 Tổng dư nợ 551.612 19,6% 677.688 22,8% 1.018.268 50,2% - Ngân hàng 536.688 19% 655.928 22% 981.130 49% - TCTD phi ngân hàng 14.923 46% 21.740 46% 37.138 71% Có thể nói hoạt động kiểm tra giám sát của DIV đã có những chuyển biến tích cực và đã đạt được một số kết quả như đã nêu ở trên. Tuy nhiên thời gian qua, hoạt động kiểm tra giám sát vẫn còn những hạn chế sau đây: - Chưa có cơ chế rõ ràng trong việc phối hợp, chia sẻ thông tin “đầu vào - đầu ra” của hoạt động giám sát giữa DIV với các co quan giám sát khác. Do đó, trong thực tế triển khai đôi khi đã dẫn tới sự chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót giữa các cơ quan có cùng chức năng giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. - Mô hình, tiêu chí kiểm tra, giám sát của DIV chưa thống nhất, nhất là các dữ kiện trong thông tin báo cáo còn nhiều hạn chế, tính minh bạch thông tin trong nền kinh tế chưa cao đã làm giảm hiệu quả kiểm tra giám sát tổ chức tham gia BHTG. Việc giám sát từ xa chưa vươn tới các chi nhánh của các tổ chức tham gia BHTG, trong khi rủi ro thì không bỏ qua những khu vực này. Thứ tư: Trong hoạt động hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt: Với mục tiêu góp phần ổn định hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia và hỗ trợ những tổ chức trong trường hợp khó khăn về vốn, thực hiện vai trò của BHTG và phát triển các sản phẩm dịch vụ mới; từ tháng 08 năm 2005, BHTG Việt Nam đã triển khai nghiệp vụ hỗ trợ tài chính trên điạ bàn 3 chi nhánh: BHTG khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc Bộ. Kết quả BHTG Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý trên 32 bộ hồ sơ đề nghị vay vốn. Tuy nhiên, chỉ có 1 đơn vị là quỹ tín dụng Lộc Sơn – Lâm Đồng đủ điều kiện hỗ trợ và đã được BHTG Việt Nam chấp thuận cho vay 3 tỷ đồng Báo cáo thường niên của DIV năm 2005 đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Với định hướng bảo hiểm tích cực, DIV xây dựng phương án mở rộng đối tượng được hỗ trợ tài chính (các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) đồng thời vẫn đảm bảo quy định quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước. Việc theo dõi diễn biến thị trường, hoạt động của 979 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở được các đơn vị trong toàn hệ thống thực hiện thường xuyên, liên tục để chủ động xem xét, đề xuất phương án thích hợp đối với các tổ chức gặp khó khăn về tài chính. Cụ thể: năm 2007, DIV đã cho vay hỗ trợ quỹ tín dụng nhân dân Dương Liễu (tỉnh Hà Tây cũ) với số tiền 1,5 tỷ đồng Báo cáo tổng kết năm 2007 của Tổng Giám Đốc DIV: Bùi Khắc Sơn tại hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2008 và đón nhận huân chương lao động hạng 3, đăng trên trang web: www.div.gov.vn. giúp quỹ này vượt qua khó khăn tạm thời, nhờ đó đã củng cố niềm tin của người gửi tiền tại đây và góp phần ổn định hoạt động tài chính ngân hàng trên địa bàn. Việc BHTG Việt Nam hỗ trợ tài chính cho các TCTD khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt đã góp phần tích cực trong việc bảo vệ, duy trì ổn định hoạt động tài chính ngân hàng nói riêng và sự ổn định của nền kinh tế nói chung. Thứ năm: Đối với việc thu phí BHTG và quản lý, đầu tư nguồn vốn: a/ Đối với việc thu phí: BHTG Việt Nam luôn chú trọng công tác thu phí bảo hiểm đối với tổ chức tham gia BHTG, thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị tính và nộp phí theo quy định của Nhà nước. Số phí BHTG Việt Nam thu được từ các tổ chức tham gia BHTG tăng năm sau so với năm trước ở mức 20% - 25%/ năm Bài viết “BHTG Việt Nam 7 năm xây dựng và hội nhập” - Đỗ Khắc Hải (trang 52- Tạp chí Ngân hàng số 3+4 tháng 02/2007) . Tính đến cuối năm 2005, tổng số phí BHTG Việt Nam thu được của 981 đơn vị tham gia BHTG đang hoạt động là 278 tỷ đồng (còn 9 đơn vị mới cấp chứng nhận BHTG chưa nộp phí trong năm 2005), tăng 85 tỷ đồng so với năm 2004. Nhìn chung, các tổ chức tham gia bảo hiểm chấp hành tương đối tốt quy định về tính và nộp phí. Đối với đơn vị chưa nộp hoặc nộp phí chậm, xác định sai tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm dẫn đến thừa, thiếu phí đã được BHTG Việt Nam nhắc nhở, gửi văn bản yêu cầu đơn vị khắc phục hoặc xử lý theo quy định. “Báo cáo thường niên 2005 của DIV trên trang web: www.div.gov.vn” Đến ngày 31/12/2007, DIV đã thu phí BHTG của 1.063 đơn vị với tổng số tiền hơn 480 tỷ đồng, tăng 36% so với cuối năm 2006 và bổ sung 100% vào quỹ nghiệp vụ BHTG “Báo cáo thống kê năm 2007 của DIV trên trang web: www.div.gov.vn” . Có thể nói phí BHTG là nguồn tài chính quan trọng để BHTG Việt Nam tăng cường năng lực xử lý các rủi ro có thể xảy ra từ phía các tổ chức tham gia BHTG, hạn chế tới mức thấp nhất việc bao cấp từ ngân sách Nhà nước. Theo số liệu mới nhất, tính đến 31/12/2008, DIV đã thực hiện thu phí BHTG của 1.103 đơn vị với tổng số phí thực nộp trong năm hơn 684,6 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2007 Bài viết “BHTG Việt Nam-nơi gửi gắm niềm tin của công chúng”-Dương Quỳnh (thời báo ngân hàng ngày 19/01/2009). . Có thể nhận thấy rằng, thông qua những số liệu nêu trên thể hiện một bức tranh toàn cảnh về khả năng tập hợp phí bảo hiểm ngày càng gia tăng và hứa hẹn xu thế phát triển tốt. Mặc dù số phí BHTG thu được ngày một tăng lên năm sau cao hơn năm trước thế nhưng vẫn tồn tại một điểm cần chú ý sau: việc triển khai thực hiện tính và nộp phí BHTG tại một số ngân hàng thương mại cổ phần thời gian qua chưa được sự quan tâm đúng mức, thậm trí được xem như là công việc hoàn thiện sau. Trong đó nhiều ngân hàng thương mại cổ phần từng được các đoàn kiểm tra của DIV kiến nghị khắc phục chỉnh sửa tại đợt kiểm tra trước đây nhưng việc nộp thừa, thiếu phí vẫn tiếp tục xảy ra. Qua đợt kiểm tra mới đây đối với các ngân hàng thương mại cổ phần có trụ sở chính tại Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy 2/3 số đơn vị tính và nộp thừa phí, có đơn vị nộp thừa phí lên tới trên tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do các đơn vị chưa xác định đúng đối tượng tiền gửi được bảo hiểm và không loại trừ đối tượng không được bảo hiểm. Điều này xuất phát từ việc ngay từ đầu các đơn vị chưa thực sự quan tâm đến việc tổ chức hạch toán kế toán tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là cá nhân, tiền gửi của TCTD, tổ chức kinh tế một cách thống nhất, đúng quy định của ngân hàng Nhà nước tại Quyết định 479/2004/QĐ-NHNN và quy chế tiền gửi tiết kiệm tại Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà nước. Đồng thời chưa chú trọng việc tổ chức hạch toán nhóm tiền gửi thuộc đối tượng tiền gửi được bảo hiểm. Từ đó dẫn đến việc tính phí cho cá số dư tiền gửi của TCTD, tổ chức kinh tế, tiền gửi bằng ngoại tệ là những đối tượng không được bảo hiểm, làm tăng chi phí không đáng có cho đơn vị, giảm đáng kể nguồn vốn trong thời gian dài mà không được phát hiện Bài viết “Một số đề xuất nhằm khắc phục sai sót trong việc tính và nộp phí BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG” – Phạm Thị Hiền (trang web: www.div.gov.vn)” . b/ Trong việc quản lý và đầu tư nguồn vốn: BHTG Việt Nam thực hiện quản lý và đầu tư vốn theo đúng quy định của Nhà nước và của BHTG Việt Nam về đối tác, lượng vốn, kỳ hạn đầu tư, đồng thời đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu thanh toán của BHTG Việt Nam. Tổng lượng vốn đầu tư của BHTG Việt Nam đến cuối năm 2005 đạt 1.855,8 tỷ đồng, tăng 265 tỷ đồng so với năm 2004. Tổng vốn đầu tư đến hạn thanh toán trong năm là 1642 tỷ đồng, tổng lãi thu được là 112 tỷ đồng, tăng 13 tỷ đồng so với năm 2004 Báo cáo thường niên 2005 của DIV” đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Số vốn đầu tư của BHTG Việt Nam không ngừng được tăng lên đến 31/12/2007 nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi là 2.903 tỷ đồng đã được đầu tư dưới nhiều hình thức phù hợp, đồng thời nâng cao hiệu quả tích luỹ quỹ nghiệp vụ Báo cáo thống kê của DIV năm 2007, đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Ngày 18/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg về quy chế quản lý tài chính đối với DIV, trong đó có quy định mức vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng do Ngân sách Nhà nước cấp thay cho mức 1.000 tỷ đồng trước đây được quy định tại Quyết định 218/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức BHTG Việt Nam. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại, nguồn vốn hoạt động của BHTG Việt Nam khoảng 3.015 tỷ đồng (đạt sấp sỉ 1% tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm, trong đó vốn điều lệ của Ngân sách Nhà nước cấp là 1.000 tỷ đồng, phần còn lại là phí BHTG do các tổ chức tham gia BHTG nộp và từ hoạt động đầu tư của DIV Bài viết “BHTG, một chính sách công quan trọng của nền kinh tế hội nhập”- TS. Nguyễn Như Minh,phó tổng giám đốc BHTG Việt Nam,trang4 (tạp chí ngân hàng số 20 táng 10 năm 2008). . Do mục đích ra đời của tổ chức BHTG Việt Nam là nhằm bảo vệ quyền và lợ ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn địnhcủa các TCTD, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh cho hoạt động ngân hàng. Do đó việc tổ chức BHTG Việt Nam sử dụng nguồn vốn điều lệ do Nhà nước cấp và nguồn vốn thu được từ việc đóng phí của các tổ chức tham gia BHTG phải luôn đảm bảo an toàn. Vì thế khi tìm hiểu những lĩnh vực đầu tư của tổ chức BHTG Việt Nam sẽ thấy được rằng đó là những lĩnh vực có độ an toàn rất cao như: đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Kho bạc Nhà nước, tiền gửi có kỳ hạn tại các TCTD Nhà nước theo đúng quy định, đảm bảo an toàn, bảo tồn vốn và bù đắp chi phí. Thứ sáu: Đối với việc chi trả và tham gia thanh lý tài sản của tổ chức nhận tiền gửi: Khi tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó bị mất khả năng thanh toán, BHTG Việt Nam đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG theo đúng quy định. Tính đến nay, DIV đã thực hiện chi trả tiền gửi bảo hiểm cho 1.519 người gửi tiền tại 37 quỹ tín dụng nhân dân trong phạm vi cả nước với tổng số tiền được chi trả gần 19 tỷ đồng, trong đó tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là 8 quỹ với số tiền hơn 9 tỷ đồng của 400 người gửi tiền. Và gần đây nhất phải kể đến việc BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi cho người gửi tiền tại Quỹ tín dụng nhân dân An Thành – Quảng Ngãi với số tiền là 705.497.200 đồng (bao gồm số tiền gốc là 681.190.000 đồng và lãi là 24.307.200 đồng) của 44 cá nhân (74 sổ tiết kiệm). Và Quỹ tín dụng nhân dân Vĩnh Phong – Kiên Giang với số tiền chi trả bảo hiểm cả gốc và lãi là 372.323.400 đồng cho 10 khách hàng gửi tiền (13 sổ tiền gửi) Bài viết của tác giả Phạm Thị Hiền, đăng trên trang web: www.div.gov.vn. . Sau khi chi trả tiền gửi bảo hiểm, BHTG Việt Nam đã tổ chức theo dõi hoạt động thanh lý tài sản của TCTD bị giải thể nhằm thu hồi vốn đã chi trả bảo hiểm. Trong năm 2005, BHTG Việt Nam đã trực tiếp theo dõi 33 Quỹ tín dụng nhân dân bị giải thể trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố. Tổng thu thanh lý năm 2005 đạt 1.974 triệu đồng, nâng mức luỹ kế thu thanh lý là 18.188 triệu đồng. Tổng chi thanh lý năm 2005 là 1.953 triệu đồng, luỹ kế chi thanh lý là 15.939 triệu đồng, trong đó thanh toán cho BHTG Việt Nam là 1.348 triệu đồng, luỹ kế là 2.724 triệu đồng. Báo cáo thường niên năm 2005 của DIV trên trang web: www.div.gov.vn Theo số liệu thống kê năm 2007 DIV đã tham gia thanh lý 34 quỹ tín dụng bị giải thể, thu hồi tổng số tiền là 973,8 triệu đồng (tổng số thanh toán các khoản phải trả là 962,18 triệu đồng, trong đó hoàn trả DIV là 547 triệu đồng. Báo cáo thống kê của DIV năm 2007 trên trang web: www.div.gov.vn Thứ bảy: Đối với hoạt động thông tin tuyên truyền: BHTG là lĩnh vực hoạt động còn mới mẻ vì vậy công tác thông tin tuyên truyền có vị trí rất quan trọng. Hoạt động thông tin tuyên truyền ngày càng phong phú và đa dạng cả về nội dung và hình thức phù hợp với các đối tượng, đặc biệt là người gửi tiền. Để đưa hoạt động của BHTG đi vào cuộc sống, nhằm mục tiêu bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền, BHTG Việt Nam đã xây dựng được một mạng lưới cộng tác viên trong các nhóm truyền thông cơ bản: Đài truyền hình TW, Đài tiếng nói Việt Nam, các báo có đông đảo bạn đọc liên quan đến hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, các báo điện tử thực hiện tuyên truyền các chủ trương, chính sách về BHTG định kỳ hàng tháng với nhiều hình thức tuyên truyền: tổ chức phát tờ rơi giới thiệu về BHTG và giới thiệu về quyền lợi của người gửi tiền, xây dựng nhiều phóng sự, tổ chức họp báo nhằm tuyên truyền chủ trương chính sách mới về BHTG. Gần 10 năm qua, BHTG Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức các hội nghị về hoạt động BHTG tại các địa bàn khác nhau trên cả nước. Thành phần tham dự hội nghị là các tổ chức tham gia BHTG, đại diện chính quyền, ban ngành, cơ quan báo chí trên địa bàn. Nội dung hội nghị là phổ biến các chủ trương chính sách của Nhà nước về BHTG, phối hợp với Đài phát thanh truyền hình TW và địa phương đưa tin, hình ảnh về hoạt động BHTG Việt Nam tại các tổ chức tham gia bảo hiểm. Hiện nay, BHTG Việt Nam đã triển khai xây dựng và thiết lập trang web trên mạng internet với địa chỉ www.div.gov.vn nhằm giúp công chúng có thể trực tiếp thu thập được nhiều loại thông tin về BHTG ở trên mạng. Song mặc dù tổ chức BHTG Việt Nam đã áp dụng mọi hình thưc tuyên truyền có thể để giới thiệu, phổ biến đến người dân về chính sách BHTG, nhưng phần đông dân cư, đặc biệt là người dân ở vùng nông thôn chưa biết đến BHTG. Hiện DIV đang nghiên cứu những vấn đề về hoạt động quan hệ công chúng để xây dựng chiến lược phát triển quan hệ công chúng giai đoạn 2008-2010 và tầm nhìn đến 2015. Thư tám: Đối với việc phát triển công tác đối ngoại và công tác quốc tế: BHTG là một hoạt động mới mẻ ở Việt Nam do đó học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này là đặc biệt quan trọng. Sau một thời gian hoạt động, BHTG Việt Nam đã thực hiện tốt quy định của pháp luật về BHTG, hoạt động theo đúng mô hình và các tiêu chí cơ bản như các nước tiên tiến khác đã làm trong lĩnh vực BHTG. Do vậy, sau khi nghiên cứu tình hình hoạt động của BHTG Việt Nam, Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) đã chính thức công nhận và kết nạp BHTG Việt Nam là thành viên của Hiệp hội BHTG quốc tế vào tháng 02 năm 2003, Phó Chủ Tịch khu vực Châu Á nhiệm kỳ 2006-2007. Tại diễn đàn này là cơ hội quan trọng để Việt Nam cùng với các nước thành viên khác chia sẻ những kết quả và kinh nghiệm trong lĩnh vực BHTG nhằm đóng góp vào sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính nói chung. Ngoài ra BHTG Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội tin học Hà Nội, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, hội viên của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, hội viên nghề nghiệp của Hiệp hội ngân hàng Châu Á . BHTG Việt Nam đã chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế như: Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) về các hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ tài chính mang tính chất dài hạn Báo cáo thường niên năm 2005 của DIV trên trang web: www.div.gov.vn . Mặc dù đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, song BHTG Việt Nam đã thực sự phát huy vai trò to lớn của mình trong hệ thống tài chính tiền tệ nước ta. Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, BHTG Việt Nam vừa tranh thủ học hỏi kinh nghiệm về quản lý, tổ chức vừa nhằm quảng bá nâng cao vị thế của mình. BHTG Việt Nam đã tham gia các hội thảo quốc tế về quản lý rủi ro và BHTG, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo để nắm bắt thông tin và yêu cầu phát triển từ nền kinh tế cũng như xây dựng các định hướng phát triển BHTG Việt Nam từ các tổ chức tài chính, ngân hàng quốc tế. Từ khi trở thành thành viên của Hiệp hội BHTG quốc tế, BHTG Việt Nam đã tham gia tích cực trong những hoạt động chung của Hiệp hội, những hội nghị quan trọng mà BHTG Việt Nam đã tham gia như: - Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 2 ( tháng 10/2003) tại Seoul- Hà Quốc; - Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 3 ( 26-27 tháng 10/2004) tại Brunnen – Switzeland; - Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 4 (26-27 tháng 09/2005) tại Grand Hotel – Taipei – Taiwan; - Hội nghị quốc tế Hiệp hội BHTG quốc tế 2006. Do PDIC phối hợp với ADB tổ chức với chủ đề “hội nhập giám sát tài chính và vai trò của BHTG” (16-17 tháng 02/2006) tại Manila – Philippines; - Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 5 (15-17 tháng 11/2006) tại Copacabana Palace Hotel – Rio de janeiro – Brasil; - Hội nghị thường niên Uỷ ban BHTG Châu á lần thứ 5 (ARC 5) và hội thảo quốc tế về BHTG. Do DIV phối hợp với ADB tổ chức với chủ đề “nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG” (ngày 29/03/2007) tại khách san Daewoo – Hà Nội – Việt Nam “phần sự kiện trang web: www.div.gov.vn” . Trong thời gian tới, BHTG Việt Nam tiếp tục tham gia mạnh mẽ hơn vào các ban nghiên cứu chính sách của Hiệp hội BHTG quốc tế, xây dựng và triển khai nghiên cứu sao cho phù hợp với hoạt động thực tiễn của Việt Nam và phù hợp với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của đất nước. 2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật BHTG Việt Nam: Mặc dù mới đi vào hoạt động không lâu; song BHTG Việt Nam đã tỏ rõ vai trò to lớn của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, trở thành một công cụ đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia. Trong thời gian qua, BHTG Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng kể; song qua quá trình kiểm nghiệm hoạt động thực tế cho thấy một số những hạn chế bất cập trong quy định pháp luật về BHTG cần phải được hoàn thiện theo hướng ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế nhằm phúc đáp yêu cầu đổi mới và hội nhập của nền kinh tế đất nước. Để nâng cao vị thế của BHTG Việt Nam và hoạt động của cơ quan BHTG Việt Nam cần thiết phải có những phương hướng hoàn thiện pháp luật về BHTG cụ thể : Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động BHTG ở Việt Nam: trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng, nhất là khi Việt Nam đã tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO), chúng ta vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với những thách thức không nhỏ. Điều quan trọng là phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật theo cơ chế thị trường và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO. Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, với cơ sở pháp lý ở mức Nghị định đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại và bất cập có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả hoạt động của BHTG Việt Nam trong thời gian qua. Để xây dựng BHTG Việt Nam trở thành một định chế tài chính lớn mạnh, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng, góp phần ổn định hệ thống tài chính quốc gia, cần thiết phải nâng tầm hoạt động của BHTG Việt Nam trên cơ sở xây dựng Luật BHTG, nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động BHTG Việt Nam trong thời gian tới theo hướng: Mở rộng đối tượng tham gia BHTG tới tất cả các tổ chức có nhận tiền gửi bằng Việt Nam đồng của tổ chức cá nhân (như tiết kiệm bưu điện, công ty bảo hiểm nhân thọ, công ty nhận uỷ thác đầu tư chứng khoán) để vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền đồng thời tránh được những mâu thuẫn trong quy định của pháp luật về BHTG Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về BHTG ở Việt Nam” – Th.S Phạm Nguyệt Thảo , trang 50 (Tạp chí Luật học số 12/2007-trường đại học luật Hà Nội.) . Luật BHTG cần mở rộng tiền gửi được bảo hiểm bao gồm cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ để đảm bảo công bằng bình đẳng trong nền kinh tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền bằng ngoại tệ. Quy định phí BHTG trên cơ sở rủi ro. Song theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng do đặc điểm của các tổ chức tham gia BHTG ở nước ta mới thành lập, phát triển chưa bền vững nên hoạt động còn tiềm ẩn nhiều khó khăn, nhất là các TCTD quy mô nhỏ như các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Theo pháp luật hiện hành quy định các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ở nước ta bắt buộc phải tham gia BHTG. Quy định này là cần thiết, góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Song một thực tế là các TCTD quy mô nhỏ mà điển hình là các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoạt động khó khăn hơn rất nhiều các TCTD có quy mô lớn, những rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động của chúng. Do đó, nếu quy định thu phí BHTG trên cơ sở rủi ro thì vô tình sẽ tạo thêm gánh nặng đối với các TCTD quy mô nhỏ như quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Bởi rủi ro càng cao thì phải nộp phí BHTG càng cao, điều này sẽ làm tăng thêm rủi ro và trở nên khó khắc phục khó khăn đối với các TCTD nhỏ. Hơn nữa, việc đánh giá xếp loại các TCTD ở nước ta còn yếu và mới mẻ, chưa thể làm cơ sở cho việc xác định tỷ lệ phí BHTG trên cơ sở rủi ro được chính xác. Do đó, Luật nên quy định lộ trình của việc xác định mức phí BHTG theo từng giai đoạn phù hợp với thực tế phát triển kinh tế-xã hội. Nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm: Hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm là một nội dung rất quan trọng của Luật BHTG và được người gửi tiền quan tâm nhất. Mức chi trả tối đa cao hay thấp sẽ có tác động đến tâm lý của người gửi. Theo phân tích của một số nhà nghiên cứu hạn mức chi trả hiện tại của BHTG Việt Nam là thấp so với thực tế; do đó cần nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm tối đa cho mỗi cá nhân, tổ chức gửi tiền tại một tổ chức tham gia BHTG cao hơn mức đang áp dụng theo quy định hiện hành. Theo TS. Đinh Dũng Sĩ – Phó trưởng ban Pháp chế Văn phòng Chính phủ cho rằng: nên nâng hạn mức chi trả tối đa số tiền bảo hiểm cho mỗi cá nhân là 100 triệu và 200 triệu cho một tổ chức gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG. Trong giai đoạn này, với hạn mức chi trả tối đa mà TS. Đinh Dũng Sĩ đưa ra là phù hợp. Song do kinh tế xã hội luôn biến động không ngừng, vì vậy trong trường hợp mức quy định trên đây không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động thì giao Chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng Nhà nước và tổ chức BHTG Việt Nam. Nâng cao vị trí pháp lý của tổ chức BHTG Việt Nam: Để nâng cao trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG và xử lý kịp thời vi phạm trong lĩnh vực BHTG cần quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm của tổ chức BHTG Việt Nam. Cụ thể như: Tổ chức BHTG phụ trách xử lí những vấn đề liên quan tới: việc chậm nộp hoặc không nộp phí BHTG; vi phạm về nội dung và thời hạn nộp thông tin báo cáo của tổ chức tham gia BHTG Việt Nam; thu hồi giấy chứng nhận BHTG trong trường hợp vi phạm các quy định về chứng nhận đã được Luật quy định; xử lí các tổ chức tham gia BHTG trong trường hợp vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tổ chức BHTG Việt Nam trình cấp có thẩm quyền xử lí các vi phạm sau: trường hợp tổ chức tham gia BHTG vi phạm nghiêm trọng các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng, có thể dẫn tới việc đổ vỡ ngân hàng và đe doạ đến ổn định hệ thống tài chính; đơn vị cá nhân thuộc tổ chức BHTG Việt Nam vi phạm các quy định bảo mật thông tin, báo cáo của tổ chức tham gia BHTG; đơn vị, cá nhân thuộc tổ chức BHTG Việt Nam vi phạm trong việc tiếp nhận,quản lí và sử dụng nguồn lực vốn do Nhà nước giao. Đồng thời cần quy định rõ sự phối hợp giữa BHTG Việt Nam với Ngân hàng Nhà nước trong việc tiếp nhận, xử lý các tổ chức tham gia BHTG phá sản, giải thể.Việc quy định sẽ tạo tính chủ động và chịu trách nhiệm của các cơ quan nêu trên, đảm bảo nguyên tắc kịp thời, tránh đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống ngân hàng. 2.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG Việt Nam: Thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính cho tổ chức BHTG Việt Nam: Ngày 18/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg về quy chế quản lý tài chính đối với DIV, trong đó có quy định mức vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng do Ngân sách Nhà nước cấp thay cho mức 1.000 tỷ đồng trước đây. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, nguồn vốn hoạt động của BHTG Việt Nam vào khoảng 3.015 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ do Ngân sách Nhà nước cấp là 1.000 tỷ đồng, phần còn lại là phí BHTG do các tổ chức tham gia BHTG nộp và từ hoạt động đầu tư của DIV. Theo PGS.TS. Lê Quốc Lý – Vụ trưởng Vụ tài chính tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư cho rằng: “tiềm lực tài chính của BHTG Việt Nam còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với nhiệm vụ đang và sẽ phải đảm đương” Bài viết “BHTG và vấn đề nâng cao năng lực tài chính” – PGS.TS. Lê Quốc Lý – Vụ trưởng Vụ tài chính tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư (Trang 40 Tạp chí ngân hàng số 12 tháng 06/2008) . Từ nhận xét này cho thấy thực tế tổ chức BHTG ở Việt Nam chưa đủ tiềm lực tài chính để có thể đảm đương tốt được những nhiệm vụ của mình. Vậy cần thiết phải nâng cao tiềm lực tài chính cho tổ chức BHTG ở Việt Nam bằng cách như: cấp bổ sung vốn điều lệ từ Ngân sách Nhà nước cho BHTG Việt Nam, mở rộng lĩnh vực đầu tư mà tổ chức BHTG Việt Nam được phép tham gia Khi vị trí vai trò của BHTG Việt Nam ngày một tăng lên, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động lại càng đòi hỏi phải nâng cao tiềm lực tài chính của BHTG Việt Nam một cách nhanh chóng, để BHTG Việt Nam có thể đảm đương được vai trò của mình trong việc giữ ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và xã hội. Thứ hai: Đẩy mạnh hoạt động công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức công chúng về chính sách BHTG: Là lĩnh vực hoạt động mới nên hoạt động tuyên truyền để nâng cao sự hiểu biết của công chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tổ chức BHTG. Trong thời gian qua, hoạt động thông tin tuyên truyền tuy đã đạt được những kết quả đáng kể, song vẫn còn một số hạn chế nhất định như: chưa thực sự tuyên truyền sâu rộng những nội dung chính sách BHTG tới người dân, các hình thức tuyên truyền còn đơn điệu chưa mang lại hiệu quả cao. Do đó, phần lớn người dân, đặc biệt là những người dân vùng nông thôn vẫn chưa biết đến BHTG. Do đó BHTG Việt Nam cần đẩy mạnh, đổi mới các hình thức tuyên truyền quảng bá một cách rộng rãi để công chúng hiểu đầy đủ và an tâm về chính sách BHTG Việt Nam trong xu thế hội nhập sâu rộng, nâng cao chất lượng website và các loại tờ rơi, ấn phẩm có logo của BHTG Việt Nam để giúp công chúng dễ nhận biết thông tin, vai trò của tổ chức BHTG ở Việt Nam. Từ đó tạo lòng tin cho người dân, đồng thời giúp các tổ chức nhận tiền gửi có thể huy động một lượng vốn nhàn rỗi lớn, đáp ứng nhu cầu vốn phát triển kinh tế đất nước. Thứ ba: Cần tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức theo mô hình giảm thiểu rủi ro và đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới trong xu thế hội nhập: Trên Thế giới hiện có 3 mô hình tổ chức BHTG đó là: mô hình chuyên chi trả, mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng và mô hình giảm thiểu rủi ro. - Mô hình tổ chức BHTG chuyên chi trả: là mô hình chủ yếu thực hiện chức năng bảo vệ thụ động người gửi tiền, thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền sau khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản. - Mô hình tổ chức BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng: là mô hình thực hiện chi trả và có bổ sung một số chức năng tuỳ thuộc đặc thù của từng quốc gia. -Mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro: là mô hình có các thẩm quyền nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền, đảm bảo sự an toàn hệ thống tài chính Bài viết “BHTG góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính – ngân hàng” T.S. Lê Thị Kim Xuân (Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7/2008). . Ở Việt Nam hiện nay đang thực hiện mô hình tổ chức BHTG với quyền hạn mở rộng. Ngoài việc chi trả tiền bảo hiểm thì tổ chức BHTG Việt Nam còn hỗ trợ cho các tổ chức tham gia bảo hiểm khi mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, tổ chức BHTG Việt Nam tham gia vào hoạt động giám sát rủi ro và xử lý các vi phạm của tổ chức tham gia BHTGSong, so sánh với mô hình tổ chức mà BHTG Việt Nam đang áp dụng hay mô hình tổ chức BHTG chuyên chi trả thì mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro có các thẩm quyền nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền: đánh giá, giám sát rủi ro, đảm bảo an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng. Với mô hình này, tính phòng ngừa được thể hiện rất rõ, đồng thời mô hình cũng phản ánh một cách đầy đủ nhất bản chất của bảo hiểm là luôn gắn với rủi ro. Vì thế một tổ chức BHTG được coi là hiệu quả phải có các quyền hạn và chức năng tương ứng cho phép tổ chức này hạn chế đến mức tối đa rủi ro của quốc gia, của từng ngành dịch vụ, tài chính, và người gửi tiền. Tức là phải giảm đến mức thấp nhất những tổn thất xã hội trong quản trị rủi ro Bài viết “BHTG giảm thiểu rủi ro – mô hình cho mạng lưới an toàn tài chính hiệu quả”. Thuỳ Dương . Trang 35 (Tạp trí ngân hàng số 22 tháng 11 năm 2008) . Một trong năm nội dung chiến lược phát triển BHTG Việt Nam là: tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG, đáp ứng yêu cầu của tổ chức giảm thiểu rủi ro, BHTG Việt Nam đã xác định được mô hình cơ cấu tổ chức và xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ theo nhóm khách hàng, các bộ phận hỗ trợ, hậu cần phù hợp với nghiệp vụ, có khả năng làm việc chủ động, sáng tạo và hiệu quả cao trên tinh thần hợp tác đáp ứng yêu cầu của BHTG Việt Nam trong xu thế hội nhập. Từ kinh nghiệm triển khai và kết quả thực hiện tái cấu trúc bộ máy chi nhánh theo định hướng lấy khách hàng làm tâm điểm, BHTG Việt Nam cần sớm tiếp tục triển khai tái cấu trúc bộ máy tại Trụ sở chính để tạo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống, vừa đáp ứng được tính chuyên môn hoá, vừa đảm bảo tính liên kết giữa các nghiệp vụ, nâng cao tính chuyên nghiệp trong quản lý rủi ro và góp phần nâng cao chất lượng quản lý khách hàng. Mặt khác, hiệu quả hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực của tổ chức, do đó cần tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ để xây dựng được đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đảm bảo các tiêu chuẩn về chuyên môn ngày càng đáp ứng yêu cầu đối mới trong xu thế hội nhập. Thứ tư: Tăng cường sự phối hợp giữa BHTG Việt Nam với các tổ chức liên quan: Hoạt động tài chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế. Vì vậy sự phối kết hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan để kịp thời xử lý các tình huống có thể xảy ra mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tổ chức BHTG Việt Nam xây dựng theo mô hình giảm thiểu rủi ro cần được thu nhận thông tin của các cơ quan liên quan, đồng thời chia sẻ thông tin có được qua hoạt động giám sát, kiểm tra và cảnh báo sớm để có một hệ thống đánh giá khách quan, toàn diện và chính xác về an toàn hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Vì vậy, tổ chức BHTG Việt Nam cần phối kết hợp với các cơ quan liên quan như: Uỷ ban giám sát, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính trong hoạt động của mình. Thứ năm: Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế: Kinh nghiệm quốc tế đối với hoạt động BHTG còn quá mới mẻ ở Việt Nam là rất cần thiết. Do đó Việt Nam cần tăng cường hơn nữa những hoạt động giao lưu với các tổ chức BHTG trên thế giới, từ đó trao đổi những kinh nghiệm cũng như thành tích đã đạt được nhằm tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của nước bạn trong quản lí, tổ chức, hoạt động của BHTG. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế đồng thời tăng cường tham gia các diễn đàn tài chính-ngân hàng để tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật và hỗ trợ tài chính cho hoạt động hiệu quả của tổ chức bảo hiẻm tiền gửi Việt Nam. Theo dự báo, thị trường tài chính thế giới năm 2009 tiếp tục diễn biến xấu đi và gia tăng mức độ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, hệ thống tài chính tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn trầm trọng hơn. Trong bối cảnh đó, việc đảm bảo an sinh xã hội là hết sức cần thiết, mục tiêu này gắn liền với hiệu quả của việc tổ chức triển khai gói giải pháp tài chính. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Về chính sách tiền tệ, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kích thích tăng trưởng. Trên cơ sỏ đó BHTG Việt Nam phải nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ Chính phủ giao thông qua việc chủ động phát huy nội lực và tận dụng tối đa sự trợ giúp từ những yếu tố bên ngoài. Có thể nói sau gần 10 năm hoạt động, BHTG Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền, giữ vững niềm tin của công chúng , góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng. Bên cạnh những thành tích đáng kể nêu trên, thì những khó khăn thách thức vẫn còn thường trực đối với BHTG Việt Nam, điều đó đòi hỏi BHTG Việt Nam cần phải cố gắng nỗ lực hết mình. Là công cụ tài chính của Chính phủ, BHTG Việt Nam cần thực hiện đồng bộ những giải pháp trên để từ đó nâng cao hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ của mình. KẾT LUẬN Tài chính – ngân hàng là lĩnh vực vô cùng nhạy cảm, trong đó người gửi tiền là đối tượng dễ “tổn thương” nhất trước mỗi biến động của thị trường tài chính. Đôi khi chỉ cần một tin đồn thất thiệt có thể dẫn tới đổ vỡ một ngân hàng, thậm chí cả một hệ thống ngân hàng vì người gửi tiền ồ ạt rút tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi. Mọi chuyện còn có thể đi xa hơn, đó là mất ổn định về kinh tế-xã hội. Mặt khác cần hiểu rằng những khoản tiền gửi của người dân không phải là những con số “lạnh lùng” mà đây là tiền tiết kiệm, có khi là những dự kiến, kế hoạch cả đời người. Theo ông Mai Minh Đệ chủ tịch Hội đồng quản trị bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cho rằng “bảo hiểm tiền gửi ra đời không chỉ là biện pháp bảo đảm kinh tế thông thường mà còn có ý nghĩa an sinh xã hội rất lớn”. Sau gần 10 năm đi vào hoạt động, mặc dù vẫn còn những thiếu sót nhưng bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng.Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định phát triển lành mạnh của các tổ chức tín dụng. Hơn thế nữa nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi cũng đã bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đó là minh chứng khẳng định vị trí, vai trò, sự cần thiết của một biện pháp bảo đảm quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và mạng lưới an toàn tài chính quốc gia nói riêng. Với các chi nhánh được thành lập ở các vùng trong cả nước, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thể hiện tốt vai trò và mục đích của mình. Theo dự báo, thị trường tài chính thế giới năm 2009 tiếp tục diễn biến xấu đi và gia tăng mức độ ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam, hệ thống tài chính tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn trầm trọng hơn. Với vai trò và trách nhiệm là tổ chức tài chính Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền, giữ vững niềm tin của công chúng, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần thực hiện tốt nhiệm vụ, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính- ngân hàng trên cơ sở xây dựng nền tảng cơ chế chính sách tốt, năng lực tài chính đủ mạnh và một bộ máy hoạt động hiệu quả. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đưa Việt Nam hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới. LỜI MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài: 1 2. Mục đích nghiên cứu đề tài: 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài: 2 5. Kết cấu của luận văn: 3 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BHTG 4 VÀ CHẾ ĐỘ BHTG Ở VIỆT NAM. 4 1.1. Những vấn đề chung về BHTG: 4 1.1.1. Khái niệm chung về BHTG: 4 1.1.2. Đặc điểm của BHTG: 5 1.1.3. Vai trò của BHTG : 6 1.2: Chế độ BHTG ở Việt Nam: 9 1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của chế độ BHTG ở Việt Nam: 9 1.2.1.1. Khái niệm chế độ BHTG ở Việt Nam: 9 1.2.1.2. Đặc trưng của chế độ BHTG Việt Nam: 11 1.2.2. Nội dung cơ bản của chế độ BHTG ở Việt Nam: 12 1.2.2.1. Phạm vi áp dụng: 14 a/ Chủ thể quan hệ BHTG: 14 b/ Loại tiền được bảo hiểm : 18 c/ Số tiền bảo hiểm: 20 1.2.2.2.Phí BHTG: 21 1.2.2.3. Sự kiện bảo hiểm và việc chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm: 23 1.3: Pháp luật về BHTG ở một số nước trên thế giới: 25 1.3.1. Pháp luật BHTG ở Mỹ: 25 1.3.2. Pháp luật BHTG ở Indonesia: 28 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BHTG Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN 33 2.1: Thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng: 33 2.1.1. Đánh giá thực trạng những quy định pháp luật hiện hành về BHTG ở Việt Nam: 33 Thứ nhất: Quy định về đối tượng tham gia BHTG: 33 Thứ hai: Quy định về người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: 35 Thứ ba: Quy định về loại tiền gửi được bảo hiểm: 36 Thứ tư: Quy định về phí BHTG: 38 Thứ năm: Quy định về hạn mức chi trả BHTG: 40 2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật BHTG ở Việt Nam: 44 2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật BHTG Việt Nam: 57 2.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG Việt Nam: 60 KẾT LUẬN 65

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2115.doc
Tài liệu liên quan