Đề tài Đánh giá thực trạng phát triển giáo dục phổ thông ở Việt Nam thời kỳ kế hoạch 2001 - 2005

- Giáo dục lao động, kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị nghề: có hiểu biết về giá trị của lao động, nguyên lý chung của các quá trình sản xuất chủ yếu, một số loại vật liệu thông dụng, một số ơhương pháp gia công bằng tay, bằng máy, các biện pháp kỹ thuật của một vài quy trình sản xuất, một số quy tắc trong bảo hộ, an toàn lao động; hiểu biết chung về các ngành nghề chủ yếu trong xã hội, phương hướng phát triển kinh tế địa phương - Giáo dục cho học sinh biết một số phương pháp tập luyện thể dục, thể thao, có kiến thức cơ bản về giới tính, môi trường, lao động, dinh dưỡng - Đem đến cho học sinh có hiểu biết và quan niệm đúng về cái đẹp và ý nghĩa trong cuộc sống, lao động và nghệ thuật. Giáo dục THCS là một bậc học quan trọng, mang tính phổ thông, toàn diện và hướng nghiệp. Giáo dục THCS chuẩn bị cho một phần học sinh sau khi học xong chương trình giáo dục THCS sẽ học tiếp lên THPT, một phần sẽ đi vào cuộc sống lao động hoặc các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề. Do đó trong nội dung của chương trình giáo dục THCS phải đổi mới theo hướng chủ động hơn, thực tế hơn, tập trung vào hình thành và phát triển khả năng thích nghi, hiểu biết các kỹ năng sống.

doc80 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1101 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng phát triển giáo dục phổ thông ở Việt Nam thời kỳ kế hoạch 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp luật. Năng lực đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục được tăng cường, thực hiện đổi mới công tác tuyển sinh và cải tiến thi cử. 2. Những tồn tại, hạn chế: So với kế hoạch giáo dục 2001-2005, giáo dục phổ thông Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, nhưng nhìn chung giáo dục phổ thông Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, nhiều vấn đề cần khắc phục, chưa đạt được mục tiêu đặt ra cho giáo dục phổ thông trong kế hoạch như: + Nhìn chung quy mô giáo dục có tăng nhưng không cân đối với điều kiện đảm bảo chất lượng, cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý nhưng chậm được điều chỉnh, chưa có sự đồng bộ về cơ cấu học, ngành học và lãnh thổ, vẫn còn sự khác biệt lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và các vùng cao, vùng trung du, miền núi. + Chất lượng giáo dục phổ thông so với yêu cầu đặt ra cho thời kỳ kế hoạch 2001-2005 còn rất thấp so với yêu cầu, không đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. + Việc phát triển trường THCS chưa đồng đều ở các địa bàn, nhiều nơi còn thiếu lớp học, nhiều xã chưa có trường THCS, trường học còn ở quá xa nhà dân, một số địa phương còn chạy theo thành tích trong công tác phổ cập nên đã áp dụng một số biện pháp mang tính bắt buộc, không có tính pháp lý. + Đội ngũ giáo viên ở các cấp bậc học bất cập cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, chưa đạt được mục tiêu cho thời kỳ kế hoạch 2001-2005 Tỷ lệ giáo viên có tăng lên ở các cấp học nhưng vẫn còn thấp so với quy định, cụ thể năm học 2003-2004 tỷ lệ giáo viên trên lớp tính chung cả nước là 1,21 ở bậc tiểu học (quy định là 1,15), THCS là 1,7 (quy định là 1,85) và THPT là 1,77 (quy định là 2,1). Do đó cả nước hiện nay không thiếu giáo viên tiểu học (chỉ thiếu giáo viên nhạc, hoạ), giáo viên THCS thiếu khoảng 25.500, THPT thiếu 21.100 người. Việc thiếu giáo viên tập trung chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao nơi có các dân tộc ít người sinh sống, trong đó chủ yếu là thiếu giáo viên các môn như sinh vật, kỹ thuật, giáo dục công dân, thể dục, nhạc, hoạ kèm theo đó là trình độ của đội ngũ giáo viên còn rất yếu + Công tác đổi mới chương trình, nội dung, sách giáo khoa tuy đã được triển khai nhưng còn tiến độ thực hiện còn chậm so với kế hoạch, các quy chế, văn bản hướng dẫn chậm, ví dụ việc triển khai thí điểm chương trình phân ban ở bậc học THPT tiến hành chậm, gặp nhiều bất cập như học sinh đăng ký theo học ban khoa học tự nhiên chiếm tỷ lệ cao so với ban khoa học xã hội với tỷ lệ lên đến 80/20, gây nên một mối lo về sự phân hoá + Chi đầu tư cho giáo dục tăng trung bình khoảng 1%/ năm, năm 2004 chi cho giáo dục đạt trên 17%, trong khi đó chi cho giáo dục của Hàn Quốc là 21%, của Singapore là 22%, Malaixia và Thái Lan khoảng 18-20%, nếu tính theo mức đầu tư cho giáo dục thì Việt Nam chỉ bằng 1/29 với Hàn Quốc, 1/22 so với Malaixia, 1/8 so với Thái Lan Tỷ lệ đầu tư cho 1 học sinh ở Việt Nam chỉ vào khoảng 1triệu đồng/học sinh, tỷ lệ thấp như trên nhưng phân bố chưa hợp lý, chỉ tập trung phần lớn ở các thành phố, trong khi ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa điều kiện học tập còn khó khăn thì lại được đầu tư ít hơn. + Các chương trình dự án mục tiêu giáo dục có tiến độ triển khai còn chậm, giải ngân chậm, nên hiệu quả sử dụng vốn không cao. Chưa ban hành các tiêu chí chính thức và thống nhất về khái niệm phòng học 3 ca, phòng học tạm, đơn giá xây dựng, các địa phương chậm trễ trong lập, duyệt quy hoạch mạng lưới trường, lớp học kèm theo điều kiện thi công khó khăn. + Công tác xã hội hoá triển khai còn chậm do chưa ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản pháp quy, cơ chế, chính sách và các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ học phí, vấn đề sở hữu trong cơ sở ngoài công lập, chế độ chính sách đối với giáo viên và những yếu kém trong quản lý cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan trung ương và địa phương để quản lý các cơ sở ngoài công lập. 3. Nguyên nhân của thực trạng: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng giáo dục phổ thông như trên trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau: 3.1. Nguyên nhân chủ quan: * Công tác quản lý nhà nước giáo dục: + Về mặt nhà nước, sự quản lý các sinh hoạt xã hội được chia theo từng lĩnh vực, và giáo dục với đối tượng là con người cũng được coi là một công việc như các ngành thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi từ đó dẫn đến sự chồng chéo trong việc giáo dục đào tạo. Do sự phân chia về quản lý, các Bộ tự túc về nhân sự nên không nêu với Bộ Giáo dục và Đào tạo về trình độ đòi hỏi, trong khi đúng ra Bộ Giáo dục và Đào tạo phải cung cấp nhân lực cho các ngành khác từ trung học, không có sự liên kết về số lượng và chất lượng dẫn tới việc giáo dục mang nặng tính cục bộ. + Hoạt động quản lý giáo dục mang tính xã hội rộng lớn, tính nghiệp vụ, tính chỉ đạo nhưng lại chưa được tự chủ về tài chính lẫn nhân sự. Trong bộ máy của sở chưa có sự thống nhất chức năng, quyền hạn, định rõ biên chế các phòng, ban, cơ cấu bộ máy một cách ổn định, phù hợp với thực tiễn của các địa phương. + Việc phân quyền, phân cấp quản lý chưa rành mạch, bộ máy, chức năng thanh tra, kiểm tra giáo dục còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. + Chậm ban hành các thủ tục, quy chế, quy định hướng dẫn triển khai các văn bản quy phạm phát triển về giáo dục phổ thông, các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục phổ thông. *Đầu tư cho giáo dục và đào tạo: Mặc dù Đảng và nhà nước luôn tăng chi cho phát triển giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng nhưng mức đầu tư như vậy còn thấp so với nhu cầu phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng. Đầu tư cho giáo dục phổ thông của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, mặc dù đã có những cố gắng trong thời gian qua, Việt Nam chi cho giáo dục tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP chỉ bằng một nửa so với Thái Lan, chi tiêu bình quân về giáo dục tính theo đầu người dân của Việt Nam chỉ bằng khoảng 1/8 của Thái Lan nhưng tỷ lệ chi của Chính phủ cho giáo dục so với tổng chi của Chính phủ ở Việt Nam gần bằng tỷ lệ đó ở Thái Lan. Năm 2004 ngân sách dành cho giáo dục chiếm hơn 17% ngân sách nhà nước nhưng nếu chia cho 24 triệu học sinh, sinh viên thì mức đầu tư chỉ đạt 1 triệu đồng/người. *Cơ sở vật chất kỹ thuật: Nhìn chung hệ thống cơ sở vật chất phục vụ phát triển giáo dục phổ thông đã được nâng cấp, cải tạo nhưng vẫn còn kém chưa đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục phổ thông. Đặc biệt các điều kiện phục vụ thực hành được cải thiện chậm, các thiết bị phục vụ thực hành còn thiếu và lạc hậu. Các địa phương ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số ít người cơ sở vật chất phục vụ giáo dục còn rất hạn chế, trường lớp còn phải học 3 ca, chưa được kiên cố hoá, kinh phí không đủ để mua sách giáo khoa mới, thiếu đồ dùng dụng cụ phục vụ học tập. Mặt khác phần lương chi cho giáo viên chiếm 85% chi cho giáo dục, số còn lại để đầu tư cho thiết bị giáo dục, cơ sở vật chất là rất ít. * Đội ngũ giáo viên: Đội ngũ giáo viên mặc dù được đầu tư phát triển nhưng so với nhu cầu vẫn thiếu và yếu về số lượng, chất lượng, chính sách sử dụng giáo viên không hợp lý, thiếu nghiêm trọng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển giáo dục phổ thông. 3.2. Nguyên nhân khách quan: * Sự khó khăn về điều kiện kinh tế, mức sống: Các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người là những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, mức sống của đa số dân cư còn thấp nên nhiều khi đối tượng của phổ cập THCS lại là lao động chính trong gia đình, do đó rất khó huy động các em đến lớp. Mặt khác giao thông kém phát triển đã gây tác động không nhỏ tới việc xây dựng, mở mang trường lớp phục vụ phát triển giáo dục phổ thông. *Các ảnh hưởng bên ngoài về khả năng tạo việc làm, tệ nạn xã hội, tư tưởng bằng cấp, tác động tiêu cực đến giáo dục phổ thông: Kinh tế thị trường phát triển mọi người đua nhau chạy theo kinh tế, vì đồng tiền có thể làm tất cả, đến bằng cấp, kiến thức cũng dùng tiền để mua, mặt khác do đồng lương giáo viên không đủ trang trải cuộc sống nên đã dẫn đến các hiện tượng tiêu cực, xu hướng “thương mại hoá” trong giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng. Do căn bệnh thành tích trong giáo dục phổ thông, từ nhiều năm qua chúng ta đua nhau mở trường chuyên, lớp chọn, chạy theo hư danh “học sinh giỏi quốc gia, học sinh giỏi quốc tế” nên chỉ đào tạo được khoảng 10% học sinh có chất lượng cao còn lại 90% học sinh chất lượng không đáp ứng yêu cầu của đất nước nhưng tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông vẫn cao để bảo đảm thành tích của địa phương và của cả ngành giáo dục. Trường chuyên, lớp chọn là nguyên nhân dẫn đến tệ dạy thêm, học thêm tràn lan, nó trở thành một niềm tin đối với phụ huynh, học sinh học lệch, chỉ tập trung vào các môn tự nhiên, gây nên lệch lạc trong giáo dục phổ thông. Chương 3. Một số ý kiến về định hướng và giải pháp phát triển giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn 2006-2010: I. Những căn cứ xác dịnh các mục tiêu của kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 2006-2010: 1. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2001-2010: Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạnh 2001-2010 nhằm mục đích tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, sự phát triển của từng vùng, từng địa phương, phấn đấu đưa đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước trong khu vực. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam được tiến hành qua 2 giai đoạn tương ứng với 2 kế hoạch 5 năm 2001-2005 và kế hoạch 2006-2010. Nhiệm vụ của kế hoạch giai đoạn này là đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục để đạt các mục tiêu chiến lược và các chỉ tiêu cụ thể, hoàn thành các chương trinh dài hạn 10 năm vè phổ cập trung học cơ sở, bước đầu xây dựng một xã hội học tập, đưa nền giáo dục Việt Nam sớm theo kịp các nước trong khu vực. Xuất phát từ mục tiêu đó, chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã xác định các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010: - Giáo dục là quốc sách hàng đầu: phát triển giáo dục là nền tảng, là yếu tố quyết định để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển của đất nước. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, láy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, khuyến học, hỗ trợ học sinh nghèo. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ. Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, tiến bộ của khoa học công nghệ, củng cố an ninh, quốc phòng. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đinh và xã hội. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Giáo dục phổ thông là một bộ phận của giáo dục, là nền tảng quyết định cho sự phát triển của giáo dục do đó chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010 cũng xác định một số mục tiêu, định hướng cho phát triển giáo dục phổ thông như đổi mới phương pháp dạy học, phát triển đội ngũ giáo viên, tiến hành phổ cập THCS nhằm nâng cao dân trí đồng thời nâng cao chất lượng của giáo dục. 2. Thực trạng giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn 2001-2005: Giai đoạn 2001-2005, giáo dục phổ thông mặc dù đã đạt được một số thành tựu rất quan trọng như quy mô học sinh tiếp tục ổn định, đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục tăng liên tục qua các năm, tỷ lệ phổ cập THCS ngày càng tăng, nhiều chương trình dự án mục tiêu quốc gia về phát triển giáo dục được thực hiện bước đầu đã mang lại một số thành công nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những mặt làm được giáo dục phổ thông Việt Nam cũng còn tồn tại rất nhiều vấn đề đòi hỏi phải được khắc phục để đưa giáo dục phổ thông phát triển đáp ứng yêu cầu của đất nước như: + Chất lượng giáo dục còn thấp, không đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, so với các nước trong khu vực thì còn thấp hơn nhiều về chất lượng đại bộ phận học sinh. + Đầu tư cho giáo dục mặc dù đã tăng nhưng vẫn còn chưa đủ đáp ứng nhu cầu + Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. + Cơ sở hạ tầng vật chất trang thiết bị phục vụ giáo dục phổ thông còn thiếu thốn, lạc hậu, đặc biệt thiếu các thiết bị thực hành. + Sự khó khăn của các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người về cơ sở hạ tầng, đội ngũ giáo viên, về huy động trẻ em đến trường. + Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, cán bộ quản lý vừa thiếu vừa yếu về năng lực không đáp ứng nhiệm vụ đặt ra. + Các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, xu hướng “thương mại hoá” trong giáo dục chưa được kiên quyết xoá bỏ. Những vấn đề trên là căn cứ quan trọng quyết định tới quan điểm, định hướng cũng như giải pháp thực hiện kế hoạch giáo dục Việt Nam giai đoạn 2006-2010 nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong kế hoạch cũng như trong chiến lược phát triển giáo dục. 3. Những vấn đề đặt ra cho phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 2006-2010: 3.1. Tình hình trong nước: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế, tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đây là con đường để đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hâu, kỹ thuật thô sơ, đất nước lại bị chiến tranh tàn phá tiến theo kịp các nước phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước. Trong bối cảnh đó thì giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng đóng một vai trò quyết định, giáo dục phải đi trước một bước, thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường cũng tác động không nhỏ tới sự phát triển giáo dục, thị trường phát triển làm thị trường lao động mở rộng, nhu cầu học tập tăng lên, xuất hiện nhiều loại hình học tập đáp ứng yêu cầu. Tự do làm tăng thêm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng trên đất nước, giữa thành thị và nông thôn. Đồng thời những tác động của nền kinh tế thị trường cũng gây ảnh hưởng đến các mối quan hệ trong nhà trường, động cơ mục đích học tập, các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục. Do đó đặt ra cho giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng phải kịp thời điều chỉnh, đổi mới để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của thực tiễn, tăng hiệu quả và chất lượng giáo dục, thích ứng với tình hình mới, phục vụ đắc lực cho xã hội. Mặt khác phải đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục, đặc biệt là trong giáo dục phổ thông, bởi đây là nền tảng của giáo dục, phải ưu tiên phát triển giáo dục phổ thông cho các vùng sâu, vùng có điều kiện khó khăn, vùng dân tộc ít người. 3.2. Tình hình quốc tế: Bước sang thế kỷ 21, cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển vượt bậc, do đó tác động nhanh chóng và sâu sắc tới đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, kiến thức ngày càng phong phú, đa dạng, xã hội ngày càng văn minh, hiện đại hơn. Ngày nay xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Đó là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, đây là cơ hội bởi vì với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, quá trình hội nhập làm cho khoảng cách giữa các nước về trình độ phát triển được thu hẹp nhanh hơn. Khoa học công nghệ là động lực, tiền đề của sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó giáo dục nói chung lại là nền tảng của phát triển khoa học công nghệ, cung cấp nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy giáo dục và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu đối với mỗi quốc gia đang phát triển muốn vươn lên. Hiện nay đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu từ quan niệm cho tới tư duy, chất lượng giáo dục. Xu hướng này đòi hỏi các quốc gia phải đổi mới giáo dục để đáp ứng hiệu quả hơn những nhu cầu phát triển của đất nước đồng thời đây cũng là cơ hội cho các quốc gia từ những nước phát triển tới nước đang phát triển. Giáo dục Việt Nam cũng không ngoại lệ, với cơ hội trên, giáo dục và giáo dục phổ thông Việt Nam có thể mở cửa đối thoại với xã hội, liên hệ mật thiết với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện cho phương pháp truyền thụ chủ động, khoa học, tổng hợp tới người học nhằm phát huy tính độc lập, sáng tạo trong mỗi cá nhân. Như vậy lúc này dầu tư cho giáo dục, đầu tư vào đào tạo con người được coi là đầu tư cho phát triển, không phải là phúc lợi xã hội. 3.3. Thời cơ và thách thức: Tình hình trong nước và quốc tế vừa tạo thời cơ đồng thời cũng là những thách thức đối với giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng. Xu hướng phát triển và đổi mới giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu là thời cơ để Việt Nam tiếp cận các nội dung, phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại, học hỏi những kinh nghiệm và bài học của các nước đi trước. Tuy nhiên bối cảnh đó cũng đặt ra thách thức cho giáo dục Việt Nam phải tiến hành đổi mới thì mới có thể đáp ứng nổi yêu cầu ngày càng lớn của nhu cầu học. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo dục, nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời xã hội cũng đòi hỏi giáo dục phải phát triển hơn nữa để đáp ứng nhu cầu giáo dục của mọi tầng lớp dân cư, cung cấp những kiến thức, kỹ năng mới, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho đất nước. Nhân dân ta có truyền thống cần cù, hiếu học, ham hiểu biết, sáng tạo, chịu khó tiếp thu khoa học kỹ thuật mới, đó là những lợi thế để phát triển giáo dục, thực hiện đổi mới giáo dục, đưa giáo dục phát triển và đi trước một bước đón đầu sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó giáo dục phổ thông Việt Nam cũng gặp một số thách thức phải vượt qua để đưa sự nghiệp giáo dục tiến lên. Đó là những tồn tại, hạn chế, bất cập trong giáo dục phổ thông, đặc biệt chất lượng giáo dục còn thấp so với chuẩn yêu cầu của đất nước, phải đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh quy mô trong khi đòi hỏi nâng cao chất lượng với nguồn lực hạn chế, vừa tạo chuyển biến trong giáo dục đồng thời phải giữ được sự ổn định tương đối trong các cấp học. Mặt khác giáo dục phổ thông phải phát triển mạnh mẽ để thu hẹp khoảng cách với các nước trong bối cảnh các nền giáo dục phổ thông đó cũng đang đổi mới và phát triển, đây thực sự là một thách thức lớn đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn ngành giáo dục. Tận dụng tốt thời cơ, hạn chế từng bước khắc phục thách thức, khó khăn, giáo dục Việt Nam, cụ thể là giáo dục phổ thông Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên xây dựng một nền giáo dục phổ thông toàn diện, hướng tới một xã hội học tập, vì mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực, đào tạo con người Việt Nam trong thời đại mới, con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. II. Mục tiêu, định hướng phát triển giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn 2006-2010: 1. Quan điểm phát triển: Nhằm phát triển giáo dục phổ thông thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và kế hoạch giáo dục 2006-2010, có thể xác định một số quan điểm phát triển chủ yếu cho giáo dục phổ thông: Phát triển giáo dục phổ thông theo hướng giáo dục toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ và nghề nhằm hình thành nền tảng nhân cách, các kỹ năng cơ bản của cuộc sống cho con người thế hệ mới, con người xã hội chủ nghĩa, phục vụ thiết thực cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Xây dựng nền giáo dục phổ thông theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” để hội nhập một cách hiệu quả, theo kịp trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông, đảm bảo cho mọi đối tượng được đi học, ưu tiên phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người; tạo điều kiện cho học sinh nghèo, học sinh dân tộc ít người có cơ hội học tập. Phát triển giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội, phát triển giáo dục phải phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với gia đình, xã hội. Tăng cường hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh phổ thông. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, thúc đẩy chủ trương giáo dục là sự nghiệp của Đảng, nhà nước và nhân dân, thực hiện cả xã hội cùng chăm lo phát triển giáo dục phổ thông. 2. Định hướng phát triển giáo dục phổ thông: Trên cơ sở các căn cứ xác định định hướng phát triển giáo dục phổ thông cho từng cấp học cụ thể trong giai đoạn 2006-2010 như sau: - Giáo dục tiểu học: là bậc học nền tảng của giáo dục, với mục tiêu hình thành những khả năng, kỹ năng, nhân cách ban đầu cho học sinh để tiếp tục học lên THCS. Do đó định hướng phát triển tiểu học theo các hướng chủ yếu: + Củng cố thành quả phổ cập tiểu học trong cả nước, từng bước thực hiện phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. + Phát triển những năng lực sẵn có của các em, hình thành ở học sinh lòng ham hiểu biết, có hứng thú học tập và học tập tốt. + Xây dựng mạng lưới các trường tiểu học rộng khắp trên toàn quốc đảm bản mọi người đều tiếp cận được với giáo dục, đều có cơ hội học tập. - Giáo dục THCS: là bậc học tiếp theo của giáo dục tiểu học, phát triển những kết quả đã đạt được trong bậc học trước, trang bị những kiến thức mới, những hiểu biết ban đầu về hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau THCS, tạo điều kiện cho học sinh học tập tiếp hoặc đi vào cuộc sống lao động. + Tiếp tục thực hiện giáo dục toàn diện, tạo điều kiện cho học sinh phát triển hài hoà về đức và tài, phẩm chất và năng lực, sức khoẻ và thẩm mỹ. + Đẩy mạnh phổ cập THCS trên phạm vi cả nước. + Bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên. + Xây dựng thêm trường lớp, kiên cố hoá các trường lớp ở các vùng khó khăn, các vùng có nhiều thiên tai. - Giáo dục THPT: là bậc học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là bậc học hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về hướng nghiệp để tiếp tục học lên giáo dục đại học, trung học chuyên nghiệp hoặc tham gia lao động. + Thực hiện giáo dục toàn diện, hoàn thành việc cung cấp kiến thức phổ thông cho học sinh theo một chuẩn nhất định, chú trọng hướng nghiệp và cung cấp những năng lực nghề nghiệp phổ biến để thuận lợi cho học sinh trong việc chọn ngành học tiếp hay lao động. + Thực hiện chương trình phân ban hợp lý, có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh. + Củng cố các trường THPT chuyên ở các địa phương và thuộc các trường đại học để bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. + Liên kết các trường THPT với các trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề ở các địa phương. 3. Mục tiêu phát triển giáo dục phổ thông Việt Nam: 3.1. Mục tiêu chung: Kế hoạch giáo dục Việt Nam giai đoạn 2006-2010 đặt ra một số mục tiêu chung cho giáo dục phổ thông là: Củng cố và duy trì những kết quả đạt được về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy mạnh phổ cập giáo dục THCS, tiến tới hoàn thành phổ cập THCS vào năm 2010. Thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thê, mỹ, cung cấp kiến thức phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp, nâng cao năng lực tư duy, kỹ năng thực hành, tăng tính thực tiễn, coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước. Nâng tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục, tăng huy động các nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu và học tập. Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục từ truyền đạt tri thức thụ động sang chủ động, tự học, có tư duy phân tích, tổng hợp, tạo điều kiện phát triển năng lực của người học. Đổi mới chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, chú trọng rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo. Chú trọng đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên cho các địa phương vùng sâu, vùng xa, cho đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng mạng lưới trường lớp phổ thông rộng khắp, đảm bảo cho mọi người đều có cơ hội được học tập đầy đủ. 3.2. Mục tiêu cụ thể: Một số mục tiêu cụ thể đặt ra cho giáo dục phổ thông Việt Nam đối với từng cấp học đến năm 2010 như sau: - Giáo dục tiểu học: + Nâng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường đạt 99% vào năm 2010. + Nâng số trường, lớp tiểu học học 2 buổi/ngày lên khoảng 50% vào năm 2010, đầu tiên là ở các vùng đô thị và vùng kinh tế phát triển. + Nâng cao trình độ giáo viên tiểu học có trình độ cao đẳng lên 40% vào năm 2010. - Giáo dục THCS: + Đạt chuẩn phổ cập THCS trong cả nước vào năm 2010. + Tăng tỷ lệ học sinh THCS trong độ tuổi đi học lên 90% vào năm 2010. + Đảm bảo giáo viên THCS theo định mức giáo viên/lớp, 100% giáo viên có trình độ cao đẳng trở lên, tỷ lệ giáo viên có trình độ đại học khoảng 60% vào năm 2010. - Giáo dục THPT: + Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi học THPT lên 45% vào năm 2010. + Nâng tỷ lệ giáo viên THPT có trình độ thạc sỹ lên 10%. + Đến năm 2010 có khoảng 60% trường được kết nối mạng internet, tất cả các trường đều có thư viện nhà trường. Từ trên xác định được bảng một số các chỉ tiêu kế hoạch giáo dục thời kỳ 2006-2010: Bảng : Một số chỉ tiêu kế hoạch giáo dục 2006-2010 (đến năm 2010) Chỉ tiêu Tiểu học THCS THPT Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi 99% 90% 45% Số giáo viên/lớp học 1,15 1,85 2,1 Tỷ lệ phổ cập 100% 100% - Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn 100% 100% 100% Nguồn: Tài liệu tổng hợp 3.3. Tính toán một số chỉ tiêu cụ thể: - Chỉ tiêu quy mô học sinh: Dự báo quy mô học sinh đến trường của các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu khi xây dựng kế hoạch tài chính, nhân lực, nhu cầu vật chất phục vụ phát triển giáo dục phổ thông và các kế hoạch giáo dục phổ thông khác. Chỉ tiêu này được dự báo bằng phương pháp tỷ lệ học sinh theo học trong dân số thuộc độ tuổi đến trường của từng cấp học, trên cơ sở căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2001-2010, các chủ trương chính sách của nhà nước về phổ cập giáo dục, về giáo dục phổ thông. Với số liệu dự báo dân số trong độ tuổi đến trường của từng cấp học và tỷ lệ đi học đúng độ tuổi theo mục tiêu của kế hoạch giáo dục 2006-2010 đặt ra cho từng cấp học và hiệu chỉnh trên cơ sở thực tế giáo dục phổ thông, dự báo được quy mô học sinh của các cấp học đến năm 2010 theo bảng sau: Bảng 18: Quy mô học sinh phổ thông Việt Nam đến năm 2010 Đơn vị: học sinh Quy mô học sinh phổ thông 2003-2004 Đến 2010 Tiểu học 8345974 7827000 THCS 6569789 6831000 THPT 2589623 2774000 Nguồn: tài liệu tổng hợp và tính toán Nhìn vào kết quả tính toán cho thấy đến năm 2010 quy mô học sinh phổ thông ở cấp học tiểu học tiếp tục giảm, cụ thể giảm 518.974 học sinh; THCS tăng nhiều nhất là 261.211 học sinh và THPT tăng là 184.377 học sinh so với hiện nay, tương ứng tỷ lệ tăng giảm học sinh trung bình/năm đối với bậc tiểu học là 1%/năm, của THCS là 0,8%/năm và THPT là 1,1%/năm. Nguyên nhân chủ yếu là do mức sinh giảm trong thời kỳ trước làm giảm số lượng học sinh đến độ tuổi đi học trong các cấp học từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô học sinh phổ thông đến năm 2010 nhưng cấp học THCS và THPT vẫn tăng do công tác phổ cập giáo dục THCS được đẩy mạnh. - Chỉ tiêu quy mô lớp học: Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên cơ sở quy mô học sinh phổ thông được dự báo ở trên và căn cứ vào chuẩn về số học sinh/lớp học áp dụng cho cả nước theo Văn bản 7977/TT-TB ngày 7/12/1993. Kết quả tính toán như sau: Bảng 19: Số lớp học phổ thông ở Việt Nam đến năm 2010 Đơn vị: lớp học Quy mô lớp học phổ thông 2003-2004 Đến 2010 Tiểu học 299418 223629 THCS 165650 170775 THPT 55784 59021 Nguồn: tài liệu tổng hợp và tính toán Qua tính toán cho thấy đến năm 2010 số lớp học ở cấp học tiểu học giảm , số lớp học của cấp THCS và THPT tăng so với hiện nay, cụ thể bậc tiểu học giảm nhiều nhất là 75.789 lớp học, THCS tăng 5.125 lớp học và THPT tăng là 3.237 lớp học so với hiện nay. Tỷ lệ tăng giảm số lớp học qua các năm tương ứng là tiểu học 4,2%/năm, THCS tăng 0,5%/năm và THPT là 1%/năm, nguyên nhân do quy mô số học sinh phổ thông ở c cấp học tiểu học giảm trong khi quy mô của THCS và THPT đều tăng. - Chỉ tiêu quy mô giáo viên: Trên cơ sở tính toán chỉ tiêu quy mô lớp học phổ thông các cấp học đến năm 2010 ở trên và chuẩn về số giáo viên/lớp học với giả định các trường tiểu học đến năm 2010 đều có giáo viên nhạc hoạ, các trường THCS đều được giảng dạy ngoại ngữ sẽ xác định được số giáo viên phổ thông cho các cấp học theo bảng sau: Bảng 20: Số giáo viên phổ thông đến năm 2010 Đơn vị: giáo viên Quy mô lớp học phổ thông 2003-2004 Đến 2010 Tiểu học 366215 257173 THCS 290410 315934 THPT 98759 123944 Nguồn: tài liệu tổng hợp và tính toán Theo kết quả dự báo ở trên số giáo viên THPT tăng 25.185 giáo viên, bậc học THCS số giáo viên tăng tương ứng là 25.524 giáo viên còn bậc tiểu học giảm là 109.042 giáo viên. Tốc độ tăng quy mô giáo viên THPT là 4,25%/năm, của bậc học THCS là 1,5%/năm trong khi tốc độ giảm quy mô giáo viên của tiểu học khoảng 5%/năm. Nguyên nhân của kết quả trên là do số lượng lớp học ở cấp học tiểu học giảm trong khi số lớp học của THCS và THPT đều tăng, mặt khác hiện nay mới chỉ có bậc tiểu học là đáp ứng chuẩn về giáo viên/lớp học, THCS và đặc biệt là THPT còn chưa đạt chuẩn nên quy mô giáo viên tăng nhiều, tốc độ tăng lớn. III. Một số giải pháp phát triển giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn 2006-2010: 1. Bảo đảm đội ngũ giáo viên cho phát triển giáo dục phổ thông: Trong giáo dục nói chung cũng như giáo dục phổ thông nói riêng, các yếu tố như mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, cơ sở vật chất tuy quan trọng nhưng yếu tố quan trọng nhất là người thầy, các yếu tố trên chỉ thực sự phát huy tác dụng nếu thầy và trò đều có nhiệt tình dạy và học. Nói như thế để thấy rằng chất lượng của giáo dục phổ thông phụ thuộc phần lớn vào nhiệt tình dạy của thầy và nhiệt tình học của trò. Thực tế hiện nay, đội ngũ giáo viên các bậc học trừ tiểu học đều thiếu về số lượng, giáo viên THCS thiếu khoảng 25.500, THPT thiếu 21.100 người. Chất lượng giáo viên các cấp học đều yếu, còn thấp so với yêu cầu, đặc biệt là ở các vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số như Tây Nguyên, Tây Bắc trong khi chính sách sử dụng lại đầy bất cập, điều này dẫn đến tình trạng vừa thiếu lại vừa lãng phí. Ngay trong bậc tiểu học mặc dù đủ về số lượng nhưng thiếu về giáo viên nhạc, hoạ, thể dục , giáo viên ở cấp học THCS và THPT đều thiếu. Đến năm 2010 nhu cầu giáo viên cho bậc THCS tăng so với hiện nay là 25.524 giáo viên và bậc học THPT là 25.185 giáo viên. Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 40 –CT/TƯ về việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, cho thấy sự cần thiết phải xây dựng, đổi mới đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Do đó nội dung bảo đảm đội ngũ giáo viên cho phát triển giáo dục phổ thông tập trung vào các giải pháp bảo đảm đủ về số lượng giáo viên, bảo đảm cơ cấu hợp lý và bảo đảm chất lượng cho đội ngũ giáo viên. Bảo đảm số lượng đội ngũ giáo viên: Nhằm mục đích đào tạo đội ngũ giáo viên đủ về số lượng phục vụ thiết thực cho yêu cầu phát triển của giáo dục phổ thông: + Xây dựng quan điểm đúng đắn về đào tạo sư phạm, xây dựng kế hoạch tuyển sinh một cách hợp lý, khắc phục tình trạng giáo viên thiếu và không đồng bộ. + Mở rộng quy mô đào tạo, tuyển sinh của các trường Đại học, cao đẳng sư phạm trên phạm vi cả nước, tập trung hướng vào các trường sư phạm tại địa phương phục vụ trực tiếp cho nhu cầu giáo viên của địa phương đó. Củng cố, tăng cường năng lực các trường sư phạm. + Có các chính sách thu hút học sinh thi vào các trường sư phạm như: không thu học phí, chế độ học bổng + Có chính sách cải cách sư phạm đồng bộ, đồng thời với đổi mới giáo dục phổ thông. + Giải quyết việc làm cho sinh viên các trường sư phạm sau khi tốt nghiệp, khắc phục tình trạng nhiều sinh viên ra trường không có việc làm trong khi đang thiếu giáo viên ở nhiều nơi., sinh viên sư phạm không phải đóng học phí và được cấp học bổng. Bảo đảm cơ cấu giáo viên hợp lý: Nhằm thực hiện việc phân bổ giáo viên hợp lý giữa các vùng trong cả nước đồng thời đảm bảo số giáo viên cho các môn học khác nhau, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên dạy thể dục, mỹ thuật, giáo dục công dân... + Chế độ lương cao hơn các ngành khác cho đội ngũ giáo viên. + Có chính sách sử dụng hợp lý, ưu tiên cho các giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. + Tăng lương, có chế độ phụ cấp, tạo điều kiện tốt nhất cho các giáo viên công tác tại các vùng còn khó khăn. + Trong các trường đào tạo sư phạm thực hiện đào tạo hợp lý, cân đối giữa các môn khác nhau + Tập trung đào tạo đội ngũ giáo viên là người dân tộc thiểu số trực tiếp công tác tại địa phương, đảm bảo phân bố hợp lý. Bảo đảm chất lượng đội ngũ giáo viên: Chất lượng giáo viên được nâng cao là một điều kiện hết sức quan trọng đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Các giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm chất lượng giáo viên là: + Trong phương thức đào tạo cần hướng nhiều hơn nữa vào thực tế, cụ thể là môi trường giáo dục phổ thông, bảo đảm tỷ lệ lý thuyết và thực hành cân đối, đưa các nội dung mang tính xã hội như ma tuý, môi trường, dân số vào đào tạo cho giáo viên. Đổi mới chương trình và sách tài liệu học tập. + Bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, đặc biệt là các giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, miền núi. + Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên, đào tạo cho số giáo viên chưa đạt chuẩn đào tạo. + Nâng cao chất lượng hệ thống các trường sư phạm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. 2. Huy động vốn đầu tư cho phát triển giáo dục phổ thông: Trong những năm qua mặc dù nhà nước và nhân dân đã có nhiều cố gắng nhằm tăng cường nguồn vốn đầu tư cho giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng tuy nhiên so với nhu cầu thì mức đầu tư cần phải được tăng cường, bổ sung hơn nữa mới có thể đáp ứng yêu cầu. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai, do đó cần phải tăng số lượng đầu tư này, có vậy mới phát triển được giáo dục nói chung, cụ thể ở đây là giáo dục phổ thông. Do số lượng có hạn nên các nguồn vốn này phải được sử dụng một cách có hiệu quả, bảo đảm nguồn vốn đầu tư cho phát triển giáo dục phổ thông. *Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu của giáo dục và giáo dục phổ thông. Ngân sách nhà nước được sử dụng để trả lương, các khoản phụ cấp cho giáo dục và đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ giáo dục, cung cấp các trang thiết bị, đồ dùng cho giảng dạy và học tập. Để tăng nguồn và sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước cần tập trung vào các giải pháp như: + Ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho bậc giáo dục phổ cập tiểu học và THCS, cho vùng nông thôn, miền núi, cho những nơi khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. + Tăng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị, sách giáo khoa phục vụ phát triển giáo dục phổ thông. + Thực hiện định mức phân bổ chi ngân sách cho giáo dục phổ thông dựa theo dân số trong độ tuổi đến trường *Tăng cường sử dụng vốn đầu tư từ các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình tài trợ quốc tế và nước ngoài: Các chương trình mục tiêu quốc gia về phổ cập THCS, hỗ trợ giáo dục miền núi và vùng khó khăn bên cạnh đó là các chương trình hỗ trợ phát triển giáo dục phổ thông của các tổ chức như Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc, ADB, WB, các nguồn viện trợ ODA đã có tác động tích cực rõ rệt đối với phát triển giáo dục phổ thông. Giải pháp chủ yếu trong giai đoạn 2006-2010 là: + Tích cực huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài vào phát triển giáo dục. + Tăng cường huy động vốn thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển giáo dục phổ thông. *Huy động các nguồn lực khác trong xã hội: Trong điều kiện đất nước còn khó khăn, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục mặc dù luôn tăng qua các năm nhưng vẫn còn thiếu nhiều so với yêu cầu, do đó rất cần các nguồn vốn khác để bổ sung cho đầu tư phát triển giáo dục phổ thông. Các nguồn lực trong xã hội là những nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn từ ngân sách nhà nước nhằm phát triển giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng hơn nữa, các giải pháp chủ yếu là: + Vận động, kêu gọi các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp đóng góp, ủng hộ cho phát triển giáo dục phổ thông. + Thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm để tăng nguồn cho phát triển giáo dục phổ thông đồng thời tạo cơ hội cho ngân sách nhà nước cho giáo dục tập trung vào những nội dung khác. + Phát hành công trái giáo dục thu hút nguồn vốn cho thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển giáo dục. 3. Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông: Giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông là lĩnh vực mang tính xã hội rộng lớn, quản lý giáo dục phổ thông là một hoạt động mang tính nghiệp vụ, tính chỉ đạo nhưng trong thời gian qua các điều kiện cho quản lý giáo dục phổ thông có hiệu quả luôn biến động, không ổn định. Do đó đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường chức năng quản lý nhà nước với giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng là điều cần thiết nhằm nâng cao chức năng của ngành giáo dục và đào tạo, thống nhất chức năng, quyền hạn của các sở, ban ngành, làm cho bộ máy hoạt động một cách ổn định, phù hợp với thực tiễn. Việc đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông được thực hiện tập trung vào một số nội dung sau: + Sửa đổi Luật giáo dục Việt Nam, ban hành văn bản dưới luật, cơ chế chính sách liên quan, tạo hành lang pháp lý thực hiện giáo dục phổ thông theo pháp luật. + Đẩy mạnh cải cách hành chính trong ngành giáo dục, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn. + Tăng cường công tác dự báo và xây dựng tiêu chuẩn định mức mới trong lập kế hoạch giáo dục phổ thông, kế hoạch cụ thể về bồi dưỡng đội ngũ giáo viên làm phổ cập THCS, về chương trình, sách giáo khoa phục vụ dạy và học, kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng cho các tỉnh khó khăn nhằm định hướng cho phát triển giáo dục phổ thông. + Đưa giáo dục, trong đó có giáo dục phổ thông vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của từng ngành và từng địa phương. + Ban hành các chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế xã hội như tăng cường giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông + Phân cấp, phân quyền quản lý rành mạch, tăng cường bộ máy, thực hiện tốt chức năng thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc thực thi Luật, các chính sách, chế độ và các tiêu chuẩn chất lượng cho giáo dục phổ thông hoạt động có hiệu quả và nề nếp. + Cải cách chế độ tiền lương, mức lương cho đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng, đảm bảo phù hợp với vị trí của ngành và mặt bằng chung của xã hội. + Đổi mới theo công tác quản lý tài chính giáo dục theo hướng thực hiện chế độ tài chính công khai và chế độ kiểm toán đồng thời với việc trao quyền chủ động về tài chính. + Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho giáo dục và giáo dục phổ thông nói riêng. Song song với việc đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông cần tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục theo hướng đáp ứng yêu cầu tình hình mới, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục phổ thông. Một số giải pháp được đề cập đến gồm: + Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đồng bộ theo hướng đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và phổ cập giáo dục THCS. + Xây dựng, quy hoạch, từng bước nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục phổ thông ở cơ sở, tạo điều kiện nâng cao chất lượng của hoạt động quản lý giáo dục. + Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cho cán bộ quản lý giáo dục, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho các cấp chính quyền, ngành giáo dục trong công tác quản lý giáo dục phổ thông. 4. Nâng cao công tác xã hội hoá giáo dục: Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo với tư cách là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới cách mạng khoa học công nghệ cũng phát triển không ngừng. Giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng lúc này không chỉ còn là hoạt động của nhà nước mà nó mang tính xã hội rộng lớn, sự nghiệp giáo dục trở thành sự nghiệp của toàn xã hội vì mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Theo hướng đó sự nghiệp giáo dục phổ thông là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhân dân. Từ Nhà nước cho đến từng người dân, từ trung ương cho đến từng địa phương đều làm giáo dục. Xã hội hoá giáo dục là một trong những con đường thực hiện dân chủ hoá trong giáo dục phổ thông, từng bước xoá mù chữ, nâng cao dân trí cho mọi người dân, làm cho mọi người đều có cơ hội được học tập, đều có quyền bình đẳng trước giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông, giáo dục nền tảng của mỗi con người, bảo đảm chất lượng, mục tiêu giáo dục. Xã hội hoá giáo dục phổ thông là một giải pháp có tác dụng rất to lớn đối với sự phát triển giáo dục phổ thông: + Xã hội hoá giáo dục phổ thông sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của mọi người dân đối với giáo dục, ở đây là giáo dục thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước, là nguồn nhân lực quyết định cho sự nghiệp phát triển của đất nước. + Xã hội hoá giáo dục phổ thông là cơ sở tạo nên một môi trường giáo dục thống nhất nhà trường, gia đình, xã hội, tạo nên một “xã hội học tập”. + Xã hội hoá giáo dục cũng làm tăng thêm nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài chính cho phát triển giáo dục phổ thông, đây là biện pháp huy động nguồn hết sức quan trọng trong điều kiện nguồn ngân sách nhà nước không đủ đáp ứng nổi nhu cầu ngày càng tăng của phát triển giáo dục. + Xã hội hoá giáo dục góp phần động viên về tinh thần và vật chất cho người thầy, khuyến khích các em chăm học, giúp đỡ các em học sinh nghèo học giỏi, khen thưởng học sinh giỏi. Nâng cao công tác xã hội hoá giáo dục phổ thông tập trung vào các hướng chủ yếu sau: * Xã hội hoá về đào tạo giáo dục phổ thông: + Đa dạng hóa các hình thức trường lớp, không chỉ dưới dạng các trường công lập mà còn các trường dân lập, bán công và tư thục trên cơ sở mục tiêu, nội dung giáo dục và chuẩn kiến thức thống nhất cho tất cả các loại hình trường, tiến tới xoá bỏ hệ bán công trong hệ thống giáo dục phổ thông. + Mở rộng, huy động và khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, các cá nhân trong xã hội tham gia phát triển các loại hình trường ngoài công lập. + Ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản pháp quy, cơ chế, chính sách và các văn bản hướng dẫn thực hiện về một số vấn đề như chế độ học phí, vấn đề sở hữu trong trường ngoài công lập, chế độ chính sách đối với giáo viên, học sinh, cá nhân, tổ chức tham gia góp vốn đầu tư vào giáo dục, vấn đề nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong trường học * Xã hội hoá về cấp đào tạo giáo dục phổ thông: + Phát triển các trường lớp ngoài công lập không chỉ ở cấp THPT mà còn ở cấp THCS, tiểu học tại các vùng đông dân cư, vùng kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nước đầu từ vào các vùng khó khăn hơn. + Ban hành các quy chế, chính sách cụ thể đối với các trường lớp ngoài quốc lập ở tất cả các cấp học của hệ thống giáo dục phổ thông. + Tăng cường công tác quản lý và sự phối kết hợp của các cơ quan trung ương và địa phương trong việc quản lý các trường lớp ngoài công lập ở các cấp học. * Xã hội hoá về vốn cho giáo dục phổ thông: Để đảm bảo vốn đầu tư cho phát triển giáo dục phổ thông, việc đóng góp của nhân dân là hết sức quan trọng trong điều kiện đất nước còn khó khăn: + Tăng cường công tác quản lý và sự phối kết hợp của các cơ quan trung ương và địa phương trong việc quản lý các trường lớp ngoài công lập. + Tổ chức các đại hội giáo dục địa phương ở xã, huyện, tỉnh để tăng cường ra sự phối hợp nhà trường – xã hội – gia đình, tạo môi trường giáo dục tích cực, có tác dụng trong việc giáo dục con em. + Kêu gọi, huy động sự đóng góp của nhân dân cho phát triển giáo dục phổ thông trong xây dựng trường lớp, trang thiết bị phục vụ giảng dạy. + Phát hành công trái giáo dục phục vụ cho các chương trình mục tiêu quốc gia. * Xã hội hoá về giáo dục phổ thông cho người nghèo: Việc thực hiện xã hội hoá về giáo dục phổ thông cho người nghèo sẽ tạo điều kiện cho người nghèo được đến trường, nâng cao trình độ dân trí, giúp họ thoát khỏi tình trạng đói nghèo: + Nhà nước và nhân dân cùng đóng góp ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng cho phát triển giáo dục ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. + Đẩy mạnh thực hiện chương trình 135, kêu gọi nhà nước và nhân dân cùng làm, vì mục đích phát triển giáo dục cho cộng đồng. Tất cả nhằm mục đích đáp ứng nguyện vọng học tập chính đáng của người dân, đưa phong trào học tập phát triển rộng rãi, xây dựng cả nước thành một xã hội học tập và đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp chuyển giao công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 5. Đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông: Giáo dục phổ thông là nền tảng của hệ thống giáo dục, hướng dẫn, giáo dục các em có một phương pháp, tư duy học tập khoa học, chủ động, sáng tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng tiếp thu kiến thức được truyền đạt. Phương pháp dạy và học trong hệ thống giáo dục phổ thông theo hướng học vẹt, đọc thuộc lòng, tập nhắc lại và làm bài tập không giúp các em hình thành một cách học tư duy, chủ động, sáng tạo trong giải quyết vấn đề, nó kìm hãm, làm thui chột khả năng sáng tạo, năng lực sẵn có của mỗi học sinh. Do đó việc đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước là rất quan trọng nhằm khơi dậy tiềm năng trong mỗi học sinh, hình thành một tư duy phân tích sáng tạo, tổng hợp, thích nghi với những biến đổi của cuộc sống. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng đó, để phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn 2006-2010 thì việc đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông là một giải pháp cần thiết. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông như: + Giảm hợp lý nội dung chương trình học cho phù hợp với tâm sinh lý của học sinh cấp tiểu học và THCS. + Cung cấp kịp thời và đầy đủ, đồng bộ sách giáo khoa, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, xây dựng phòng học, phòng thí nghiệm đáp ứng nhu cầu dạy và học theo chương trình và sách giáo khoa mới, đặc biệt quan tâm đến các vùng sâu, vùng khó khăn và có các biện pháp phù hợp với thực tiễn của địa phương. + Chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động theo kiểu thầy giảng trò ghi sang hướng học sinh chủ động tư duy tiếp nhận tri thức, giáo dục cho học sinh phương pháp tự học, chủ động trong việc thu nhận kiến thức, có một tư duy phân tích, tổng hợp khi giải quyết vấn đề. + Ban hành các cơ chế, chính sách nhằm hướng dẫn việc giảng dạy và học tập theo nội dung chương trình, sách giáo khoa mới cho các cấp học tiểu học và THCS. + Thực hiện phân ban trong nhà trường THPT, tăng cường tính hướng nghiệp, đào tạo nghề trong giáo dục THCS và THPT. + Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông. Kết luận Luận văn “Một số ý kiến về định hướng và giải pháp phát triển giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn 2006-2010” đã nêu lên những vấn đề lý luận về giáo dục phổ thông, các chỉ tiêu đánh giá phát triển giáo dục phổ thông, chỉ rõ thực trạng giáo dục phổ thông giai đoạn 2001-2004, từ đó đưa ra một số ý kiến về định hướng và giải pháp nhằm phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 2006-2010. Luận văn đã tập trung đi sâu vào đánh giá thực trạng giáo dục phổ thông Việt Nam trong thời kỳ kế hoạch 2001-2005, rút ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế so với kế hoạch, tìm ra các nguyên nhân chủ yếu của tình hình đó. Trên cơ sở các quan điểm, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch giáo dục thời kỳ 2006-2010, luận văn đã nêu lên một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục phổ thông Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010. Thông qua nghiên cứu, tìm hiểu em đã thấy rõ được tầm quan trọng của phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục phổ thông nói riêng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế, cách mạng khoa học công nghệ, đổi mới giáo dục đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Do hạn chế về vốn kiến thức, kinh nghiệm, khả năng nghiên cứu nên luận văn của em còn thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ, đánh giá của thầy giáo để bản luận văn hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Ngô Thắng Lợi, cô Khúc Thị Tình và toàn thể cán bộ, chuyên viên của Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân đã giúp em hoàn thành luận văn này. Danh mục tài liệu tham khảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia-2001. Luật giáo dục Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia-1998. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010. Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI. Kinh nghiệm của các quốc gia. NXB Chính trị quốc gia-2002. Niên giám thống kê 2001, 2002, 2003. Thống kê giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên năm học 2001-2002, 2002-2003, 2003-2004. PGS.TS Ngô Thắng Lợi: Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội. NXB Thống kê-2002. GS.Vs Phạm Minh Hạc: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI. NXB Chính trị quốc gia-1999. Tài liệu hướng dẫn phương pháp lồng ghép biến dân số vào kế hoạch hoá giáo dục. Dự án VIE/97/P15- Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Báo cáo giáo dục qua các năm. TS Đặng Thị Thanh Huyền: Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng nguồn nhân lực-Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản. NXB Khoa học xã hội-2001. Dự báo dân số Việt Nam 1999-2024. NXB Thống kê Số liệu các mục tiêu phát triển của Việt Nam 2001-2003. NXB Thống kê Niên giám giáo dục 2003. NXB Thống kê-2003 Tạp chí giáo dục các năm 2003, 2004, 2005.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3052.doc
Tài liệu liên quan