Đề tài Hoàn thiện phân tích tài chính tại công ty TNHH Caba

Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Về mặt nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị tham chiếu. Chúng ta không thể đánh giá một cách chính xác về thực trạng tài chình của một doanh nghiệp qua một phương pháp. Do vậy, việc kết hợp hài hoà hai biện pháp so sánh và tỷ lệ cho phép người phân tích thấy rõ được thực chất của hoạt động tài chính và xu hướng biến động từng chỉ tiêu tài chính trong doanh nghiệp qua các giai đoạn khác nhau. Mục tiêu cuối cùng của việc phân tích, đánh gía các hệ số tài chính là tìm ra được mối liên hệ giữa các hệ số tài chính. Để rút ra những điểm mạnh, điểm yếu trong công tác quản lý tài chính ở doanh nghiệp.

doc85 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện phân tích tài chính tại công ty TNHH Caba, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i và mức tăng tương đối cao và đạt tại mức cao hơn cả năm 2005. So với năm 2006, doanh thu thuần năm 2007 tăng 667,656 tỷ đồng tức 95,96%. Có được kết quả như vậy là nhờ sự nỗ lực không ngừng của công ty trong việc nâng cao chất lượng xây dựng công trình và đảm bảo tiến độ xây dựng để tạo được chữ tín trong kinh doanh do đó đã được tổng công ty tin tưởng giao cho nhiều công trình quan trọng đồng thời công ty cũng tự tìm kiếm được các công trình ở Hà Nội cũng như ở các tỉnh. Tuy nhiên trong năm nay lượng dự trữ của công ty lại tăng mạnh (190,68%) gần gấp đôi năm trước. Sở dĩ như vậy là vì trong năm nay chi phí sản xuất kinh doanh dở dang của công ty tăng khá mạnh. Cụ thể là tăng một lượng là 159,747 tỷ đồng (193,96%). Vì vậy, mặc dù doanh thu thuần tăng nhưng do dự trữ tăng mạnh như vậy nên vòng quay dự trữ của công ty lại tiếp tục giảm chỉ còn 5,61%, so với năm 2006 giảm 32,65%. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng trong phân tích tài chính để đánh giá khả năng thu hồi tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Các con số về kỳ thu tiền bình quân của công ty cho thấy thời gian để thu hồi các khoản phải thu có những biến động khá thất thường trong 3 năm gần đây. Nhìn chung kỳ thu tiền bình quân của công ty là tương đối cao. Trong 3 năm này, thời gian thu hồi các khoản phải thu thấp nhất cũng gần 6 tháng và cao nhất là trên một năm. Nếu năm 2005, công ty cần 251,6 ngày để thu hồi các khoản phải thu thì đến năm 2006 công ty phải cần đến 403,8 ngày (tăng 60,49%). Điều này được lý giải vì các khoản phải thu tăng mạnh (48,18%) và đây cũng là năm công ty có khoản phải thu cao nhất trong 3 năm gần đây đồng thời doanh thu thuần lại giảm. Như vậy tình hình các khoản phải thu như vậy là khá đáng ngại. Cụ thể là trong các khoản phải thu thì khoản mục phải thu của khách hàng tăng nhiều nhất và chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng số các khoản phải thu (65,64%). So với năm 2005 phải thu của khách hàng năm 2006 tăng 153,834 tỷ đồng (42,74%). Mặc dù theo thuyết minh báo cáo tài chính thì không có khoản phải thu nào là quá hạn cả nhưng điều này cũng chứng tỏ rằng trong năm này công ty đã bị chiếm dụng vốn khá lớn. Nền kinh tế trong nước năm 2006 gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng chậm, thị trường kém sôi động. Trong điều kiện như vậy công ty phải đặt ra một chính sách mở rộng tín dụng để thu hút khách hàng là điều hợp lý. Năm 2007, kỳ thu tiền bình quân của công ty đã được cải thiện. Kỳ thu tiền bình quân trong năm 2007 đã giảm xuống chỉ còn 166,1 (giảm 58,87%)-là mức thấp nhất trong 3 năm gần đây. Có thể dễ dàng nhận ra nguyên nhân của sự thay đổi này là do trong khi doanh thu thuần của công ty tăng mạnh (95,68) thì các khoản phả thu của công ty lại giảm đáng kể. Nhìn vào bảng thông kê chi tiết về các khoản phải thu thi có thể nhận ra rằng hầu hết các khoản mục như : phải thu của khách hàng, trả trước cho người bán hay phải thu nội bộ đều giảm. Vòng quay vốn lưu động: Nếu như các tỷ lệ vòng quay tiền, vòng quay dự trữ và kỳ thu tiền bình quân cho thấy tốc độ luân chuyển của từng khoản mục riêng rẽ trong tài sản lưu động của doanh nghiệp thì chỉ tiêu vòng quay vốn lưu động sẽ cho biết rõ hơn hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp. Cũng giống như vòng quay tiền, vòng quay dự trữ, vong quay vốn lưu động của công ty cũng có chiều hướng biến động tương tự, tức là giảm vào năm 2006 và lạI tăng vào năm 2007. Năm 2005, vòng quay vốn lưu động của công ty là 1,28 vòng; năm 2006 là 0,78 vòng và năm 2007 đã được cải thiện hơn so với hai năm trước đạt tại mức 1,35 vòng. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng biến động của tốc độ luân chuyển dự trữ và kỳ thu tiền bình quân. Kỳ thu tiền bình quân cao thể hiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty chưa được tốt. Vòng quay vốn lưu động tuy được cải thiện vào năm 2007 nhưng vẫn còn thấp vì vậy công ty cần phải có biện pháp đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động vì đây là cách tốt nhất để tăng doanh thu mà không cần đầu tư thêm cho tài sản lưu động. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định phản ánh hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị nhà xưởng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng tài sản cố định hao phí tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Bảng số liệu trên cho biết hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty xây dựng số 1 năm 2005 đạt 18,3 tức là cứ 1 đồng tài sản cố định hao phí tạo ra 18,3 đồng doanh thu; năm 2006 con số này đạt ở mức thấp hơn là 10,2; nhưng đến năm 2007 hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty lại tăng lên trên cả năm 2005 đạt 18,3. Điều này chứng tỏ mặc dù năm 2006 hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty có suy giảm nhưng tình hình này đã được công ty cải thiện ngay lập tức để duy trì và vượt mức con số này. Trong 3 năm công ty liên tục đầu tư thêm vào tài sản cố định, thanh lý những tài sản cố định đã cũ hỏng và mua mới ngay các tài sản cố định thay thế. Nhưng tuy nhiên doanh thu thuần lại không được gia tăng theo ý muốn. Mặc dù có chú trọng đầu tư rất nhiều mua sắm các máy móc thiết bị nhằm cải thiện quy trình lao động và nâng cao năng suất (tài sản cố định năm 2006 tăng 62,2% so với năm 2005) nhưng do trong năm 2006 tình trạng khó khăn chung nên doanh thu thuần trong năm bị giảm sút do vậy mà hiệu suất sử dụng tài sản cố định của năm đã giảm đáng kể. Năm 2007, tài sản cố định tăng thêm không đáng kể (8,95%) nhưng do đây là một năm làm ăn hiệu quả của công ty do đó doanh thu thuần của công ty khá cao do đó hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty lại tăng mạnh trở lại. Nhưng trong đó vai trò nâng cao năng suất lao động của tài sản cố định cũng chiếm một vị trí không nhỏ. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Tốc độ tăng của tổng tài sản của công ty trong giai đoạn 2005-2006 tăng nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu lam hiệu suất sử dụng tổng tài sản của năm sau nhỏ hơn năm trước. Cụ thể là năm 2006 tổng tài sản của công ty là 966,567 tỷ đồng tăng 334,113 tỷ đồng (52,83%) so với năm 2005 nhưng doanh thu thuần của công ty lại giảm 58,034 tỷ đồng (7,68%) nên hiệu suất sử dụng tổng tài sản lại giảm từ 1,195 xuống còn 0,722. Đến năm 2007, tổng tài sản tăng thêm 164,571 tỷ đồng (17,06%) trong khi đó doanh thu cũng tăng mạnh do đó hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng lên 1,207 tăng thêm 67,17% so với năm trước. Việc tổng tài sản của công ty năm sau luôn cao hơn năm trước cho thấy hoạt động kinh doanh của công ty không gặp phải thua lỗ làm mất vốn và từng bước mở rộng về quy mô thể hiện ở nhu cầu về vốn tăng cao để phát triển sản xuất. Tuy nhiên do việc phân bổ và sử dụng vốn còn hạn chế nên doanh thu năm 2006 chưa đạt được tương xứng với mức độ đầu tư cho tài sản. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản chịu ảnh hưởng của cả hiệu suất sử dụng tài sản cố định và tài sản lưu động. Đối với tài sản lưu động, dự trữ và phải thu ngày càng tăng làm giảm tốc độ luân chuyển vốn, còn đối với tài sản cố định thì để làm ra 1 đồng doanh thu công ty ngày càng phải hao phí nhiều tài sản cố định hơn. Như vậy, kết quả tất yếu là hiệu suất sử dụng tài sản của công ty đạt được giảm dần. Điều nay phù hợp với kết quả của giai đoạn 2005 - 2006 va giải thích ngược lại cho giai đoạn 2006-2007. 2.2.2.3. Phân tích khả năng sinh lời của công ty Nếu như các tỷ lệ tài chính trên phản ánh từng khía cạnh cụ thể liên quan đến tài chính doanh nghiệp thì các tỷ lệ về khả năng sinh lời là nhóm tỷ lệ phản ánh tổng hợp nhất kết quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Để đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp cần tính đến các chỉ tiêu sau: Bảng 6 -Phân tích khả năng sinh lời công ty TNHH CABA Đơn vị : tỷ đồng TT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 Lượng % Lượng % 1 EBIT 33,8902 24,895 44,1882 -8,9952 -26,54 19,2932 77,5 2 Lãi vay 9,2314 10,8356 17,2449 1,6042 17,38 6,4093 59,15 3 Lợi nhuận sau thuế 18,4940 10,5450 20,2075 -7,9495 -42,98 9,6629 91,64 4 Doanh thu thuần 755,8470 697,8130 1.365,4690 -58,0340 -7,68 667,6560 95,68 5 Vốn CSH 134,8154 133,1393 144,4490 -1,6160 -12 11,2497 8,45 6 Tổng TS 632,4540 966,5670 1.131,4380 334,1130 52,83 164,8710 17,06 7 Hiệu suất sd tổng TS 0,01195 0,00722 0,01207 -0,00473 -39,58 0,00485 67,17 8 Doanh lợi tiêu thụSP 0,00024 0,00015 0,00015 -0,00009 -37,5 0,0000 0 9 Doanh lợi vốn CSH 0,00137 0,00079 0,0014 -0,00058 -42,3 0,00061 77,22 10 Doanh lợi vốn (1)/(6) 0,000536 0,000258 0,000391 -0,000278 -51,87 0,000133 51,55 Nguồn : Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty TNHH CABA Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của công ty có xu hướng giảm đi trong 3 năm. Nêu như năm 1999 doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của công ty là 0,024 tức là trong 100 đồng doanh thu thì có 2,4 đồng lợi nhuận sau thuế thì đến năm 2000 và 2001 doanh lợi tiêu thụ sản phẩm sụt giảm và đều đạt tại mức 0,015. So với năm 1999, doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của năm 2000 giảm 37,5% trong khi đó doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của giai đoạn 2000-2001 là không thay đổi. Để tìm hiểu nguyên nhân của tình hình trên ta cần xem xét sự thay đổi của các yếu tố trong báo cáo kết quả kinh doanh của công ty. Bảng 7-Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty TNHH CABA Đơn vị : Tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 % 2006 % 2007 % 1 Doanh thu thuần 755,8471 100 697,8135 100 1365,4690 100 2 Giá vốn hàng bán 717,7502 94,96 654,8339 93,84 1.288,7940 94,385 3 Lợi nhuận gộp 38,0969 5,04 42,9796 6,159 76,6753 5,615 4 Chi phí bán hàng 0,0000 0,00 0,0000 0,00 0,0000 0,00 5 Chi phí quản lý DN 12,5682 1,663 29,3954 4,213 50,360 3,688 6 LN từ hoạt động KD 25,5287 3,377 13,5842 1,947 26,3150 1,927 7 LN từ hoạt động TC 0,0000 0,00 0,0000 0,00 -0,00176 -0,00013 8 LN bất thường -0,86999 -0,115 0,4752 0,0677 0,6297 0,046 9 Tổng LN trước thuế 24,6588 3,262 14,0594 2,015 26,9433 1,973 10 Thuế TNDN phải nộp 6,1647 0,816 3,5149 0,504 6,7358 0,467 11 LN sau thuế 18,4951 2,447 10,5446 1,511 20,2075 1,4799 Nguồn : Phòng tài chính - kế toán công ty TNHH CABA Năm 2006, doanh thu thuần có giá trị thấp hơn năm thấp hơn năm 2005 đồng thời lợi nhuận sau thuế của năm 2006 cũng sụt giảm so với năm 2005. Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy được rằng mặc dù trong năm 2006 doanh thu có thấp nhưng giá vốn hàng bán cũng thấp do vậy lợi nhuận gộp trong năm nay tăng hơn so với năm trước (năm 2005, giá vốn hàng bán chiếm 94,96% và lợi nhuận gộp đạt 5,04% trong khi đó năm 2006 giá trị của 2 chỉ tiêu này lần lượt là 93,84% và 6,159%) nhưng tuy nhiên mặc dù có lợi nhuận gộp tăng như vậy nhưng trong năm 2006 công ty đã chi nhiều cho chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí quản lý doanh nghiệp của năm 2006 tăng hơn gấp đôi so với năm 2005. Nguyên nhân ở đây là do trong năm này công thu đã tuyển dụng thêm một lượng cán bộ nhân viên gồm cả nhân viên quản lý tương đối lớn đồng thời do thay đổi về cơ cấu tổ chức công ty đã thành lập thêm 1 đơn vị thành viên do đó lượng chi phí quản lý doanh nghiệp đã tăng lên đột biến như vậy.Cũng trong năm 2006 theo quy định của Nhà nước mức lương tối thiểu được tăng. Và mặc dù trong năm 2006 công ty có thêm được khoản lợi nhuận từ chi phí bất thường (năm 2005 phải bỏ ra một khoản chi phí bất thường) nhưng khoản lợi nhuận này quá ít so với sự gia tăng của chi phí quản lý doanh nghiệp vì vậy kết quả tất yếu là lợi nhuận sau thuế của công ty đã giảm sút đáng kể so với năm 2005 (Lợi nhuận sau thuế năm 2006 giảm 7,9505 tỷ đồng so với năm 2005). Do đó, công ty đã đóng góp được ít hơn cho Nhà nước. Năm 2007 doanh thu thuần của công ty tăng trở lại và tăng khá mạnh (so với năm 2007 doanh thu thuần tăng một lượng là 667,6560 tỷ đồng tức 95,68%). Tuy nhiên giá vốn hàng bán cũng tăng cao hơn đạt 94,385%. Nguyên nhân là do trong năm 20007, trong năm này giá cả một số loại nguyên vật liệu tăng cao. Do vậy, xét về mặt lượng thì lợi nhuận gộp của công ty có tăng so với năm 2006 nhưng xét theo tỷ trọng thì lại thấp hơn con số của năm 2006. Do tính chất kinh doanh của ngành mình nên công ty không phải chịu chi phí bán hàng nhưng chi phí quản lý doanh nghiệp của công ty lại khá cao do công ty phải chi phí cho cả bộ máy tổ chức hoạt động hành chính tại trụ sở cũng như chi phí cho cả các nhân viên giám sát chất lượng công trình. Trong năm 2007, chi phí quản lý doanh nghiệp của công ty tăng gần gấp đôi so với năm 2006 nhưng xét về măt tỷ lệ thì lại nhỏ hơn điều này cũng chứng tỏ được rằng do có thêm nhiều công trình nên chi phi quản lý, giám sát chất lượng công trình đã tăng mạnh, trong năm này công ty lại tăng mức lương cơ bản cho công nhân để động viên ủng hộ họ do đó quỹ lương phải trả cho công nhân viên cũng tăng cao. Lợi nhuận bất thường của năm này cũng tăng nhẹ nhưng công ty lại chi ra một khoản cho chi phí tài chính. Do các yếu tố trên nên lợi nhuận trước và sau thuế của công ty đều tăng hơn năm trước và đây là mức lợi nhuận cao nhất mà công ty đạt được trong 3 năm hoạt động sản xuất kinh doanh gần đây. Do đó công ty làm nghĩa vụ đối với Nhà nước tôt hơn năm trước. Doanh lợi vốn chủ sở hữu: Tương tự doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, doanh lợi vốn chủ sở hữu của công ty cũng có xu hướng tương tự tức là giảm trong giai đoạn 2005-2006 và tăng trong giai đoạn 2006-2007 trong đó năm 2007 doanh lợi vốn chủ sở hữu đạt ở mức cao nhất. Năm 2006, cả lợi nhuận sau thuế và vốn chủ sở hữu đều giảm so với năm 2005 nhưng tốc độ giảm của vốn chủ sở hữu (12%) thấp hơn tốc độ giảm của lợi nhuận sau thuế (42,98%). Vốn chủ sở hữu giảm là do trong năm việc sử dụng các quỹ lớn hơn mức tăng các quỹ này. Đồng thời năm 2006 sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và thu sử dụng vốn, phần còn lại để bổ sung các quỹ không con dồi dào như năm trước. Năm 2006, cả lợi nhuận sau thuế và vốn chủ sở hữu của công ty đều tăng. Mặ dù không được Nhà nước cấp thêm nguồn vốn kinh doanh nhưng trong năm này công ty đã tự bổ sung được 36,3041 triệu đồng là do trích từ quỹ phát triển sản xuất. Đồng thời là do lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và thu sử dụng vốn cũng tăng so với năm trước do đó các quỹ được trích lập cũng tăng thêm. Để có thể thấy rõ nguyên nhân của tình hình trên ta hãy xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến doanh lợi vốn chủ sở hữu (DLVCSH). Theo phương pháp phân tích tài chính Dupont, doanh lợi vốn chủ sở hữu của công ty chịu ảnh hưởng của : -Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm -Hiệu suất sử dụng tổng tài sản -Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản Cả ba nhân tố trên đều có tác động thuận chiều đối với doanh lợi vốn chủ sở hữu. Bảng 8 - Doanh lợi vốn chủ sở hữu công ty TNHH CABA Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 1 Doanh lợi tiêu thụ SP 0,024467 0,015111 0,014799 0,617607 0,978029 2 Hiệu suất sử dụng tổng TS 1,195102 0,721950 1,206844 0,604091 1,671645 3 Hệ số nợ 0,786837 0,862193 0,872331 1,095771 1,011758 4 Tỷ lệ tổng TS/ vốn CSH 4,691273 7,256550 7,832787 1,546819 1,079409 5 Doanh lợi vốn CSH 0,137175 0,079165 0,139894 0,577109 1,767122 Nguồn : Bảng cân đối kế toán của công tyTNHH CABA DLVCSH = Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm x Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x (Tổng tài sản/ Vốn chủ sở hữu) = Doanh lợi vốn x [ 1/ (1 - hệ số nợ) ] Qua bảng trên ta có : Năm 2005 : DLVCSH = 0,137175 = 0,024467 x 1,195102 x 4,691273 Năm 2006 : DLVCSH = 0,079165 = 0,015111 x 0,721950 x 7,256550 Năm 2007 : DLVCSH = 0,139894 = 0,014799 x 1,206844 x 7,832787 Doanh lợi vốn chủ sở hữu năm 2006 giảm 57,71% mặc dù tỷ lệ nợ trên tổng tài sản có tăng nhưng do hiệu suất sử dụng tổng tài sản giảm 39,58% và doanh lợi tiêu thụ sản phẩm giảm 61,76%. Năm 2007 hệ số nợ của công ty tiếp tục tăng thêm làm tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu tăng và doanh lợi vốn năm nay tăng do vậy doanh lợi vốn chủ sở hữu năm 2001 tăng mạnh so với năm trước. Khi xem xét các nhân tố tác động vào doanh lợi vốn chủ sở hữu, ta thấy doanh lợi tiêu thụ sản phẩm và hiệu suất sử dụng tổng tài sản giảm năm 2006 và lại tăng trở lại vào năm 2007, tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu tăng dần. Vì vậy, muốn tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu phải đẩy mạnh doanh lợi tiêu thụ sản phẩm tức là tăng thêm lợi nhuận và nâng cao hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Doanh lợi vốn: Do có sử dụng nợ nên doanh lợi vốn của công ty được tính bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản. Doanh lợi vốn của công ty giảm từ 0,0536 năm 2005 xuống 0,0258 năm 2006. Sở dĩ như vậy là vì tốc độ tăng lợi nhuận trước thuế và lãi nhỏ hơn tốc độ tăng của tài sản. Điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của công ty chưa cao và đã bị giảm sút trong giai đoạn này. Ngược lại, doanh lợi vốn năm 2007 lại tăng so với năm 2006 51,55%. Như vậy, tốc độ tăng của lợi nhuận trước thuế và lãi đã cao hơn tốc độ tăng của tổng tài sản, chứng tỏ rằng hiệu quả sử dụng vốn của công ty đã được cải thiện. 2.2.2.4. Phân tích các hoạt dộng tài chính của công ty Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn: Qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn dưới đây ta sẽ thấy trọng điểm đầu tư của công ty và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. Bảng 9-Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn của công ty TNHH CABA Đơn vị : tỷ đồng TT Chỉ tiêu Năm 2006 Sử dụng vốn Nguồn vốn Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng I Tài sản 334,9694 99,52 0,8558 0,26 1 Tiền 1,5825 0,47 2 Phải thu 254,4906 75,97 3 Dự trữ 51,7241 15,44 4 Tài sản lưu động khác 0,8558 0,26 5 Tài sản cố định 25,7362 7,68 6 Đầu tư tài chính dài hạn 1,4360 0,43 II Nguồn vốn 1,6161 0,48 335,7297 99,74 1 Nợ ngắn hạn 326,6778 97,05 2 Nợ dài hạn 9,0519 2,69 3 Vốn chủ sở hữu 1,6161 0,48 III Cộng 336,5855 100 336,5855 100 Nguồn : Bảng cân đối kế toán của công ty TNHH CABA Stt Chỉ tiêu Năm 2007 Sử dụng vốn Nguồn vốn Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng I Tài sản 317,4393 100 152,5683 48,06 1 Tiền 89,1285 28,08 2 Phải thu 152,5683 48,06 3 Dự trữ 159,6802 50,3 4 Tài sản lưu động khác 19,1606 6,04 5 Tài sản cố định 6,0098 1,89 6 Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 43,4602 13,69 II Nguồn vốn 0,0000 0,00 164,871 51,94 1 Nợ ngắn hạn 109,7665 34,58 2 Nợ dài hạn 43,8547 13,82 3 Vốn chủ sở hữu 11,2498 3,54 III Cộng 317,4393 100 317,4393 100 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh công ty TNHH CABA Năm 2006, tổng nguồn vốn và sử dụng vốn của công ty là 336,586 tỷ đồng trong đó nguồn vốn được lấy từ 3 nguồn: nợ ngắn hạn bằng 326,678 tỷ đồng chiếm tỷ trọng lớn nhất là 97,05%; nợ ngắn hạn chiếm 2,69% (9,052 tỷ); ngoài ra còn có một lượng nhỏ tài sản lưu động khác là 0,856 tỷ (0,26%). Nguồn vốn trên được dùng chủ yếu cho phải thu 254,491 tỷ đồng (75,97%), dự trữ là 51,724 tỷ chiếm 15,44% trong tổng số sử dụng vốn; còn lại một số là dùng cho tiền, tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn. Như vậy nguồn vốn trong năm 2006 của công ty được lấy gần như toàn bộ từ vay nợ trong đó phần lớn là vay ngắn hạn. Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty không những không tăng mà còn giảm do lợi nhuận sau thuế của công ty giảm do vậy các quỹ được bổ sung ít hơn, thêm vào đó có một số quỹ lượng chi ra lại lớn hơn lượng phân bổ thêm. Việc phải sử dụng nợ ngắn hạn nhiều để tài trợ cho các khoản phải thu mà trong đó khoản vay ngắn hạn lại là khoản mục gia tăng mạnh nhất và người mua trả tiền trước giảm chứng tỏ công ty đã phải chi phí khá nhiều cho các khoản phải thu đồng thời trong các khoản phải thu thì phải thu của khách hàng tăng mạnh nhất có nghĩa là công ty bị chiếm dụng vốn khá lớn phải trả cho người bán tăng, điều này có nghĩa là công ty cũng chiếm dụng được một lượng vốn để tài trợ cho sử dụng ngắn hạn. Nhưng nếu đem so sánh sự gia tăng của các khoản phải thu của khách hàng (tăng thêm 153,834 tỷ đồng) với sự gia tăng của khoản mục phải trả cho người bán (tăng thêm 6,705 tỷ) thì rõ ràng số vốn mà công ty bị chiếm dụng lớn hơn rất nhiều so với số vốn mà công ty chiếm dụng được. Đồng thời nợ ngắn hạn tăng mạnh tức là công ty đã phải chi phi rất cao cho sử dụng vốn. Nguồn vốn vay dài hạn của công ty dùng để tài trợ cho tài sản cố định và một phần đem đầu tư chứng khoán dài hạn. Do đó công ty đã phải dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố định và bổ sung phần giảm xuống của vốn chủ sở hữu. Tình hình năm 2007 đã có nhiều dấu hiệu khả quan hơn, đó là việc vốn chủ sở hữu đã có xu hướng tăng thêm 11,250 tỷ chiếm 3,54% tỷ trọng nguồn vốn mà công ty có được. Vốn chủ sở hữu tăng là do trong năm 2007 công ty đã hoạt động có hiệu quả hơn do đó lợi nhuận cuả công ty tăng lên và các quỹ được bổ sung nhiều hơn và các quỹ trong năm nay phải chi ra ít hơn. Tổng nguồn vốn của công ty trong năm này là 317,439 tỷ đồng bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau: chiếm tỷ trọng cao nhất là các khoản phải thu 152,568 tỷ đồng(48,06%); nợ ngắn hạn chiếm 34,58% đạt tại mức 109,767 tỷ đồng; sau đó đến nợ dài hạn là 43,855 tỷ đồng (13,82%) và tỷ trọng thấp nhất là vốn chủ sở hữu. Việc nguồn vốn được hình thành đa dạng và không chiếm tỷ trọng quá lớn vào một khoản mục nào chứng tỏ sự phục hồi hoạt động kinh doanh sau năm 2006 không đạt được hiệu quả cao lắm. Bên phần sử dụng vốn dự trữ chiếm tỷ trọng cao nhất 159,680 tỷ đồng (50,3%) sau đó nguồn vốn được dùng để tài trợ cho các khoản như: tiền, tài sản lưu động khác, tài sản cố định, chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Mặc dù nợ ngắn hạn vẫn tiếp tục tăng cao để tài trợ cho sử dụng vốn nhưng khoản mục phải trả cho người bán giảm nhẹ đôi chút và người mua trả tiền trước tăng thêm 8 tỷ đồng chứng tỏ rằng công ty đã giảm bớt được chi phí vay ngắn hạn để tài trợ cho sử dụng vốn (trong năm 2007, công ty vẫn phải đi vay ngắn hạn khoảng gần 4 tỷ đồng để tài trợ một phần cho tiền). Công ty vẫn tiếp tục vay dài hạn thêm 43,855 tỷ đồng để đầu tư cho tài sản cố định. Nhưng do tài sản cố định tăng không cao nên phần vay dài hạn còn thừa công ty đầu tư cho tài sản lưu động khác được mua với khối lượng lớn nên có giá trị lớn và có thể sử dụng nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng không đủ tiêu chuẩn để tính vào tài sản cố định theo quy định nên phải đưa vào khoản mục chi phí chờ kết chuyển. Trong 2 năm 2005 và 2006 trong bảng cân đối kế toán cuối năm tài chính của công ty thì khoản mục chi phí xây dựng cơ bản bằng 0 nhưng sang năm 2007 khoản chi phí này là 43,460 tỷ đồng (chiếm 13,69% các khoản sử dụng vốn). Phần chi phí này được tại trợ bởi nguồn vay dài hạn và nguồn vốn chủ sở hữu, trích từ nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Một dấu hiệu tích cực là trong năm 2007 khoản phải thu đã giảm so với năm 2006, do vậy nguồn vốn được huy động từ các khoản phải thu để tài trợ cho dự trữ tăng khá cao (nguyên nhân dự trữ tăng là do chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng do công ty có thêm nhiều công trình và các công trình này chưa quyết toán vào cuối năm tài chính 2007). Các khoản phải thu giảm trong đó phải thu của khách hàng giảm 171,374 tỷ đồng chứng tỏ công ty đã khắc phục phần nào tình trạng bị chiếm dụng vốn. Phải thu giảm mạnh trong khi doanh thu thuần của công ty lại tăng góp phần cải thiện khả năng thanh toán tức thời của công ty đồng thời cũng đảm bảo an toàn về tài chính cho công ty, công ty có thêm nguồn vốn để quay vòng sản xuất kinh doanh và không còn phải lo lắng về khả năng không thu hồi được nợ. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh công ty TNHH CABA Để đánh giá tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty CABA ta phải tính đến các chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thông qua bảng sau: Bảng 10-Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty TNHH CABA Vốn lưu động thường xuyên Đơn vị : tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Tài sản cố định 41,4054 68,5776 118,0476 2 Vốn chủ sở hữu 134,8154 133,1993 144,4490 3 Nợ dài hạn 0,0000 9,0519 52,9066 4 Vốn lưu động thường xuyên (2)+(3)-(1) 93,4100 73,6736 79,3080 Nhu cầu vốn lưu động Đơnvị : tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Khoản phải thu 528,2172 782,7078 630,1395 2 Dự trữ (bao gồm TSLĐ khác) 38,0609 88,9291 267,7499 3 Phải trả 486,8591 797,8574 896,4173 4 Nhu cầu vốn lưu động KD (1)+(2)-(3) 79,4190 73,7795 1,4721 5 Chi sự nghiệp 0,0000 0,0000 0,0000 6 Phải trả khác + nợ khác 10,7794 26,4588 37,6654 7 Nhu cầu vốn lưu động ngoài KD -10,7794 -26,4588 -37,6654 8 Tổng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 68,6396 47,3207 -36,1933 Tiền Đơn vị : tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Vốn lưu động thường xuyên 93,4100 73,6736 79,3080 2 Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 68,6396 47,3207 -36,1933 3 Tiền 24,7704 26,3529 115,5013 Nguồn : Bảng cân đối kế toán của công ty TNHH CABA Từ các bảng tính trên ta thấy vốn lưu động thường xuyên của công ty từ năm 2005 - 2007 đều lớn hơn 0 và đạt ở mức tương đối cao chứng tỏ toàn bộ tài sản cố định của công ty được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn và công ty đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Ngoài việc đảm bảo cho tài sản cố định, vốn lưu động thường xuyên của công ty còn dùng để tài trợ một phần khá lớn cho tài sản lưu động. Ta biết rằng khả năng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động nói chung và vốn lưu động thường xuyên nói riêng. Do vậy sự tăng trưởng vốn lưu động thường xuyên cho thấy sự phát triển của công ty. Theo kết quả tính toán thì vốn lưu động thường xuyên của công ty vào năm 2005 là dồi dào nhất trong 3 năm hoạt động sản xuất kinh doanh gần đây, năm 2006 vốn lưu động thường xuyên của công ty sụt giảm mạnh do công ty đầu tư nhiều hơn cho tài sản cố định trong khi đó vốn chủ sở hữu lại giảm sút. Điều này thể hiện trong năm này lợi nhuận của công ty tương đối thấp. Sang năm 2007, tình trạng này đã được cải thiện vì vốn chủ sở hữu có gia tăng nhưng đồng thời công ty cũng tiến hành vay dài hạn khá lớn để đầu tư vào tài sản cố định. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên trong kinh doanh của công ty có xu hướng giảm sút trong giai đoạn 2005 - 2007 và đặc biệt giảm sút mạnh trong năm 2007. Nhưng trong cả 3 năm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên trong kinh doanh của công ty đều lớn hơn 0 tức là dự trữ (bao gồm cả tài sản lưu động khác) và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn ( không bao gồm phải trả và nợ khác). Có nghĩa là các sử dụng ngắn hạn trong kinh doanh của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có từ bên ngoài, doanh nghiệp sẽ phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ thêm vào. Nhưng doanh nghiệp đã không dùng phương pháp này mà đã đi vay ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động. Hơn nữa, nhu cầu vốn lưu động ngoài kinh doanh đều âm do trong suốt giai đoạn này công ty không phải chi bất cứ một khoản chi sự nghiệp nào. Do đó tổng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty cũng có giảm đi, đặc biệt là trong năm 2007, tổng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty đạt giá trị âm có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. Nhưng trên thực tế trong năm 2007, công ty vẫn đi vay ngắn hạn gần 27 tỷ do các khoản phải thu của công ty có thời gian thu hồi khác nhau trong khi công ty vẫn cần các khoản vốn để tài trợ cho các công trình mà công ty ký kết ở các thời điểm khác nhau. 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CABA 2.3.1. Những kết quả đạt được - Là một doanh nghiệp Tư Nhân hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, công ty CABA đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức. Song vượt lên trên tất cả, công ty đã có rất nhiều cố gắng phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Trong những năm qua, công ty liên tục kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên được nâng lên. Công ty ngày càng phát triển, được các đối tác tin tưởng, đánh giá cao. Công ty cũng rất chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ lao động, mạnh dạn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến. - Tổng tài sản của công ty năm sau tăng hơn năm trước cho thấy hoạt động kinh doanh của công ty không gặp phải thua lỗ làm mất vốn và từng bước mở rộng về quy mô thể hiện ở nhu cầu về vốn tăng cao để phát triển sản xuất. Đặc biệt về cơ cấu tài sản, tài sản lưu động chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng tài sản đã đảm bảo an toàn cho tình hình tài chính của công ty, vòng quay vốn được thực hiện nhanh hơn và cơ cấu này là hoàn toàn phù hợp với lĩnh vực mà công ty đang tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. - Doanh lợi vốn của công ty tương đối cao và cao hơn chi phí nợ vay bình quân. Điều này có nghĩa là công ty có thể tiếp tục huy động vốn bằng vay nợ. - Tài sản lưu động của công ty chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Vốn lưu động thường xuyên của công ty tương đối dồi dào để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hầu hết tài sản cố định của công ty đều được đảm bảo vững chắc bởi nguồn vốn dài hạn - Thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty đều đạt xấp xỉ trên dưới 1 triệu một tháng và thu nhập này có xu hướng ngày càng tăng lên. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân - Biến động về giá nguyên vật liệu:Giá nguyên liệu đầu vào là nhân tố chính ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong khoảng thời gian 2005- 2006, giá các loại nguyên liệu đồng loạt tăng liên tục như tôn silic tăng giá với tốc độ tăng 20-25%, dây điện từ tăng 20%/năm, các loại nguyên liệu khác cũng tăng khoảng 5% -10 %/năm. Vì giá nguyên vật liệu tăng đã trực tiếp làm tăng giá thành sản xuất, nên khi có lượng vốn dư thừa Công ty phải tăng cường dự trữ nguyên liệu tồn kho để tránh gặp nhiều khó khăn khi giá nguyên liệu tăng đột ngột. - Biến động giá bán sản phẩm: Trước sự biến động của nguyên vật liệu đầu vào, một mặt Công ty phải tăng cường công tác lập kế hoạch dự báo giá nguyên vật liệu cũng như có kế hoạch dự trữ hàng tồn kho. Mặt khác, Công ty phải điều chỉnh giá bán sản phẩm cho phù hợp, tuy nhiên mức độ điều chỉnh giá bán sản phẩm luôn nhỏ hơn tốc độ tăng giá đầu vào, điều này đòi hỏi Công ty luôn phải không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật và nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới... để bù đắp lại sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào. - Hoạt động sản xuất mang tính chất mùa vụ: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty không ổn định trong cả năm mà tập trung vào thời điểm cuối năm. Sản phẩm của công ty chủ yếu phục vụ cho việc lắp đặt ở các công trình. Các công trình này thường được sử dụng bằng nguồn vốn của ngân sách để đầu tư nên công việc quyết toán xây lắp công trình tập trung diễn ra vào cuối năm tài chính CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CABA 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TY: 3.1.1. Định hướng phát triển công ty đến năm 2010 Tiếp tục xây dựng và phát triển công ty, giữ vững công ty CABA là một doanh nghiệp mạnh, đa ngành nghề, lấy hiệu quả kinh tế là thước đó cho sự phát triển ổn định và bền vững của công ty. Duy trì và phát triển ngành nghề truyền trống là lắp đặt các công trình thiết bị điện, dân dụng, công nghiệp. Tiếp tục đầu tư mở rộng qui mô kinh doanh trong các lĩnh vực: kinh doanh thiết bị, phụ tùng, vật tư, máy và các ứng dụng điện cho ngành công nghiệp và tự động hoá, đảm bảo cho công ty có tiềm lực kinh tế mạnh dủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần góp phần vào sự phát triển bền vững của công ty CABA. 3.1.2. Muc tiêu, nhiệm vụ chủ yếu 3.1.2.1. Công tác đổi mới doanh nghiệp Tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, xây dựng và phát triển công ty thành công ty mạnh, bền vững, có tốc đọ tăng trưởng nhanh và có tính cạnh tranh cao. Tổ chức hình thành một số chi nhánh tại các tỉnh thành trong lĩnh vực: Kinh doanh vật tư, lắp đặt ứng dụng điện. 3.1.2.2. Công tác đầu tư Tiếp tục đầu tư phát triển trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Sản xuất vật liêu điện và các dự án lắp đặt. Đầu tư nâng cao năng lực thiết bị thi công hiện đại, công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuât kinh doanh phat triển với tốc độ cao, thi công các công trình có yêu cầu kỹ thuật cao. 3.1.2.3. Công tác quản lý Hoàn thiện cơ chế quản lý, các đơn vị trong công ty đảm bảo cho công ty vận hành đươc hiệu quả. Tăng cường công tác hạch toánh sản xuât kinh doanh quản lý chặt chẽ các chi phí quản lý sản xuất và chi phí quản lý doanh nghiệp, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và tích luỹ vốn để phát triển Phân cấp và giao quyền chủu động cho các phòng ban trong quả trinhf phát triển sản xuất kinh doanh, gắn trách nhiệm với quyền lợi đối với cán bộ quản lý. 3.1.2.4. Công tác phát triển nguồn lực Chuẩn bị đầy đủ các nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Xây dựng và phát triển nguồn lực con người của công ty mạnh về mọi mặt đủ về chất lượng và số lượng, có năng lực quản lý và ứng dụng công nghệ mới. Tìm mọi biên pháp để huy động các nguồn vốn đảm bảo cho nhu cầu đầu tư và sản xuât kinh doanh. 3.1.2.5 Công tác khác Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại nâng cao năng lực kinh doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước để phát triển năng lực Công ty là doanh nghiệp ứng dụng điện cho các ngành công nghiệp và tự động hoá, với năng lực cạnh tranh cao trong nước và quốc tế. Không ngừng xây dựng và phát triển thương hiệu và uy tín của công ty trên thị trường. Thực hiện tốt mối quan hệ bình đẳng giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên không ngừng nâng cao thu nhập, đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên. Trên cơ sở định hướng và mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh đến năm 2010 cùng với các yếu tố thuận lợi và khó khăn thách thức, công ty CABA sẽ phat huy cao độ kết quả đã đạt được trong những năm qua, khắc phục những yêu kém để dần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng của công ty phù hợp với định hướng phát triển của ngành thiết bị điện nói chung và của công ty CABA nói riêng. Phân đấu đưa công ty CABA hoà vào sự phat triển hoà vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đem lại cuộc sống âm nó hạnh phúc cho tập thể cán bộ công nhân viên. 3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH Sau một thời gian ngắn thực tập tại CABA, có điều kiện đi vào nghiên cứu, phân tích tình hình tài chính của công ty, với vốn kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, em xin được đưa ra một số phương hướng, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả phân tích tài chính của công ty trong thời gian tới như sau: 3.2.1. Hoàn thiện quy trình, tổ chức công tác phân tích 3.2.1.1. Quy trình Thực chất hiện nay công ty chưa xây dựng một quy trình chuẩn cho công tác phân tích tài chính mà chỉ đi theo các bước của đợt phân tích trước đó. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là công ty phải nhanh chóng học hỏi để xây dựng một mẫu quy trình phân tích để quản lí cũng như hoàn thiện phân tích đúng và đầy đủ. 3.2.1.2. Tổ chức phân tích Khâu thu thập thông tin của công ty chỉ dừng lại ở trong nội bộ doanh nghiệp, ít lấy các thông tin và tác động từ các thông tin từ bên ngoài công ty. Tiếp theo, việc xử lý thông tin của cán bộ phân tích không xác định rõ góc độ nghiên cứu nên phần dự đoán và hoàn toàn không có. Do vậy, trước hết người phân tích phải được chỉ rõ ra là phân tích nhằm làm gì? Phân tích trên góc độ nào? Để từ đó thu thập thêm những thông tin bên ngoài donh nghiệp phù hợp với góc độ phân tích nhằm đưa ra các dự đoán chính xác phục vụ việc lên quyết định sau này. 3.2.2. Hoàn thiện phương pháp phân tích Công ty đẵ sử dụng hai phương pháp: Phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh để phân tích hoạt động tài chính, nhưng theo em Công ty cần xử dụng kết hợp với phương pháp phân tích tài chính Dupont. Phương pháp này được các nhà phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng đê đánh giá tác động tương hỗ giữa các ty lệ tài chính. Đó là quan hệ hàm giữa doanh lợi và vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ. Trong phương pháp này, trước hết ta phải xem xét mối quan hệ tương tác giữa hệ số sinh lợi và doanh thu với hiệu suất sử dụng tổng tài sản và ký hiệu là Rr, khi đó ta có: Tỷ số Rr cho biết tỷ suất sinh lời của tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố: + Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu. + Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Phân tích Rr cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích đó mà các nhà quản trị đưa ra các giải pháp nhằm tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí. Ngoài ra còn có tỷ lệ Re là tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu: Ta có: Công thức này cho biết trong thành phần tạo nên Re khi hệ số nợ tăng thỉ Rr cũng tăng lên vì (1- Rd) giảm. Do vậy, một tỷ lệ nợ cao sẽ tăng gấp bội hiệu quả về lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ thì lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại. Như vậy, phương pháp phân tích tài chính Dupont cho phép các nhà phân tích tài chính xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích đó mà các nhà quản tri đưa ra được các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và giảm chi phí. Ngoài ra, phương pháp này còn cho các nhà phân tích tài chính thấy được công dụng của việc sử dụng chính sách nợ như một đòn bẩy tài chính nhằm làm tăng nguồn lợi nhuận của Công ty. 3.2.3. Hoàn thiện nội dung phân tích Qua thực tế phân tích tình hình tài chính tại Công ty, em nhận thấy Báo cáo phân tích tài chính tại công ty CABA cũng đã đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu nhưng chưa được đầy đủ, còn thiếu một vài chỉ tiêu quan trọng. Do vậy, để hoàn thiện nội dung phân tích tài chính, em xin đề xuất thêm chỉ tiêu phân tích về hoạt động cụ thể như sau Các chỉ số về hoạt động được dùng để đánh giá hiệu qủa sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư vào các loại tài sản khác nhau như : Tài sản cố định, tài sản lưu động. Vì vậy, nếu chỉ đo lường hiệu quả sử dụng của tổng tài sản và hiệu suất sử dụng TSCĐ thì chưa đủ mà cần phải phải trú trọng tới hiệu quả sử dụng của cả TSNH. Như trong phần thực trạng đẵ phân tích nhóm các chỉ tiêu này phản ánh thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty hiện như thế nào từ đó tìm ra các giải pháp để khắc phục những mặt còn hạn chế và phát huy tối đa các ưu thế đang có. 3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phân tích Trong cơ chế thị trường hiện nay, với tốc độ cạnh tranh gay gắt đòi hỏi công ty cần phải có những bước đổi mới tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật. Những năm qua, do máy móc thiết bị không theo kịp được nhu cầu của thị trường dẫn đến chất lượng phân tích tài chính của công ty chưa được cao. Vài năm trở lại đây, công ty đã từng bước hiện đại hoá công nghê và đã mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, do số vốn dùng cho đổi mới công nghệ còn hạn hẹp chính vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu. Do đó, nhiệm vụ trước mắt của công ty là đẩy mạnh, đổi mới công nghệ, nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng khoa học - công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho phân tích tài chính doanh nghiệp. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới công nghệ nhằm góp phần thiết thực vào phân tích tài chính, công ty cần chú ý đổi mới đồng bộ các yếu tố cấu thành công nghệ: từ máy móc thiết bị, nguyên vật liêu, nâng cao trình độ, kỹ năng, kỹ xảo của người phân tích. Trong thời gian tới công ty nên thực hiện đồng bộ một số giải pháp như sau: - Công ty cần tính toán để đầu tư vào các bộ phận thiết yêu trước. Từng bước thay thế một cách đồng bộ thiết bị cho phù hợp với thị trường. Công ty nên ứng dụng rộng rãi công nghệ tin học trong quản lý tài chính tiến tơi nối mạng toàn bộ hệ thống máy tính nhằm cập nhập thông tin dễ dàng và nhanh chóng hơn. Từng bước xây dựng chế độ chuẩn trong công tác tài chính về mặt cơ sở cật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác phân tich. - Tận dụng trang thiết bị máy móc hiện có trong công ty, ngoài ra phải tiến hành bảo dưỡng định kỳ máy móc thay cho việc cứ phát sinh sự cố thì mới cử cán bộ kỹ thuật đến sửa chưa như hiện nay. - Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật - Để nâng cao năng lực công nghệ, công ty cần phải xây dựng mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật để phát triển công nghệ theo chiều sâu và từng bước hoàn chỉnh công nghệ hiện đại. 3.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ phân tích tài chính Ngay từ khi mới thành lập, ban giám đốc công ty đã xây dựng phương châm của CABA , đó là:“ Công nghệ là quan trọng, con ngưòi là yếu tố quyết định”. Do đó công ty đã rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp úng được yêu cầu triển khai mở rộng các dự án. Vì vậy trong thời gian tới, công ty cần xem xét áp dụng một số các biện pháp: - Tăng cường đào tạo, đặc biệt là đào tạo kèm cặp để đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ phân tích. Đội ngũ cán bộ phân tích tài chính phải là những con người năng động, chủ động tiếp cận công nghệ hiện đại, làm chủ công nghệ tiên tiến. - Công ty cần có các chính sách phù hợp đối với người phân tích làm việc cho các dự án đầu tư ở nước ngoài bởi hiện tại các chính sách còn chưa hoàn thiện, chưa thực sự khuyến khích người phân tích tài chính có trình độ và kinh ngiệm làm việc lâu dài cho CA BA. - Tuyển dụng người có đủ trình độ, năng lực, nhiệt tình, thu hút người tài vào làm việc tại công ty . 3.2.6. Hoàn thiện chế độ kế toán, thống kê Tổ chức tốt công tác kế toán ở công ty là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra kiểm soát quá trình kinh doanh và sử dụng các loại vốn nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy vậy, kế toán là hệ thống thông tin thực hiện, các số liệu, tài liệu kế toán tự nó chưa thể chỉ ra các biện pháp cần thiết. Cho nên, định kỳ Công ty phải thực hiện công tác phân tích tài chính và tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu qủa sử dụng vốn để từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến thành tích và tiến bộ so với kỳ trước để phát huy, các nguyên nhân gây ra hạn chế để có biện pháp tháo gỡ và khắc phục kịp thời. Muốn làm được như vậy, Công ty cần hoàn thiện bộ máy quản lý trên cơ sở bộ máy tinh giảm, gọn nhẹ, làm việc có hiệu qủa tránh tình trạng CBCNV nhàn rỗi vì không có việc hoặc ít việc mà vẫn phải trả lương và phụ cấp. Bộ máy quản lý phải có sự phân cấp rõ trách nhiệm rõ ràng thống nhất từ trên xuống dưới. Bố trí cán bộ phù hợp với năng lực và sở trường của họ để phát huy tốt khả năng và trí tuệ của từng cá nhân. Ngoài ra cán bộ tài chính kế toán là những người có ảnh hưởng quyết định tới kết qủa của việc phân tích tài chính; do đó Công ty phải tuyển dụng những nhân viên nắm vững nghiệp vụ chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm cao, trung thực khách quan để có thể đáp ứng đựơc yêu cầu của công tác hạch toán kế toán và phân tích tài chính. Thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động tài chính nghĩa là Công ty đã phân tích được thực trạng tài chính của mình, nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh để từ đó phát huy được những thành tích đã đạt được và khắc phục các hạn chế còn tồn tại, qua đó sẽ nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của Công ty. 3.2.7. Đổi mới hệ thống thông tin quản lý Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích bao gồm thông tin từ bên ngoài và thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, chính vì vậy các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là nền tảng của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Chính vì tầm quan trọng của phân tích tài chính nên chất lượng những thông tin sử dụng trong phân tích tài chính cần phản ánh chính xác tình hình tài chính bên ngoài cũng như bên trong doanh nghiệp, cần tạo nên một luồng thông tin thông suốt liên tục giữa bộ phận phân tích tài chính và bộ phận tổng hợp, lập báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán. Với các thông tin bên ngoài doanh nghiệp, muốn nắm bắt được kịp thời thì bộ phận tài chính cần được nối mạng với các Ban chức năng khác Ngoài ra, để cho công tác hoạch định tương lai của doanh nghiệp có hiệu quả thì việc phân tích tài chính cần thực hiện một cách khách quan, và các thông tin sử dụng phải đảm bảo chất lượng. Vì nếu thông tin sử dụng thiếu chính xác sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm, của người quản lý tài chính, ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. 3.3. KIẾN NGHỊ 3.3.1. Một số kiến nghị về phía nhà nước - Chính phủ cần có sự ổn định trong việc ban hành các chế độ quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh, tránh tình trạng chế độ chính sách thay đổi thường xuyên gây lúng túng cho doanh nghiệp trong quá trình quản lý hoạt động của mình. Bên cạnh đó cần tránh không để xảy ra tình trạng nhiều cơ quan cùng có những quy định khác nhau về cùng một lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác cũng cần phải thường xuyên thay đổi, chỉnh sửa những quy định chưa hợp lý và bổ sung thêm các quy định phù hợp để điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp theo yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. - Chính phủ cần sớm thành lập một cơ quan chuyên thành lập số liệu để đưa ra hệ thống chỉ tiêu trung bình cho từng ngành để các doanh nghiệp có cơ sở chính xác trong việc đánh giá vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó có biện pháp giải quyết các mặt yếu kém và phát huy những mặt mạnh của doanh nghiệp mình. - Chính phủ nên có chính sách xây dựng và phát triển thị trường tài chính ổn định để tạo ra nhiều kênh huy động vốn cho doanh nghiệp bằng cách phát hành trái phiếu, cổ phiếu, góp vốn liên doanh... thông qua các tổ chức tài chính trung gian khác nhau như : các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư phát triển... 3.3.2. Kiến nghị với các ngành liên quan - Hoàn thiện công tác kế toán : hiện nay chế độ kế toán Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, số liệu, sổ sách còn chưa thống nhất gây khó khăn cho doanh nghiệp và các cơ quan quản lý và Chính phủ. Do vậy, Bộ Tài chính cần có những quy định cụ thể và phù hợp hơn để hoàn thiện công tác kế toán doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho việc xem xét và ra các quyết định quản lý. - Bộ Tài chính cần có quy định yêu cầu các doanh nghiệp bắt buộc phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm cung cấp các thông tin về luồng tiền vào, ra trong kỳ, phản ánh trạng thái động của doanh nghiệp để bổ sung cho các tài liệu khác như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh khi đánh giá về hoạt động của doanh nghiệp. - Mặt khác, nên có quy định cụ thể về vấn đề các doanh nghiệp phải thực hiện công khai các báo cáo tài chính để làm cơ sở cho việc quản lý doanh nghiệp và phân tích tài chính được dễ dàng, thuận lợi hơn. Hiện nay chỉ có doanh nghiệp là có đủ tài liệu để phân tích tài chính còn những người ngoài doanh nghiệp chưa thể tìm hiểu cụ thể về doanh nghiệp mà mình quan tâm. - Các cơ quan kiểm toán Nhà nước cần thực hiện tốt nhiệm vụ của mình để đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm toán, tăng cường sự kiểm tra đánh giá của nhà nước, đảm bảo công tác kiểm toán của các cơ quan này tiến hành tại doanh nghiệp đúng thời hạn, đầy đủ các nội dung nghiệp vụ, báo cáo kịp thời lên bộ tài chính những phát sinh bất hợp lý nhằm kiểm chứng tính chính xác của các số liệu tài chính của doanh nghiệp, góp phần mang lại một kết quả phân tích tài chính sát thực và chuẩn xác. - Cần tiến tới yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện phân tích tài chính một cách nghiêm túc để tự đánh giá hoạt động tài chính của mình, đề ra phương hướng phát triển và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên. Phân tích tài chính vẫn còn là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp nên Chính phủ, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan cần có những hướng dẫn cụ thể, phối hợp giúp đỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp về trình độ nghiệp vụ, trình độ kỹ thuật, đào tạo cán bộ phân tích và đánh giá tài chính trong quá trình thực hiện phân tích tài chính tại doanh nghiệp. KẾT LUẬN Hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng của quản trị tài chính, một công cụ hữu hiệu luôn được các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động tài chính nói riêng ở các doanh nghiệp. Qua kết quả phân tích tài chính, nhà quản lý có thể đưa ra các chiến lược tài chính trong tương lai. Chính vị vậy, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là một đòi hỏi bắt buộc với tất cả các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Sau thời gian Công ty dựa trên những kiến thức đã học được ở trường, em đã xem xét hoạt động phân tích tài chính tại Công ty những kết quả đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện phân tích tài chính của Công ty. Tuy nhiên do còn hạn chế về trình độ nhận thức cũng như kiến thức thực tiễn nên những giải pháp em đưa ra chưa hẳn đã thích hợp và tối ưu nhưng cũng hi vọng có đóng góp nhỏ bé giúp cho công tác phân tích tài chính của Công ty ngày càng đạt được kết quả cao hơn. Trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Ban Giám đốc Công ty, các anh chị trong Phòng Tài chính kế toán và của thầy giáo hướng dẫn thực tập PGS TS. VŨ DUY HÀO. Qua đây em xin chân thành cảm ơn quý Công ty và thầy giáo đã giúp đỡ em trong thời gian qua! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS.Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 2. PGS. TS Vũ Duy Hào (Chủ biên), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 3. Nguyễn Tấn Bình, Phân tích hoạt động doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 4. Nguyễn Tấn Bình (Chủ biên), Phân tích quản trị tài chính, Nxb Thống kê. 5. TS. Bùi Hữu Phước (Chủ biên), Tài chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 6. Tạp chí kinh tế & phát triển 7. Và một số tài liệu khác. NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Tên đơn vị thực tập Công ty TNHH CA BA Tên đề tài: “hoàn thiện phân tích tài chính tại công ty TNHH CABA” Nhận xét NGƯỜI NHẬN XÉT NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Họ và tên giáo viên hướng dẫn: PGS TS VŨ DUY HÀO Sinh viên thực hiện : Hà Thanh Bình Lớp TC Khoá 36 Tên đề tài: “hoàn thiện phân tích tài chính tại công ty TNHH CABA” Nhận xét Điểm: Bằng Số:. Bằng Chữ:.. NGƯỜI NHẬN XÉT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7852.doc
Tài liệu liên quan