Đề tài Hoàn thiện quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước

Trong giai đoạn 2001 - 2008 đã có bước đột phá trong việc ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhiều phần mềm ứng dụng đã phát huy được hiệu quả, rút ngắn thời gian kiểm soát, thanh toán. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều hạn chế như các phần mềm chương trình còn đơn giản, chưa theo dõi, quản lý được toàn bộ quá trình quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nhiều tác nghiệp của cán bộ quản lý, kiểm soát vẫn phải thực hiện theo hình thức thủ công như chuyển nguồn vốn, công tác thông tin báo cáo. Cá biệt có những phần mềm chương trình hiệu quả không cao như chương trình ĐTKB/LAN, nhiều Kho bạc địa phương không kết nối và tích hợp được với chương trình khác (chương trình kế toán) nên chưa rút ngắn được thời gian kiểm soát và thanh toán. Hoặc có thời điểm, chương trình gặp nhiều lỗi không chạy được hoặc khi đã lưu nhưng do lỗi phần mềm làm mất dữ liệu khiến cán bộ phải nhập số liệu lại từ đầu, do đó làm tăng thời gian làm việc của cán bộ nghiệp vụ.

doc88 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: chủ đầu tư được mở tài khoản cấp phát thanh toán vốn đầu tư tại Kho bạc Nhà nước nơi thuận tiện cho việc giao dịch của chủ đầu tư. Thực hiện quy chế một cửa trong công tác quản lý, kiểm soát thanh toán, cấp phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước. Thứ bảy, về tổ chức thực hiện chế độ thông tin báo cáo và ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý, kiểm soát thanh toán các dự án đầu tư: Trong đó: Về chế độ thông tin báo cáo: Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thông tin báo cáo, để chỉ đạo, điều hành tốt công tác quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, đảm bảo thanh toán vốn kịp thời, đầy đủ, đúng tiến độ cũng như có các biện pháp xử lý kịp thời những vướng mắc phát sinh nhằm phát huy tối đa hiệu quả của vốn đầu tư thì phải làm tốt công tác thông tin báo cáo. Vì vậy, ngay sau khi tiếp nhận bàn giao Kho bạc Nhà nước đã nghiên cứu ban hành chế độ thông tin báo cáo, chế độ điện báo về thanh toán vốn đầu tư. Qua quá trình triển khai thực hiện, Kho bạc Nhà nước đã thường xuyên nghiên cứu sửa đổi, cải tiến các mẫu biểu thống kê về thanh toán vốn đầu tư, các chỉ tiêu điện báo trong thanh toán vốn. Đến nay với hơn 10 loại báo cáo hàng tháng trong đó có một số loại báo cáo đặc thù như báo cáo các dự án trái phiếu Chính phủ, báo cáo các dự án đầu tư từ nguồn công trái giáo dục, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin nhanh, chính xác, kịp thời, cũng như giảm bớt công tác tổng hợp báo cáo, giảm bớt công việc sự vụ, thuận tiện trong việc áp dụng chương trình tin học. Kho bạc Nhà nước đã làm tốt công tác thông tin báo cáo cho l•nh đạo các cấp phục vụ tốt cho công tác chỉ đạo và điều hành trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng, điển hình một số Kho bạc Nhà nước thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo như Kho bạc Nhà nước Bắc Ninh, Thái Bình, Lạng Sơn, Nghệ An, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu. Về ứng dụng công nghệ tin học: Cùng với chủ trương hiện đại hoá ngành Kho bạc Nhà nước, để thay thế cho việc theo dõi, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư theo phương thức thủ công, các thông tin dự án và số liệu thanh toán do từng cán bộ trực tiếp thanh toán mở sổ theo dõi và ghi chép với hàng trăm ngàn khoản chi mỗi năm, Kho bạc Nhà nước đã nghiên cứu và đưa vào triển khai ứng dụng thành công bước đầu chương trình quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư trên mạng máy tính ĐTKB/LAN, cập nhật số liệu thanh toán của toàn bộ các dự án từ năm 2000, đưa công tác quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư vào nền nếp, theo dõi một cách khoa học, chặt chẽ, hạn chế những sai sót có thể xảy ra trong quá trình theo dõi thủ công trước đây. Các Kho bạc Nhà nước địa phương về cơ bản đã quản lý, kết xuất được các thông tin báo cáo trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, trong đó có một số đơn vị đã triển khai thực hiện tốt như Kho bạc Nhà nước Tây Ninh, Sóc Trăng, Cà Mau, TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Thái Bình, Khánh Hoà. Đây thật sự là bước đột phá, là cuộc cách mạng trong quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, nhờ vậy số liệu liên quan đến các dự án đầu tư được quản lý chặt chẽ hơn theo quy trình thống nhất, chất lượng công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư cũng được nâng lên một cách rõ rệt. 2.4.2. Tồn tại, hạn chế Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, thể hiện qua những nội dung sau: 2.4.2.1. Tồn tại về công tác tổ chức và Phân công nhiệm vụ Hiện nay, trong KBNN công tác thanh toán vốn do nhiều Ban (đơn vị) khác nhau đảm nhiệm, mỗi ban đảm nhiệm thanh toán một loại vốn, trong đó: Ban Thanh toán vốn đầu tư chịu trách nhiệm về kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư. Ban Kế toán kiểm soát thanh toán, tạm ứng chi thường xuyên, chi an ninh quốc phòng qua tài khoản dự toán và tài khoản tiền gửi. Ban Kế hoạch tổng hợp kiểm soát thanh toán vốn Chương trình mục tiêu có tính chất đầu tư và tính chất sự nghiệp. Vì phân công mỗi Ban đảm nhận kiểm soát một số loại vốn nhất định nên khi một dự án được đầu tư bằng nhiều loại nguồn vốn khác nhau sẽ dẫn đến bị chồng chéo nhiệm vụ, Chủ đầu tư sẽ phải đi lại rất vất vả để gặp cán bộ kiểm soát thanh toán của mỗi Ban mới có thể xin cấp vốn cho dự án, gây ra sự mất thời gian và làm chậm tiến độ của dự án. 2.4.2.2. Tồn tại về công tác kế hoạch vốn đầu tư Kế hoạch vốn vẫn bố trí dàn trải chưa có trọng tâm trọng điểm. Ví dụ như những dự án khả năng giải ngân thấp thì kế hoạch vốn vẫn cao trong khi có những dự án thật sự cần thiết, mang lại hiệu quả, lợi ích trực tiếp cho kinh tế-xã hội thì lại bố trí kế hoạch vốn thấp dẫn đến làm chậm tiến độ của dự án, gây thất thoát lãng phí vốn của Nhà nước. Hay như những dự án chưa có đầy đủ thủ tục về đầu tư XDCB vẫn được bố trí kế hoạch vốn dẫn đến quá trình triển khai và thực hiện kế hoạch trong năm diễn ra rất chậm, đặc biệt là trong những tháng đầu năm. Đối với điều chỉnh kế hoạch vốn, các cơ quan chức năng lại không làm việc với Kho bạc Nhà nước để xác định số vốn đã cấp phát thanh toán cho dự án, công trình, dẫn đến tình trạng nhiều dự án điều chỉnh kế hoạch vốn thấp hơn số vốn Kho bạc Nhà nước đã thanh toán gây khó khăn cho công tác kế toán, quyết toán và quản lý của Kho bạc Nhà nước. 2.4.2.3. Tồn tại về Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư Về cơ chế “một cửa”: Về đường luân chuyển chứng từ, tuy có Ưu điểm là hồ sơ chứng từ thuộc trách nhiệm của bộ phận nào thì bộ phận đó kiểm tra và trình lãnh đạo phụ trách trực tiếp ký, trách nhiệm được phân định rõ ràng; tuy vậy đường luân chuyển chứng từ có Nhược điểm: để thanh toán được một khoản chi đầu tư chứng từ phải luân chuyển theo hai vòng khác nhau làm chậm thời gian luân chuyển chứng từ, lãnh đạo phải ký 2 lần (ký chứng từ mệnh lệnh và chứng từ kế toán) trên chứng từ thanh toán. Như đã trình bày trong mục 1.5.1 của phần Cơ sở lý luận, việc kiểm soát thanh toán được thực hiện theo nguyên tắc một cửa tức là việc giải quyết công việc từ khâu hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ và trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Kho bạc Nhà nước bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện cho đơn vị giao dịch và Chủ đầu tư. Tuy nhiên cho tới nay thì nguyên tắc này bộc lộ một số hạn chế: Thứ nhất, chưa thực hiện được triệt để việc tách biệt giữa người nhận hồ sơ của khách hàng và người xử lý hồ sơ. Trên thực tế, đa số các đơn vị KBNN chỉ mới thực hiện ở mức đảm bảo khách đến KBNN chỉ nộp hồ sơ và nhận kết quả giao dịch ở một nơi. Cán bộ của các bộ phận nghiệp vụ phải luân phiên trực tại bộ phận giao dịch để tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả; đồng thời, vẫn phải trực tiếp xử lý các hồ sơ của khách hàng do mình phụ trách. Mục đích của việc tách bạch người nhận hồ sơ và người xử lý nghiệp vụ nhằm mục đích thực hiện công khai, minh bạch quy trình xử lý công việc, ngăn chặn và phòng ngừa tham nhũng, cửa quyền trong khi giải quyết công việc. Mô hình này đã triển khai ở một số cơ quan hành chính ở Trung ương và địa phương trong nhiều lĩnh vực khác nhau như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép xây dựng, và được đánh giá là bước cải cách thủ tục hành chính lớn. Mô hình này phù hợp với các công việc đã được chuẩn hóa về mặt chế độ chính sách, các điều kiện về hồ sơ, mẫu biểu. Mọi thông tin liên quan đến việc xử lý và giải quyết công việc đều được chuẩn hóa và thể hiện đầy đủ trên hồ sơ. Do vậy, người trực tiếp xử lý nghiệp vụ không cần thiết trao đổi trực tiếp với đối tượng phục vụ, mà chỉ căn cứ và hồ sơ để giải quyết theo trình tự quy định. Tuy nhiên khi áp dụng vào lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ của KBNN thì phát sinh rất nhiều vấn đề không phù hợp. Do đặc điểm hoạt động kiểm soát thanh toán của KBNN rất đa dạng, phức tạp; hệ thống cơ chế chính sách chưa được chuẩn hóa đầy đủ; các định mức, chế độ chi tiêu còn thiếu hoặc lạc hậu, chưa phù hợp, phải sửa đổi, bổ sung thường xuyên; một số cán bộ phụ trách tài chính, kế toán của các đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách chưa nắm rõ hết các quy định chi tiết về các điều kiện, thủ tục thanh toán vốn đầu tư. Trên thực tế thường phát sinh các tình huống, trường hợp chưa được hướng dẫn đầy đủ, chi tiết trong các văn bản chế độ hiện hành. Từ đó đòi hỏi phải có sự trao đổi, đề xuất giữa các đơn vị sử dụng ngân sách với KBNN để cùng thống nhất biện pháp giải quyết vướng mắc phát sinh. Như vậy, nếu đặt thêm bộ phận trung gian để tách bạch giữa người xử lý hồ sơ với khách hàng thì sẽ tạo thêm một khâu trung gian trong quy trình xử lý nghiệp vụ. Thứ hai, cán bộ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả chỉ có thể kiểm tra sự đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ chứng từ gửi đến, không thể đối chiếu, phát hiện được sai sót chi tiết về nội dung hồ sơ, đến khi chuyển về bộ phận nghiệp vụ mới kiểm tra chi tiết, phát hiện sai sót phải trả lại hồ sơ cho khách hàng, tạo tâm lý không tốt cho khách hàng vì phải đi lại nhiều lần và kéo dài thời gian hoàn chỉnh hồ sơ. Trường hợp khách hàng chưa đồng ý với cách giải quyết của KBNN thì cán bộ tiếp nhận hồ sơ không đủ thông tin để trực tiếp trao đổi và giải thích thỏa đáng cho khách, mà phải trao đổi lại với cán bộ trực tiếp giải quyết dẫn đến thông tin truyền qua khâu trung gian chậm và không đầy đủ. Hầu như các vấn đề phức tạp thì khách hàng lại phải gặp cán bộ nghiệp vụ thụ lý hồ sơ để trao đổi trực tiếp Thứ ba, trong những thời điểm cuối tháng, quý, năm và trong thời gian chỉnh lý quyết toán thì việc giao dịch qua bộ phận một cửa cũng là một trở ngại lớn cho công tác kiểm soát thanh toán vì khối lượng giao dịch tập trung rất lớn, khối lượng công việc tăng nhiều lần. Nhiều đơn vị KBNN phải tạm dừng thực hiện quy trình giao dịch một cửa để trở lại thực hiện theo quy trình khách hàng giao hồ sơ trực tiêp cho cán bộ nghiệp vụ kiểm soát thanh toán để đảm bảo thời gian xử lý công việc. Thứ tư, khi thực hiện quy trình một cửa trong kiểm soát thanh toán, việc giao nhận hồ sơ cũng như trả kết quả phải thực hiện theo nhiều bước giữa khách hàng – cán bộ nhận hồ sơ – cán bộ xử lý nghiệp vụ và đều phải thực hiện đối chiếu, ký nhận hồ sơ giữa các bộ phận nên mất rất nhiều thời gian. Đối với các giao dịch chi thường xuyên và lĩnh tiền mặt mà khách hàng có yêu cầu giải quyết ngay trong ngày thì thời gian giải quyết công việc chậm hơn so với trước đây vì hồ sơ phải qua bộ phận giao dịch một cửa sau đó mới chuyển đến cán bộ nghiệp vụ xử lý trực tiếp. Thứ năm, nhiều Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án không chuyên sâu nghiệp vụ, trình độ kế toán của các đơn vị giao dịch chưa đồng đều, nên hồ sơ chứng từ gửi đến KBNN thường thiếu và sai nhiều, phải trả lại để chỉnh sửa nhiều lần. Khi tập trung giao dịch tại bộ phận nhận hồ sơ một cửa thì cán bộ nhận hồ sơ chịu áp lực về thời gian trả phiếu hẹn cho khách, phải tiếp nhận xử lý hồ sơ của nhiều khách hàng nên việc hướng dẫn khó đảm bảo chi tiết, cụ thể; mặt khác, do không nắm chắc thông tin về các dự án, đơn vị nên hướng dẫn không đầy đủ, chính xác. Phần lớn khách hàng muốn giao dịch trực tiếp với cán bộ xử lý công việc để được hướng dẫn cụ thể, chi tiết. Về đường luân chuyển chứng từ: Đường luân chuyển chứng từ hiện nay trong Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư phải trải qua 9 bước thì mới hoàn thành được quy trình. Số bước như vậy là khá nhiều và phức tạp, cụ thể: Xảy ra trường hợp lãnh đạo phải ký hai lần trên một hồ sơ, vì một mặt Phòng thanh toán vốn đầu tư trình lãnh đạo ký hồ sơ thanh toán cho Chủ đầu tư, mặt khác Phòng kế toán trình lãnh đạo ký giấy rút vốn đầu tư để trả về cho Chủ đầu tư, như vậy lãnh đạo KBNN sẽ phải ký hai lần gây ra sự không đồng bộ trong thời gian hoàn tất hồ sơ vì chứng từ này phải chờ đợi chứng từ kia ký xong mới trả về cho Chủ đầu tư được. Bước 5 và bước 6 trong quy trình là không cần thiết, hồ sơ dự án khi đến Phòng thanh toán thường đã được cán bộ thanh toán vốn đầu tư xem xét tính đúng sai, hợp lệ của mẫu chứng từ, dấu, kế toán nếu có sai sót thì cán bộ thanh toán sẽ đề nghị Chủ đầu tư sửa chữa lại cho phù hợp rồi mới làm việc tiếp, do đó phòng kế toán thường không phải xem xét gì nhiều về giấy rút vốn đầu tư và các chứng từ kế toán của dự án nên bước 5 và bước 6 là không cần thiết, nó làm tăng tính phức tạp và kéo dài thời gian trong quy trình kiểm soát thanh toán hiện nay. 2.4.2.4. Tồn tại về ứng dụng tin học trong kiểm soát thanh toán Trong giai đoạn 2001 - 2008 đã có bước đột phá trong việc ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhiều phần mềm ứng dụng đã phát huy được hiệu quả, rút ngắn thời gian kiểm soát, thanh toán.... Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều hạn chế như các phần mềm chương trình còn đơn giản, chưa theo dõi, quản lý được toàn bộ quá trình quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nhiều tác nghiệp của cán bộ quản lý, kiểm soát vẫn phải thực hiện theo hình thức thủ công như chuyển nguồn vốn, công tác thông tin báo cáo... Cá biệt có những phần mềm chương trình hiệu quả không cao như chương trình ĐTKB/LAN, nhiều Kho bạc địa phương không kết nối và tích hợp được với chương trình khác (chương trình kế toán) nên chưa rút ngắn được thời gian kiểm soát và thanh toán. Hoặc có thời điểm, chương trình gặp nhiều lỗi không chạy được hoặc khi đã lưu nhưng do lỗi phần mềm làm mất dữ liệu khiến cán bộ phải nhập số liệu lại từ đầu, do đó làm tăng thời gian làm việc của cán bộ nghiệp vụ. 2.4.2.5. Năng lực cán bộ làm công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB Qua 8 năm thực hiện công tác quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước, bộ máy quản lý thanh toán của Kho bạc Nhà nước ngày càng tăng về số lượng (năm 2000 chỉ có hơn 800 cán bộ đến nay đã có hơn 1.500 cán bộ trực tiếp làm công tác này, chưa bao gồm cán bộ làm công tác kế toán vốn đầu tư); mặc dù tăng về số lượng nhưng trình độ của đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ này không đồng đều, đặc biệt là cấp huyện, một bộ phận cán bộ có biểu hiện sách nhiễu, gây phiền hà cho khách hàng, hướng dẫn khách hàng không tận tình chu đáo, để khách hàng phải đi lại nhiều lần, khi gặp vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết công việc không kịp thời báo cáo lên cấp trên để xem xét giải quyết. Một bộ phận cán bộ không tích cực nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ, khi Nhà nước ban hành các chế độ mới về đầu tư và xây dựng thì không thực hiện ngay mà vẫn giải quyết công việc dựa trên chế độ chính sách cũ hoặc là theo thói quen, cảm tính. 2.4.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế Thứ nhất, Về chế độ quản lý vốn đầu tư XDCB hiện nay còn quá nhiều, cồng kềnh, chồng chéo (khối lượng Luật, Nghị định, Thông tư); việc hướng dẫn về cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB của các Bộ chức năng còn chậm, hướng dẫn còn chưa phù hợp với thực tế do đó gây khó khăn trong việc thực hiện dự án đầu tư cũng như thanh toán vốn đầu tư. Do hoạt động nghiệp vụ KBNN có tính đặc thù, công tác kiểm soát thanh toán được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, hồ sơ kiểm soát thanh toán khá nhiều loại hình, đa số đơn vị sử dụng ngân sách, các dự án, công trình đều có thời gian theo dõi, quản lý cấp phát nhiều lần, kéo dài nhiều năm; khối lượng hồ sơ lớn, phức tạp, điều kiện để được thanh toán cũng rất đa dạng, nhiều tình huống phát sinh mà chưa có quy định cụ thể. Thứ hai, vẫn còn tình trạng chưa chấp hành nghiêm quy trình, trình tự kiểm soát thanh toán vốn đầu tư tại một số KBNN, dẫn đến tình trạng thất thoát lãng phí vốn của Nhà nước. Thứ ba, do năng lực tổ chức thực hiện của một số Chủ đầu tư và Ban quản lý dự án còn yếu kém nên gây ra sự phi hiệu quả của đồng vốn do Nhà nước bỏ ra, ví dụ như đối với tình hình biến động giá cả nguyên vật liệu đòi hỏi Chủ đầu tư phải xem xét lại dự toán. Việc điều chỉnh biến động giá nguyên vật liệu lại phải dựa trên thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng, thông tư này vẫn còn một số nội dung chưa rõ gây khó khăn vướng mắc cho Chủ đầu tư và nhà thầu trong quá trình thực hiện, vì vậy nếu năng lực không tốt sẽ khiến cho quá trình này kéo dài dẫn đến chậm tiến độ của dự án đầu tư. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ KIỂM SOÁT THANH TOÁN VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA KHO BẠC NHÀ NƯỚC 3.1. Định hướng, mục tiêu 3.1.1. Định hướng 3.1.1.1. Định hướng chung Thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của hệ thống KBNN phục vụ mục tiêu phát triển tài chính Việt Nam đến năm 2010 và hướng tới thông lệ quốc tế trong điều kiện vận hành hệ thống thông tin Kho bạc-ngân sách (TABMIS). Nâng cao vai trò quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính nhà nước; quản lý ngân quỹ, quản lý nợ; hoàn thiện kế toán NSNN làm cơ sở xây dựng hệ thống kế toán nhà nước thống nhất; tạo dựng được nền tảng để xây dựng KBNN hiện đại trong giai đoạn tiếp theo (2010-2020). 3.1.1.2. Các định hướng cụ thể (1) Hoàn thiện cơ chế chính sách và quy trình nghiệp vụ KBNN gắn với tiến trình cải cách hành chính, cụ thể: Đổi mới cơ chế quản lý và quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư phù hợp với thông lệ quốc để vận hành TABMIS như: kiểm soát cam kết chi, kiểm soát thanh toán theo kết quả đầu ra, kiểm soát theo nội dung và giá trị khoản chi,; đồng thời, đảm bảo tính đơn giản, công khai và minh bạch, cụ thể: Xây dựng cơ chế, quy trình quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của KBNN phù hợp với thông lệ quốc tế để vận hành TABMIS. Từng bước chuyển dần việc quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư theo yếu tố đầu vào sang thực hiện quản lý, kiểm soát thanh toán theo kết quả đầu ra, theo các nhiệm vụ và chương trình ngân sách. Thực hiện phân loại các khoản chi theo nội dung và giá trị để xây dựng quy trình kiểm soát thanh toán hiệu quả. Cải cách công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư theo hướng tập trung đầu mối, gắn với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản, KBNN và các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong công tác kiểm soát thanh toán, đảm bảo đơn giản, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, chứng từ, nộ dung kiểm soát Từng bước xây dựng và áp dụng thí điểm quy trình, thủ tục kiểm soát thanh toán điện tử. Kết nối và trao đổi thông tin với các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN; xây dựng, quản lý danh mục đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ theo lộ trình triển khai TABMIS nhằm tăng cường quản lý chi NSNN và tăng tỷ trọng chi NSNN theo phương thức thanh toán trực tiếp từ KBNN cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Thực hiện cơ chế quản lý ngân quỹ KBNN đảm bảo an toàn và bước đầu tính đến hiệu quả; từng bước nghiên cứu và hoàn thành hệ thống kiểm soát rủi ro quản lý ngân quỹ và quản lý nợ; hiện đại hóa công tác phát hành trái phiếu Chính phủ phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính. Gắn kết quả quản lý ngân quỹ với quản lý nợ trái phiếu Chính phủ để nâng cao hiệu quả huy động vốn, phấn đấu đến 2010 giảm khoảng 5% chi phí trả lãi tiền vay hàng năm của trái phiếu Chính phủ để giảm bớt gánh năng cho NSNN. Bước đầu thực hiện kế toán NSNN trên nền tảng hệ thống TABMIS, đáp ứng các yêu cầu cải cách tài chính công như: lập kế hoạch chi tiêu ngân sách trung hạn; chính sách phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra; đảm bảo tính công khai, minh bạch. Hiện đại hóa công tác thanh toán của hệ thống KBNN; giảm dần khối lượng giao dịch tiền mặt qua hệ thống KBNN. Đổi mới công tác kiểm tra, kiếm soát theo hướng xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ KBNN về các mặt thể chể chính sách, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và phương pháp thực hiện nhằm mục tiêu đảm bảo sự phát triển an toàn, ổn định và vững chắc của hệ thống KBNN. (2) Hiện đại hóa công nghệ thông tin của hệ thống KBNN trên nền tảng hệ thống TABMIS hướng tới hình thành hệ thống thông tin tài chính tích hợp. Chuẩn hóa và phát triển các chương trình ứng dụng phục vụ hoạt động nghiệp vụ KBNN, tạo nền tảng để hướng tới xây dựng kho bạc điện tử trong giai đoạn tiếp theo. (3) Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực, cụ thể: Kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động phù hợp với tiến trình, định hướng cải cách hành chính và hiện đại hóa hoạt động KBNN. Phát triển nguồn nhân lục đảm bảo số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới cơ chế chính sách, quy trình nghiệp vụ và công nghệ quản lý. 3.1.1.3. Các định hướng cụ thể trong hoạt động thanh toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN của KBNN Về thể chế, chính sách: Các văn bản chế độ quy định về quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB phải tiếp tục được nghiên cứu để ban hành đầy đủ, đồng bộ, mang tính nhất quán xuyên suốt và ổn định lâu dài, có tính khả thi cao. Cán bộ kiểm soát thanh toán phải được tiêu chuẩn hóa, được đào tạo đúng ngành nghề, được bố trí đúng ngành nghề đã được đào tạo, làm việc có kiến thức quản lý kinh tế, vừa nắm chắc chế độ quản lý đầu tư XDCB, vừa phải là cán bộ kỹ thuật, có khả năng xem xét (đọc được) các bản vẽ thiết kế, từ đó mới đưa ra được các kết luận chính xác, giảm thiểu những rủi ro, những lãng phí, thất thoát trong đầu tư XDCB, đồng thời là người có đức tính liêm khiết, trung thực, có phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự. Về cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc phải được tăng cường, bổ sung cho đầy đủ, đáp ứng yêu cầu kiểm soát thanh toán trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hiện đại hóa công nghệ thanh toán, truyền tin đảm bảo lưu trữ thông tin và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác và mang tính thời đại, không bị lạc hậu. Những thiết bị tin học, những chương trình quản lý chuyên ngành là điều kiện, là phương tiện quan trọng đảm bảo cho công tác kiểm soát thanh toán hữu hiệu và nhanh chóng. 3.1.2. Mục tiêu Xét trên các góc độ khác nhau, công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB từ NSNN của hệ thống KBNN phải đạt được: Thứ nhất, Đảm bảo các khoản chi tiêu đúng đối tượng, đúng nội dung của dự án đã được phê duyệt, góp phần chống thất thoát, lãng phí trong công tác quản lý, thanh toán vốn đầu tư XDCB, nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư. Thứ hai, Qua công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư làm cho các Chủ đầu tư hiểu rõ hơn để thực hiện đúng chính sách, chế độ về quản lý đầu tư và xây dựng, góp phần đưa công tác quản lý đầu tư và xây dựng đi vào nề nếp, đúng quỹ đạo, từ đó nâng cao vai trò và vị thế của KBNN là cơ quan kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB từ NSNN. Thứ ba, Qua công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB, KBNN đóng góp tích cực và có hiệu quả với các cấp chính quyền khi xác định chủ trương đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn và hàng năm sát với tiến độ thực hiện dự án. Tham mưu với các Bộ, ngành trong việc hoạch định chính sách quản lý đầu tư, thu hút được các nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển. 3.2. Những giải pháp cụ thể 3.2.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức và phân công nhiệm vụ Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản Do có sự thực hiện các nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vốn thanh toán phân tán như đã trình bày trong phần tồn tại và hạn chế nên về cơ bản nên thiết lập lại mô hình tổ chức theo hướng chuyên môn hóa về nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vốn như sau: Thành lập Vụ thanh toán vốn đầu tư mới (có thể gọi là Vụ kiểm soát chi ngân sách nhà nước), chức năng chính của Vụ là kiểm soát thanh toán tất cả các khoản chi tiêu từ NSNN bao gồm chi thường xuyên, chi Chương trình mục tiêu và chi đầu tư xây dựng cơ bản, trong đó mô hình gồm các cấp từ trung ương tới địa phương: Ở Trung ương thành lập Vụ kiểm soát chi ngân sách nhà nước Ở Địa phương thành lập Phòng (Bộ phận) kiểm soát chi ngân sách nhà nước. Trong đó, Trung ương chỉ đạo, phối hợp, thực hiện công tác kiểm soát thanh toán với Địa phương, giải đáp các thắc mắc có liên quan đến nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả kiểm soát thanh toán trong toàn ngành. Nguồn nhân lực của Vụ thanh toán vốn đầu tư mới sẽ bao gồm cán bộ thuộc Ban thanh toán vốn đầu tư cũ và các cán bộ làm nhiệm vụ kiểm soát thanh toán vốn Chương trình mục tiêu và chi thường xuyên chuyển từ Ban Kế hoạch và Ban Kế toán sang. Mục đích của việc thành lập Vụ kiểm soát chi ngân sách nhà nước với chức năng kiểm soát gộp chung tất cả các khoản chi của NSNN nhằm để chuyên môn hóa nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vào một bộ phận tách biệt so với các bộ phận khác của KBNN, tránh tình trạng phân tán như hiện nay, do chủ đầu tư phải liên hệ, đi lại tới mỗi ban để trình duyệt hồ sơ chứng từ. Thêm vào đó, khi một dự án có nhiều hạng mục, có hạng mục thuộc chi XDCB, có hạng mục lại thuộc chi cho Chương trình mục tiêu, khi gộp các việc kiểm soát các khoản chi vào một Vụ như trên sẽ giúp cải thiện đáng kể thời gian, chi phí đi lại và cũng nhằm thúc đẩy tiến độ của dự án đưa vào khởi công. Tuy nhiên do tính chất công việc của nghiệp vụ kiểm soát thanh toán đầu tư là số lượng dự án luôn luôn rất cao, thủ tục giấy tờ khá phức tạp đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực lớn, do đó đòi hỏi lãnh đạo KBNN phải bố trí cán bộ sao cho phù hợp trong sự tương thích với các bộ phận khác của KBNN, tránh tình trạng số lượng cán bộ Bộ phận này lại lớn hơn nhiều lần so với cán bộ các Bộ phận khác, như vậy sẽ gây ra sự chênh lệch giữa các bộ phận, dẫn đến tập trung quá nhiều nguồn lực vào một bộ phận. Điều kiện thực hiện giải pháp: Sửa lại QĐ 209/2003/QĐ-BTC ngày 16/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các ban và văn phòng thuộc Kho bạc nhà nước; Hợp nhất các quy trình kiểm soát thanh toán liên quan đến cả ba loại vốn nói trên; Tập huấn bồi dưỡng, nâng cao ngiệp vụ cho các cán bộ nghiệp vụ về cách thức kiểm soát thanh toán cả ba loại vốn nói trên. 3.2.2. Hoàn thiện công tác Kế hoạch vốn đầu tư Tồn tại nổi bật nhất của Kế hoạch vốn đầu tư trong nhiều năm nay như đã nêu là do ghi Kế hoạch chưa đúng trọng điểm, tràn lan, phân tán. Do vậy, việc ghi kế hoạch vốn cần phải ghi theo hướng ưu tiên cho những dự án có khả năng hoàn thành được trong năm để đưa vào sản xuất, khai thác lợi ích do dự án mang lại, nhằm tạo ra giá trị thặng dư trực tiếp cho xã hội. Bên cạnh đó cần khắc phục ngay tình trạng là khi dự án chưa đủ thụ tục theo văn bản của cấp có thẩm quyền yêu cầu thì tuyệt đối không được ghi kế hoạch vốn vội, để dùng vốn đó ghi kế hoạch cho những dự án khả thi khác đang trong quá trình xây dựng hay nghiệm thu đưa vào thực tiễn. Đối với tài liệu về Kế hoạch vốn, hàng năm KBNN địa phương nhận được từ KBNN và Bộ, ngành chủ quản hai loại kế hoạch vốn là Kế hoạch vốn hàng năm do Bộ, ngành chủ quản thông báo (Kế hoạch khối lượng) và Thông báo danh mục dự án và vốn hàng năm do KBNN thông báo (đối với các dự án do Trung ương quản lý); Kế hoạch vốn của UBND các cấp (đối với các dự án do Địa phương quản lý) gọi chung là Kế hoạch vốn đầu tư. Do KBNN địa phương kiểm soát thanh toán vốn đầu tư theo Kế hoạch đầu tư do KBNN trung ương gửi xuống nên Bản Kế hoạch khối lượng chỉ mang tính hình thức, không tham gia vào quá trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của KBNN địa phương. Vì vậy để thực hiện cải cách hành chính, tinh giản văn bản Kế hoạch vốn gửi xuống cho KBNN địa phương, nên bỏ bớt Kế hoạch khối lượng, tránh tình trạng văn bản bị thừa, mất chi phí bảo quản hàng năm. Điều kiện thực hiện giải pháp: Sửa lại quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư trong nước qua hệ thống Kho bạc nhà Nước (QĐ số 297/QĐ-KBNN ngày 18/5/2007 và QĐ số 1539/QĐ-KBNN ngày 11/12/2007). 3.2.3. Hoàn thiện Quy trình Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư Về cơ chế “một cửa”: Như đã nói ở trên, cơ chế “một cửa” được áp dụng trong các cơ quan hành chính ở Trung ương và địa phương trong nhiều lĩnh vực khác nhau như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép xây dựng – những nơi mà các công việc đã được chuẩn hóa về mặt chế độ chính sách, các điều kiện về hồ sơ, mẫu biểu, do đó việc kiểm soát chỉ cần căn cứ vào hồ sơ để giải quyết theo một trình tự nhất định đã đề ra. Khi áp dụng cơ chế này vào hoạt động nghiệp vụ của Kho bạc Nhà nước rõ ràng là nó chưa thực sự khả thi và hiệu quả với những lý do đã trình bày ở trên do đó sinh viên xin đề xuất việc bỏ cơ chế này trong hoạt động kiểm soát thanh toán của KBNN. Vì việc vận hành cơ chế này trên thực tế vẫn không ngăn chặn được thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB mà còn gây ra tình trạng cán bộ thanh toán và kế toán luôn phải thay nhau túc trực ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, đồng thời họ vẫn phải thực hiện nhiệm vụ kiểm soát các hồ sơ của mình do đó gây ra sự mất thời gian và thiếu tập trung trong công tác kiểm soát ảnh hưởng đến chất lượng làm việc. Bỏ cơ chế này trong hoạt động kiểm soát thanh toán của KBNN sẽ giảm được thời gian đi lại của cán bộ thanh toán và kế toán đồng thời những vướng mắc phát sinh giữa Chủ đầu tư với cán bộ thanh toán sẽ được giải đáp trực tiếp chứ không phải thông qua một bộ phận trung gian nào cả. Điều kiện thực hiện giải pháp: KBNN ban hành Quyết định mới về cơ chế thực hiện kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN của KBNN. Bố trí lại các cán bộ cũng như cơ sở vật chất để thích ứng với cơ chế mới. Về đường luân chuyển chứng từ: Chứng từ nên được luân chuyển theo hướng làm giảm thời gian luân chuyển trong nội bộ ngành như việc tránh tình trạng lãnh đạo phải ký hai lần phê duyệt đối với một hồ sơ của Chủ đầu tư do Bộ phận Thanh toán vốn đầu tư và Bộ phận Kế toán trình lên. Theo hướng cải cách mới này thì dòng luân chuyển mới sẽ như sau: Sơ đồ 3.1: Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và luân chuyển chứng từ của Kho bạc Nhà nước Chủ đầu tư (3) (2) (4) (5) (6) (1) Phòng Kế toán Lãnh đạo KBNN Phòng Thanh toán vốn đầu tư Bước (1) Hồ sơ, tài liệu được chủ đầu tư gửi đến KBNN Phòng thanh toán vốn đầu tư của KBNN. Bước (2) Cán bộ thanh toán kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ tài liệu (bao gồm cả việc kiểm tra mẫu dẫu, chữ ký), sự phù hợp mã đơn vị sử dụng ngân sách, nguồn vốn, niên độ kế hoạch vốn ghi trên Giấy rút vốn đầu tư và Giấy đề nghị thanh toán vốn đầu tư; việc lựa chọn nhà thầu theo quy định (thuộc đối tượng chỉ định thầu, đấu thầu hay các hình thức lựa chọn nhà thầu khác), đối chiếu công việc, khối lượng hoàn thành theo nội dung ghi tại Bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành theo hợp đồng để đảm bảo khối lượng hoàn thành đó có trong hợp đồng kinh tế đã ký kết; thuộc dự toán được duyệt (trường hợp chỉ định thầu), dự toán bổ sung được duyệt (đối với các hạng mục mới phát sinh ngoài dự toán) ; tuân thủ các điều khoản thanh toán được quy định trong hợp đồng (số lần thanh toán, giai đoạn thanh toán, điều kiện thanh toán) ; có trong kế hoạch vốn năm được thông báo. Sau khi kiểm tra hồ sơ đảm bảo đủ điều kiện nêu trên, cán bộ thanh toán xác định số vốn thanh toán, số vốn tạm ứng cần phải thu hồi (nếu có); tên, tài khoản đơn vị được hưởng, ghi đầy đủ vào các chỉ tiêu và ký vào Giấy đề nghị thanh toán vốn đầu tư, Giấy rút vốn đầu tư, Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư (nếu có) và lập tờ trình lãnh đạo, trình Trưởng bộ phận thanh toán VĐT ký trình lãnh đạo KBNN phụ trách.. Trường hợp kết quả kiểm soát có sự chênh lệch, cán bộ thanh toán báo cáo Trưởng bộ phận Thanh toán VĐT trình lãnh đạo KBNN để thông báo cho chủ đầu tư thông qua cán bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả về kết quả kiểm soát và yêu cầu chủ đầu tư lập lại Giấy rút vốn đầu tư. Trưởng bộ phận thanh toán VĐT xem xét, ký vào các chứng từ, tờ trình và trình lãnh đạo KBNN phụ trách ký duyệt hồ sơ thanh toán bao gồm cả Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư (nếu có), Giấy rút vốn đầu tư. Bước (3) Lãnh đạo KBNN phụ trách xem xét, ký duyệt tất cả các chừng từ, bao gồm : Giấy đề nghị thanh toán vốn đầu tư, Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư (nếu có), Giấy rút vốn đầu tư; chuyển trả hồ sơ Phòng thanh toán VĐT. Trường hợp lãnh đạo KBNN phê duyệt khác với số đề nghị chấp nhận tạm ứng hoặc thanh toán của bộ phận thanh toán VĐT thì bộ phận thanh toán VĐT thống nhất với chủ đầu tư và yêu cầu chủ đầu tư lập lại Giấy rút vốn đầu tư thông qua cán bộ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Bước (4) Bộ phận thanh toán vốn đầu tư chuyển Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư (nếu có), Giấy rút vốn đầu tư đã được lãnh đạo KBNN ký duyệt cho bộ phận kế toán. Bước (5) Bộ phận kế toán thực hiện kiểm tra mẫu dấu, chữ ký, tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ và hạch toán trên chứng từ giấy, đồng thời nhập các thông tin liên quan vào chương trình máy; ký trên chứng từ giấy, chương trình máy và thực hiện các thủ tục chuyển tiền cho đơn vị thụ hưởng. Đối với những khoản thanh toán có giá trị cao theo quy định của quy trình thanh toán điện tử thì kế toán trình lãnh đạo phụ trách ký duyệt trên máy.Thực hiện lưu 1 liên Giấy rút vốn đầu tư, 1 liên Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư (nếu có). Các liên còn lại bộ phận kế toán chuyển lại bộ phận thanh toán VĐT (cán bộ thanh toán trực tiếp giải quyết hồ sơ). Trường hợp chủ đầu tư lĩnh tiền mặt thì bộ phận kế toán chuyển các liên Giấy rút vốn đầu tư kiêm lĩnh tiền mặt sang bộ phận kho quỹ để bộ phận kho quỹ chi tiền cho đơn vị thụ hưởng và thực hiện luân chuyển chứng từ theo quy định của KBNN. Nếu phát hiện sai sót hoặc chứng từ kế toán không hợp lệ, hợp pháp, kế toán báo cáo trực tiếp với lãnh đạo phụ trách bộ phận kế toán và chuyển lại hồ sơ cho bộ phận thanh toán vốn đầu tư xử lý. Bước (6) Bộ phận thanh toán VĐT (cán bộ thanh toán trực tiếp giải quyết hồ sơ) trả giấy đề nghị thanh toán vốn đầu tư, Giấy rút vốn đầu tư, Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư (nếu có) cho Chủ đầu tư. Ưu điểm: Thực hiện theo quy trình luân chuyển mới bước đầu có thể có trục trặc do cán bộ làm công tác thanh toán vốn đầu tư chưa nắm rõ quy định về nghiệp vụ kế toán KBNN. Tuy nhiên về lâu dài sẽ đảm bảo chất lượng phục vụ tốt hơn, thời gian giải quyết công việc nhanh hơn do: Giảm bớt được việc phải trình lãnh đạo KBNN ký lần thứ 2, trừ trường hợp thanh toán chuyển tiền điện tử có giá trị cao thì theo quy định phải trình lãnh đạo ký duyệt trên máy. Giảm bớt 02 bước luân chuyển chứng từ (bước 6 và bước 7 của mô hình luân chuyển theo quy định hiện hành). Lãnh đạo KBNN phụ trách TTVĐT bao quát được toàn bộ quá trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư (kiểm soát và ký trên tất cả các chứng từ mệnh lệnh và chứng từ kế toán). Nếu chứng từ kế toán có sai sót thì cán bộ thanh toán có thể yêu cầu chủ đầu tư hoàn chỉnh được ngay (theo quy trình cũ: chứng từ kế toán chuyển sang bộ phận Kế toán, nếu có sai sót lại chuyển lại bộ phận thanh toán sau đó mới yêu cầu chủ đầu tư hoàn chỉnh thông qua bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả). Giảm thiểu được sai sót khi chuyển hồ sơ sang bộ phận kế toán vì bộ phận thanh toán VĐT đã kiểm tra một số yếu tố (mẫu dấu, chữ ký, số hiệu tài khoản). Quy trình luân chuyển không trái với quy định của Luật Kế toán (quy định tại Điều 20 khoản 3: “Chứng từ kế toán chi tiền phải do người có thẩm quyền ký duyệt chi và kế toán trưởng hoặc người được uỷ quyền ký trước khi thực hiện. Chữ ký trên chứng từ kế toán dùng để chi tiền phải ký theo từng liên.” Nhược điểm: Bộ phận kế toán (cán bộ kế toán, lãnh đạo bộ phận kế toán) làm thủ tục thanh toán, ký chứng từ kế toán (Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư, Giấy rút vốn đầu tư ) sau khi lãnh đạo KBNN đã ký duyệt. Như vậy sẽ khác với qui trình hiện hành: cán bộ cấp trên chỉ ký sau khi tất cả cán bộ cấp dưới theo chức danh đã ký trên hồ sơ. Yêu cầu cán bộ làm công tác thanh toán vốn đầu tư phải có nghiệp vụ về kế toán KBNN để thực hiện kiểm soát các yếu tố chứng từ kế toán (Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư, Giấy rút vốn đầu tư ). Điều kiện thực hiện giải pháp: Sửa lại Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư. Tổ chức thông báo thực hiện với toàn thể cán bộ nghiệp vụ, Chủ đầu tư 3.2.4. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin Trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư phầm mềm DTKB được sử dụng nhiều nhất nhưng tính hạn chế lớn nhất của công nghệ DTKB/LAN là nó chỉ được sử dụng để kiểm soát đối với vốn đầu tư xây dựng cơ bản, trong khi đó vốn dùng cho Chương trình mục tiêu và chi thường xuyên không thể sử dụng phần mềm này. Nếu xây dựng một Vụ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư mới theo như giải pháp đã đưa ra thì yêu cầu cấp thiết là cần phải có một hệ thống phần mềm ứng dụng chung cho cả ba loại vốn này. Do đó hiện nay trong KBNN đang triển khai một dự án lớn về công nghệ thông tin do FPT và IBM ký kết cùng hợp tác xây dựng là dự án TABMIS. Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS) là xương sống của dự án cải cách quản lý tài chính công PFMRP được thực hiện bởi Bộ Tài chính Việt Nam. Mục tiêu của PFMRP nhằm: Hiện đại hóa việc quản lý NSNN, bao gồm việc lập và chấp hành ngân sách, lập báo cáo và tăng cường tính trách nhiệm ngân sách của Bộ Tài chính; Tăng cường tính minh bạch trong qly tài chính cong và bảo mật tài chính; Cho phép lập kế hoạch chi tiêu trung hạn và tăng cường năng lực quản lý nợ công nợ của Bộ Tài chính và Chính phủ; Hiện đại hóa quản lý NSNN bao gồm phân bổ dự toán ban đầu và sử dụng ngân sách. Mục đích của dự án TABMIS là xây dựng và triển khai một hệ thống tích hợp kết nối với Bộ Tài chính, KBNN và các cơ quan tài chính các cấp. TABMIS cung cấp cho KBNN và Bộ Tài chính một bộ các phân hệ ứng dụng lõi về ngân sách và kho bạc tích hợp: Chuẩn hóa các quy trình ngân sách và kho bạc: Tăng cường hiệu quả hoạt động; Nâng cấp và cải thiện việc lập báo cáo và ghi lại các thông tin tài chính một cách chính xác, có tổ chức và kịp thời; Nâng cao trách nhiệm giải trình và khả năng kiểm toán. Thông tin về ngân sách và kho bạc kịp thời và chính xác: Tăng cường quản lý nợ công; Tăng cường tính minh bạch về quản lý tài chính công; Tăng cường quản lý và kiểm soát giữa việc lập kế hoạch ngân sách và các mục tiêu phát triển (trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn). Hướng tới việc quản lý nhà nước tốt hơn, đóng góp cho công cuộc giảm nghèo. Mục tiêu chính trong nhiệm vụ quản lý chi của phần mềm ứng dụng này bao gồm: Quản lý việc thanh toán cho các nhà cung cấp, các đơn vị sử dụng ngân sách và các đối tượng thụ hưởng. Thực hiện thanh toán chính xác, đáng tin cậy, bảo mật và hiệu quả. Giải ngân theo số ngân sách đã được phân bổ. Với việc triển khai tabmis, các giao diện được xây dựng từ hệ thống kế toán riêng của các đơn vị sử dụng ngân sách sang phân hệ tabmis Quản lý thanh toán đối với chi thường xuyên và từ chương trình thanh toán vốn đầu tư của kho bạc – DTKB – sang phân hệ tabmis ap đối với chi dự án đầu tư. Như vậy nếu thực hiện xong dự án TABMIS, công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư sẽ có một bước tiến đáng kể trong việc gộp các loại vốn với nhau thuận tiện cho các cán bộ trực tiếp làm nghiệp vụ kiểm soát thanh toán. Thông tin của các dự án minh bạch hơn cũng sẽ góp phần giảm thiểu thất thoát lãng phí trong thanh toán vốn đầu tư. Điều kiện thực hiện giải pháp: Phối hợp với Bộ Tài chính triển khai dự án TABMIS trong hoạt động nghiệp vụ của KBNN, vận hành và chạy thử để nghiệm thu kết quả. Tập huấn, bồi dưỡng các cán bộ làm nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư các kiến thức về TABMIS. 3.2.5. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, vững vàng, am hiểu về hoạt động xây dựng cơ bản vì vậy Kho bạc Nhà nước phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng phù hợp trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Điều kiện thực hiện giải pháp: Kết hợp đào tạo ngắn hạn thông qua các đợt tập huấn, học tập do Kho bạc Nhà nước tổ chức với cử cán bộ đi đào tạo dài hạn tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Kết hợp đào tạo tại chỗ với đào tạo tập trung, luân phiên cán bộ được đào tạo, phấn đấu hàng năm luân phiên các cán bộ làm công tác quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Kho bạc Nhà nước được đào tạo ngắn hạn, phổ biến cơ chế chính sách mới, những kỹ thuật tác nghiệp mới về quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và các lớp nghiệp vụ khác hỗ trợ cho công việc như công nghệ tin học, ngoại ngữ. Phải xác định được tiêu chuẩn cán bộ làm cơ sở xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm vật chất của cán bộ làm công tác quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Thưc hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh để khuyến khích, động viên và răn đe cán bộ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Khi giao tiếp với khách hàng phải thể hiện phong cách, thái độ lịch sự, văn minh, hướng dẫn đầy đủ, tận tình và chu đáo. Kho bạc Nhà nước phải xây dựng và thực hiện chế độ tiền lương hợp lý, chế độ đãi ngộ thoả đáng để đội ngũ cán bộ yên tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề và giữ chân được những cán bộ giỏi, có tâm huyết với nghề nghiệp. 3.3. Kiến nghị về điều kiện thực hiện các giải pháp 3.3.1. Kiến nghị với Bộ Tài chính Kiến nghị Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số văn bản cho phù hợp với tình hình mới, ví dụ như: Nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi hoặc bãi bỏ Thông tư số 109/2000/TT-BTC ngày 13/11/2000 hướng dẫn chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng lệ phí thẩm định đầu tư phù hợp với các quy định của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư. Đề nghị BTC sớm sửa đổi, bổ sung và gộp các Thông tư 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007, 130/2007/TT-BTC ngày 02/11/2007 (Hướng dãn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước) và Thông tư số 28/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 về Hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ thành một thông tư, vì Chính phủ đã có ý kiến về việc phân bổ, thẩm tra kế hoạch, mặt khác tính chất kiểm soát dự án bằng nguồn vốn đầu tư và dự án bằng nguồn vốn trái phiếu chính phủ không khác biệt, do đó Bộ Tài chính xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về phạm vi, phương pháp, nội dung quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn đầu tư thuộc ngân sách xã, phường, thị trấn, vốn ghi thu ghi chi, hướng dẫn việc quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành,... theo Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu và các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện những luật trên để Kho bạc Nhà nước có cơ sở hoàn thiện quy trình quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước. Đổi mới công tác thông tin báo cáo tình hình thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng đơn giản chỉ tiêu, giảm bớt mẫu biểu và số lần báo cáo, thực hiện báo cáo định kỳ theo quý (hiện nay đang quy định báo cáo định kỳ hàng tháng). Thực hiện tin học hoá công tác báo cáo tình hình thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản để phục vụ kịp thời cho sự chỉ đạo, điều hành ngân sách của lãnh đạo các cấp và các cơ quan chuyên môn (hiện nay công tác báo cáo chủ yếu thực hiện bằng thủ công). Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về công tác quản lý tài chính của dự án đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước để chấn chỉnh, xử lý các vi phạm trong quản lý vốn đầu tư xây dựng của các cấp, các ngành và Kho bạc Nhà nước. 3.3.2. Kiến nghị với các Bộ, ngành, địa phương Các Bộ, ngành, địa phương là cơ quan trực tiếp quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn NSNN, do vậy để hoạt động đầu tư XDCB đạt hiệu quả cao, kiến nghị với các Bộ, ngành và địa phương như sau: Trước khi ra quyết định phê duyệt dự án đầu tư, phê duyệt dự toán, phê duyệt kết quả đấu thầu, các bộ, ngành, địa phương phải xem xét tính hiệu quả (hiệu quả về kinh tế, xã hội, về môi trường...) của dự án đó, phải bố trí đủ vốn cho các dự án đầu tư khi phê duyệt. Chỉ phê duyệt những dự án đã hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư, tính đúng, tính đủ các chi phí của dự án để tránh khi thực hiện dự án phát sinh nhiều công việc mới và hạn chế điều chỉnh tổng mức đầu tư của dự án (trừ các trường hợp bất khả kháng) để tránh mất thời gian, làm chậm tiến độ của các dự án. Đối với công tác lập, phân bổ kế hoạch vốn phải bố trí vốn tập trung, tránh dàn trải, ưu tiên vốn cho các dự án cấp bách, dự án chuyển tiếp, dự án có tiến độ thực hiện tốt. Kiên quyết cắt giảm vốn các dự án không hiệu quả, đình hoãn các dự án chưa cần thiết phải khởi công. Đổi mới công tác bố trí kế hoạch vốn bằng công tác lập dự toán vốn cho dự án cùng với lập dự toán ngân sách hàng năm và phải dự kiến vốn cho các năm tiếp theo theo tổng mức đầu tư đã phê duyệt và tiến độ triển khai thực hiện dự án đã ghi trong quyết định đầu tư. Tiến tới quản lý vốn theo dự án, không quản lý theo kế hoạch vốn hàng năm.. Đôn đốc chủ đầu tư khẩn trương lập và trình duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án, công trình hoàn thành và khẩn trương phê duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án, công trình hoàn thành đã có đầy đủ điều kiện, hồ sơ, thủ tục theo luật định để làm cơ sở cho Kho bạc Nhà nước thanh quyết toán và tất toán tài khoản cấp phát vốn đầu tư của dự án. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện các dự án đầu tư để ngăn ngừa và hạn chế những vi phạm của các chủ đầu tư, nhà thầu, đơn vị tư vấn, cơ quan cấp phát vốn khi tham gia quản lý, thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ bản. 3.3.3. Kiến nghị với Chủ đầu tư, đơn vị tư vấn và nhà thầu Các chủ đầu tư, đơn vị tư vấn, nhà thầu trong quá trình quản lý, thực hiện dự án đầu tư phải chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng, tuân thủ trình tự đầu tư và xây dựng, quy trình, quy phạm kỹ thuật khi xây dựng công trình. Khi dự án, công trình hoàn thành phải khẩn trương lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc hoàn thiện công tác quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp và kiến nghị về chính sách chế độ, quy trình nghiệp vụ, mẫu chứng từ, công nghệ thông tin, tổ chức bộ máy, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cấp các ngành để góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và hạn chế thất thoát, lãng phí, tiêu cực trong hoạt động này. KẾT LUẬN Với những cải cách, đổi mới trong công tác Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN trong thời gian vừa qua dựa trên các quy chế, chính sách mới về quản lý đầu tư và xây dựng được Nhà nước nghiên cứu, xây dựng và ban hành đã mang lại những kết quả nhất định. Nổi bật nhất là các dự án công được xây dựng đi vào thực tiễn đời sống nhân dân ngày càng nhiều góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế cũng như phúc lợi của xã hội. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn, tính thích ứng và phù hợp của các quy chế, chính sách là khác nhau, trong quá khứ các chính sách này có thể mang lại lợi ích trực tiếp nhưng trong hiện tại chúng có thể không còn phù hợp nữa. Vì vậy việc hoàn thiện các quy chế, chính sách về đầu tư XDCB là việc làm đòi hỏi mang tính thường xuyên và phải nghiên cứu sao cho mỗi cơ chế, chính sách ban hành phải phù hợp với thực trạng nền kinh tế và khuyến khích thúc đẩy kinh tế phát triển. Dựa trên những thực trạng của công tác thanh toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN của KBNN trong thời gian vừa qua, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp cụ thể và một số kiến nghị về việc thực hiện các giải pháp đó để hoàn thiện công tác nói trên. Tuy nhiên với dung lượng nghiên cứu của một chuyên đề tốt nghiệp trong điều kiện nghiên cứu thực tiễn có hạn và do kiến thức thực tế còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như cách trình bày, rất mong nhận được sự góp ý nhiệt tình từ các thầy cô giáo để quá trình nghiên cứu của tôi thu được kết quả tốt. Xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ môn kinh tế đầu tư Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2003), Kinh tế đầu tư, NXB Thống kê, Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Khoa học quản lý, Hiệu quả và quản lý dự án nhà nước, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Kho bạc Nhà nước, Báo cáo tình hình thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ năm 2001 đến năm 2008, Hà Nội. TS. Lê Hùng Sơn, Chất lượng tư vấn và hiệu quả vốn đầu tư, Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia – Số 35 tháng 5 năm 2005, trang 16-18. Nguyễn Thái Hà, Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB của hệ thống KBNN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Kho bạc Nhà nước, Hà Nội. Lê Quốc Hùng, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Kho bạc Nhà nước Thừa Thiên Huế 2005. Ban Thanh toán vốn đầu tư Kho bạc Nhà nước, Hoàn thiện mẫu chứng từ trong công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của hệ thống Kho bạc Nhà nước, Đề án nghiên cứu ứng dụng, Kho bạc Nhà nước, Hà Nội 2007. TS. Khiếu Phúc Quynh, Một số giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình Kiểm soát chi NSNN theo cơ chế “một cửa” qua KBNN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Kho bạc Nhà nước Thái Bình. Ths Đào Thái Phúc & TS Lê Hùng Sơn, Một số giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư tại Kho bac nhà nước Hà nội nhằm góp phần chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, Đề tài NCKH cấp ngành, Kho bạc Nhà nước Hà nội 2006. Nguyễn Mạnh Tiến, Một số giải pháp nâng cao chất luợng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của KBNN từ thực tiễn của KBNN Thái nguyên, Đề tài NCKH cấp ngành, KBNN Thái nguyên 2006. Ths. Nguyễn Thanh Cai, Phân tích, dự báo luồng tiền ra, vào Kho bạc nhà nước để nâng cao hiệu quả quản lý ngân quỹ quốc gia, Đề tài NCKH cấp ngành, KBNN TT Huế 2007. Kho bạc Nhà nước (2006), Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước đến năm 2020, Hà Nội Kho bạc Nhà nước (2004), Báo cáo tổng kết kiểm soát thanh toán vốn đầu tư 5 năm (2000 - 2004), Hà Nội Kho bạc Nhà nước (2006), Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc và những vấn đề có liên quan, NXB Tài chính, Hà Nội. Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, Luật Xây dựng năm 2003, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư năm 2005, các nghị định của Chính phủ, thông tư, quyết định của các bộ hướng dẫn thực hiện các luật. Các văn bản hướng dẫn kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của Kho bạc Nhà nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1975.doc
Tài liệu liên quan