Đề tài Lí luận cơ bản của kinh tế đối ngoại

Nghiên cứu kinh tế đối ngoại là vấn đề vô cùng quan trọng và cấp bách đối với nước ta hiện nay. Có hiểu rõ được sự vận động và phát triển của nó chúng ta mới tìm cho mình một hướng đi đúng đắn giúp phát triển nền kinh tế trong nước, đưa đất nước ta sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”.

doc30 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lí luận cơ bản của kinh tế đối ngoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n công lao động quốc tế Phân công lao động quốc tế xuất hiện như là hệ quả tất yếu của phân công lao động xã hội phát triển vượt khuôn khổ mỗi quốc gia. Nó diễn ra giữa các ngành, giữa những người sản xuất của những nước khác nhau và thể hiện như là một hình thức đặc biệt của sự phân công lao động theo lãnh thổ diễn ra trên phạm vi thế giới. Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên những cơ sở lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên và xã hội. Ngày nay phân công lao động vận động theo những xu hướng mới :phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng, trên nhiều lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật làm phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu, chiều cao và từ đó nó ảnh hưởng nhanh chóng đến cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi thế giới 2.2.2. Lý thuyết về lợi thế - cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là một hình thức của quan hệ khinh tế đối ngoại xuất hiện từ rất lâu đời. Lý thuyết về lợi thế giải đáp cho câu hỏi trong trao đổi ai là người đợc lợi, giữa các quốc gia phát triển cao với các quốc gia phát triển thấp có nên trao đổi thương mại hay không ? Trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học đưa ra lí thuyết về lợi thếnhư A.Smith với lí thuyết về lợi thế tuyệt đối. C.Mac với quan điểm nói về năng suất lao động dân tộc và năng suất lao động quốc tế. H.Habeerleer lí giải theo lí thuyết về chi phí cơ hội, và sau này còn nhiều lí thuyết có cách lí giải khác nhau và cách xem xét riêng song mọi cách lí giải đều đi đến một chân lí chung là lợi thế so sánh tồn tại là khách quan mà mỗi quốc gia phải lợi dụng để góp phần vào sư phân công lao động và thương mại quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế đối ngoại. 2.2.3. Xu thế thị trường thế giới. Từ những thập kỉ 70 của thế kỉ 20 lại đây toàn cầu hoá và khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại dẫn tới”mở cửa “và “hội nhập “ở mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế trong đó có xu thế phát triển của thị trường thế giới. Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau. Những biểu hiện của xu hướng phát triển thị trường thế giới :Thương mại giữa các ngành tăng lên rõ rệt. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ phân công lao động quốc tế cũng có sự thay đổi lớn về hình thức. Thể hiện ở việc từ phân công lao động giữa các ngành chuyển sang phân công lao động giữa nội bộ ngành do đó thương mại trong các ngành phát triển rất mạnh, đặc biệt là công ty xuyên quốc gia. Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng, thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng, cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt. Thương mại phát triển theo hướng tập đoàn hoá kinh tế khu vực :nền kinh tế thế giới đang phát triển theo hướng tập đoàn hoá khu vực và bị chi phối bởi những nhân tố : cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt cục diện thế giới chuyển từ hai cực sang đa cực. Khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu ngành trên quy mô thế giới. Xu thế tập đoàn hoá kinh tế khu vực ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh tế thương mại. Tóm lại, sự hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại mà cơ sở khoa học của nó chủ yếu được quyết định bởi sự phân công và hợp tác lao động trên phạm vi quốc tế được các quốc gia vận dụng thông qua lợi thế so sánh để ra quyết định lựa chọn các hình thức kinh tế đối ngoại diễn ra trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá và được biểu hiện rõ nhất ở xu thế phát triển của thị trường thế giới trong thời gian gần đây. 2.3. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại. Cho đến nay không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển kinh tế có hiệu quả mà không chủ động gắn sự phát triển của đất nước mình với sự phát triển của các nước khác cùng khu vực cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới sản xuất ngày càng được chuyên môn hoá sâu hơn, sự phân công lao động ngày càng sâu sắc trên quy mô toàn cầu làm cho mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển ngày càng tăng lên. Kinh tế đối ngoại đang trở thành bộ phận ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia giúp cho các nền kinh tế các nước có thể hỗ trợ nhau một cách cùng có lợi và mỗi nước đều phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước mình. Lịch sử kinh tế thé giớo đã chứng minh rằng không có nền kinh tế quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu thực hiện chính sách kinh tế biệt lập bế quan toả cảng, tư cấp tự túc, đứng ngoài dòng chảy chung của nền kinh tế toàn cầu II. Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại. 1. Ngoại thương. Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi quốc gia nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế. là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất kà trong các ngành xuất khẩu. Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hang hoá hoặc dịch vụ (bao gồm cả hàng hoá vô hình và hàng hoá hữu hình ) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu. Nội dung của ngoại thương bao gồm :xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Hoạt động kinh tế đối ngoại mấy thập kỉ gần đây do chịu tác động của khoa học công nghệ nên mang những đặc điểm mới :tốc độ tăng trưởng của ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân. Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương hàng hoá vô hình tăng nhanh hơn hàng hoá hữu hình. Cơ cấu mặt hàng cngx có sự biến đổi. Phạm vi, phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế fiễn ra rất đa dạng và phong phú. Muốn biến ngoai thương thành đòn bẩy có sức mạnh phát triển nền kinh tế quốc dân cần phải nắm bắt được lợi thế so sánh. nhưng lợi thế so sánh không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn thay đổi. Các nước thuộc thế giới thứ ba khi sử dụng lợi thế so sánh phải không ngừng học tập đẻ vươn len khắc phục thế yếu kém của mình. 2.Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công xây dựng xí nghiệp chung chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ các nước công nghiệp đã tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tập trung ưu tiên những ngành có hàm lượng khoa học cao chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao sang các nước đang phát triển Bên cạnh hình thức gia công một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài. Hiện nay các xí nghiệp loại này đang tồn tại phổ biến ở nhiều nước.Về mặt pháp lí xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường đựơc ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. Hợp tác sản xuất trên cơ sở chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành. Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. 3. Hợp tác khoa học kĩ thuật. Hợp tác khoa học kĩ thuật đựoc thực hiện dưới nhiều hình thức như trao đổi những tài liệu kĩ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép trao đổi kinh nghiệm chuyển giao công nghệ. Đối với những nước lạc hậu về kĩ thuật vốn chi cho nghiên cứu khoa học và công nghệ còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học chưa nhiều, phương tiện vật chất còn thiếu thốn thì việc tham gia hợp tác khoa học với nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến. Việc đưa lao động và chuyên gia đi lao động ở nước ngoàitheo hợp đồng là một hình thức hợp tác đaò tạo cán bộ và công nhân. Vì vậy cùng với việc nhận gia công từ nước ngoài cần tổ chức tốt việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở mỗi nước. Tổ chức quản lí người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đến việc sử dụng số người này sau khi họ về nước. 4. Đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Nó làm tăng nguồn vốn, tăng công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lí tiên tiến, tạo thêm việc làm đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế thị trường hiện đại của thế giới. Mặt khác đầu tư quốc tế cũng có khả năng làm gia tăng sự phân hoá giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng tỉ lệ phụ thuộc vào bên ngoài. Vì quá trình đầu tư còn nhiều mặt hạn chế nên mỗi quốc gia cần phải tính toán cân nhắc kĩ trong qúa trình xây dựng, thẩm định kí kết. Có hai loại hình đầu tư là trực tiếp và gián tiếp : Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữuvà quyền sử dụng quản lí vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn dầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lí và điều hành dự án đầu tư tự chỉutách nhiệm về kết quả rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp như :người đầu tư tự lập xí nghiệp mới, mua hoặc liên kết với xí nghiệp ở nước đầu tư, mua cổ phiếu… Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thứ lợi tức cho vay hoặc lợi tức cổ phần, hoăc không thu lợi. Sự khác biệt lớn giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư còn người đầu tư gián tiếp thì không có quyền khống chế xí nghiệp đàu tư. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức, trong đầu tư gián tiếp chủ đầu tư về thực chất là tìm đường thoát cho tư bản thừa, phân tán đầu tư nhằm giảm bớt rủi ro. 5. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ khác. Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỉ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với các hàng hoá khác trên thị trường thế giới. Mỗi nước sẽ căn cứ vào tiềm năng và tình hình cụ thể của quốc gia mình sẽ có hướng thu hút ngoại tệ riêng :du lịch quốc tế xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ, các hoạt động thu ngoại tệ khác. Việt Nam cần chú trọng hai hình thức dịch vụ cơ bản là du lịch và xuất khẩu lao động do Việt Nam có vị trí địa lí thuận lợi, nhiều cảnh quan đẹp thuận lợi cho phát triển du lịch hơn nữa dân số Việt Nam, số người ở độ tuổi lao động lớn, con người Việt Nam cần cù sáng tạo III. Mục tiêu phương hướng và nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại ở nước ta. 1. Vai trò tác dụng của kinh tế đối ngoại với việc phát triển kinh tế xã hội nước ta. Cho đến nay nền kinh tế Việt Nam vẫn bị sếp vào loại thấp kém nhất thế giới. Chúng ta vẫn đang đứng trươc những khó khăn thử thách, những mối quan hệ có tính chất truyền thống trong buôn bán bị đảo lộn. Trong bối cảnh quốc tế hoá toàn cầu hoá đang trở thành xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới mỗi nứơc đều cố gắng và chủ động tham gia vào quá trình này để có được một vị trí thuận lợi trong phân công lao động và trao đổi thương mại quốc tế. Việt Nam đi lên từ một điểm xuất phát thấp và kém phát triển so với nhiều nước trong khu vực. Nền kinh tế nước ta với mục tiêu vào năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất phát triển ở mức trung bình trong khu vực càng cần thiết phải tăng cường và mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại để tạo nguồn vốn, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư trực tiếp và công nghệ của nước ngoài. Vai trò này càng trở nên quan trọng khi nước ta bước vào CNH-HĐH trong điều kiện các nước trên thế giới đều đang tích cực bước vao thế kỉ XXI với nhiều cơ hội và thách thức to lớn. 2. Mục tiêu của kinh tế đối ngoại. Đối với nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh “theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian trước mắt việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước –nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ Mục tiêu đó phải được quán triệt tới mọi ngành mọi cầp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của kinh tế đối ngoại. Hoạt động kinh tế đối ngoại theo quan điểm hai tầng một mặt đảm bảo một số cơ sở đạt trình độ tiên tiến của thế giớ mặt khác vẫn duy trì những doanh nghiệp có trình độ công nghệ chưa cao song thu hút nhiều lao động. 3. Phương hướng cơ bản. Xuất phát từ quan điểm của Đảng “Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi”. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ dưới mọi hình thức. Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào nèn kinh tế thế giới, phát huy ý chí tự lực tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. 4. Những nguyên tắc cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại. 4.1. Bình đẳng. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. nó cũng bắt đầu từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. nói cách khác là đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước pháp luật và cộng đồng quốc tế. 4.2 Cùng có lợi. Bình đẳng là nguyên tắc giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối ngoại thì nguyên tắc cùng có lợi lại giữ vai trò làm nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau. Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tể dân tộc khác nhau. Nguyên tắc cùng có lợi còn là động kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giưã các quốc gia với nhau. Cùng có lợi ích kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối và luật đầu tư nước ngoài. Nguyên tắc này được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để kí kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và trong hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế các nước với nhau. 4.3. Tôn trọng độc lập chủ quyền không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia. Trong quan hệ quốc tế mỗi quốc gia với tư cách là quồc gia độc lập có chủ quyền về mặt chính trị kinh tế xã hội và địa lí Cơ sơ khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ đối ngoại giưã các quốc gia với nhau. nó cũng bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét cho cùng chỉ khi cùng có lợi về mặt kinh tế mới tạo cơ sở để cùng có các lợi ích khác nhau về chính trị xã hội và quân sự. Một số yêu cầu mà hai bên phải thực hiện trong nguyên tắc này : - Tôn trọng các điều khoản đã được kí kết trong các nghị định giữa các chính Phủ Và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau - Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích kinh tế của nhau - Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có quan hệ nhất là dùng các thủ đoạn kinh tế để can thiệp vao chính trị. 4.4. Giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần phải xử lí tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế mà còn phải xử lí tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích cính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện từng bước những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Do vậy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều nguồn lực bên ngoài vừa phát huy được nguồn lực bên trong, không lệ thuộc vào nước ngoài và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tóm lại, bốn nguyên tắc nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đố có nước ta. Vì vậy không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập duy trì và mở rộng kinh tế đối ngoại. IV. Kinh tế đối ngoại Việt Nam. 1. Những hướng phát triển chiến lược của kinh tế đối ngoại Việt Nam 1.1. Đa dạng hoá các loại hình kinh tế đối ngoại. “Đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế đối ngoại “là một trong những điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cơ sở của đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại là quá trình quốc tế hoá đời sống và sản xuất, quá trình giao lưu kinh tế giữa các nước với quy mô trao đổi lớn, cường độ cao và chủng loại trao đổi rất đa dạng và phức tạp. Cách mạng khoa học và công nghệ thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất và làm tăng thêm tính phức tạp của các quan hệ kinh tế đối ngoaị. Đồng thời tính phụ thuộc về mặt kĩ thuật công nghệ trong quá trình sản xuất đã dẫn tới sự phát triển những hình thức mới của kinh tế đối ngoại. Đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại là quá trình hình thành và phát triển nhiều hình thức quan hệ khác nhau giữa các nước. Mỗi nước trên thế giới dù là giàu có cũng không thể đảm bảo đủ tất cả những yếu tố của quá trình sản xuất. 1.1.1. Xuất nhập khẩu hàng hoá. Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam khá đa dạng và phong phú. Nhiều mặt hàng quan trọng có ý nghĩa với nhiều nước trên thế giới. Để có giải pháp đúng về vấn đề hàng xuất khẩu cần tiếp cận một số khía cạnh chủ yếu :số lượng chất lượng chủng loại, khả năng của từng mặt hàng và xu thế vận động của nó. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai cách thức xuất khẩu hàng hoá chủ yếu ;Một là có cái gì bán cái đó hai là tập trung vào những mặt hàng mũi nhọn. mỗi cách thức sẽ đem lại một ưu thế riêng cho nền kinh tế. Nhập khẩu là hoạt động nhằm mục đích bù đắp những hàng hoá vật tư nguyên liệu mà trong nước không có hoặc sản xuất chưa đủ và kém hiệu quả. Về phương diện lí luận nhập khẩu là đưa vào trong nước những thế mạnh của thế giới do đó việc nhâọ khẩu rất quan trọng và cấp bách cần giải quyết một cách chặt chẽ. Trước hết phải đánh giá một cách xác thực tình hình xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay. Về mặt xuất khẩu : những năm trước đây do ảnh hưởng của cơ chế quan liêu bao cấp dẫn tới tình hình xuất khẩu rất thấp so với tiềm năng. Hơn nữa số lượng hàng xuất khẩu không lớn làm cho hiệu quả không cao. Yêu cầu của thương trường quốc tế đòi hỏi quy mô hàng hoá phải có khối lượng đáng kể. Việc mua bán quốc tế phức tạp và khó khăn hơn trong nước rất nhiều, chi phí vận chuyển tốn kém. ở ta do thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu chiến lược xuất khẩu, chất lương mẫu mã hàng hoá còn thấp và xấu chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Điều đặc biệt quan trọng là chúng ta thiếu hệ thống đo lường chất lượng nên không đánh giá đươc chất lượng hàng, dãn tới bị thua thiệt trong việc mặc cả và định giá. Với xuất khẩu chúng ta đã đưa ra được những giải pháp cụ thể. Phải có quy hoạch tổng thể, chuyên môn hoá sản xuất hàng xuất khẩu, từng bước lựa chọn hàng chủ lực tiến tới hàng mũi nhọn. Từng bước nâng cao chất lượng hàng xuất, không để tâm lí coi thường hàng Việt Nam trở thành phổ biến, coi trọng chữ tín đối với khách hàng, sáng tạo học tập cách thức quảng cáo, đóng gói và bảo quản hàng hoá. Với việc nhập khẩu : nguyên tắc nhập khẩu chỉ nhập hàng hoá có hàm lượng chất xám cao, chủ yếu là tư liệu sản xuất với công nghệ hiện đại. Một số giải pháp then chốt với việc nhập khẩu : nhập đúng số lượng chủng loại kịp thời và liên tục, hạn chế tối đa việc nhập hàng tiêu dùng đặc bạêt là xa xỉ phẩm, nhập khẩu phải trên cơ sở bảo hộ sản xuất trong nước. Đây là một giải pháp có ý nghĩa nhiều mặt vừa tiết kiệm được ngoại tệ vừa bảo vệ được sản xuất trong nước. 1.1.2. Hợp tác đầu tư liên doanh liên kết. Đây là hình thức kinh tế đối ngoại rất quan trọng và ngày càng quan trọng. Tuy ra đời sau hình thức ngoại thương nhưng tốc độ và quy mô phát triển ngày càng lớn chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tất cả các hình thức của kinh tế đối ngoại. Hình thức đâu tư ra nước ngoài nhằm khai thác các tiềm năng đã được CNTB sử dụng từ rất lâu, đặc biệt là từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cuối thế kỷ XVIII nổ ra dẫn tới cơ khí hoá ngành vận tải quốc tế. Hợp tác đâu tư là quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất của các chủ thể khác nhau. Khái niệm đó trong phạm vi của kinh tế đối ngoại là sự hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp của nhiều nước. Mục đích của tất cả các quá trình hợp tác đều là ở chỗ tìm kiếm môi trường thuận lợi cho vốn hoạt động và sinh lời. Mỗi bên tham gia hợp tác đều có mục đích riêng. Nguyên tắc xuyên suốt đồng thời là chất kết dính giữa các chủ thể hợp tác là: tất cả các bên đều có lợi, bình đẳng và sòng phẳng trong phân chia lợi nhuận. ở nước ta hình thức hợp tác liên doanh liên kết mới được hình thành vài năm gần đây. Hiện nay đã có hàng trăm dự án đâu tư đã được ký kết, hoặc đang thăm dò hoặc đã thực thi. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hợp tác đâu tư liên doanh liên kết của nước ta. Về thuận lợi : đất nước ta giàu tài nguyên khoáng sản có nhiều kim loại quý khan hiếm, quan trọng, là một thị trường mới đang trong quá trình hình thành do đó nhiều tiềm năng chưa được biết đến và khai thác, đất nước lại có bề dầy lịch sử hàng ngàn năm với một nền văn hoá đậm đà bản sắc đân tộc. Hơn nữa lực lượng lao động ở Việt Nam lại rất dồi dào và rẻ so với nhiều nơi khác trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, với quan điểm và chính sách mở cửa của Đảng ta đã tạo tiền đề cơ bản để hình thành các tổ chức hợp tác liên doanh trong một bầu không khí chính trị ổn định tôn trọng các công ước quốc tế. Về khó khăn : đất nước thiếu vốn nghiêm trọng đang trong thời kỳ khủng hoảng, kỹ thuật công nghệ còn thấp kém. Các thủ tục trong quan hệ, ký kết thực thi rất phiền hà và quá nhiều tầng nắc trung gian. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn lạc hậu. Trong bối cảnh thế giới vừa có thuận lợi và khó khăn phải biết lựa chọn để khai thác sức mạnh bên ngoài, hạn chế những tác động tiêu cực ảnh hưởng vào nội địa để thu hút vốn và công nghệ của thế giới được nhanh hơn và có hiệu quả hơn. Con người Việt Nam vốn thông minh hiếu học nhưng nếu không co chiến lược lâu dài nhân tài sẽ bị thui chột và lãng phí. Để tiếp thu được chi tiết công nghệ tiên tiến phải có trình độ chuyên môn. Liên kết công nghệ là công việc của các nhà khoa học. Rõ ràng muốn trao đổi học tập với các nhà khoa học thế giới phải có trình độ tương ứng hoặc kém hơn một chút. Không thể thực hiện liên kết với nhau khi có sự chênh lệch quá lớn về trình độ. Tóm lại, chúng ta cần và bắt buộc phải có một đội ngũ những nhà khoa học công nghệ đạt tầm cỡ quốc tế. Cần phải thoả mãn một cách tốt nhất những yêu cầu của đội ngũ này để sử dụng họ. Phải hoà nhập vào thế giới bởi vì khoa học công nghệ không có tính quốc gia, nhà khoa học Việt Nam phải là nhà khoa học của thế giới. 1.1.3. Tín dụng quốc tế. Tín dụng là hình thức vận động của vốn. Trong kinh tế hàng hoá, vốn là vấn đề cốt lõi hàng đầu. Vốn là công cụ, là phương tiện để tập trung tư liệu sản xuất, sức lao động và tiến hành sản xuất. Thiếu vốn quá trình tái sản xuất sẽ ngừng trệ hoặc tiến triển không bình thường. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá vốn cũng nảy sinh nhiều con đường vận động. Tín dụng là khái niệm để chỉ toàn bộ các quá trình vận động của vốn. Phân công lao dộng quốc tế phát triển sự giao lưu hàng hoá giữa các nước ngày càng tăng vì vậy tín dụng quốc tế ra đời. Vận động vốn trên tăng thị trường quốc tế rất phức tạp và phong phú. Hình thức vận động nhiều hình nhiều vẻ. Phát hiện và khai thác tốt tín dụng quốc tế là một vấn đề cực kỳ quan trọng mang tính chiến lược. Nước ta, trước mắt không thể trở thành một “tụ điểm” của tín dụng quốc tế như Đài Loan, Thái Lan, Singapo. . . song cần thấy rõ sức mạnh của lực lượng này. Biết khai thác tốt và tạo dược nguồn vốn từ bên ngoài sẽ tạo ra bước nhảy vột về trình độ kinh tế trong nước. Tình trạng khan hiếm, thiếu vốn đối với nước ta đã kéo dài nhiều năm, khả năng tự khắc phục bằng những nguồn trong nước còn hạn hẹp. Cần phải phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nhà nước ta cần chú ý khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng phạm vi hoạt động để khai thác vốn của bạn hàng, đôi khi khai thác vốn qua thân nhân ở nước ngoài. 1.1.4. Du lịch. Du lịch quốc tế là một ngành kinh tế quan trọng mũi nhọn, đem lại thu nhập cao cho nhiều quốc gia. Theo các chuyên gia kinh tế thì du lịch đứng thứ hai hoặc ba trong các ngành mũi nhọn. Đối với nước ta, ngành du lịch còn mới mẻ nhưng cũng từng bước khẳng định được vị trí của nó. Đề cập tới du lịch phải tiếp cận trên hai phương diện chính. Một là những yếu tố để khách muốn đến và cần đến, hai là điều kiện vật chất, tinh thần phục vụ để thu ngoại tệ. Nước ta có đầy đủ hoặc tương đối đầy đủ những yêu cầu có thể thoả mãn du khách. Nhưng muốn thu hút được nhiều khách chúng ta phải quyết được tốt một số vấn đề : Nhà nước và các địa phương phải có kế hoạch tôn tạo, trùng tu và tạo ra những danh lam thắng cảnh mới, phát triển toàn diện ở tất cả các địa phương để tạo ra bản đồ du lịch phong phú đa dạng. Không ngừng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành du lịch, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên ngành du lịch. 1.1.5. Vận tải quốc tế. Lưu thông hàng hoá ngày càng tăng giữa các nước dẫn tới nhu cầu vận tải ngày càng tăng nhanh. Vận tải ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế quốc tế. Có thể nói tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc khả năng vận tải vào năng lực lưu chuyển hàng hoá. Đối với nước ta, do nền kinh tế thấp kém năng lực sản xuất hạn chế, nền kinh tế mới mở cửa giao lưu với bên ngoài do đó khả năng vận tải quốc tế còn yếu, kể cả vận tải bộ, vận tải biển và vận tải hàng không, đường sắt. Do nguồn vốn có hạn khả năng cho phép của nền kinh tế có mức độ, cần lựa chọn và cân đối hợp lý giữa các loại hình vận tải. Phát triển hài hoà giữa các loại hình vận tải để tạo ra các phương án vận tải hợp lý đáp ứng được yêu cầu mở cửa, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cần có sự điều hoà phân phối chỉ tiêu vận tải một cách khoa học, tránh sự độc quyền, tránh cạnh tranh tiêu cực gây nên những hậu quả bất lợi cho nền kinh tế. 1.1.6. Hợp tác lao động và chuyên gia. Phân công lao động quốc tế phát triển đã dẫn tới sự di chuyển lao động từ nước này sang nước khác. Hợp tác lao động giữa các nước là để điều hoà lao động từ nơi thừa đến nơi thiếu, quá trình đó làm cho các bên đều có lợi. Sức lao động là một hàng hoá đặc biệt nhưng vẫn chịu sự chi phối tác động khách quan của các quy luật thị trường. Nhu cầu việc làm trên thế giới có khả năng tăng chậm hơn tốc độ tăng lao động dẫn tới sức ép về việc làm, quan hệ cung cầu lao động trên thế giới thường xuyên mất cân đối. Xuất khẩu lao động ra nước ngoài đem lại nhiều mối lợi cho đất nước và người lao động: nó làm giảm bớt sự căng thẳng về việc làm trong nước, giảm tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra, đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách bằng ngoại tệ. Đối với người lao động thông qua thời gian làm việc ở nước ngoài được tiếp xúc với công nghệ hiện đại; làm việc với chuyên gia để từ đó tích luỹ được vốn hiểu biết cần thiết để sau này khi về nước sẽ đem ra phục vụ. Lợi thế của người lao động Việt Nam là thông minh, cần cù, sáng tạo song lại có chuyên môn thấp khó thích ứng được với công nghệ đòi hỏi lượng chất xám cao. Do vậy, để mở rộng hình thức này chúng ta phải không ngừng đạo tạo chuyên môn năng cao tay nghề cho người lao động lao động, tích cực trong việc tìm kiếm thị trường để xuất khẩu lao động. Đây là một hướng quan trọng cần được quan tâm một cách thoả đáng. 1.2. Đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế đối ngoại hiện nay không chỉ bó gọn trong phạm trong phạm vi song phương mà mở rộng sang cả quan hệ đa phương. Một chủ thể có thể quan hệ quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau ở nhiều cấp độ khác nhau. Việt Nam là một quốc gia kém phát triển, kinh tế lạc hậu, uy tín sản phẩm hàng hoá trên thị trường quốc tế còn thấp. Trong khi đó chế độ chính trị xã hội lại có nét đặc thù so với đại bộ phận các nước trong cộng đồng, đó là một yếu tố cần được xử lí khéo léo. Hoàn cảnh thế giới và những khó khăn trong nước buộc chúng ta phải mau chóng xây dựng một chiến lược kinh tế đối ngoại thích ứng, từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Đa phương hoá được thể hiện ở một số khía cạnh như: giữ vững độc lập nền kinh tế, tự lực tự cường để không bị lệ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào, các đối tượng quan hệ dù là song phương hay đa phương phải diễn ra bình đẳng trong mọi phương diện, quan hệ với tất cả các đối tượng không tính đến sự khác biệt về chế độ chính trị. Tóm lại, đa phương hoá trong quan hệ kinh tế đối ngoại là phấn đấu để trở thành bạn hàng của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới. 1.3. Lựa chọn ngành hàng, mũi nhọn. Mặt hàng mũi nhọn là những sản phẩm thuộc về thế mạnh có sức cạnh tranh lớn trên trường quốc tế. Đó là những hàng hoá mà những nước khac không có, có ít và sức cạnh tranh yếu hơn. Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội trong nước và quốc tế đã xác định một số mặt hàng mũi nhọn như: gạo, thịt và những sản phẩm của thịt, rau quả, dầu thô và khoáng sản, hàng dệt da, may mặc và xuất khẩu lao động. Các mặt hàng được xác định là mặt hàng mũi nhọn nhưng khi đưa vào thị trường quốc tế nó vẫn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt. Gạo của nước ta cạnh tranh với Thái Lan, thịt và rau quả của chúng ta còn hạn chế ở khâu chế biến và bảo quản, dầu thô và khoáng sản chỉ có ý nghĩa về mặt cơ cấu chủng loại còn số lượng chưa được khảo sát đầy đủ, hàng gia công dệt may phải cạnh tranh khốc liệt. Xuất khẩu lao động bị hạn chế về mặt trình độ. Phát triển kinh tế đối ngoại là chủ trương chiến lược của Đảng và Chính phurnhwng chúng ta thực hiện chủ trương này trong bối cảnh thế giới đã phân chia xong thị trường. Một số mặt hàng có tính chất phân phối đã nằm trong tay của các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia. Trong bối cảnh này Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt để chiếm lĩnh thị phần, cả Chính Phủ và các doanh nghiệp phải chung sức tìm kiếm thi trường đặc biệt là những thị trương ổn định. 1.4 Dân chủ hoá trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Để thực hiện được dân chủ hoá trong hoạt động kinh tế đối ngoại chúng ta phải thực hiện dược một số việc sau: Thứ nhất: xây dựng một thị trường thống nhất, thông suốt trong cả nước và có khả năng hoà nhập vào thị trường thế giới vì chỉ trên cơ sở một thị trường thống nhất thông suốt trong cả nước mới có thể tính đến khả năng hoà nhập vào thị trường thế giới. Thứ hai: từng bước hoàn thiện sửa đổi bổ sung cơ chế quản lí các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hiệu quả kingh doanh phụ thuộc nhiều vào trìng độ quản lí đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như hiện nay. Quản lí kinh doanh không những là một nghề mà còn là một nghệ thuật đòi hỏi phải có sự am hiểu thực tế kiến thức khoa học, văn hoá, xã hội. Một số chiến lược ở tầm vĩ mô của Đảng và Nhà nước ta: chiến lược bạn hàng, chiến lược mũi nhọn, chiến lược xuất, nhập khẩu, chiến lược đào tạo những chuyên gia tầm cỡ quốc tế. Con đường dẫn tới dân chủ hoá hoạt động kinh tế đối ngoại đặt ra cho chúng ta những yêu cầu rất lớn và phức tạp. Cáchgiải quyết hợp lí các yêu cầu này là một bước tiến có ý nghĩa quyết định cho khả năng hoà nhập kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới. 2. Bối cảnh thế giới với những biến động lớn gây ảnh hưởng đến kinh tế đối ngoại Việt Nam. Vào những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đời sống kinh tế quốc tế trở nên đặc biệt sôi động. Sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin, việc tích tụ và tập trung tư bản ở quy mô cực kỳ lớn, quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới đã làm cho lực lượng sản xuất có bước nhảy vọt, các nền kinh tế ngày càng đan xen và có phần phụ thuộc vào nhau, quá trình quốc tế hoá được đẩy mạnh, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế ngày càng trở nên rõ rệt và mạnh mẽ hơn. Sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới WTO được xem là một tổ chức kinh tế toàn cầu có sức mạnh nhất với các Hiệp Nghị có nội dung, có tính chất phân phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Về thương mại hàng hoá đã tiến hành giảm thuế nhập khẩu và bỏ hàng rào phi thuế quan, công nhận quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các chủ thể và cá nhân trong và ngoài nước trên lãng thổ mỗi quốc gia. Sự ra đời của hàng loạt các khối kinh tế khu vực như EU, NAFTA, AFTA, APEC. . . đã có những tác động quan trọng thúc đẩy tự do hoá thương mại đâu tư thúc đẩy quá trình mở cửa thị trường các quốc gia tạo lập ra những thị trường khu vực rộng lớn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tiến triển. Thế giới đang từng ngày, từng giờ có những biến động to lớn vì vậy yêu cầu đặc ra đối với chúng ta là phải nắm bắt được nguồn thông tin chính xác và phù hợp từ đó đưa ra những quyết định hợp lí cho hoạt động kinh tế đối ngoại. 3. Những thành tựu của các mặt hoạt động của kinh tế đối ngoại. 3.1. Ngoại thương. Thực hiện đường lói đổi mới và mở cửa hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta trong những năm gần đây đã có những mặt phát triển mới rất đáng ghi nhận, đó là xuất khẩu vượt kế hoạch và tăng trưởng cao. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 11, 5 tỷ USD vượt kế hoạch 1, 5 tỷ USD ; điều đó được coi là một “điểm sáng”của kinh tế Việt Nam cuối thế kỷ XX. Trong điều kiện kinh tế thế giới, nhất là các nước Châu á đang lâm vào tình trạng giảm phát hàng hoá ứ đọng, thị trường tiêu thụ bị thu lại, giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam giảm mạnh so với năm 1998: giá gạo giảm 15%, giá cà phê giảm 10%, giá cao su giảm 25%, giá than giảm 15%. . . Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là dầu thô, quần áo may sẵn, gạo chiếm tỷ trọng64, 5%tổng giá trị xuất khẩu năm 1999 của cả nước, cũng là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Cụ thể lượng dầu thô xuất khẩu năm 1999là 14, 5 triệu tấn đạt 2 tỷ USD tăng 24% về lượng và 56% về giá trị so với năm 1998, quần áo may sẵn đạt 1, 7 tỷ USD tăng 24%, giầy dép đạt 1, 4 tỷ USD tăng 35%. Mặt hàng gạo năm 1999 đạt 4, 4 triệu tấn tăng 16% nhưng do giá gạo trên thế giới giảm nên giá trị chỉ đạt 1 tỷ USD tăng 0, 3% so với năm 1998. Năm 2000 số lượng gạo xuất khẩu giảm xuống còn 3, 5 triêu tấn, năm 2001 là 3, 55 triệu tấn, năm 2002 là 3, 25 triệu tấn đứng thứ hai trên thế giới. Những mặt hàng truyền thống như than, cà phê, cao su, lạc nhân trong năm 1999 đều có sự tăng trưởng về số lượng, trong đó than 3, 2 triệu tấn tăng 12, 6%, ca phê 400 nghin tấn tăng 15%, cao su 200 nghin tấn tăng 27%. Cơ cấu đóng góp của các thành phần kinh tế trong xuất khẩu :khu vực kinh tế trong nước đạt 60% và khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 40%. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Châu á chiếm 59% đặc biệt là các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc; thị trường Châu Âu chiêm 27% và xuất khẩu sang Mỹ đạt 5% Có được những thành tựu như trên do Chính Phủ đã có nhiều Chính Sách khuyến khích xuất khẩu :giảm thuế mọt số hàng xuất khẩu, giao hạn ngạch đầu năm, xoá bỏ cơ chế “ xin _cho” đơn giản hoá các thủ tục hanh chính, đa dạng hoá các hoạt động với nước ngoài va mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhập khẩu ước tính đạt 11, 2tỷ USD trong đó khu vực kinh tế đạt 7, 5 tỷ USD, thấp hơn năm 1998. Khu vực có vốn FDI khoảng 3, 5 tỷ USD tăng 25, 9% so với năm 1998. Xu hướng tiến bộ thể hiện các loại mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, trang thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng nhất là ô tô giảm. 3.2. Hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết. Từ khi ra đời năm 1987, Luật đầu tư nước ngoài được Quốc Hội ban hành đã đóng góp được rất nhiêu công sức đem lai một bộ mặt hoàn toan mới mẻ cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến tháng 8 năm 2002 tổng giá trị FDI thu hút từ hơn 70 Quốc gia đạt 38, 9 tỷ USD, tỷ lệ đóng gop của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP đều tăng, năm 1993 tỷ lệ này là 3, 6%, năm 1998 là 9%, năm 1999 là 10, 5% và năm 2001 là 13, 1%. Nguồn thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 370 triệu USD trong năm 1998, và đến năm 2001 là 450 triệu USD. Trong giai đoạn 1997 - 2000 vốn đầu tư nước ngoài giảm 24% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ĐNA và suy thoái kinh tế ở Nhật Bản và một số nước khác. Điều đó đã làm cho đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm đáng kể từ mức đầu tư đăng ký khoảng 8, 6 tỷ USD năm 1996 xuống còn 1, 9 tỷ USD năm 2000. năm 1998 còn 800 triệu USD và năm 1999 còn 700 triệu USD. Năm 2000 vốn đầu tư vào Việt Nam đẵ có dấu hiệu phục hồi được đánh dấu vào cuối năm 2000 có hai dự án thuộc chương trình khí Nam Côn Sơn với khoảng 1tỷ đồng, đặc biệt hai tháng đầu năm 2001 đã có 35 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với 71, 3 triệu USD tăng 16, 7% về số dự án và 16, 1% về vốn so với cùng kỳ năm 2000. Riêng năm 2002 có 694 dự án được cấp giấy phép với vốn đăng ký khoảng 1. 38 tỷ USD. Hoạt động của các khu chế xuất năm 1999 cũng trong xu hướng không ổn định. đến cuối năm 1999 cả nước có 66 khu công nghiệp, khu chế xuất tăng 7 đơn vị so với năm 1998. Tuy nhiên số dự án và số vốn đâu tư có xu hướng tăng. Cả năm các khu công nghiệp khu chế xuất có thêm 183 dự án mới có tổng số vốn đâu tư 632 triệu USD tăng 55 % so với năm 1998. Trong số này có 75 dự án có vốn đâu tư 425 triệu USD. 3.3. đa dạng hóa, đa phương hoá, mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới. Cho đến thời điểm hiện nay Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới. Ngoài các mối quan hệ truyền thống như Thái Lan, Singapore, Trung Quốc. Thì trong thời gian gần đây Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ Việt - Mỹ. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa 2 nước vào tháng 7/1995 và hiệp định thương mại Việt - Mỹ tháng 7/2000. Hiện nay Mỹ là 1 trong 10 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. 4. Những khó khăn còn tồn tại. Tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế khá muộn hơn nữa với một điểm xuất phát thấp, hoạt động kinh tế đối ngoại chúng ta gặp phải nhiều khó khăn. Ttrong 10 năm, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc tế khá cao ( khoảng 6% 1 năm ) lại không bị ảnh hưởng trực tiếp của các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính như các nước khác nền kinh tế đã có bước phát triển vượt bậc nhưng hiện tại nước ta vẫn bị tụt hậu khá xa so với các nước khác khiến cho việc hội nhập của chúng ta gặp nhiều khó khăn thử thách. Trên thị trường nội địa, hiện tại giá thành sản xuất cảu nhiều sản phẩm đặc biệt là các sản phẩm chủ yếu của ta còn cao hơn giá chuẩn quốc tế, giá thành xuất xưởng cao hơn giá nhập khẩu cùng loại. Do đó hàng của ta không có sức cạnh tranh: Đường RS giá xuất xưởng năm 1999 là 160-180 USD / tấn nhưng giá thành nhập khẩu chỉ 115-125 USD /tấn. Trên thị trường thế giới hàng xuất khẩu của ta chủ yếu vẫn gồm các loại nguyên liệu và sản phẩm sơ chế: Dầu thô, gạo, cà phê, chè, cao su. . . Đây là những mặt hàng dễ bị tác động xấu bởi giá cả. Các sản phẩm công nghiệp chế biến còn thiếu cạnh tranh trên thị trường thế giới lại bị các nước khác cạnh tranh gay gắt. Chúng ta còn bị hạn chế bởi tiềm lực sản xuất, lực lượng lao động đông nhưng trình độ chưa cao. Chưa phát triển được cơ sở hạ tầng để có thể thu hút được đâu tư của nước ngoài. Chưa tạo được môi trường pháp lý ổn định và hấp dẫn. 5. Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. 5.1. Đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội. Môi trường chíng trị, kinh tế -xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài - hình thức chủ yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu sự ổn định chính trị không được đảm bảo, môi trường kinh tế không được thuận lợi, thiếu các chính sách khuyến khích, môi trường xã hội thiếu an toàn. . . sẽ tác động xấu tới quan hệ hợp tác kinh tế, trên hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài, bởi lẽ sẽ tác động gián tiếp hoặc trực tiếp đối với tỉ suất lợi nhuận của đối tác. Để đảm bảo môi trường chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí vĩ mô của Nhà nước, sự nỗ lực của các ngành các cấp. 5.2 Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại. Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng có hiệu quả kinh tế đối ngoại. Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại đòi hỏi: Một mặt mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác phải sử dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chíng sach thích hợp đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại. Chẳng hạn đối với hình thức ngoại thương cần phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, tăng nhanh tỉ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, phát triển mạnh mẽ những sản phẩm có khả năng cạnh tranh, cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng nông sản, đâu tư cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu. Khuyến khích sử dụng thiết bị hàng hoá sản xuất trong nước, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo hộ lựa chọn, có thời hạn. Chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ họi mở thị trường mới. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sức hấp dẫn nhất là đối với những công ty xuyên quốc gia. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Có chính sách thích hợp tranh thủ nguồn vốn ODA. . . Tăng cường mở rộng và có biện pháp hữu hiệu đối với các hình thức kinh tế đối ngoại khác như gia công, hợp tác khoa học công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ, có chính sách tỷ giá thích hợp. . . 5. 3. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải. Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính viễn thông thì trong lĩnh vực giao thông vận tải mặc dù đang có nhiều cố gắng, song vẫn còn quá lạc hậu so với các nước trong khu vực, trong khi vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Do vậy phải có chiến lược đâu tư tập trung có trọng điểm, dứt điểm và có hiệu quả cao, đặc biệt là phải kiên quyết chống các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đâu tư. 5. 4. Tăng cường vai trò quản lí Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại. Vai trò quan trọng của quản lí kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã được khẳng định. Đối với lĩnh vực kinh tế đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó vai trò đó lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua đã khẳng định rằng nếu thiếu sự quản lí của Nhà nước, kinh tế đối ngoại sẽ không thể mở rộng và mang lại hiệu quả, thậm chí còn dẫn đến những hậu quả khó lường không chỉ về kinh tế mà còn nguy hại hơn là hậu quả về chính trị, bởi vì quan hệ kinh tế và chính trị luôn luôn là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau nhất là trong điều kiện diễn biến hoà bình đang là một nguy cơ. Mặc dù đã có những cố gắng nhất định về quản lí Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nên kết quả thu được không nhỏ, song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan trong đó có vấn đề quản lí Nhà nước nên kết quả đó rất khiêm tốn và càng khiêm tốn hơn nếu so sánh với các nước trong khu vực. Vì vậy việc tăng cường quản lí Nhà nước trở thành vấn đề cấp bách. Chỉ có tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước mới có thể đảm bảo mục tiêu, phương hướng và giữ vững được được những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu quả. Cũng chỉ có tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước mới có thể hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và quốc gia nói chung. Thông qua sự tăng cường vai trò quản lí Nhà nước sẽ khắc phục được tìng trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, tránh được sự thua thiệt về lợi ích. . . Để tăng cường vai trò quản lí kinh tế đối ngoại của Nhà nước cần thiết phải đổi mới bộ máy, cơ chế quản lí để vừa đảm bảo sự thống nhất quản lí về kinh tế đối ngoại, song vẫn phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị, đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng lớn. Trong đó vấn đề hết sức quan trọng là: năng cao được năng lực của bộ máy quản lí, năng lực phẩm chất đạo đức của cán bộ công chức hoạt động kinh tế đối ngoại và có được hệ thống pháp luật mới ngày càng phù hợp với hệ thống pháp luật và phong tục tập quán quốc tế, thủ tục hành chính gọn nhẹ, thông tin thị trường cập nhật. . . Đó cũng là những hạn chế hiện đang tồn tại cần phải nỗ lực để từng bước khắc phúc. 5. Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đối tác trở thành vấn đề hết sức cơ bản, có tính quyết định với hiệu quả kinh tế đối ngoại. Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng rất đa dạng. Cũng vì thế vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề phức tạp cần được xử lí linh hoạt. Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh ( về vốn, công nghệ, năng lực quản lí, phong cách giao tiếp quốc tế. . . ) có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tầu trong quan hệ. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp vẫn là những chủ thể chủ yếu trực tiếp hoạt động kinh tế đối ngoại nên cần phải xúc tiến xây dựng một số doanh nghiệp Nhà nước thành tập đoàn xuyên quốc gia. Các tập đoàn này sẽ là lực lượng đầu tầu trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và thông qua đó lôi cuốn các doanh nghiệp khác. Đối với các đối tác nước ngoài: việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trọng đối với Việt Nam. Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí mà chúng ta rất cần khai thác. Tuy nhiên, để khai thác được họ hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược đúng đắn trên cơ sở cùng có lợi. Trên đây là 5 giải pháp chủ yếu trong hệ thống các giải pháp. Mỗi giải pháp có vị trí khác nhau và sự phân định cũnh chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng về nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên. Phần III : Kết luận Kinh tế đối ngoại với những thành tựu to lớn đang dần khẳng định vai trò quan trọng của nó trong toàn bộ nền kinh tế nước ta. Những thành tựu đã đạt được sẽ là tiền đề để chúng ta phát triển trong những thập niên tiếp theo. Bên cạnh đó chúng ta cũng gặp muôn vàn những khó khăn thách thức. Do đó yêu cầu đặt ra là chúng ta phải xây dựng cho nền kinh tế đối ngoại một hướng đi đúng đắn. Từng bước tháo gỡ những khó khăn, tận dụng thời cơ kết hợp với sức mạnh trong nước để phát triển. Nghiên cứu kinh tế đối ngoại là vấn đề vô cùng quan trọng và cấp bách đối với nước ta hiện nay. Có hiểu rõ được sự vận động và phát triển của nó chúng ta mới tìm cho mình một hướng đi đúng đắn giúp phát triển nền kinh tế trong nước, đưa đất nước ta sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Là một sinh viên em xin mạnh dạn trình bày những hiểu biết của mình về kinh tế đối ngoại. Nhưng do khả năng hiểu biết còn hạn chế nên bài viết này của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Thành đã giúp em hoàn thành đề án này. Phụ lục : Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin. 2. Giáo trình triết học Mác- Lênin. 3. Giáo trình kinh tế học quốc tế. 4. Giáo trình kinh tế đối ngoại. 5. Văn kiện đại hội VII, VIII, IX. 6. Các loại tạp chí : + Tạp chí kinh tế phát triển. + Tạp chí thông tin kinh tế. + Tạp chí kinh tế đối ngoại. + Tạp chí diễn đàn kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0153.doc
Tài liệu liên quan