Đề tài Luận điểm cơ bản của Mác-Lê Nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

*) Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá bởi nó có ý nghĩa rất to lớn đối với sản xuất và xã hội. Thứ nhất, phát triển sản xuất hàng hoá là biện pháp rất quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế kếm phát triển. Thứ hai, sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ và vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh cùng với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước đảm bảo định hướng lên chủ nghĩa xã hội của nền kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ, như vậy, sẽ hạn chế những tác động tự phát, tiêu cực của các qui luật kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường.Thứ ba, phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá là điều kiện tối cần thiết để tăng cường những khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế theo cả chiều rộng và chiều sâu. Thứ tư, phát triển nền kinh tế hàng hoá, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ, bình đẳng trong kinh doanh theo pháp luật của các tổ chức kinh tế trong mọi thành phần là cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo dân chủ, bình đẳng thật sự trong lĩnh vực kinh tế, góp phần khắc phục ảnh hưởng của cơ chế quan liêu, bao cấp còn tồn tại. *) Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ cấu kinh tế mở. Việc xác định quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá trong nước cùng với khả năng và hiện thực của phân công lao động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng cơ cấu kinh tế mở. Đặc biệt trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp thì có thể thực hiện được việc mở rộng quan hẹe kinh tế. Mở rộng quan hệ quốc tế yêu cầu gắn bó chặt chẽ chính sách đối ngoại với chính sách kinh tế. *) Chủ động tổ chức ra các thị trường. Kinh tế thị trường là một thể thống nhất của các thị trường: hàng tiêu dùng và dịch vụ, vật tư,vốn và tài sản, tiền tệ, lao động, chất xám. Với việc đa dạng hoá sở hữu, rõ rànglà việc tự do lựa chọn nơi làm việc sẽ mở rộng ra, tự do lựa chọn chỗ ở cũng mở rộng ra, những hạn chế vận động của sức lao động cũng dần dần mất đi. Đồng thời quá trình giải phóng sức lao động cũng trở nên sâu sắc hơn.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luận điểm cơ bản của Mác-Lê Nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế xã hội chủ nghĩa thua chế độ tư bản chủ nghĩa, không phải con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, mà là kinh tế hiện vật thua kinh tế hàng hoá”. Kinh tế hàng hoá không phải thuộc tính riêng có của chủ nghĩa tư bản. Với tư cách một quan hệ kinh tế khách quan, quan hệ hàng hoá và quan hệ thị trường đã có từ rất lâu trước chế độ tư bản chủ nghĩa, sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong chủ nghĩa xã hội. Các quan hệ ấy tồn tại và phát triển trong sự tác động qua lại với tất cả các quá trình kinh tế khách quan khác. Bản chất kinh tế- xã hội của các quan hệ ấy thay đổi phụ thuộc vào hình thái kinh tế- xã hội trong đó nó tồn tại và phát triển. Trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, lại phải trải qua chiến tranh và chia cắt lâu dài, quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá ở nước ta là quá trình phức tạp nhiều mặt. Đặc trưng cơ bản, cốt lõi nhất của quá trình chuyển đổi thể hiện ở sự chuyển đổi cơ chế giá cả. Từ chỗ Nhà nước giữ quyền định giá, giữ giá bằng mệnh lệnh hành chính, xã hội phân chia thành hai thị trường: thị trường có tổ chức và thị trường tự do với hai loại giá tương ứng, giá Nhà nước quy định thường thấp hơn giá tự do. Sự chênh lệch của hai loại giá này đã đi đến nhiều hậu quả tiêu cực cả về kinh tế và xã hội. Từ năm 1981 đến năm 1989, Nhà nước điều chỉnh giá nhiều lần. Cùng với việc nâng giá cung cấp của Nhà nước lên ngang mức giá của thị trường tự do, Nhà nước bù giá vào lương cho cán bộ, công nhân viên, bù vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước và phát hành tiền. Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã phân tích những mặt yếu kém và hậu quả của cơ chế quản lý cũ một cách toàn diện, chỉ rõ rằng cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ, cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, khẳng định quyết tâm xoá bỏ cơ chế cũ, xây dựng cơ chế quản lý mới. Đại hội VI là Đại hội đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới quản lý kinh tế có ý nghĩa quan trọng và quyết định. Các vấn đề xung quanh việc xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa : 1) Các khái niệm cơ bản của thị trường, kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và cơ cấu kinh tế: *) Thị trường : Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông. Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau, hình thành giá cả. Đứng trên phạm vi toàn xã hội, thị trường là một mạng lưới những người mua, người bán gặp nhau, nơi cung cấp gặp gỡ và cân bằng. Như vậy, thị trường hình thành cần có: đối tượng trao đổi là hàng hoá dịch vụ; đối tượng tham gia trao đổi là người mua,. người bán; điều kiện thực hiện trao đổi là khả năng thanh toán; khi nói thị trường là tự do tự nguyện, không ai bắt ép ai, mọi người nghĩ rằng sẽ có lợi khi giao dịch. Thị trường có vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội. Là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, thông qua thị trường chuyển giá trị sử dụng thành giá trị. Nhờ thị trường mà hình thành thước đo chung, là căn cứ khách quan để điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất. Sở dĩ thị trường có vai trò to lớn vì nó có những chức năng cơ bản sau: thừa nhận, thực hiện và điều tiết. *) Kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá- tiền tệ trở nên phổ biến. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá, sản xuất để trao đổi, gắn liền với phân công lao động và trình độ chuyên môn hoá. Không gian thị trường rộng mở cho sự lựa chọn, tư duy giá trị hiệu quả trở nên phổ biến. Hình thức kinh tế thị trường là văn minh, nền kinh tế có động lực, có sự đua tranh, sản xuất gắn với nhu cầu, nền kinh tế mở. *) Cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành nền kinh tế, ở đó các quy luật khách quan phát huy tác dụng. Cơ chế thị trường đầy đủ bao gồm ba thành tố: +) Một là thị trường hoạt động theo quy luật vốn có của nó. +) Hai là Nhà nước nằm bên trong thị trường, điều tiết từ bên trong. +) Ba là người tiêu dùng, nhà doanh nghiệp- những tác nhân năng động của cơ chế thị trường được hoạt động tự chủ nhưng phải tuân thủ quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của Nhà nước. Cơ chế thị trường hoạt động theo quy luật khách quan bao gồm: +) Quy luật giá trị (cơ sở hao phí lao động). +) Quy luật cung cầu (thông qua giá cả). +) Quy luật cạnh tranh (thông qua chất lượng và chi phí). *) Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Như vậy cơ cấu kinh tế được phân tích trên hai phương diện : +) Thứ nhất là xét cơ cấu kinh tế về mặt vật chất kỹ thuật, bao gồm: * Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế. * Cơ cấu theo qui mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ của các loại hình tổ chức sản xuất. +) Thứ hai là xét cơ cấu kinh tế về mặt kinh tế xã hội bao gồm : * Cơ cấu kinh tế theo các thành phần kinh tế. * Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá tiền tệ. 2) Tính chất của cơ cấu kinh tế: a) Tính chất khách quan khoa học: Nền kinh tế có sự phân công lao động, có các ngành, lĩnh vực kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất định sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỷ lệ cân đối, tương ứng giữa các bộ phận, tỷ lệ đó được thay đổi thường xuyên và tự giác theo quá trình diễn biến khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Các Mác khẳng định:” Trong sự phân công xã hội thì con số tỷ lệ là một tất yếu không sao tránh khỏi , một sự tất yếu thầm kín yên lặng.” Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cô đọng nội dung chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của từng giai đoạn phát triển nhất định. Nhưng không vì thế áp đặt chủ quan, tự đặt cho các ngành những tỷ lệ và vị trí trái ngược với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội. Mọi sự áp đặt chủ quan, nóng vội nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế theo ý muốn thường dẫn đến tai hoạ không nhỏ, bởi vì sai lầm về cơ cấu kinh tế là sai lầm chiến lược khó khắc phục, hậu quả lâu dài. b) Tính chất lịch sử xã hội: Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi không ngừng của lực lượng sản xuất và nhu cầu chính trị- xã hội. Cơ cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa các bộ phận được xác lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra một cách hợp lý. Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến ở mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất, bởi các đặc trưng văn hoá xã hội; bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc...Các nước có hình thái kinh tế- xã hội giống nhau, cũng có sự khác nhau trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, bởi vì điều kiện kinh tế, xã hội và quan điểm chiến lược mỗi nước khác nhau. Sự hình thành cơ cấu kinh tế chẳng những mang tính chất khách quan khoa học, mà còn mang tính lịch sử xã hội. Tuy nhiên, các tính chất này được thể hiện đầy đủ, khi chủ thể quản lý là Nhà nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn lực trong nước và nước ngoài để có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hình thành cơ cấu kinh tế. Nhưng sự tác động này không mang tính áp đặt, duy ý trí, mà là sự tác động mang tính định hướng phát triển. 3) Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường -kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa: a) Tự do, tự nguyện đề cao vai trò của người tiêu dùng và người sản xuất: Trong kinh tế thị trường, ba vấn đề cơ bản do thị trường quyết định. Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào do lợi nhuận mách bảo, sản xuất cho ai do thu nhập quyết định. Nguồn lực của xã hội được luân chuyển theo chiều ngang, không gian thị trường được mở rộng cho sự lựa chọn. Sự vận động của cung cầu và cạnh tranh đã làm bộc lộ một cách thực chất nguồn lực của xã hội. Nền kinh tế vận hành một cách khách quan. Nguồn lực của xã hội được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao. Tuy nhiên để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đầy đủ bao giờ cũng gắn với vai trò quản lý Nhà nước nhằm hạn chế tính tự phát của nó. b) Kinh tế thị trường gắn liền với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh: Kinh tế thị trường tự bản thân nó là một nền kinh tế xã hội hoá gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, nhiều loại quy mô. Sự đa dạng hoá về sở hữu, loại hình quy mô tạo điều kiện để giải phóng sức sản xuất xã hội, nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng, điều chỉnh nền kinh tế. Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác làm cho nền kinh tế năng động. Kinh tế hợp tác sẽ là hình thức phổ biến hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tăng sức mạnh của các tác nhân kinh tế. Thực hiện đường lối phát triển kinh tế do Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang ra sức đẩy mạnh sản xuất, xây dựng một nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. c) Thay vì việc can thiệp trực tiếp đối với hoạt động kinh tế, Nhà nước định hướng, tạo môi trường điều tiết nền kinh tế: Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, những vấn đề cơ bản của kinh tế do Nhà nước quyết định, vì chưa có thị trường do đó Nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế, nguồn lực của xã hội chủ yếu luân chuyển theo chiều dọc, qua nhiều tầng nấc đã hạn chế tính chủ động sáng tạo của người tiêu dùng và cá chủ thể sản xuất kinh doanh.Vì tập trung vào giải quyết những vấn đề cụ thể do đó những vấn đề quản lý vĩ mô không được coi trọng. Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng dân chủ hoá, bản thân thị trường là một cơ chế điều tiết nền kinh tế một cách khách quan, nằm trong cơ chế ấy Nhà nước định hướng, dẫn dắt các nỗ lực phát triển, tạo sân chơi bằng phẳng cho cạnh tranh, điều tiết nền kinh tế bằng chính sách công cụ và thực lực kinh tế làm vai trò bà đỡ cho nền kinh tế phát triển . d) Kinh tế thị trường là kinh tế mở: Nhờ tự do, mở cửa, không gian thị trường được rộng mở, thị trường là một thể thống nhất thông suốt, hoà nhập thị trường thế giới. Nguồn lực của xã hội được mở rộng không chỉ trong nước mà cả quốc tế. Trong điều kiện của xu hướng quốc tế toàn cầu hoá, mỗi quốc gia có thể tìm thấy lợi thế của mình trong quan hệ đa phương. Đối với các nước kém và đang phát triển, mở cửa hội nhập là xu hướng tất yếu để có thêm nguồn lực cho sự phát triển: vốn, công nghệ, thị trường, quản lý, mặt khác đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, có cả cơ hội và thách thức. Điều quan trọng là phải có chiến lược biết chuẩn bị về nội lực để tiếp thu một cách có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài. e) Kinh tế thị trường gắn liền với những khuyết tật vốn có của nó: Với đặc trưng cơ bản là dân chủ hoá, tự do cá nhân, coi trọng động lực lợi ích do đó dễ cường điệu lợi ích cá biệt, phá vỡ những cân đối chung, những cân đối tổng thể của nền kinh tế, coi trọng lợi ích kinh tế dễ bỏ qua những vấn đề xã hội, môi trường. Thị trường là cạnh tranh sẽ có kẻ thắng, người thua, nhưng thị trường vô tư không bảo vệ những người chiến bại. Cạnh tranh sớm muộn cũng dẫn đến độc quyền với những tác hại khôn lường; bóp méo sự vận động của cung cầu, giá cả. Chuyển sang kinh tế thị trường gắn liền với những thử thách về đạo đức nhân cách, những yếu tố truyền thống văn hoá. f) Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện bản lĩnh chính trị của công cuộc đổi mới ở nước ta, về thực chất không phải là chuyển sang kinh tế thị trường bất kỳ mà có hướng đích. Khó khăn lớn nhất xưa nay trong lý luận kinh tế chưa có luận đề này.Từ khi đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế phát triển, chính trị ổn định, niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội mới được củng cố. Thành tựu của công cuộc đổi mới đã cho chúng ta một cách nhìn khách quan hơn về kinh tế thị trường. ý tưởng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xuất hiện trong quá trình đổi mới được thực tiễn kiểm chứng có sức thuyết phục. Lịch sử và thực tiễn đã chứng tỏ kinh tế thị trường có thể chung sống với nhiều chế độ xã hội, là thành tựu của nhân loại do đó nó không mang bản chất và được coi như một phương tiện, một hình thức kinh tế gắn liền với một thiết chế chính trị và ý tưởng của Nhà nước đương quyền. Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu tốt đẹp nhân văn cần phải sử dụng động lực của kinh tế thị trường làm cho“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh“ đó là mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang hướng tới. Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới chứng tỏ nước ta, chuyển sang kinh tế thị trường là một sự tiến bộ, là những tiền đề vật chất để khẳng định nguyên lý mới. Chỗ giống nhau của mọi chế độ xã hội là sử dụng động lực kinh tế thị trường vào mục tiêu phát triển. Chỗ khác nhau là ai lái cỗ xe đó, lợi ích thuộc về ai, tính nhân đạo và nhân văn của chế độ kinh tế. ở nước ta kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và có sự quản lý của Nhà nước, lợi ích vì dân do dân, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn liền với xoá đói giảm nghèo.. . Chuyển sang kinh tế thị trường là một sự thay đổi lớn lao phải có thời gian và công sức tạo dựng và tính bằng thập kỷ. Những thành tựu đạt được trong bước khởi đầu của sự chuyển đổi giúp chúng ta có thêm niềm tin vào thắng lợi cuối cùng như ước muốn giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh:” ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Từ thực tiễn 10 năm đổi mới, nhờ chuyển sang kinh tế thị trường mà đất nước đã có những thay đổi lớn lao, nhiều vùng xưa kia nghèo đói nay đã trở nên khá giả. Những vấn đề thiết thân đến cuộc sống con người như ăn, mặc, ở, học hành đã có những thay đổi lớn lao. Nhờ phát triển kinh tế chúng ta có điều kiện để giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội việc làm, đời sống, xoá đói giảm nghèo, chính sách xã hội. Rõ ràng lấy thực tiễn để kiểm chứng những vấn đề lý luận giữa kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa không khiên cưỡng mà là một sự dung hợp tương hỗ, càng đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường càng có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa- Thành tựu đạt được: 1) Những quan điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: a) Những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Tuy cơ cấu kinh tế là thể hiện nội dung, mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội, song nó không phải là sản phẩm chủ quan. Cơ cấu kinh tế luôn vận động theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu của xã hội. Sự vận động của cơ cấu kinh tế diễn ra thường xuyên trong một quá trình từ thấp lên cao, từ nhỏ đến lớn, nhưng rất chậm chạp. Cơ cấu kinh tế luôn vận động, nhưng là sự vận động trong mối quan hệ cân đối, ổn định. Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế luôn biến đổi phá vỡ cân đối và nó lại điều chỉnh và cân đối để tạo ra sự ổn định. Từ những nhận thức trên chúng ta nêu ra những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau: +) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo sự ổn định, tạo ra sự cân đối trong phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu của xã hội. +) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm khai thác triệt để tiềm lực kinh tế, tài nguyên, lao động, kĩ thuật hiện có trong nước, nhanh chóng thích ứng với nhu cầu hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế. +) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nhằm duy trì có hiệu quả nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. +) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo triển khai thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, có sự kết hợp chiến lược thay thế nhập khẩu ở giai đoạn cao. b) Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta: Cơ cấu kinh tế không phải là một mô hình tĩnh tại, mà nó luôn vận động và phát triển vươn tới sự hoàn thiện. Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của các nhân tố trong nội bộ nền kinh tế và các nhân tố từ bên ngoài, nên sự vận động của nó rất đa dạng, phức tạp. Tuy vậy, các xu hướng chuyển dịch đều mang tính quy luật: +) Xu hướng chuyển dịch từ nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá: Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, tất yếu sẽ phá bỏ thế tự cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá. Quá trình đó cũng làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp là chính cùng mối liên kết lỏng lẻo, yếu ớt với các ngành công nghiệp, sang một nền kinh tế có cơ cấu phát triển đồng đều và gắn bó chặt chẽ các ngành và lĩnh vực kinh tế trên cơ sở phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn. +)Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ: Cùng với phát triển kinh tế hàng hoá, tiến bộ của khoa học và công nghệ, nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng lên và xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nền kinh tế các nước phát triển và nhiều ngành công nghiệp mới ra đời, nhiều trung tâm công nghiệp và đô thị hình thành. Vì vậy, cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch từ nền nông nghiệp là chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn sang phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, nông nghiệp giảm dần về giá trị tương đối, nhưng vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối trong GDP của cả nước. Công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên nhanh chóng cả về giá trị tương đối và tuyệt đối. Nội bộ các ngành, các lĩnh vực kinh tế cũng có sự biến đổi về cơ cấu, về qui mô, trình độ công nghệ với chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Cơ cấu dân cư có xu hướng chuyển từ đại bộ phận sống ở nông thôn sang sống ở thành thị và đến năm 2020 số đó sẽ lên tới 50-60%. +) Xu hướng chuyển từ cơ cấu nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở hướng về xuất khẩu: Đây là xu hướng tất yếu, xu hướng chung của thời đại. Ngày nay, không một quốc gia nào có đầy đủ các nguồn lực để tự mình có thể xây dựng được một nền kinh tế hoàn chỉnh, phát triển bền vững, do đó mỗi nước đều phải mở rộng quan hệ đối ngoại. Trong xu thế đó, nước ta mở rộng quan hệ hợp tác đa dạng, đa phương, hoà nhập với khu vực và thế giới nhưng không hoà tan. Do tác động của xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, cơ cấu kinh tế nước ta được hình thành trên cơ sở cân đối cả yếu tố nguồn lực trong nước và các yếu tố nguồn lực nước ngoài, nhưng nguồn lực trong nước là quyết định. c) Những điều kiện cơ bản để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta: Tính thực hiện của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào các điều kiện sau: +) Kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Bởi vì, nếu thay đổi mục tiêu này, tất yếu sẽ dẫn đến thay đổi chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và cơ cấu kinh tế cũng biến đổi theo. +) Hoàn thiện cơ chế quản lý, thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đáp ứng yêu cầu của định hướng phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu, kết hợp với thay thế nhập khẩu ở giai đoạn cao. +) Đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại. Phát triển kinh tế đối ngoại là nhằm từng bước đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với khu vực và thế giới để tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, thu hút lao động, tạo việc làm, tạo ra sự tăng trưởng và phát triển bền vững. +) Cải cách nền hành chính, tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Nền hành chính nước ta trước đây phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường thì việc thay đổi nề nếp quản lý cũ cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá và từng bước hội nhập với quốc tế là tất yếu khách quan. 2) Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000-2020 và những yêu cầu đối với quản lý kinh tế: Đây là một bước quan trọng của thời kỳ phát triển mới: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thập kỷ sau, phấn đấu từ nay đến năm 2020, biến nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. a) Mục tiêu: +) GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990 (Nghị quyết Đại hội VII tăng gấp đôi GDP). +) Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt khoảng 9-10% trong đó sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp tăng khoảng 4,5-5%, công nghiệp tăng 14-15% và dịch vụ tăng 12-13%, xuất khẩu tăng 25-30%. +) Tỷ lệ đầu tư so với GDP khoảng 30%. +) Tỷ trọng giá trị nông nghiệp chiếm khoảng 19-20%, công nghiệp và dịch vụ 80-81% GDP (năm 2020: nông nghiệp 10%, công nghiệp, dịch vụ: 90%). +) Tốc độ đổi mới công nghệ đạt 10%/ năm trở lên. Từ những kết quả đạt được về kinh tế mà giải quyết những vấn đề về xã hội, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh. b) Yêu cầu về quản lý kinh tế: +) Nâng cao trình độ và năng lực quản lý kinh tế bao gồm quản lý Nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thích nghi với nền kinh tế thị trường và trình độ quản lý của các nước quanh vùng và trên thế giới. +) Thực hiện đúng và tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế, vừa đảm bảo dân chủ, phát huy tính tự chủ độc lập sáng tạo của cấp dưới, của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế để phát triển kinh tế có hiệu qủa, đồng thời đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, thiết lập trật tự kỷ cương, bảo đảm sự kiểm soát và quản lý tài sản công. +) Kết hợp quản lý kinh tế với quản lý xã hội để đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội, hạn chế sự phá hoại đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phá hoại môi trường sinh thái, hạn chế các tiêu cực xã hội. +) Xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế vừa có phẩm chất và năng lực, vừa trong sạch vừa đủ trình độ (lý luận, chuyên môn nghiêp vụ, quản lý hiện đại, ngoại ngữ...) và thích ứng với điều kiện mới. +) Đảm bảo tính hiệu quả của quản lý, bộ máy gọn nhẹ, tinh, khắc phục quan liêu, phiền hà, giải quyết công việc nhanh nhậy, linh hoạt. 3) Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: a) Quan điểm và phương hướng chung: Cơ chế quản lý kinh tế của nước ta hiện nay là sự kế tục và phát triển cơ chế quản lý kinh tế từ Đại hội VI, với quan điểm nhất quán: “ tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, đổi mới quản lý kinh tế nhằm phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”. Cơ chế quản lý phải phù hợp với cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và phải có tác dụng thúc đẩy phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế là cơ sở để hình thành cơ chế quản lý kinh tế, gồm những bộ phận hợp thành sau đây: *) Cơ cấu các ngành kinh tế: từng bước chuyển đổi và phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Ngành nông nghiệp (bao gồm cả ngư nghiệp, lâm nghiệp) tiếp tục phát triển sản xuất hàng hoá, gắn với chế biến và công nghệ ngày càng tiến bộ, hiện đại. Về công nghiệp, ngoài các ngành truyền thống vẫn được tiếp tục phát triển như chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng điện tử, cơ khí chế tạo, cơ khí sửa chữa, sẽ xuất hiện và phát triển mạnh ngành công nghiệp điện tử và thông tin, công nghiệp nhiên liệu- năng lượng, vật liệu xây dựng, luyện kim, hoá chất (kể cả lọc-hoá dầu). Về dịch vụ, có các lĩnh vực sẽ được phát triển mạnh như du lịch, các dịch vụ vận tải, hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm tư vấn về công nghệ, pháp lý, thông tin... *) Cơ cấu thành phần kinh tế: Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã được nhận thức và thực hiện nhất quán từ Đại hội VI của Đảng, đã đem lại những chuyển biến tích cực trong cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta, tuy nhiên cũng còn bộc lộ nhiều thiếu sót, lúng túng trong quản lý các thành phần kinh tế và trong hoạt động của bản thân mỗi thành phần kinh tế. Đại hội VIII tiếp tục khẳng định:” Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức lao động, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh“. Các thành phần kinh tế bao gồm kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân đều là đối tượng quản lý của Nhà nước, hoạt động theo cơ chế thị trường trong sự liên kết, liên doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau, được tự do kinh doanh theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật, đều được Nhà nước khuyến khích phát triển, trong đó kinh tế Nhà nước phải tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả để làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần để cùng với kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã ngày càng phát triển đa dạng, từ thấp lên cao, tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ, hoạt động có hiệu quả, dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế. *) Cơ cấu thị trường : Quá trình đổi mới kinh tế nước ta cho phép chúng ta nhận thức lại về sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường một cách đầy đủ, đúng đắn hơn: +) Sản xuất hàng hoá không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan và cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. +) Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường xã hội là một thể thống nhất với các lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông hàng hoá trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. +) Thị trường thông suốt trong cả nước và gắn với thị trường thế giới. Thị trường ở nước ta còn sơ khai và rối loạn. Muốn có nền kinh tế thị trường phát triển và cơ chế thị trường mạnh phải có thị trường đồng bộ, bao gồm: thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản,... Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, nó hoạt động khách quan và có tác dụng kích thích, điều tiết hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cơ chế quản lý của Nhà nước vừa phải phù hợp với cơ chế thị trường, vừa phải phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước. b)Nội dung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: *) Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế: +) Thứ nhất, pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế nếu như hoạt động kinh doanh của nó làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội. +) Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo môi trường kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, pháp luật qui định cái gì không được làm, còn lại những cái không bị cấm, được pháp luật bảo hộ kinh doanh hợp pháp. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động kinh doanh càng sôi động cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật để hình thành khuôn khổ pháp lý cần thiết. *) Đổi mới công tác kế hoạch hoá: Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch vẫn là một công cụ quan trọng của cơ chế quản lý kinh tế và không ngừng được đổi mới và hoàn thiện. Thị trường không đối lập với kế hoạch mà trái lại vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng, điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế- xã hội, bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Nội dung của kế hoạch Nhà nước bao gồm các mục tiêu vĩ mô, tốc độ phát triển, cơ cấu và các cân đối lớn, lựa chọn các phương án tối ưu, các nguồn lực và chính sách bảo đảm cho sự phát triển kinh tế theo định hướng kế hoạch. Các dự báo, cân đối, giải pháp, lập và giao kế hoạch đều phải tính đầy đủ các yếu tố của thị trường và bao quát được hoạt động của các thành phần kinh tế và phải phù hợp với cơ chế thị trường. *) Đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế, đặc biệt chú trọng chính sách tài chính, tiền tệ: Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải sử dụng một hệ thống chính sách như chính sách thị trường, chính sách ruộng đất, chính sách thu nhập, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu...,trong đó đối với nước ta hiện nay chính sách tài chính-tiền tệ đặc biệt quan trọng. Chính sách tài chính: phải nhằm mục tiêu sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn đầu tư phát triển, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia. Chính sách tài chính bảo đảm xử lý các mối quan hệ và cân đối lớn: Tích luỹ và tiêu dùng, tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư; ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; chi tiêu thường xuyên và chi tiêu đầu tư phát triển, chi bảo đảm quốc phòng và an ninh; huy động vốn trong nước và vốn nước ngoàI; vay nợ và trả nợ...Mục tiêu cuả chính sách tài chính là tạo nên một nền kinh tế phát triển có hiệu quả, triệt để tiết kiệm, huy động mạnh vốn cho đầu tư phát triển từ nhiều kênh, nhiều nguồn. Trong chính sách tài chính, phải coi trọng đổi mới chính sách theo hướng đơn giản, ổn định, công bằng, khuyến khích làm ăn theo hướng công khai và hợp pháp, vừa đảm bảo thu thuế hợp lý, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích luỹ để phát triển. Đổi mới phân cấp thu chi ngân sách Nhà nước trên cơ sở phân cấp thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội và phân giao rành mạch nhiệm vụ chi. Thực hiện chế độ hạch toán, kiểm toán và chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính một cách chặt chẽ và có hiệu quả. Chính sách tiền tệ có nhiệm vụ góp phần tích cực ổn định sức mua đồng tiền, kìm chế lạm phát, duy trì tỷ giá hối đoái hợp lý, huy động và cho vay vốn có hiệu quả. Tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng thương mại hoạt động theo cơ chế kinh doanh đầy đủ, Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ. Tổ chức lại hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Chính sách giá phải đảm bảo hoạt động theo cơ chế thị trường, tuyệt đại bộ phận giá cả hàng hoá- dịch vụ đều do thị trường qui định, Nhà nước tập trung quản lý vĩ mô về giá, từng bước luật hoá chế độ quản lý giá, hạn chế tối đa việc can thiệp vào giá cả mang tính hành chính mệnh lệnh. *) Giải quyết tốt các chính sách xã hội: Chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh nên chính sách xã hội có vị trí hết sức quan trọng. Hơn nữa do trình độ kinh tế còn kém phát triển và không đồng đều, hậu quả chiến tranh nặng nề và dai dẳng nên nhiều vùng, nhiều gia đình còn khó khăn, trong khi một số vùng và dân cư giàu lên nhanh chóng. Vì vậy phải quan tâm đến việc thiết lập công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Thực hiện chính sách xã hội trong kinh tế thị trường không phải là bao cấp, ban ơn hoặc cân bằng, bình quân, mà trước hết là phải thực hiện chính sách phân phối hợp lý, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ yếu, đi đôi với phân phối tư liệu sản xuất, tạo công ăn việc làm, chăm lo y tế, giáo dục, chăm sóc giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, bài trừ triệt để và có hiệu quả nạn tham nhũng, buôn lậu, kinh doanh trái phép. c) Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước: Cơ chế quản lý kinh tế chỉ có thể hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả nhờ vào bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế. Phải từ chức năng quản lý của Nhà nước mà sắp xếp lại bộ máy và xây dựng lại đội ngũ quản lý Nhà nước về kinh tế. Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế bao gồm:” định hướng sự phát triển; trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển; thiết lập một khuôn khổ luật pháp thống nhất, có một hệ thống chính sách nhất quán theo định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo môi trường ổn định và tạo thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, khắc phục, hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội“. Chính phủ, các bộ và các cấp chính quyền tập trung thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế, không can thiệp vào chức năng kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. Từ đó mà tiến hành cải cách nền hành chính Nhà nước (thể chế hành chính, cơ cấu tổ chức, biên chế, qui chế hoạt động), góp phần thúc đẩy cải cách kinh tế có hiệu quả. Yêu cầu của cải cách hành chính là làm cho bộ máy tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm cho sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở, đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của địa phương, cơ sở. Muốn làm được điều đó, vấn đề có tính quyết định là phải có một đội ngũ cán bộ, công chức hành chính Nhà nước chuyên về quản lý kinh tế, vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ, vừa có đạo đức liêm khiết, công tâm. Do đó vấn đề tuyển chọn, đào tạo lại một cách cơ bản đội ngũ công chức Nhà nước và cả các nhà quản trị kinh doanh đang trở thành một yêu cầu cấp bách hiện nay. d) Những nhân tố cần thiết để đảm bảo kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Vấn đề kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được nhận thức rõ hơn, nhưng trên thực tế có đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa hay không lại phụ thuộc vào hoạt động lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong thực tiễn. Nhân tố quyết định nhất đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa là vai trò quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó kế hoạch và thị trường kết hợp chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Nhà nước sử dụng có hiệu quả luật pháp, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác, đặc biệt thực lực kinh tế của Nhà nước để tác động vào thị trường nhằm phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, ngăn ngừa, hạn chế xu thế tự phát, phân hoá giàu nghèo quá mức, hạn chế sự sa sút về đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, tàn phá môi trường và các tệ nạn xã hội khác. Chung qui lại đúng hướng hay chệch hướng lại phụ thuộc vào bộ máy lãnh đạo, quản lý và phụ thuộc vào con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:”Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” bao gồm từ người lãnh đạo và quản lý cao nhất cho đến những cán bộ, đảng viên ở cơ sở, cả những người làm quản lý nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh. Thành tựu đạt được: Nhờ có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nước ta đã đạt được một số thành tựu sau: +) Năng lực sản xuất tăng lên do đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cả chiều rộng và chiều sâu. +) Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. +) Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và đi vào cuộc sống. +) Phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường xuất nhập khẩu và mở rộng đầu tư của nước ngoài. +) Năng lực điều hành vĩ mô của Nhà nước về kinh tế được nâng cao, chuyển dần từ quản lý bằng mệnh lệnh hành chính sang pháp luật. Sau đây là một vài biểu đồ về những thành tựu đạt được khi nước ta chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Biểu 1: GDP từ năm 1986-1990 ,theo ước tính của W.B. 1987 1988 1989 1990 1991(ước tính) A-GDP danh nghĩa Cơ cấu (%) Nông nghiệp Công nghiệp Xây dựng Thương mạI B-GDP thực Tăng trưởng (%) Nông nghiệp Công nghiệp Xây dựng Thương mại 3596,1 100 39,1 25,6 2,4 12,3 21395,3 104,2 15573,1 100 44,7 20,9 2,7 10,3 22697,7 106,1 104,0 109,0 96,9 105,3 32654 100 40,4 18,8 3,6 12,3 24307,6 107,1 106,9 91,0 103,7 110,2 46535,5 100 41,8 19,7 3,0 12,2 25396,7 104,5 101,8 105,6 93,5 103,0 86420,9 100 40,5 19,8 3,0 12,2 26158,9 103,0 99,5 103,5 102,5 103,0 Biểu 2: Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế thời kỳ 1986-1991. 1986 1987 1988 1989 1990 1991 I.Dân số(triệu người) Tỷ lệ(%) II.Tỷ lệ tăng GDP(%) KVI KVII KVIII III.Cơ cấu ngành(%) KVI KVII KVIII 61,11 2,1 2,33 2,39 10,28 -2,83 100 38,06 28,88 33,06 62,45 2,2 3,64 -0,52 9,15 5,25 100 40,56 28,36 31,08 63,73 2,1 5,98 3,94 5,29 9,09 100 46,3 23,29 29,47 64,77 1,6 4,69 6,77 -2,81 7,61 100 42,07 22,94 34,99 66,23 2,3 5,1 1,57 2,87 10,81 100 38,74 22,67 38,59 66,77 2,3 5,96 2,17 9,04 8,26 100 40,49 23,79 35,72 Biểu 3: Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế thời kỳ 1991-1998. 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 I.Dân số(triệu người) Tỷ lệ(%) II.Tỷ lệ tăng GDP(%) KVI KVII KVIII III.Cơ cấu ngành(%) KVI KVII KVIII IV-Cơ cấu sở hữu (%) Nhà nước Doanh nhân Vốn đầu tư nước ngoài 66,77 2,3 5,96 2,17 9,04 8,26 100 40,49 23,79 35,72 100 32,5 67,5 69,74 2,4 8,65 7,08 14,03 6,98 100 33,94 27,26 38,8 100 33,3 66,5 71,03 2,3 8,07 3,82 13,13 9,19 100 29,87 28,9 41,23 100 36,2 63,8 72,51 2,1 8,84 3,92 14,02 10,2 100 28,7 29,65 41,65 100 39,2 60,8 73,96 2 9,54 4,95 13,3 10,03 100 27,18 28,75 44,07 100 40,2 53,5 7,39 75,36 1,9 9,34 4,40 14,46 8,80 100 27,76 29,73 42,51 100 39,93 52,68 7,39 76,1 1,8 8,15 4,43 12,26 7,14 100 25,77 32,06 42,17 100 40,48 50,45 9,07 78,06 1,75 5,8 3,53 8,63 4,49 100 25,75 32,59 41,66 100 40,07 49,81 10,12 IV) ý kiến của bản thân: Quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá. Chúng ta đang quản lý có kế hoạch một nền kinh tế sản xuất hàng hoá với những đặc điểm của thời kỳ quá độ. Việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá- tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá- tiền tệ là đặc trưng rất cơ bản về việc quản lý kinh tế mà chúng ta đang xây dựng. Đổi mới cơ chế quản lý là một quá trình cải cách có ý nghĩa cách mạng sâu sắc, là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Cuộc đấu tranh để đổi mới không những bị sức mạnh của thói quen níu lại, mà còn vấp phải những đặc quyền, đặc lợi của một số người gắn bó với cơ chế cũ. Đây là cuộc đấu tranh trong nội bộ đảng và cơ quan nhà nước, đấu tranh giữa những người đồng chí, đấu tranh với chính bản thân mình. Khó khăn, phức tạp là ở chỗ đó. Chúng ta phải khắc phục trở ngại chính hiện nay là tư tưởng bảo thủ, muốn quay trở lại cơ chế cũ đã quen thuộc, do dự không dám giải quyết những vấn đề chín muồi. Mặc dù có phương hướng và nội dung căn bản của việc đổi mới cơ chế quản lý nhưng điều quan trọng và khó khăn hơn là tìm ra được một hình thức kinh tế cụ thể, bước đi và đổi mới trong từng bước. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế này không thể một sớm, một chiều là song, mà phải là một quá trình gồm nhiều bước chuyển, với những chủ trương giải pháp sau đây: *) Việc đầu tiên nhằm tạo ra tiền đề cho kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường phát triển là đổi mới chế độ sở hữu. Vấn đề mấu chốt và quan trọng đặt ra ở nước ta hiện nay là cần phải xác lập nhiều hình thức sở hữu. Chế độ nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế có cơ sở khách quan- đó là những thay đổi diễn ra trong quá trình xã hội hoá sản xuất. Một mặt, xã hội hoá sản xuất làm tăng tích sản xuất và củng cố tính chỉnh thể của thể kinh tế quốc dân thống nhất; mặt khác, xã hội hoá sản xuất lại phân chia các quá trình sản xuất khác nhau ra thành những nhánh tương đối độc lập.Vấn đề bức bách hiện nay trong nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu ở nước ta là, sở hữu Nhà nước có vai trò gì và phạm vi đến đâu, các hình thức sở hữu khác mở rộng đến đâu.Tiêu chuẩn chủ yếu xác định vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhà nước là: bảo đảm các cân đối lớn cảu nền kinh tế; đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng nhưng các thành phần kinh tế khác không thể thay thế được; đảm nhận các yêu cầu đặc biệt có liên quan đến quốc phòng và an ninh; làm nòng cốt và thúc đẩy đổi mới công nghệ; có qui mô lớn về doanh số vốn... và là nguồn bổ xung ngân sách nhà nước. *) Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá bởi nó có ý nghĩa rất to lớn đối với sản xuất và xã hội. Thứ nhất, phát triển sản xuất hàng hoá là biện pháp rất quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế kếm phát triển. Thứ hai, sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ và vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh cùng với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước đảm bảo định hướng lên chủ nghĩa xã hội của nền kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ, như vậy, sẽ hạn chế những tác động tự phát, tiêu cực của các qui luật kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường.Thứ ba, phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá là điều kiện tối cần thiết để tăng cường những khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế theo cả chiều rộng và chiều sâu. Thứ tư, phát triển nền kinh tế hàng hoá, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ, bình đẳng trong kinh doanh theo pháp luật của các tổ chức kinh tế trong mọi thành phần là cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo dân chủ, bình đẳng thật sự trong lĩnh vực kinh tế, góp phần khắc phục ảnh hưởng của cơ chế quan liêu, bao cấp còn tồn tại. *) Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ cấu kinh tế mở. Việc xác định quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá trong nước cùng với khả năng và hiện thực của phân công lao động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng cơ cấu kinh tế mở. Đặc biệt trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp thì có thể thực hiện được việc mở rộng quan hẹe kinh tế. Mở rộng quan hệ quốc tế yêu cầu gắn bó chặt chẽ chính sách đối ngoại với chính sách kinh tế. *) Chủ động tổ chức ra các thị trường. Kinh tế thị trường là một thể thống nhất của các thị trường: hàng tiêu dùng và dịch vụ, vật tư,vốn và tài sản, tiền tệ, lao động, chất xám. Với việc đa dạng hoá sở hữu, rõ rànglà việc tự do lựa chọn nơi làm việc sẽ mở rộng ra, tự do lựa chọn chỗ ở cũng mở rộng ra, những hạn chế vận động của sức lao động cũng dần dần mất đi. Đồng thời quá trình giải phóng sức lao động cũng trở nên sâu sắc hơn. *)Đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước. Sự hình thành sở hữu nhà nước và khu vực kinh tế nhà nước là tất yếu khách quan. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước là những chủ thể kinh doanh có quyền quyết định công việc kinh doanh của mình. Nhà nước cần giải phóng khỏi công việc kinh doanh.Vai trò của kinh tế nhà nước là tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Qua việc nghiên cứu về kinh tế thị trường, tôi cảm thấy đây là một đề tài rất hay, rất quan trọng và thu hút được nhiều người theo dõi. Để có được một đất nước lớn mạnh thì chắc chắn phải nhìn vào tình hình kinh tế đất nước đó như thế nào. Nền kinh tế đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ngay từ khi thành lập đã chú trọng tập trung vào việc xây dựng nền kinh tế, đặc biệt là khi đất nước hoà bình trở lại. Xây dựng kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một mục tiêu sáng suốt, toàn diện của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng kinh tế. Từ việc tìm hiểu một cách sâu hơn về sự chuyển đổi của nền kinh tế, tôi cảm thấy mình cần cố gắng hơn nữa, phải cố gắng rất nhiều, hết mình để cùng đóng góp một phần nhỏ công sức của mình cho đất nước. Phần C: Kết luận Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội và của các hình thái kinh tế xã hội. Trong bất kỳ giai đoạn nào của sự phát triển đó, nền sản xuất xã hội đều phải giải quyết 3 vấn đề cơ bản: sản xuất ra cái gì, bao nhiêu? sản xuất bằng cách nào? phân phối sản phẩm đó cho ai? Có nhiều cách giải quyết vấn đề trên, trong đó có hai cách cơ bản là: kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc và kinh tế hàng hoá với giai đoạn cao của nó là kinh tế thị trường. Hình thức kinh tế đầu tiên của loài người là kinh tế tự nhiên, là nền kinh tế trong đó sản phẩm làm ra nhằm thoả mãn nhu cầu nội bộ, chủ yếu là nhu cầu cá nhân của người sản xuất. Người sản xuất tự quyết định về loại sản phẩm, số lượng sản phẩm và sản xuất cho mình. Sự trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất với nhau rất hãn hữu, chủ yếu dưới các hình thức đơn giản. Nền kinh tế chưa có cạnh tranh và phân công lao động chưa phát triển. Kinh tế hàng hoá là sự phát triển kế tiếp kinh tế tự nhiên trên cơ sở phân công lao động đã phát triển trong nền kinh tế tự nhiên và dần dần mang tính đối lập với kinh tế tự nhiên. Sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra hàng hoá đó mà để trao đổi nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua nó. Vì vậy loại sản phẩm, số lượng sản phẩm suy cho cùng do người mua quyết định, việc phân phối sản phẩm là phương pháp thông qua quan hệ thị trường. Như vậy, kinh tế hàng hoá hình thành dựa trên sự phát triển của phân công lao động xã hội, của trao đổi giữa những người sản xuất với nhau. Kinh tế hàng hoá đã có ưu thế hơn hẳn về năng suất và hiệu quả kinh tế, là bước phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Kinh tế hàng hoá ra đời từ rất sớm, ngày nay kinh tế hàng hoá đã phát triển và phổ cập trên phạm vi toàn thế giới, kinh tế thị trường là giai đoạn cao của kinh tế hàng hoá. Đối với đất nước ta trước năm 1986 áp dụng nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, cho nên nhiều năm qua không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực xã hội. Cơ chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên xuống, không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan quản lý hành chính- kinh tế can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với quyết định của mình , các đơn vị kinh tế cơ sở vừa không có quyền tự chủ, vừa không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh. Dẫn đến lãi chia nhau, lỗ Nhà nước gánh chịu. Cơ chế đó chưa chú ý đầy đủ tới quan hệ tiền tệ- hàng hoá và hiệu quả kinh tế, dẫn tới cách quản lý và kế hoạch hoá thông qua chế độ cấp pháp và giao nộp theo quan hệ hiện vật là chủ yếu, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, không ràng buộc trách nhiệm về lợi ích vật chất đối với hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động (nói đúng hơn là cơ chế “xin”,“cho”). Cơ chế đó “đẻ” ra bộ máy cồng kềnh, với những chi bộ quản lý thiếu năng động, không thạo kinh doanh, với phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền. Cơ chế cũ gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm đơn giản chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý trí. Đối với nền kinh tế thị trường, nó cũng có những ưu thế và những khuyết tật, là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mức độ cao, nền kinh tế thị trường có ưu thế hơn hẳn so với sản xuất tự nhiên tự cấp tự túc, đó là: +) Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội: Sự vận hành của cơ chế thị trường buộc những người sản xuất phải cạnh tranh với nhau để tìm được lợi nhuận siêu ngạch, nó phải dùng chuyên môn hoá, hợp tác hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật làm tăng năng suất lao động, buộc người sản xuất phải quan tâm đến tiêu thụ hàng hoá nghĩa là người sản xuất phải tính đến sở thích, nhu cầu của người tiêu dùng, hàng hoá của người sản xuất đáp ứng yêu cầu thị trường nghĩa là thúc đẩy xã hội phát triển. +) Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất nghĩa là phải lôi kéo những người sản xuất riêng lẻ độc lập vào một hệ thống phân công lao động có mối liên hệ ràng buộc và phụ thuộc vào nhau, tạo ra các đơn vị làm ăn có hiệu quả và loại bỏ các đơn vị làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ. +) Luôn kích thích tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, hàng hoá dịch vụ và luôn được cải tiến. Đồng thời, nền kinh tế thị trường làm tăng tính năng động và tính tự điều chỉnh của nền kinh tế. Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường còn có những khuyết tật vốn có là: do tính cạnh tranh nên thị trường mang tíng tự phát, người sản xuất chạy theo lợi nhuận dẫn đến cung lớn hơn cầu gây cho xã hội những lãng phí không nhỏ, dẫn đến tập trung hoá quá cao, dẫn đến độc quyền thủ tiêu cạnh tranh, giảm hiệu quả chung của nền kinh tế, có thể do khai thác vô tổ chức làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Kinh tế thị trường dẫn đến phân hoá xã hội giàu, nghèo rất nhanh (do thu nhập trong các tầng lớp dân cư khác nhau; ngành nào có lợi nhuận cao thì tập trung phát triển, ngành nào có lợi nhuận ít thì không được tập trung phát triển). Các khuyết tật của nền kinh tế thị trường đã được Đảng ta chỉ rõ trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là :”...xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế “ và “xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa“. Đây là bước ngoặt trong lịch sử của Đảng ta gọi là “thời kì đổi mới” vì chỉ có sự đIều tiết đúng đắn từ tầm vĩ mô của Nhà nước mới phát huy được tính tích cực của nèn kinh tế thị trường và cũng từ tầm vĩ mô đó mới hạn chế được những khuyết tật của nó ./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28254.doc
Tài liệu liên quan