Đề tài Mối quan hệ của pháp luật và kinh tế được thể hiện qua việc Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO

A- LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, trong đó ưu tiên thực hiện các công việc theo yêu cầu gia nhập WTO. Đồng thời tiến hành đẩy mạnh hội nhập đa dạng hóa, đa phương hóa trên tất cả các cấp độ thế giới, khu vực và song phương. Những nỗ lực hội nhập kinh tế trên tất cả các cấp độ như vậy đã mang lại các thành quả rất đáng khích lệ trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của tình hình mới, tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức do phải tiến hành đồng thời các lộ trình cam kết theo nhiều cấp độ khác nhau. Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, trải qua rất nhiều vòng đàm phán đa phương lẫn song phương chúng ta đã thực hiện rất nhiều nhượng bộ và các cam kết cần thiết cho phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế. Bên cạnh các cam kết về kinh tế thì các cam kết về lập pháp và cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng theo cơ chế thị trường được Việt Nam đặc biệt coi trọng. Theo đó hàng loạt các luật, pháp lệnh, nghị quyết được ban hành trước yêu cầu của cộng đồng quốc tế và bản thân các doanh nghiệp trong nước khi bước ra biển lớn. WTO mang lại tác động kép tới pháp luật và thể chế của nước ta, thúc đẩy hoàn thiện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đáp ứng đòi hỏi của quá trình đàm phán gia nhập WTO, Quốc hội ta đã phải ban hành 65 luật và pháp lệnh. Chỉ riêng năm 2005 đã có 25 luật và pháp lệnh, những văn bản pháp lý mới nhất có liên quan trực tiếp đến các nghĩa vụ thành viên của Việt Nam được gửi đến Ban thư ký WTO. Trong kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Chính phủ có các Phụ lục đính kèm đề cập đến các nội dung áp dụng trực tiếp cam kết của Việt nam liên quan đến 6 văn bản Luật và danh mục các văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung theo lội trình mà ta đã đàm phán được, liên quan đến 6 văn bản luật và 1 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Rõ ràng là một trong những thách thức lớn nhất khi gia nhập WTO là sự thử thách về chất lượng pháp luật và năng lực thể chế. Giờ đây, thực hiện những cam kết không những là nghĩa vụ mà còn là danh dự quốc gia. Thực chất những cam kết với quốc tế không là gì khác ngoài những ràng buộc về pháp luật của đất nước và luật của quốc tế. Bài tiểu luận dưới đây, em tìm hiểu về “tác động của việc gia nhập WTO tới việc hoàn thiện thể chế và pháp luật ở Việt Nam”. Để môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện, thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO là cần thiết . Nhận thấy rõ sự mối quan hệ của pháp luật và kinh tế nhóm chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ Bằng những ví dụ thực tế ở Việt Nam khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhâp WTO để làm rõ mối quan hệ của pháp luật vầ kinh tế” 2. Mục đích và nhiệm vụ Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực tế ở Việt Nam khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO. Tìm ra mối quan hệ của pháp luật với kinh tế, sự tác động qua lại của chúng Nhiệm vụ: -Nghiên cứu lý luận về pháp luật, kinh tế, tổ chức WTO - Tìm hiểu nghiên cứu pháp luật của Việt Nam trước và sau khi ra nhập WTO - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Khi đất nước ta hội nhập kinh tế quốc tế, ra nhập WTO 3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Là chủ nghĩa Mác-Lênin về kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. về kinh tế và pháp luật. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp khái quát hoá, kết hợp với các phương pháp khảo sát, , phân tích, tổng hợp, so sánh . để phân tích những vấn đề đặt ra. MỤC LỤC A: Lời mở đầu Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG I) Khái quát chung 7 1) Khái quát về WTO 7 2 Lợi ích và thách thức khi Việt Nam ra nhập WTO 10 2.1 Lợi ích 10 2.2 Thách thức 12 3) Khái quát về pháp luật 13 4) Khái quát về kinh tế 14 II Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế 15 III Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế ở nước ta 17 CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VÀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHI RA NHÂP WTO VÀ HỘI NHÂP KINH TẾ QUỐC TẾ 20 1- Vai trò của pháp luật trong nền kinh tế Việt Nam: 20 1.1 Vai trò của pháp luật đối với kinh tế xã hội chủ nghĩa 20 2 Những phát triển mới của pháp luật Việt Nam khi hội nhập kinh tế, ra nhập tổ chức WTO 24 2.1. Một số thành tựu cụ thể 25 2.2. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 33 CHƯƠNG 3: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 36 1. Vai trò của pháp luật trong thời đại mới. 37 2. Nâng cao trình độ nhận thức pháp luật 39 3. Nâng cao sự quản lý trong việc thự thi pháp luật 41 4. Tăng cường vai trò của pháp luật 42 5. Hoản thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. 45 5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật – một trong những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam 45 5.1. Nhận diện những hạn chế của hệ Hoản thiện hệ thống pháp luật thống pháp luật hiện hành 45 5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN 48 C Danh mục tài liệu tham khảo 50

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ của pháp luật và kinh tế được thể hiện qua việc Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao… Nhà nước thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính, tăng cường các đạo luật về thủ tục tố tụng, các cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật – tăng cường pháp luật về đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện chính sách hình sự theo xu hướng giảm nhẹ hình phạt… Thứ tư, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, hài hoà, thống nhất với giá trị pháp lý chung của quốc tế và khu vực. Tất cả các văn bản pháp luật được Nhà nước Việt Nam ban hành trong thời gian qua đều thể hiện nguyên tắc tôn trọng các cam kết, các Điều ước quốc tế. Mặt khác, sự hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật, sự tiếp nhận những giá trị, tinh hoa của nhân loại trong xây dựng pháp luật trên cơ sở đảm bảo sự hài hoà giữa văn hoá truyền thống và hiện đại là yêu cầu mang tính nguyên tắc được quán triệt trong quá trình lập pháp, thi hành và áp dụng pháp luật. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này được thể hiện trong sự gắn kết giữa mục tiêu và các nguyên tắc của hệ thống pháp luật Việt Nam với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương ASEAN cũng như các văn kiện quốc tế khác. Việt Nam đã và đang tiến hành hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình phù hợp với cam kết WTO về sở hữu trí tuệ, hệ thống thuế, pháp luật đầu tư, pháp luật doanh nghiệp…, cải cách hệ thống thủ tục hành chính, thủ tục tố tụng tư pháp, hệ thống trọng tài, luật sư…, pháp luật cạnh tranh chống độc quyền, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, luật phá sản v.v… Việt Nam cũng đã ban hành Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống tham nhũng và nhiều văn bản luật khác. Pháp luật Việt Nam có sự thay đổi rất lớn, để phù hợp với nền kinh tế thị trường, khi Viêt Nam mở cửa hội nhập kinh tế thế giới. Thể hiện rõ nét thông qua 2 bản hiến pháp 1946 và hiến pháp 1992. Năm 1946 miền bắc mới giành chính quyền , nền kinh tế còn gặp rấ nhiều khó khăn. Với nền kinh tê quan liêu bao cấp, hiến pháp 1946 quy định: Loại hình kinh tế là sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân ), là loại hình sở hữu mà một cộng đồng các thành viên của xã hội chiếm chung tư liệu sản xuất ở những qui mô khác nhau , liên kết với nhau trong lao động và có địa vị ngang nhau về kinh tế. Việc sử dụng, chi phối tơ liệu sản xuất đều phục tùng lợi ích xã hội là khi tư liệu sản xuất thuộc toàn xã hội thì sản xuất hàng hóa và Trao đổi hàng hóa sẽ không còn.Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa khi đó thì sản phẩm lao động không còn bị người bóc lột chiếm hữu mà được phân phối theo lợi ích ngơời lao động , dùng cho nhu cầu chung của xã hội.  Còn sau đại hội VI đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới. Nền kinh tế có sự mở rộng, giao lưu quốc tế. thì hiến pháp 1992 lại có sự thay đổi mới cho phù hợp với tình hình kinh tế mới - Hiến Pháp năm 1992 :Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trơờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN . Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất ,kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng. Các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh , KT tập thẻ , KT cá thể , kinh tế tư bản tư nhân và KT tư bản nhà nước , KT có vốn đầu tơ nước ngoài. Điều 20 : KT tập thể do công dân góp vốn , góp sức lực hợp tác sản xuất , kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện , dân chủ và cùng có lợi.NN tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.  Điều 21 : KT cá thể , kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức SX , KD được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.KT gia đình được khuyến khích phát triển.  Điều 24 :NN thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động KT đối ngoại , phát triển các hình thức quan hệ KT với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập , chủ quyền và cùng có lợi , bảo vệ thúc đẩy sản xuất trong nước. Điều 25 : NN khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tơ vốn , công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, Pháp luật và thông lệ quốc tế , đảm bảo quyền sở hữu hợp tác đối với vốn , tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài.Doanh nghiệp có vốn đầu tơ nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nền KT nước ta qua từng thời kì đã phát triển ngày càng đa dạng phong phú, đáp ứng đơợc nhu cầu của xã hội . Trước kia nền KT chỉ bó buộc trong phạm vi lãnh thổ nay đã phát triển ra phạm vi quốc tế. Nền Kt vốn nghèo nàn lạc hậu biến thành một nền KT quốc dân theo CNXH với nền công nghiệp và Nông nghiệp hiện đại , khoa học kĩ thuật tiên tiến. 2. Một số thành tựu cụ thể: Về số lượng, trong những năm 2004 – 2009, Quốc hội đã ban hành 103 luật và các bộ luật. Ngoài ra còn rất nhiều các văn bản pháp quy do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước ban hành. Trước đây, từ năm 1946 đến năm 1986, Quốc hội chỉ ban hành được 32 văn bản (Hiến pháp, luật, bộ luật); trong thời kỳ Đổi mới, từ năm 1987 đến 1992, Quốc hội khoá VIII đã ban hành 32 văn bản; Quốc hội khoá IX (1992 – 1997) ban hành 41 văn bản. Các văn bản pháp luật giai đoạn này đã thể hiện những nội dung về những định hướng chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010 của Đảng, cụ thể: 2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Cùng với sự đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật là quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, các thiết chế, tổ chức xã hội. Các luật tổ chức: Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, HĐND và UBND… không ngừng được hoàn thiện. Các luật có liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng được ban hành như: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2007; Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Theo Chiến lược lập pháp, Nhà nước Việt Nam tiến hành xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước; Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý, điều hành vĩ mô, thực hiện đúng vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Đến năm 2010 sẽ xoá bỏ vai trò chủ quản của cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp để các cơ quan này tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước theo luật, đẩy mạnh xã hội hoá một số dịch vụ công (TP. Hồ Chí Minh đang triển khai tổ chức Thừa phát lại). Đặc biệt, cải cách thủ tục hành chính là một nội dung quan trọng trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước giai đoạn 2007-2010 được Thủ tướng ban hành theo Quyết định số 30/QĐ – TTg ngày 10/01/2007 đã được triển khai và kết thúc giai đoạn 1 với việc công bố bộ thủ tục hành chính của các bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là một đề án lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân, doanh nghiệp. Các bộ luật tố tụng tư pháp (dân sự và hình sự) đã xác định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trung tâm là Toà án, bảo đảm Toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử, đề cao nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng tư pháp nói chung. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 không những chỉ ghi nhận và đề cao nguyên tắc tự định đoạt của đương sự mà còn xác định lại vị trí, vai trò tố tụng của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và các chủ thể khác trong tố tụng dân sự như luật sư, công chứng viên, giám định viên… Có thể nói, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 là bước đầu pháp điển hoá pháp luật về tố tụng dân sự, góp phần khắc phục những hạn chế trong pháp luật về tố tụng dân sự nói riêng. Gần đây, Luật Thi hành án dân sự được ban hành năm 2008 đã tăng cường cơ sở pháp lý cho cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. 2.2. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân Trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật, vấn đề lồng ghép giới, bảo đảm bình đẳng giới là một yêu cầu quan trọng. Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực trong gia đình đã được ban hành. Các văn bản pháp luật như Luật Sở hữu trí tuệ (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Nhà ở… đã được ban hành nhằm hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là Toà án trong việc bảo vệ các quyền tự do, dân chủ. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009; Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 được sửa đổi, bổ sung năm 2005 đã củng cố cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. 2.3. Các đạo luật và bộ luật đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà quan trọng nhất là pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm Thành tựu nổi bật nhất với việc ban hành Bộ luật dân sự năm 2005 là sự thống nhất pháp luật về hợp đồng. Tiếp theo là sự thống nhất pháp luật doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp năm 2005), mặc dù Luật Doanh nghiệp Nhà nước vẫn tiếp tục có hiệu lực, rồi tiếp đến là thống nhất pháp luật đầu tư. Còn Luật Thương mại thì đã được phát triển theo hướng mở rộng và chuyên biệt hóa. Đây là những điểm sáng của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường ở Việt Nam, là cơ sở cho sự thống nhất hệ thống “luật đầu tư”, tạo tiền đề cho hoàn thiện thể chế thị trường định hướng XHCN. Đến nay, Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Đầu tư năm 2005; Luật Nhà ở năm 2005; Luật Giao dịch điện tử năm 2005… đã tạo cơ sở cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường; ban hành các đạo luật về tài nguyên, môi trường theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ, phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.  2.4. Không ngừng hoàn thiện pháp luật về giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ; y tế, văn hoá – thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật Giáo dục năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009); Luật Đa dạng sinh học năm 2008; Luật Công nghệ cao năm 2008; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007; Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009… và rất nhiều văn bản pháp luật về chính sách xã hội được ban hành. Hiện tại, Dự án Luật Nuôi con nuôi đang được soạn thảo, dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào năm 2010.5 Hoàn thiện các văn bản áp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, ự, an toàn xã hội Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với bối cảnh quốc tế hiện nay, Nhà nước ta vẫn không ngừng quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia. Các luật liên quan đến lĩnh vực này đã được ban hành như: Luật An ninh quốc gia năm 2004; Luật Quốc phòng năm 2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2005; Luật Công an nhân dân năm 2005; Luật sửa đổi một số điều Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 2008;…Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta là hoàn thiện pháp luật phòng, chống tội phạm trên cơ sở phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng hạn chế hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với các loại tội ít nghiêm trọng. 2.6. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế, thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường…Trong những năm qua, các đạo luật đã thể hiện việc ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã khẩn trương hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO, thực hiện các cam kết với ASEAN, tham gia đầy đủ vào AFTA năm 2006, phê chuẩn Hiến chương ASEAN, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào năm 2020. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế phù hợp với tập quán thương mại quốc tế (tăng cường trọng tài, hoà giải). Việt Nam đã ban hành Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, đang tiến hành xây dựng Luật Trọng tài thương mại,… 3. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam Bất cập rõ nét nhất, bao trùm nhất là tính khả thi, tính hiệu quả của pháp luật còn rất thấp. Điều này được thể hiện ở chỗ các văn bản của pháp luật càng nhiều hơn nhưng các đạo luật thay đổi thường xuyên, tốn kém nhiều tiền của, nguồn lực cho việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật. Chúng ta cũng có thể giải thích rằng nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi, các quan hệ kinh tế – xã hội chưa ổn định, luôn nảy sinh vấn đề mới. Tuy nhiên, việc pháp luật, các đạo luật thay đổi thường xuyên làm cho trật tự pháp luật không ổn định, pháp luật không thực sự đi vào cuộc sống. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của hệ thống pháp luật. Nhưng nguyên nhân đầu tiên, nguyên nhân cơ bản nhất đó là do hệ thống pháp luật Việt Nam chưa thật sự đồng bộ, chưa đầy đủ và thiếu tính hệ thống. Nguồn gốc sâu xa của tình trạng này là thực trạng nhận thức về pháp luật và hệ thống pháp luật chưa khoa học. Chúng ta quan tâm quá nhiều đến lập pháp, ban hành nhiều đạo luật, nhưng những thay đổi cơ bản trong tư duy, lý luận mới chỉ được thể hiện ở tầm vĩ mô, trong chính sách và các văn bản pháp luật nên rất khó và chậm đi vào cuộc sống. Quy trình và thủ tục để pháp luật đi vào cuộc sống quá phiền hà và tốn kém. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Do đó, pháp luật phải phản ánh được ý chí, nguyện vọng và phục vụ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Mặt khác, điều quan trọng nhất trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật là phải thấy được vai trò và mối liên hệ biện chứng giữa pháp luật với đời sống xã hội, mối liên hệ giữa pháp luật với các bộ phận khác thuộc thượng tầng kiến trúc, hệ tư tưởng chính trị – pháp lý. Trong thời gian qua, quy trình soạn thảo, ban hành luật đã được đổi mới rất nhiều. Đa số các dự án luật đều được xây dựng trên cơ sở quy trình lập pháp dân chủ, tổng hợp ý kiến của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy từ các Dự thảo đến kết quả ban hành các đạo luật có nhiều cơ quan làm cho kết quả cuối cùng của văn bản luật chưa phản ánh thực tế yêu cầu cuộc sống. Vì vậy, cần bổ sung quy định về chủ thể thẩm tra dự án luật. Nên chăng, cần thành lập trong các ủy ban, hội đồng thẩm tra bao gồm các chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên ngành.  Bên cạnh đó, cần thấy được tính đa dạng của cuộc sống để đảm bảo tính linh hoạt của pháp luật bên cạnh yêu cầu về tính cưỡng chế, tính nghiêm minh của pháp luật. Pháp luật là đại lượng chung mang tính thống nhất, phổ biến. Do đó, không thể đòi hỏi các quy định của các đạo luật quá cụ thể, chi tiết. Các quy phạm pháp luật dù cụ thể và chi tiết đến đâu, vẫn phải trong một mức độ nhất định mang tính khái quát. Ví dụ: quy định quá cụ thể như trong Bộ luật Dân sự về tỷ lệ lãi suất ngân hàng hay như trong Bộ luật Hình sự về mức độ giá trị để truy tố (500.000 đồng trước đây và 2 triệu đồng hiện nay) là quá gò ép, khiên cưỡng, thiếu thực tế. Một vụ ăn trộm một đàn vịt 100 con tính theo thời giá chưa đến 2 triệu đồng, chưa thể khởi tố. Nhưng đàn vịt 100 con đối với bà con nông dân tại huyện Tiên Lãng và nhiều nơi khác có giá trị lớn và ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân . Trong khi đó, tại nhiều nơi, nhiều vùng nông thôn, miền núi nước ta trong những năm gần đây nạn trộm cắp đang có chiều hướng gia tăng.  Tăng cường tính nghiêm minh, tính răn đe của pháp luật phải tiến hành đồng thời với giáo dục ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tăng cường các biện pháp bảo đảm tính thực thi của pháp luật. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp giáo dục, đề cao các quy tắc xử sự mang tính xã hội với các biện pháp chế tài mang tính hệ thống, đồng bộ là yêu cầu của điều chỉnh pháp luật, tăng cường đề cao vai trò pháp luật dân sự và các chế tài mang tính dân sự-kinh tế là yêu cầu của thể chế thị trường có hiệu quả. Do vậy, suy cho cùng, hiệu quả của pháp luật không chỉ dừng lại ở các đạo luật và bộ luật, mà là ở các thiết chế, tổ chức, cơ chế thực thi, đặc biệt là con người. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình cải cách đổi mới, cần thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung và tăng cường nâng cao trình độ nhận thức lý luận về nhà nước và pháp luật cho đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan, bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong cơ quan hành pháp và tư pháp, bởi vì nếu không có lý luận soi đường thì hoạt động thực tiễn sẽ hết sức tùy tiện, có thể làm cho pháp luật bị bóp méo, không có hiệu quả hoặc hiệu quả rất thấp kém. Một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền là độc lập của tư pháp. Vì vậy, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần đề cao và bảo đảm sự hài hòa giữa tính thống nhất của pháp luật với tính sáng tạo trong xét xử và thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án. CHƯƠNG 3: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu. Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên là do chưa hoạch định được một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược; việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế.  Trước tình hình trên bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam  đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.  Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Phù hợp với nền kinh thế thị trường, hội nhập quốc tế như ngày nay. 1 .Vai trò của pháp luật trong thời đại mới. Pháp luật có vai trò: là cơ sở xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước, bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm thực hiện nền dân chủ, là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị,trật tự an toàn xã hội…Và trong thời đại này vai trò của Pháp luật càng được đánh gia cao.Với những biến chuyển không ngừng và khó lường trong xã hội thì “tiếng chuông báo động đạo đức” là vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm đúng mức.  Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.  Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ giữa con người với con người không thể chỉ là "mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo đức” như trước đây, mà nó cần được bổ sung những chuẩn mực, những giá trị mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả... Ngay cả việc đánh giá đạo đức cũng cần phải dựa trên các tiêu chí mới đó, ngoài các thước đo vốn có. Đối với nước ta hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự... đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật, đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông sang điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội. Trong quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học và duy lý thay cho sự tuỳ tiện vấn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình trong môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới. 2, Nâng cao trình độ nhận thức pháp luật Công cuộc đổi mới ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Thực tế đó luôn đòi hỏi và thúc đẩy nâng cao trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp cho lực lượng lao động và xã hội hóa tri thức khoa học. Từ đó, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và của toàn xã hội cũng được nâng lên, làm cho khả năng điều chỉnh của đạo đức cũng biến đổi và phát triển theo chiều hướng tích cựcThực tế những năm vừa qua ở nước ta cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ. Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, các nguyên tắc định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật, như công bằng, nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội... cũng chính là những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới. Có thể nói, pháp luật sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại. Trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, kể cả Hiến pháp, các bộ luật và văn bản dưới luật thường có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: "Nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện". Ngoài ra, các bộ luật, như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em... đều được xây dựng trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, có thể nhấn mạnh rằng, pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu trong việc bảo tồn những giá trị truyền thông, vừa góp phần bồi đắp nên những giá trị mới trong đó có ý thức đạo đức. Việt Nam vốn là một nước kém phát triển, lại đang chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện như vậy, sự ít hiểu biết về pháp luật của một bộ phận nhân dân cùng với những bất cập của hệ thống pháp luật đã dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật Nạn tham nhũng và các hành vi làm ăn bất lương, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật đang ngày càng gia tăng. Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là "ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền" đang là nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực tế nhức nhối đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu chặt chẽ và việc thi hành pháp luật còn chưa nghiêm, chưa công bằng. Trong bối cảnh như vậy, luật pháp cần phải tỏ rõ sức mạnh của mình để lập lại trật tự, kỷ cương. Bởi lẽ, nếu đạo lý không đủ mạnh để thuyết phục thì pháp lý phải ra tay. Nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật pháp phải kết án". Những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã nỗ lực trong việc thanh tra, khám phá và đưa ra xét xử công khai nhiều vụ trọng án, kiên quyết trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội, thu lại cho đất nước một lượng lớn tài sản. Việc làm đó không những được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ cái đúng, cái thiện, lên án cái sai, bài trừ cái ác, mà còn chứng tỏ vai trò vô cùng quan trọng của luật pháp trong việc bảo vệ nền đạo đức và lành mạnh hóa đời sung xã hội. Có thể nói, trong tiến trình đổi mới đất nước, pháp luật đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến khả quan về mặt xã hội, góp phần không nhỏ trong việc củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước ta từng bước hội nhập với thế giới. Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng. sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiều văn bản pháp luật và dưới luật được ban hành và đang đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó càng khẳng định một thực tế là, nếu như pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, hoạt động tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn và việc thực hiện ngày càng nghiêm minh hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng cao hơn, sự định hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn. 3. Nâng cao sự quản lý trong việc thự thi pháp luật Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn thiếu những quy định cần thiết trong lĩnh vực quản lý kinh tế và các quy định về quyền cơ bản của công dân. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng nếu như không nói là còn bị xem nhẹ. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành luật của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập những kinh nghiệm xây đựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật còn nhiều hạn chế. Tâm lý tiểu nông, thói quen của người sản xuất nhỏ làm cho nhiều người còn mang nặng tư tưởng phép vua thua lệ làng". Điều đó lý giải tại sao trong đời sống xã hội vẫn còn không ít người chưa có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Trước đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: pháp luật không phải là để trừng trị con người, mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Đáng tiếc là ở nước ta, vẫn còn một bộ phận dân chúng coi pháp luật là sự trói buộc mình nên đã có tâm lý trốn tránh pháp luật. Thực tế đó cũng làm cho việc thực thi pháp luật càng trở nên phức tạp hơn và chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp chưa thực sự công tâm, nghiêm minh, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và tình trạng pháp luật bị buông lỏng đã tạo điều kiện cho những hiện tượng phản đạo đức xuất hiện, gây ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh và tiến bộ. Pháp luật không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Đứng trước pháp luật thì mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người theo hướng ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác và khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người. Việc thực thi pháp luật là nhằm xây đựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, tiến bộ vì con người và cho con người. Với quan niệm như vậy, pháp luật và việc thực thi pháp luật là môi trường nuôi dưỡng và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. 4. Tăng cường vai trò của pháp luật Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng. Trước hết, cần phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò của pháp luật trong việc xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ vấn đề này là một quá trình khó khăn và lâu đài. Trải qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh rằng, cần phải "tăng cường pháp chế, xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật". Đại hội X của Đảng đã khẳng định rằng, chúng ta cần "Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Điều đó cho thấy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đang trở thành vấn đề thực sự có ý nghĩa cấp bách trong điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Bởi vì, đây là vấn đề không những góp phần tăng cường cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và nuôi dưỡng ý thức đạo đức mới. Thứ hai, chúng ta cần phải xây dựng đồng bộ và hoàn. thiện hệ thống pháp luật. Phương châm chỉ đạo của Đảng ta là: "Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật". Vấn đề này có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu các giá trị, đặc biệt là các giá trị truyền thống. Thông qua quá trình đó, chúng ta có thể lựa chọn các chuẩn mực, các giá trị phù hợp để luật hóa chúng, biến thành những quy phạm chung của xã hội mà mỗi công dân đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Có thể nói, đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp bách trong quá trình xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh ở nước ta hiện nay. Thứ ba, để nâng cao vai trò và hiệu quả của hệ thống pháp luật, ngoài các biện pháp trên, cần phải quan tâm đến chất lượng của các cơ quan làm luật và đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người. Đã có không ít trường hợp cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật. Do vậy, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan này cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang là đòi hỏ. i cấp bách hiện nay. Thứ tư, để tăng cường vai trò của pháp luật thì việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng. Đứng trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Trong thực thi pháp luật, về phía Nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải rõ ràng, về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật  Thứ năm, cần tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào đời sống thông qua hoạt động giáo dục pháp luật. Bởi vì, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật chưa phải là đã xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Theo Người, việc giáo dục pháp luật là một trong những công đoạn hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới, đồng thời, góp phần củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích chính đáng của người khác, khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý.  Ngoài ra, để tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành ý thức đạo đức, cần phải đẩy mạnh hơn nữa các chương trình kinh tế - xã hội, như xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng phải khắc phục những thiếu sót trong các chính sách quản lý kinh tế - xã hội, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của đất nước và bối cảnh quốc tế. Mặt khác, cũng cần phải tăng cường hơn nửa lực lượng, phương tiện, kinh phí cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, xây dựng các cơ quan này thực sự trong sạch, vững mạnh.Tóm lại, muốn xã hội ổn định và ngày càng phát triển, cần phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và của toàn xã hội. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định rằng, để góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải "hoàn chỉnh hệ thống pháp luật", cụ thể là: "... tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp". Đó là cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. 5 Hoản thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội 5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật – một trong những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNHXH đầy khó khăn và do đó, không tránh khỏi sự thăng trầm. Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà trước đây, Cộng hoà XHCN Việt Nam ngày nay đã có rất nhiều đặc điểm của một nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mãi đến những năm Đổi mới, nhà nước pháp quyền XHCN mới trở thành một khái niệm chính trị – pháp lý chính thức trong xã hội ta và để từ đó được hiện thực hoá trong sự nghiệp Đổi mới và trở thành một trong những nền tảng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng của một hệ thống chính trị – pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên nhiều cấu trúc, định chế, đặc biệt là hệ thống pháp luật của Nhà nước XHCN Việt Nam, cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. 5.1.1. Nhận diện những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành Hệ thống pháp luật nước ta trong hai thập kỷ qua đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Chính những thành tựu này trong lĩnh vực lập pháp đã giúp Việt Nam vượt qua những điều kiện về mặt thể chế mà WTO đặt ra đối với việc kết nạp các thành viên và đương nhiên đáp ứng được rất nhiều nhu cầu phát triển nội tại của đất nước. Tuy nhiên, bài viết này cố gắng nhận diện và phân tích không phải là những thành tựu, mà là những hạn chế của hệ thống pháp luật, để từ đó hướng tới những ý tưởng đề xuất giải pháp hoàn thiện. Theo chúng tôi, hệ thống pháp luật hiện hành có một số hạn chế lớn sau: Thứ nhất, rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật. Trong hệ thống pháp luật có 26 loại văn bản được xác định là văn bản quy phạm pháp luật. Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu pháp luật Bộ Tư pháp, tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1987 đến 30 tháng 11 năm 2008, chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành thì hệ thống pháp luật nước đã có tới 19126 văn bản, trong đó có 208 luật, bộ luật, 192 pháp lệnh, 2097 nghị định, 267 nghị quyết và 36 thông tư, 1213 thông tư liên tịch (3). Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đã cần đến trên 40 văn bản pháp luật khác nhau để hướng dẫn thi hành. Luật Đất đai năm 2003 muốn được thực hiện phải dựa trên 126 văn bản. Trong lĩnh vực môi trường thì có đến khoảng 300 văn bản pháp luật khác nhau đang còn hiệu lực. Nếu kể cả các văn bản pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành thì con số này sẽ rất đồ sộ. Hơn nữa, do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng và, vì thế, kém hiệu lực. Với hệ thống pháp luật như vậy, việc áp dụng, thực hiện không hề dễ dàng đối với cán bộ pháp luật có trình độ, chưa nói đến các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân. Thứ hai, pháp luật thường xuyên thay đổi. Thực tế này là hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Trong quá trình thể chế hoá các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, có không ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo ra những đột phá và từ đó, có sự ổn định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội cụ thể và từ đó, của cả hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế. Thứ ba, rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, tức là thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Có những văn bản chứa đựng những quy định mang tính tuyên ngôn hơn là quy phạm pháp luật. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi phải được điều chỉnh cụ thể, chi tiết thì pháp luật lại là văn bản pháp luật “khung” hay văn bản pháp luật “ống”. Phần lớn các văn bản luật như vậy giao cho Chính phủ ban hành nghị định để cụ thể hoá. Nhiều nghị định của Chính phủ lại giao cho bộ, ngành, địa phương hướng dẫn thực hiện. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa văn bản hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành. Sự khác nhau trong ý kiến của Bộ Tài Nguyên và Môi trường và Bộ Xây dựng xung quanh quyết định của UBND TP Hồ Chí Minh về các giấy tờ nhà đất được giao dịch và của Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội về việc giao cho một cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất là một ví dụ. Việc triển khai thực hiện pháp luật theo cách này thiếu kịp thời, khó mang lại hiệu quả cao, vì phải chờ văn bản của các cấp khác nhau. Thứ tư, tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế, nhất là nhìn nhận từ tính minh xác, tính minh định. Công báo của Trung ương và các tỉnh đã đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch. Chính hạn chế này khiến các chủ thể thực sự lúng túng khi thực hiện hay áp dụng pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng những tiếp cận và tham gia cần thiết. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học nói riêng và của công chúng nói chung chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu. Mặt khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa cao. Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế. Các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Những mâu thuẫn giữa Luật nhà ở, Luật đất đai, Bộ luật dân sự về một số vấn đề (như: hiệu lực các giao dịch, về căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu) mà công luận nêu lên gần đây là ví dụ cho tính hệ thống thấp của pháp luật hiện hành của nước ta. Cuối cùng, trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật và, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật hình sự mà không quản lý công tác phòng chống tội phạm, xử lý tội phạm, giáo dục phạm nhân…thì khó có được một chính sách hình sự hoàn chỉnh, ổn định, thúc đẩy, chứ không phải kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 5.1.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang được hiện thực hoá trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước và các thiết chế xã hội. Điều quan trọng cần được nhấn mạnh khi nói về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà chúng ta chủ trương xây dựng, chính là sự vận dụng về cơ bản toàn bộ các tiêu chí của nhà nước pháp quyền nói chung và những giá trị riêng của một nhà nước pháp quyền XHCN. Những nghiên cứu khác nhau cho thấy hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN có những tiêu chí riêng sau đây: Thứ nhất, pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ chú trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn đặc biệt chú trọng đến sự bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Trong một nhà nước theo chế độ pháp trị, pháp luật mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền “bao gồm một tập hợp các quy định mà nếu thiếu chúng thì không thể có sự cùng tồn tại trong hoà bình và tự do” (4). Với nhà nước pháp quyền XHCN thì giá trị của pháp luật phải bổ sung thêm yếu tố là bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ bảo đảm cá nhân, tổ chức cùng tồn tại trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng, công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt giàu nghèo, sự thống trị của chủ nghĩa tự do cực đoan. Thứ hai, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được ý chí của nhân dân mà người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận và sự thừa nhận đó đã trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta – Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy những thành tựu của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn chặt với quá trình hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Chính những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chẳng hạn về phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng -an ninh, đã làm cơ sở cho sự hình thành những quan điểm và định hướng chiến lược cho sự phát triển của hệ thống pháp luật của đất nước. Văn kiện tập trung nhiều quan điểm và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chính là Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW, trong đó đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”. Trong số những nguyên nhân chính của những yếu kém nêu trên Nghị quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến lược. Vì vậy, Nghị quyết số 48/NQ-TW đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, với sáu định hướng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; và hai nhóm giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và nhóm giải pháp thực hiện pháp luật). Từ đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là việc xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội hàng năm và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có rất nhiều thuận lợi và thực sự đã mang tính định hướng chiến lược sâu sắc. Những nghiên cứu, đánh giá ban đầu ba năm thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW cho thấy giá trị to lớn của văn bản quan trọng này đối với hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Những thành tựu to lớn mà Nghị quyết số 48/NQ-TW mang lại thể hiện rất rõ nét trong lĩnh vực xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW trong ba năm qua cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ và sự nhận thức có lúc còn chưa đầy đủ về giá trị to lớn của Nghị quyết này đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Một số định hướng, đặc biệt là “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân” chưa được triển khai một cách toàn diện và triệt để. Do đó, đã đến lúc chúng ta cần tổ chức sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW. Mà cũng là đúng lúc, để có những nghiên cứu thấu đáo chuẩn bị cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, cũng là để tiếp tục thực hiện các quan điểm và định hướng chiến lược của Nghị quyết số 48/NQ-TW. Chẳng hạn, những định hướng quan trọng như đến năm 2010 phải xoá bỏ vai trò chủ quản của cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép; những định hướng cụ thể cho việc xây dựng luật tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (5) cần sớm được xác định lộ trình và những giải pháp thực hiện cụ thể. Trong thực tế, do nhận thức chưa đầy đủ, việc triển khai thực hiện các quan điểm và định hướng chiến lược đúng đắn của Nghị quyết còn gặp phải những khó khăn, cản trở nhất định ngay từ phía một số cơ quan nhà nước. Xu thế “status quo” (giữ nguyên hiện trạng, không cần thay đổi) không phải là không có trong các cơ quan có trách nhiệm trực tiếp thực hiện Nghị quyết. C DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  1 Hiếp pháp Việt Nam 1946 2 Hiến pháp Việt Nam 1992 3 Nghị định 48 của chính phủ 4 PGS. TS Nguyễn Văn Động – Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật – Nhà xuất bản giáo dục 2009 5 Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin – Nhà xuât bản chính trị quốc gia. 6 WWW.vanbanphapluat.com 7 www.law.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSQ.doc
Tài liệu liên quan