Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Nông sản

Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng nông lâm sản nói riêng trên thực tế là rất phức tạp và khó khăn, do đó việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng nông lâm sản hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Chuyên đề này em xin nêu một số ý kiến có tính chất vi mô, vĩ mô để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông lâm sản để góp pgần vào qua trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình giúp đỡ của GS TS Đặng Đình Đào đã giúp đỡ em hoàn tất đề tài này Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 1999

doc59 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Nông sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nội tệ, góp phần đẩy nhanh lạm phát, làm hệ thống hoạch toán kế toán bị méo mó, sai lệch. Đứng trước tình hình đó nhà nước đã bãi bỏ hệ thống bao cấp qua tỷ giá đối với hoạt động ngoại thương. Chủ trương thả nổi tỷ giá cùng với chính sách phi tập trung hoá xuất khẩu và tự do hoá một phần nhập khẩu đã đem lại những chuyển biến tích cực trong ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, cán cân xuất nhập khẩu gần như cân bằng vào năm 1991. 3-/ Những khó khăn gặp phải trong hoạt động xuất nhập khẩu nông lâm sản. a) Khó khăn đối với những nhà sản xuất. Dưới tác động của cơ chế thị trường việc sản xuất hàng nông lâm sản cũng gặp nhiều khó khăn. Trước hết là tình trạng giá nông lâm sản quá thấp so với giá thành kinh tế hàng công nghiệp. Sự thua lỗ của một số mặt hàng nông lâm sản chủ yếu là do chênh lệch giữa giá đầu ra quá thấp và giá đầu vào quá cao. Không những giá yếu tố đầu vào “trực tiếp” là tư liệu sản xuất nông lâm nghiệp như phân hoá học, máy móc, điện... mà giá đầu vào “gián tiếp” là các hàng công nghiệp tiêu dùng của công nông dân như vải, thuốc, hàng tiêu dùng đều cao. Rõ ràng cánh kéo giữa hàng nông lâm sản và hàng công nghiệp ngày càng bất lợi cho nông dân. So với các nước khác như Pháp và Thái Lan là những nước có nền nông nghiệp phát triển thì tỷ lệ trao đổi của Việt Nam bất lợi cho người sản xuất hơn nhiều. Nhiều khi nó cản trở lớn đến hoạt động xuất khẩu nông lâm sản vì do nông dân không chú trọng về đầu tư vốn và công nghệ phát triển nghành này, do lợi nhuận của mặt hàng này kém xa so với mặt hàng công nghiệp. Sau nữa do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ nên khi vào vụ thu hoạch cung nông sản tăng lên đột ngột làm cho giá nông sản giảm xuống mạnh nên không thể không dẫn đến giá bán thấp hơn giá thành sản xuất làm cho nhà sản xuất bị thua lỗ nặng. Chính vì mặt hàng này mang tính thời vụ nên 9 tháng đầu năm 1999 chúng ta đã xuất khoảng 3,82 triệu tấn gạo tăng 22% so với năm 1998 nhưng do giá giảm trung bình khoảng 223USD/ tấn do với giá bình quân 9 tháng đầu năm 1998 là 265 USD nên kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 3% so với cùng kỳ năm 1998. Còn khi vào vụ gieo trồng nhu cầu vật tư nông nghiệp tăng mạnh, giá vật tư tăng lên, nông dân phải bán ra cùng một lúc một lượng nông sản khá lớn để trả nợ ngân hàng nộp thuế và mua vật tư nên giá nông sản giảm do vậy cánh kéo càng tăng lên. b) Hạn chế mà các nhà kinh doanh gặp phải: Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nông lâm sản vẫn chưa xây dựng được mặt hàng chủ lực đi đôi với đa dạng hoá các mặt hàng cũng như chưa xây dựng được thị trường trọng điểm kết hợp với đa dạng hoá thị trường nên chưa đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu nông lâm sản. Mặt khác mặt hàng nông lâm sản vẩn chưa được chú trọng về vốn và công nghệ chế biến nên 70-80% lượng xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu là ở dạng thô, dạng nguyên liệu nên hiệu quả kinh tế thấp, thêm vào đó là chưa tận dụng được lao động và vốn của ngành. Chính điều đó đã dẫn đến sức cạnh tranh của hàng nông lâm sản của ta quá kém so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Indonesia, Colombia, Brazin... nên giá bán của các mặt hàng này luôn thấp hơn làm cho thu nhập từ hoạt động xuất khẩu thấp có khi còn bị lỗ. Thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp còn hạn hẹp, rải rác với số lượng nhỏ, chưa có thị trường truyền thống, đây là thách thức lớn đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Đến năm 1998 thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam vẫn là châu á (chiếm 77% tổng giá trị xuất khẩu). Vì thế 2 năm 1997, 1998 khu vực này bị khủng hoảng tài chính sức mua giảm sút mạnh đã tạo nên một khoảng trống lớn đối với thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù chúng ta đã có cố gắng tìm kiếm và mở rộng thị trường sang EU và Bắc Mỹ và đã đem lại những kết qủa nhất định song chỉ là bước đầù, giá trị thực tễ và tỷ trọng của khu vực này trong tổng giá trị còn rất bé chưa đủ sức làm xoay chuyển quy mô và tốc độ xuất khẩu hàng hoá nói chung. Đồng thời thị trường thu mua hàng nông lâm sản cũng có đặc điểm tương tự nên mỗi khi có hợp đồng xuất thì công tác thu mua hàng xuất khẩu lại trở thành vấn đề nan giải đối với nhà kinh doanh thương mại. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp thương mại vẫn chưa thiết lập được mối quan hệ lâu dài bền vững với hai đầu nhập và xuất. Khó khăn nữa mà các nhà kinh doanh không tránh khỏi đó là khâu tổ chức xuất khẩu nông lâm sản chưa hợp lý trong đó rõ nhất là quá nhiều đầu mối dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán, giành giật thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Chính việc tổ chức không ổn định, kỷ cương phép nước không nghiêm làm cho việc thu mua và chế biến xuất khẩu nông lâm sản phân tán, không thống nhất ảnh hưởng xấu đến người sản xuất cũng như khách hàng nước ngoài dẫn đến sự mất uy tín và phá vỡ quan hệ buôn bán lâu dài đối với bạn hàng truyền thống. Sự cạnh tranh găy gắt mua nguyên liệu, bán sản phẩm đã và đang làm cho một số doanh nghiệp chế biến nông lâm sản xuất khẩu thua lỗ trầm trọng. c) Hạn chế từ phía nhà nước Thứ nhất chúng ta vẫn luôn coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nhưng chưa có chính sách đầu tư tích cực cho nông nghiệp. Bằng chứng là trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp thấp và ngày càng giảm... Năm 1985 đầu tư cho nông nghiệp chiếm 18,6% tổng đầu tư cho nền kinh tế quốc dân. Năm 1990 tỷ lệ đó là 15,6%, năm 1992 là 15%, năm 1993 là 13,7% và năm 1998 chỉ còn 10,3%. Trong khi đó nông nghiệp đóng góp gần 40% thu nhập quốc dân và gần 50% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Thứ hai: chính sách thị trường hàng nông lâm nghiệp chưa được chú trọng nên chưa nắm được cung cầu và do đó chưa có chiến lược giá đối với một số mặt hàng nông lâm sản chính. Công tác nghiên cứu thị trường, dự báo nhu cầu còn yếu nên nhiều nơi sản phẩm bị ứ đọng, không bán được hoặc giá rất thấp. Thứ ba: chúng ta chưa có chính sách bảo trợ giá nông nghiệp. Đến nay chúng ta vẩn chưa xác định được loại nông lâm sản nào cần bảo trợ và bảo trợ như thế nào, do vậy thường có những lúng túng khi có biến động. CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG LÂM SẢN CỦA VIỆT NAM I-/ KINH NGHIỆP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TẠI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI. 1-/ Chiến lược mở cửa ra thị trường thế giới- một số kinh nghiệm của Nhật và các nước NICs. Chiến lược xuất khẩu có ý nghĩa quyết định trong sự phát triển của Nhật Bản và biến các nước NICs trở thành các “con rồng”. Nhưng để đạt được các thành tựu này Nhật Bản và các nước NICs đã phải giải quyết nhiều vấn đề không đơn giản. Sau đây là một số kinh nghiệm của họ: a) Lợi dụng thị trường bên ngoài để phát triển. Mấu chốt của việc phát triển kinh tế là tạo ra được một lượng vốn lớn, thu nhập được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, xây dựng được cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động thường mại quốc tế phải bám sát vào việc giải quyết các vấn đề đó. Khác hẳn với chiến lược “nông nổi” chỉ nhằm các lợi ích tức thời, định hướng xuất khẩu của Nhật Bản và các nước NICs hình thành rất tự nhiên theo trình độ phát triển của kinh tế. Thương mại quốc tế phục vụ cho phát triển kinh tế thể hiện ở Đài Loan qua khẩu hiệu trong thời kỳ đầu những năm 1960 “phát triển nông nghiệp bằng công nhiệp, nuôi dưỡng công nghiệp bằng ngoại thương” còn ý nghĩa to lớn của xuất khẩu trong thập kỹ 60 của cộng hoà Triều Tiên là ở chỗ lấp lỗ hổng bằng nhập khẩu như vậy việc phân loại các nước ra hai nhóm “quốc gia lấy thị trường nội địa làm căn cứ” và “quốc gia lấy thị trường bên ngoài để phát triển” với “quốc gia chủ trương hạn chế mở cửa” và “quốc gia trông đợi vào thị trường bên ngoài”. Đối với Việt Nam cần tránh xu hướng từ cực đoan này chuyển sang cực đoan khác, từ hạn chế quan hệ quốc tế chuyển sang nước mở cửa hết mức và ngồi đợi mọi sự tốt đẹp. Chính vì thế chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đã từng gặp những khó khăn như ta hiện nay. Tỷ lệ xuất khẩu khởi đầu của Nhật Bản chỉ có 13%, số liệu này không cao nhưng không có nghĩa xuất khẩu không quan trọng đối với Nhật, vấn đề xuất gì và chất lượng của hàng hoá xuất như thế nào có ý nghĩa hơn là bán được bao nhiêu. Việt Nam đã có một số cải thiện trên lĩnh vực hoạt động thương mại như tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm mất cân đối trong cán cân thanh toán xuất nhập khẩu... Nhưng cần thấy rằng không nên giản đơn phát huy thành tích theo hướng này. Cộng hoà Triều Tiên từng có thời nhập siêu lớn để phục vụ cho công nghiệp hoá và kết cục họ đã phát triển mạnh mẽ hơn nhiều nước có nền ngoại thương cân đối kiểu hình thức. Tuy nhiên muốn gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới thì thị trường trong nước phải đạt được một quy mô nhất định. Với những nước công nghiệp lạc hậu, điều này cũng có nghĩa là chú ý đến thị trường nông thôn đúng như vấn đề mà Việt Nam hiện nay đang day dứt. Chúng ta học hỏi ở sự thành công của cộng hoà Triều Tiên nhưng chúng ta cũng tránh lặp lại sai lầm của họvì xem nhẹ nông nghiệp nên nhu cầu trong nước quá hạn hẹp, buộc nghành nông nghiệp quá vội vã hướng ra thị trường nước ngoài, đòi hỏi những trợ cấp xuất khẩu lớn. Bên cạnh đó, Đài Loan là trường hợp có nhiều bài học để khai thác nhà nước giúp đỡ rất nhiều và rất sớm, từ đầu những năm 1950 công nghiệp hoá đã ưu tiên cho nông thôn chứ không phải lấy thành thị làm trung tâm như nhiều nước khác. Nhiều nghành nghề cũng được nảy nở từ nông thôn...Do đó, không những Đài Loan xuất khẩu khối lượng lớn nông sản mà còn biến thị trường trong nước thành căn cứ địa cho các ngành công nghiệp. b) Cạnh tranh với các nước phát triển trên thị trường thế giới. Nếu đối với công nghiệp hoá đi, đầu thị trường thế giới là “mảng đất trống” thì các nước đi sau chỉ còn con đường độc nhất là cạnh tranh để giành giật thị trường từ tay các nước phát triển. Các nước phát triển đi sau vốn có lợi thế về lao động, giá lao động rẻ. Đây là lợi thế mà Nhật và các nước NICs khai thác đầu tiên thì chừng nào cạn kiệt tiềm năng này họ mới chuyển sang nghành kinh tế cần nhiều vốn. Đồng thời kinh nghiệm của các “con rồng” cho thấy muốn cạnh tranh thành công, các nước đi sau phải tích cực áp dụng kỹ thuật tiên tiến cho lao động dồi dào và giá rẻ của minh. Một cách thức chứa đựng nhiều hứa hẹn giúp các nước đi sau cạnh tranh với các nước phát triển là mạnh dạn đầu tư vào nghành đón đầu nhu cầu của thị trường thế giới, chủ động hướng tới lợi thế so sánh của nước mình. Qua đó chúng ta thấy rằng Việt Nam có thể đi theo hướng phát huy lợi thế so sánh đồng thời xây dựng và thực hiện chiến lược thương mại đón đầu nhu cầu thế giới. Muốn vậy Việt Nam cần chú ý những điểm sau: + Tập trung các nhà khoa học và gắn với vai trò của nhà nước để tính toán, xác định đúng những nghành kinh tế có tương lai. + Triệt để phê phán tâm lý tự ly cho rằng nền kinh tế Việt Nam thấp kém làm sao theo đuổi được các đề án maọ hiểm. + Cần chú ý đưa lao động rẻ vào các nghành hiện đại và tiên tiến. + Ưu tiên xây dựng những “đơn vị mẫu” hay “hạt nhân nhỏ của khu vực hiện đại”. Kinh nghiệm từ một số nước ASEAN Các nước ASEAN có đặc trưng cơ bản sau: + Nông nghiệp lạc hậu và là nghành sản xuất chủ đạo, tình trạng độc canh phổ biến, năng suất lao động thấp, tích luỹ từ nông nghiệp gần như không có. + Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu thô chưa qua chế biến, giá cả phụ thuộc và thị trường thế giới, trong nhiều trường hợp do thiếu kinh nghiệm thương trường quốc tế đã bị thua lỗ nặng nề. Tình trạng nhập siêu diễn ra triền miên qua các năm. + Tình trạng thâm hụt ngân sách khá trầm trọng, khủng hoảng kinh tế và lạm phát tương đối giống nhau. + Đời sống dân cư còn thấp. Nhằm thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá đất nước, biến đổi cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh tiếp thu công nghệ mới, các thành viên của ASEAN đã lần lượt chuyển từ chiến lược công nghiệp hoá hướng nội qua chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại. Khởi đầu là Singapo, tiếp theo là Malaysia, Philipin, Thái Lan và cuối cùng là Indonesia. Mặc dù gặp nhiều khó khăn cuối cùng họ cũng đã vượt qua được vì: Sự thôi thúc mở rộng thị trường khi mà sức sản xuất trong nước phát triển mâu thuẩn với thị trường nội đia nhỏ bé. Sự thành công của các nước NICs Đông á đã chứng minh rõ chính sách công nghiệp hoá hướng xuất khẩu là đúng đắn, là tiền đề cho các nước đang phát triển có khả năng trở thành các nước công nghiệp mới, là sự khích lệ to lớn đối với các nước ASEAN. Thập kỷ 80 các nước ASEAN bắt đầu khởi sắc, tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn đạt từ 6% trở lên, cơ cấu hàng xuất khẩu có những chuyển biến to lớn từ xuất khẩu hàng nguyên vật liệu thô, nông phẩm nguyên dạng sang các ngành công nghiệp cho nông nghiệp và góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một khu vực có tiềm năng về dân số. Mốc thời điểm thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu của các nước ASEAN BẢNG 15 - MỐC THỜI ĐIỂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HOÁ THEO HƯỚNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC NƯỚC ASEAN Tên nước Năm thực hiện chiến lược CNH Thay thế nhập khẩu Hướng về xuất khẩu Singapo Indonesia Thái Lan Malaysia Philipin 1961 1967 1962 1958 1946 1965 1982 1972 1968 1970 Nguồn: RIM pacific Bussiness and Industries, VolI, 1993 Sự biến đổi trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các nước ASEAN BẢNG 16 - SỰ BIẾN ĐỔI TRONG CƠ CẤU HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA CÁC NƯỚC ASEAN (%) Tên nước Sản phẩm chế biến, chế tạo (%) Sản phẩm sơ cấp (%) 1960 1985 1990 1992 1960 1985 1990 1992 Singapo Indonesia Malaysia Philipin 26,0 0,0 6,0 4,0 52,3 13,7 31,5 31,9 73,3 36,0 44,0 52,0 77,8 48,5 65,6 43,6 70,0 100,0 94,0 96,0 47,7 86,3 68,5 68,1 27,0 64,0 56,0 48,0 22,2 51,5 34,4 56,4 Bên cạnh vực thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, ASEAN còn chý ý lựa chọn thị trường chủ lực để xuất khẩu. Đã từ lây, các nước ASEAN đều cho rằng thị trường Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu là quan trọng nhất, Đặc biệt là thị trường Mỹ với hơn 250 triệu dân lại có sức tiêu dùng rất lớn, Mỹ thực sự trở thành một thị trường hấp dẫn và béo bở cho bất cứ nước nào muốn thành công trong xuất khẩu. Năm 1990 có tới 21,2% hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, 19,6% nhập vào EU từ các nước ASEAN. Những năm gần đây do nhiều biến động mới của nền kinh tế thế giới gắn liền với xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá, ASEAN chủ trương mở rộng ra các thị trường nước khác như NICs, Trung Quốc, Nam Mỹ, Trung Đông, Nga và Đông Âu. trong đó NICs là một trong những bạn hàng quan trọng hiện nay. Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu chính phủ các nước ASEAN đã áp dụng một hệ thống các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ nhằm thúc đẩy nhanh nhịp độ xuất khẩu. + Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. + Chính sách trợ cấp cho các nhà sản xuất hàng xuất khẩu. + Chính sách nới lỏng ngoại hối, tỷ giá xuất khẩu thể hiện ở việc phá giá đồng tiền trong nước để giá cả sản phẩm trở nên rẻ hơn thị trường thế giới. Bằng nhiều hình thức khuyến khích trên, mà trong vài thập kỷ qua tỷ trọng giá trị xuất khẩu so với tổng sản phẩm quốc nội của các nước ASEAN không ngừng tăng lên, phản ánh mức độ mở cửa cao của toàn khu vực. BẢNG 17 - ĐỘ MỞ CỬA CỦA CÁC NƯỚC ASEAN ( Tỷ trọng hàng xuất khẩu trong GDP %) Tên nước 1970 1980 1990 Singapore Indonesia Thái Lan Malaysia Philipin 78,8 11,2 9,5 39,8 10,9 176,3 34,4 20,8 56,0 15,8 153,4 28,7 34,4 69,9 20,1 BẢNG 18 - SỰ TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC NƯỚC ASEAN (%) Tên nước 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Singapore Indonesia Thái Lan Malaysia Philipin 7,0 10,5 24,9 18,6 7,3 1,4 14,0 12,7 10,9 11,1 15,6 8,3 14,8 17,1 15,8 18,4 8,5 17,0 10,0 15,0 18,7 12,0 23,0 20,0 27,9 15,0 15,0 20,0 20,0 21,0 Tuy nhiên bước sang giai đoạn mới ASEAN cũng có một số vấn đề đặc ra mà Việt Nam cần quân tâm: Thứ nhất: Với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm nền kinh tế của các nước ASEAN đã có một độ vững vàng nhất định, tiêu dùng trong nước, trong khu vực trở nên quan trọng. Ngoài ra cũng như nhều nước phát triển khác việc xuất khẩu hàng hoá công nghiệp vào thị trường các nước phát triển đang gặp khó khăn do các hình thức bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng. Do đó không chỉ có hưỡng ngoài mà ở nhiều nước đang có xu hướng điều chỉnh cân bằng giữa các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Thứ hai: Mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN ngày càng gia tăng, đặc biệt là thông qua AFTA mà chương trình CEPT là nòng cốt. Việc thực hiện chương trình này sẽ tạo thuận lợi để các nước ASEAN buôn bán với nhau, củng cố thị trường nội bộ chống lại hàng rào mậu dịch từ bên ngoài. Bên cạnh đó việc thực hiện CEPT sẽ tác động đến cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu và nhập khẩu của ASEAN, đòi hỏi các nước phải sắp xếp lại cơ cấu một cách hợp lý và có lợi nhất. + Cuối cùng một khó khăn khác là do cơ sở hạ tầng của nhiều nước ASEAN còn yếu, thiếu lao động chuyên môn cao. Tất cả điều đó sẽ gây khó khăn cho việc tiếp nhận đầu tư, sản xuất hàng xuất khẩu. Tóm lại, qua những kinh nghiệm về thành công, hoạt động hiệu quảtrong xuất khẩu cũng như thất bại, khó khăn mà một số nước đã đi qua, chúng ta cần phải nghiên cứu để tìm ra những bài học bổ ích cho chính Việt Nam. Nhờ đó mà Việt Nam có thể giải quyết những khó khăn cấp bách hiện nay, xác định cho mình một hướng đi đúng để đẩy mạnh hiệu quả thương mại quốc tế nói chung, xuất khẩu nói riêng. II-/ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU NÔNG LÂM SẢN TRONG THỜI GIAN TỚI 1-/ Xu hướng vận động của thế giới đối với xuất khẩu hàng nông sản a) Xu hướng chung trên thế giới Mặt hàng nông lâm sản là những hàng hoá thiết yếu đối với đời sống nhân dân của các nước trên thế giới, đây là mặt hàng đảm bảo cho sự tồn tại và nâng cao cuộc sống của mỗi con người. Mặt khác đây là mặt hàngđem lại giá trị kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn trong từng kim ngạch xuất khẩu và là mục tiêu để góp phần thúc đẩy tốc độ thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế. Mục tiêu của Việt Nam trong chiến lược hướng về xuất khẩu là phấn đấu đạt một nền ngoại thương phát triển với dự kiến trong giai đoạn 1996-2000 nâng mức xuất khẩu bình quân đầu người từ 70 USD/1 người như hiện nay lên đến 200 USD/1 người vào năm 2000 đưa tốc độ xuất khẩu bình quân hàng năm tăng 28%, đến năm 2010 nâng kim ngạch xuất khẩu tăng 8 lần so với năm 2000 và chiếm 50% GDP. Mặt hàng nông lâm sản là mặt hàng mang tính thời vụ, do vậy nó luôn luôn biến động bởi cung cầu, giá cả. khi xem xét mặt hàng này cần phải nắm bắt được tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của các nước trên thế giới hay nói cách khác là tìm hiểu về thị trường thế giới về các mặt hàng. Sản lượng gạo sản xuất trên thế giới, trong những năm 1990 tới năm 1997 đạt mức trên 560 triệu tấn, song sản lượng xuất khẩu chỉ biến động trong giới hạn từ 13-15 triệu tấn/năm. Mấy năm gần đây do thời tiết thuận lợi nên một số mặt hàng này đạt năng suất rất cao như gạo, cà phê, điều..., trong khi đó nhu cầu lại ổn định và nếu có tăng thì không đáng kể nên dẫn đến giá cả các mặt hàng có xu hướng giảm rõ ràng. Giá giảm là do những nước xuất khẩu lớn như Thái Lan, Việt Nam.... Về gạo: có thể nói rằng từ năm 1991 đến nay, thị trường gạo thế giới luôn nhộn nhịp, nhu cầu tiêu thụ tăng, giá tăng. Nhiều dự báo cho rằng trong dài hạn, tiêu thụ gạo của thế giới sẽ vẫn tăng liên tục, vượt sự gia tăng của nguần cung. Đây là lợi thế cho những nước xuất khẩu lớn. Theo đánh giá của FAO, châu á là nơi sản xuất và tiêu thụ đến 90% lượng gạo của thế giới. Trong đó chỉ 3 nước Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêsia đã tiêu thụ gần 3/4 khối lượng gạo này. Châu á là nơi có số dân đông nhất thế giới và dự báo từ namư 2010 châu á sẽ duy trỳ tốc độ tăng dân số là 1,8%/năm. Đây chính là nguyên nhân làm tăng tốc độ tiêu thụ gạo của thế giới lên khoảng 1,2%/năm. Từ một mức là 363 triệu tấn năm 1994 lên 433 triệu tấn vào năm 2010. Để đáp ứng được nhu cầu này đòi hỏi năng suất lúa của thế giới phải tăng bình quân từ 5,7 tấn/ha năm 1995 lên 6,3 tấn/ha năm 2010. + Tại Trung Quốc: từ nay đến 2010 Trung Quốc sẽ duy trì diện tích trồng lúa khoảng 30,1-30,2 triệu tấn và sản lượng lúa của Trung Quốc tăng từ180 triệu tấn năm1994 lên đến 220-225 triệu tấn vào năm 1010. Mặc dù tiêu thụ gạo tính theo đầu người của Trung Quốc được dự báo sẽ giảm từ 108 kg/năm xuống còn 100,3 kg/năm 2010 nhưng tổng lượng gạo tiêu thụ gạo của Trung Quốc sẽ cao hơn sản lượng và xu hướng nước này có thể trở thành nước nhập khẩu gạo kể từ năm 2007. + Tại Ấn Độ có mức sản lượng đứng thứ hai thế giới, diện tích trồng lúa sẽ tăng từ 42,5 năm 1994 lên 44,4 triệu ha năm 2010. Hệ thống thuỷ lợi của Ấn Độ chưa phát triển tốt nên sản lượng lúa biến động tuỳ thuộc vào thời tiết. Dự báo tiêu thụ gạo của Ấn Độ sẽ tăng mạnh cùng với dân số tăng nhanh, từ 77 triệu tấn năm 1994 lên 100 triệu tấn năm 2010 nên Ấn Độ khó có khả năng duy trì xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới hiện nay. + Indonesia là nước sản xuất và tiêu thụ gạo đứng thứ 3. Nươc này vẫn đang cố gắng thực hiện chính sách tự túc lương thực. Trước năm 1993 Indonesia trong nhiều năm đã hoàn toàn tự túc được gạo thậm chí còn có năm xuất khẩu o,5-0,6 triệu tấn gạo phẩm cấp thấp. Từ năm 1993 trở lại đây, do liên tiếp mất mùa, Indonesia phải nhập khẩu gạo với khối lượng lớn 2-2,8 triệu tấn/năm. Tuy FAO cho rằng Indonesia sẽ không phải nhập khẩu gạo trong những năm tới. Nhưng về lâu dài, Indonesia có thể trở thành nước nhập khẩu lớn về gạo. Mặc dù vẫn chú trọng và phát triển lương thực nhưng do dân số như Trung Quốc, Indonesia, Banglades sẽ trở thành những nước nhập khẩu gạo lớn vào năm 2010. Còn ấn độ Philippin được dự báo sẽ duy trì cán cân cung cầu gạo ở nội địa. Và có thể chỉ có Thái Lan, Mianma, Việt Nam là những nước ở châu á tiếp tục duy trì vị trí xuất khẩu gạo của mình. Thái Lan vẫn là nước xuấtv khẩu gạo lớn nhất thế giới với khối lượng xuất khẩu tăng từ 5,9 triệu tấn năm 1994 lên 6,7 triệu tấn năm 2010. + Mianma đang cố gắng tăng sản lượng xuất khẩu gạo. Chính phủ nước này đang đầu tư vào thuỷ lợi để được diện tích trồng lúa tăng từ 5,5 triệu ha năm 1994 lên 6,9 triệu ha năm 2010 và sản lượng có thể tăng từ 9,3 triệu tấn năm 1994 lên 14,2 triệu tấn năm 2010. Khả năng xuất khẩu của nước này năm 2005 sẽ là 27 triệu tấn gạo. + Việt Nam mặc dù dân số vẫn tăng, tiêu thụ gạo trong nước dự báo sẽ tăng từ 13,9 triệu tấn năm 1994 lên 20,2 triệu tấn năm 2010 do năng suất trồng lúa tăng gần 40% và diện tích tăng 5% cho nên 10 năm tới Việt Nam có thể tiếp tục duy trrì khối lượng xuất khẩu gạo ở mức 2-2,3 triệu tấn /năm. + Mỹ không phjải là nước duy nhất có khối lượng xuất khẩu gaọ lớn ở Châu Á. Dự báo sản lượng gạo của Mỹ sẽ giảm từ 7,8 triệu tấn năm 1995 xuống 7 triệu tấn năm 1997 trong khi đó tập quán thay đổi nên tiêu thụ gạo ở Mỹ sẽ tăng từ 4,7 triệu tấn năm 1995 lên 6 triệu tấn năm 2010 và xuất khẩu gạo của Mỹ sẽ giảm từ 3,5 triệu tấn xuống 1,8 triệu tấn một năm vào năm 2010 và xu hướng Mỹ sẽ phải nhập khẩu gạo để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước. Khối lượng gạo buôn bán của thế giới được dự báo sẽ tăng từ 15,7 triệu tấn năm 1994 lên 16,2 triệu tấn năm 2010. Nhu cầu tiêu thụ gạo tăng cũng sẽ giúp giá gạo tiếp tục duy trì ở mức cao 350 - 380 USD/Tấn (gạo 5% tấm) trong thập niên tới. Xu hướng sắp tới của thế giơí là sử dụng nguyên liệu ăn uống nhân tạo thay thế nguyên liệu và đồ uống truyền thống. Đối với nguyên liệu truyền thống như cao su, bông sợi, tơ tằm... trước đây mặt hàng này rất ăn khách trên thị trường thế giới nhưng gần đây mức độ tiêu dùng giảm dần do ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất người ta sẽ tạo được cao su và sợi nhân tạo. Sản phẩm nhân tạo bền hơn. Mặt khác cũng do tiến bộ KHKT mà các nhà sản xuất tiết kiệm nguyên liệu để sản xuất ra một đon vị SP bởi thế việc xuất khẩu nguyên liệu truyền thống gặp khó khăn. Theo dự tính từ nay đến 2005 nhu cầu thế giới về cao su tăng 2,2%. Mỹ tiếp tục là một nước tiêu thụ cao su lớn nhất thế giới, đến năm 2005 nhu cầu của Mỹ là 1,2 triệu tấn, Nhật là 900 nghìn tấn. Về đồ uống truyền thống như chè, càfê cũng có chiều hướng chững lại về mặt khối lượng. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do người tiêu dùng thích đồ uống bia cocacola, nước khoáng.. . nhu cầu nhập khẩu của thế giới năm 2000 vào khoảng 5triệu tấn. b) Tình hình xuất nhập khẩu hàng nông lâm sản tại một số thị trường chủ yếu của Việt Nam. * Đối với thị trường nhập khẩu hàng nông lâm sản của Việt Nam. + Indonesia: theo kết luận điều tra của phái đoàn chuyên gia tổ chức nông lương liên hợp quốc và chương trình lương thực thế giới, trong những năm tới Indonesia sẽ bị thiếu lương thực nghiêm trọng. Nước này sẽ bị thiếu 3,5 triệu tấn gạo. Hiện nay Indonesia đã có kế hoạch nhập khẩu 1,5 triệu tấn, còn 2 triệu tấn đang chờ giải quyết. Đây là một thị trường để Việt Nam có thể tăng mức xuất khẩu của mình trong thời gian tới. Do đó ta cần nghiên cứu kỹ nhu cầu của họ và nắm bắt thời cơ. + Mỹ: đã bắt đầu quan tâm đến hàng nhập khẩu từ Việt Nam đặc biệt là hàng nông lâm sản và có thể sẽ dành cho Việt Nam một số ưu tiên khi xuất hàng sang Mỹ. Tuy nhiên Mỹ cũng đòi hỏi hàng phải có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, đặc biệt là phải quan tâm đến tập quán tiêu dùng về mặt hàng nông lâm sản của họ. + Các nước Đông Âu vẫn tiếp tục muốn nhập khẩu hàng nông lâm sản của Việt Nam. Nhưng hiện nay, Đông Âu đang gặp một số khó khăn trong nước nên số lượng nhập còn hạn chế, tương lai sẽ đầu tư mạnh vào Việt Nam và có khả năng nhập khối lượng lớn như hàng nông lâm sản. + Châu Âu đang mở rộng cứu đói các bạn hàng Việt Nam với những ưu đãi. Đây là một thị trường đầy hứa hẹn đối với mặt hàng nông lâm sản, cần phải khai thác triệt để. +Trung Quốc: người bạn láng giềng Việt Nam, là nước với số dân lớn nhất thế giới, có nhu cầu không nhỏ về hàng nông lâm sản. Trong đó những năm tới Trung Quốc sẽ có xu hướng nhập nhiều hàng nông lâm sản của Việt Nam. * Đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới. + Mêhicô: theo số liệu sơ bộ của hội đồng cà phê, chính phủ Mêhicô trong tháng 3/1998, Mêhicô xuất khẩu được 422588 bao cà phê trị giá 82,4 triệu USD giảm so với 671.570 bao trị giá 150,5 triệu USD cùng kỳ năm ngoái. Xu hướng xuất khẩu cà phê trong những năm tới Việt Nam có thể nhân cơ hội này để bổ sung lượng cà phê xuất khẩu của mình trên thị trường thế giới. + Ấn Độ: theo số liệu của uỷ ban chè Ấn Độ trong năm 1997 tăng 3,9% so với năm 1996 từ 780 triệu kg lên 810,6 triệu kg. Xu hướng năm 1998 và những năm sau sản lượng chè sẽ tiếp tục tăng. Đây là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm của Việt Nam. Muốn cạnh tranh được chúng ta cần nghiên cứu thị trường tốt, nâng cao sản lượng cũng như chất lượng chè xuất khẩu. + Thái Lan: tăng sản lượng xuất khẩu gạo trong những năm tới và vẫn là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặt khác do khủng hoảng tài chính tiền tệ nên tỷ giá tiền Baht giảm xuống, thúc đẩy mạnh xuất khẩu mạnh ra thế giới. +Brazin: là một nước có sản lượng cà phê lớn nhất thế giới. Nhưng mấy năm vừa qua do thời tiết không ổn định nên mất mùa liên tục. Những năm tới nước này sẽ cho một vụ mùa bội thu, điều này sẽ làm giá cà phê giảm, gây khó khăn cho các nhà sản xuất và kinh doanh cà phê Việt Nam. 2-/ Dự kiến giá trị kim ngạch xuất khẩu của một số hàng nông lâm sản xuất khẩu a) Gạo: Mặc dù hiện nay gạo không còn đứng vị trí thứ nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng gạo là mặt hàng xuất khẩu truyền thống đã có từ lâu đời, nhất là mới được khôi phục trong vòng 5-6 năm nay. Bởi vì Việt Nam hiện nay vẫn là nước nông nghiệp với gần 80% dân số nông lâm nghiệp. Trong cơ cấu GDP năm 1995 của Việt Nam, tỷ trọng đóng góp của khu vực nông nghiệp vẫn chiếm 29% trong đó gạo chiếm một vị trí quan trọng. Dự kiến năm 2000 Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 4,2 triệu tấn và kim ngach xuất khẩu khoảng 1050 triệu USD. Mục tiêu chính của Việt Nam trong thời kỳ là nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu để đạt giá của quốc tế. Hiện nay Việt Nam đã ký xuất khẩu dài hạn cho Mỹ, Brazin, Malaisia khoảng 1,5 triệu tấn, còn lại 0,5-1 triệu tấn sẽ bán cho Châu Phi, Trung Đông, Đài Loan và một số nước khác. b) Cà phê Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt tương đương với kim ngạch xuất khẩu gạo: 560 triệu USD(chiếm tỷ trọng là 10,6% tổng kim ngạch xuất khẩu). Hiện nay Việt Nam đang đứng vị trí thứ 2 về xuất khẩu cà phê trên thế giới. Dự kiến năm 2000 sẽ xuất khẩu 400.000 tấn cà phê nhânđạt kim ngạch là 560 triệu USD. Mặc dù khối lượng xuất khẩu ngày càng lớn song kim ngạch vẫn tăng chậm là do xuất khẩu cà phê của ta chủ yếu ở dạng thô nên giá thường thấp hơn nước khác là 20%. Để hạn chế điều này thì nước ta có xu hướng phải hợp tác với các nước để sản xuất ra loại cà phê hoà tan bán ra thị trường thế giới.\ c) Cao su Thủ tướng chính phủ đã có ý kiến kết luận về phương hướng phát triển ngành cao su Việt Nam giai đoạn 1996-2000 và 2010 sau khi đã làm việc với bộ nông nghiệp và công nhiệp thực phẩm, tổng công ty cao su Việt Nam. Cây cao su được khảng định là cây công nghiệp vừa có giá trị kinh tế cao, vừa có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái. Đến năm 2000, ngoài phấn đấu tiêu dùng trong nước sẽ xuất khẩu 230 nghìn tấn cao su BẢNG 19 - KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA MỘT SỐ SẢN PHẨM NÔNG LÂM SẢN Một số mặt hàng xuất khẩu Ước năm 1999 Dự kiến năm 2000 Sản lượng 1000 tấn Trị giá triệu USD Giá bình quân USD/tấn Sản lượng 1000 tấn Trị giá triệu USD Giá bình quân USD/tấn 1.Gạo 4200,00 989,00 235,476 4200 1050 250 2. Cà phê nhân 399,00 555,80 1392,982 400 560 1400 3. Cao su 212,00 125,40 591,509 230 136 592 4. Chè 34,00 43,30 1420,588 35 52 1486 5.Lạc nhân 62,00 36,23 584,355 120 60 500 6.Hạt tiêu 34,00 132,00 3882,353 35 135 3857 7.Hạt điều nhân 17,00 101,30 5958,824 30 165 5500 8.Hàng lâm sản xuất khẩu 220,00 230 Thời báo kinh tế số 4 - 12/1999 III-/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG LÂM SẢN : A-/ VỀ PHÍA CÁC DOANH NGHIỆP: 1-/ Hoàn thiện hệ thống tổ chức: 1.1 Thành lập phòng Marketing Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lí vĩ mô của nhà nước thì việc nghiên cứu thị trường và các chính sách Marketing là một việc làm mang tính quy luật của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, kể cả doanh nghiệp sản xuất cũng như doanh nghiệp thương mại. Để theo kịp hoà nhập với quy luật này, công ty cần cho ra đời một phòng nghiệp vụ chuyên nghiệp phục vụ cho hoạt động xuất nhập của mình. Trên thực tế hiện nay thì các doanh nghiệp nghiên cứu nhu cầu thị trường còn thụ động theo thị trường chưa nắm bắt và tạo ra nhu cầu. Do vậy để hoạt động của các doanh nghiệp chủ đọng trong công tác xuất nhập khẩu thì vai trò và chức năng của phòng Marketing là rất quan trọng. Đó là: + Điều tra nghiên cứu thăm dò mọi mặt của thị trường + Chỉ ra các nhu cầu trên thị trường, đoạn thị trường một cách xác đáng và khả thi + Đưa ra các biện pháp chính sách như sản phẩm giá cả để thâm nhập và khai thác thị trường + Phối hợp các phòng nghiệp vụ để thực hiện các hoạt động kinh doanh + Thu hồi thông tin phản hồi 1.2 Tổ chức lại các phòng nghiệp vụ theo hướng chuyên môn hoá Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều có quá nhiều phòng cùng đẩm nhận một công việc nên cũng gặp nhiều hạn chế trong việc phân tán, dễ chồng chéo, không phất huy được tính chuyên môn của cán bộ trong lĩnh vực nhất định và dẫn đến hiện tượng thưà nhân viên, làm trái sở trường kinh doanh không có hiệu quả. 2-/ Nghiệp vụ xuất khẩu nông lâm sản 2.1 Nâng cao hiệu quả thu thập thông tin, đàm phán kí kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng a) Công tác tổ chức thu thập thông tin * Sự cần thiết phải thu thập thông tin Thông tin có vai trò quân trọng trong quản lí kinh tế. Nó giúp cho các nhà quản lí có những quyết định tối ưu để điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp phải có thông tin chính xác về các tình hình sau: - Thị trường có triển vọng nhất đối với xuất khẩu hàng nông lâm sản cùng với các điều kiện về số lượng, chất lượng, giá cả... (cắt bớt thị trường kém hấp dẫn để tìm thị trường mục tiêu) - Tình hình cạnh tranh giữa các đối tác hiện tại và tương lai. - Tình hình sản xuất, đầu tư, áp dụng công nghệ mới cũng như trình độ tổ chức quản lý các phương thức, điều kiện mua bán, chiến lược kinh doanh của bạn hàng. - Biến động kinh tế, chính tri, kinh tế xã hội của các nước có ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận động của thị trường (cung cầu, giá cả mà các doanh nghiệp quan tâm) - Chính sách hải quan, thuế xuất nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại thương của thị trường. Những thông tin này giúp cho công ty có thể xác lập được kế hoạch sản xuất, chiến lược kinh doanh, lựa chọn đối tác và thị trường thích hợp cho việc xuất khẩu hàng nông lâm sản của mình. Trong công tác nghiên cứu mở rộng thị trường thì thông tin có vai trò vô cùng quan trọng, khả năng thu thập và chiếm giữ thông tin tạo nên một chỗ đứng vững chắc của mối doanh nghiệp trên thị trường trong nước và thế giới. Đây là một thứ tài sản vô hình mà không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có. *Phương pháp thu thập thông tin Để có được thông tin trên thị trường thì các doanh nghiệp nên đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có khả năng chọn lọc được thông tin qua các báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, báo cáo của Bộ, các cơ quan quản lý cấp trên, các tạp chí, các tin tức trên đài truyền thanh... Ngoài ra còn phải cử các cán bộ nghiệp vụ xuống tiếp xúc trực tiếp với các bạn hàng có quan hệ với mình để làm chính xác thêm các thông tin ở văn phòng. b) Công tác lập phương án giao dịch đàm phán và thực hiện hợp đồng Đây là khâu rất quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả thực hiện hợp đồng. Để việc thực hiện giao dịch đàm phán đạt kết quả tốt thì phải phân tích tỷ mỷ, đặc biệt chú ý đến đặc điểm kinh tế xã hội mà đối tác chịu ảnh hưởng như thời gian, không gian, ngôn ngữ, hệ thống pháp lý... Trước đàm phán nên nghiên cứu kỹ các thông tin về đối tác, đặt ra các yêu cầu và mục đích của đàm phán, các điều kiện giao dịch và tuỳ theo lượng thông tin đã thu thập được mà lập phương án giao dịch đàm phán với từng bạn hàng cho phù hợp. Việc tăng cường các nghiệp vụ thực hiện hợp đồng không ngừng làm cho hợp đồng ngoại thương được thực hiện có hiệu quả mà còn tăng số hợp đồng thực hiện trong mỗi tháng, quý, năm, từ đó lầm tăng doanh số thu được và lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Để thực hiện được mục tiêu trên thì cần phải chú ý: + Đội ngũ cán bộ thực hiện nghiệp vụ xuất khẩu qua thực tế có trình độ chuyên môn giỏi. + Có biện pháp thích ứng đầu tư ưu tiên cho việc thực hiện hợp đồng +Việc thực hiện hợp đồng phải linh hoạt, sáng tạo không nên quá máy móc, dẫn đến vi phạm hợp đồng. +Việc ký kết hợp đồng phải xuất phát từ yêu cầu thị trường, hàng hoá xuất khẩu phải đúng theo tiêu chuẩn đã ghi trong hợp đồng. 2.2 Đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách giữ vững và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Trong quá trình xuất khẩu, các doanh nghiệp thường ít quan tâm đến những gì xảy ra sau khi xuất bán được lô hàng cho khách hàng nước ngoài. Đây là sự lãng phí rất lớn trong việc tích luỹ tài sản vô hình của doanh nghiệp. Đó là việc giữ vững và nâng cao uy tín, sự tin tưởng và tín nhiệm của khách hàng sau khi họ đã mua hàng của doanh nghiệp. Chính sự tin tưởng và tín nhiệm này có thể sau đó khách hàng lại tự tìm đến với doanh nghiệp để kí kết làm ăn. Vậy làm thế nào để doanh nghiệp giữ vững và nâng cao vị trí của mình ? Đó là việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, thực hiện giao hàng đúng quy cách, thời hạn, nâng cao chất lượng dịch vụ kèm theo nếu có... Đó là những yếu tố mà sau khi mua hàng rồi khách cảm thấy hài lòng và rất có thể đổi với doanh nghiệp bằng hợp đồng khác. 2.3 Tổ chức tốt công tác thu gom tạo nguồn hàng xuất khẩu ổn định. Trong kinh doanh xuất khẩu vấn đề thu gom, tạo nguồn hàng ổn định là hết sức quan trọng. Điều này càng đúng với mặt hàng nông lâm sản của doanh nghiệp đặc biệt là những mặt hàng mang tính thời vụ như quế, lạc, hạt tiêu, cà phê. Muốn làm tốt công tác này doanh nghiệp cần phải : Tổ chức tốt mạng lưới thu mua hàng xuất khẩu cần tránh tình trạng thu mua qua trung gian vừa làm tăng giá mà khó kiểm soát được chất lượng đồng thời để gây mất ổn định đầu vào của doanh nghiệp. Các đầu mối thu mua phải được thiết lập ngay tại vùng nguyên liệu hoặc trực tiếp đặt hàng với các cơ sở chế biến nông lâm sản. Có như vậy, mới giả được giá thu mua, tăng lợi nhuận, doanh thu. Cần củmg cố mối quan hệ bạn hành sẵn có trước đây với các cơ sở chế biến nông lâm sản, vùng nguên liệu, đoòng thời tăng cường mở rộng thị trường thu mua của doanh nghiệp với các vùng nguyên liệu khác. Doanh nghiệp có thể nghiên cứu phương án kết nghĩa hoặc liên doanh với các cơ sở chế biến hoặc các nông trường sản xuất nông lâm nghiệp để có một nguồn hàng ổn định. Tuy nhiên để đảm bảo ch nguồn hàng ổn định này thì doanh nghiệp phải có một đầu ra cũng tương đối ổn định, mật khác đồng thời cần phải tiến hành song song để hỗ trợ cho nhau và là điều kiện để mặt kia phát triển. Do mặt hàng mang tính thời vụ nên giá cả rất bấp bênh lúc lên, lúc xuống nên các doanh nghiệp nhiều khi bị lừa do họ bán hàng cho các doanh nghiệp khác khi giá cả tăng cao. Để tránh được tình trạng này, doanh nghiệp nên có quan hệ bền vững với người sản xuất, hỗ trợ họ khi gặp khó khăn trong sản xuất. Muốn làm được điều này thì doanh nghiệp phải suy nghĩ, cân nhắc lựa chọn người mà mình sẽ đầu tư và khả năng cho một vụ mùa bội thu. ..cũng như tình hình vốn, ngân sách, các quỹ dự phòng của mình. 2.4 Về phương thức kinh doanh và thanh toán Trong điều kiện vốn chưa nhiều, lãi xuất ngân hàng còn nhiều biến động, nguồn hàng xuất khẩu lại hạn chế, doanh nghiệp nên đẩy mạnh phương thức xuất khẩu uỷ thác. Thường lợi nhuận không cao nhưng lại có th\ính an toà cao đồng thời tránh rủi ro không đáng có Tuy nhiên, khi đã bước vào thương trường thì rủi ro cao mới thu được siêu lợi nhuận. Chính vì vậy, doanh nghiệp cũng nên nghiên cứu thêm nhiều phương thức kinh doanh như xuất trực tiếp, tự doanh nghiệp để vừa chứng tỏ khả năng của doanh nghiệp mình trên thương trường nhưng để tránh các rủi ro thì phải nắm được các thông tin cần thiết về khách hàng của mình. 2.5 Khuyến khích vật chất và nâng cao trình độ cho đội ngũ công nhân viên Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp có thể sử dụng đòn bẩy kinh tế để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc, khuyến khích vật chất đối với cá nhân, nhóm cán bộ có thành tích cao trong kinh doanh, đồng thời gắn trách nhiệm vật chất đối với cá nhân phạm vào các nguyên tắc làm ảnh hưởng đến các kết quả kinh doanh. Mặt khác do tình thị trường ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp, các quan niệm luôn thay đổi nên các cán bộ của doanh nghiệp hải theo kịp thời đại về trí thức, quan niệm và nghiệp vụ mới đáp ứng với thị trường đang cạnh tranh rất khắc nghiệt. Muốn vậy các doanh nghiệp mở các lớp đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ hoặc gửi cán bộ đi thực tiễn ỏ nước ngoài, học hỏi thêm kinh nghiệm. B-/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC VÀ BỘ THƯƠNG MẠI VỀ CÁC CHÍNH SÁCH VĨ MÔ TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG LÂM SẢN. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nức có vai trò quan trọng là “bàn tay hữu hình” điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách, luật pháp cụ thể nhà nước còn có vai trò quan trọng tạo ra các luật lệ, tạo ra hành lang pháp lí xử lí các vi phạm nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy hoặc kièm chế việc kinh doanh ở các doanh nghiệp, làm cho nền kinh tế phát triển cân đối. Thực tế trong mấy năm đổi mới kinh tế vừa qua nhà nước đóng vai trò tích cực, quan trọng. Tuy nhiên, sự quản lí vĩ mô của nhà nước vẫn còn một số hạn chế còn trồng chéo mâu thuẫn nhau, các chín sách còn thay đổi thường xuyên ở mức độ lớn, chính vì vậy là một công dân Việt Nam nói chung, là nhà kinh tế trong tương lai, chúng ta có nghĩa vụ đóng góp ý kiến, cùng xây dựng nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh. 1-/ Chính sách nhà nước đối với người sản xuất hàng xuất khẩu Nhà nước phải đầu tư vốn để cải tạo, mở mang giao thông, thuỷ lợi xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, tăng thu nhập sản phẩm nông nghiệp tính theo đầu người còn thấp nhưng chúng ta vẫn phải tăng cươngf đầu tư nhân lực, vốn vào sản xuất các sản phẩm nhiệt đới mà ta có ưu thế như lạc nhân, chè, cà phê, dừa, hạt điều, hồ tiêu. .. Thực tế sản xuất cho thấy những sản phẩm này ta có khả năng tạo lượng lớn về từng bước nâng cao chất lượng. Muốn vậy phải quy vùng sản xuất chuyên canh. Đất nước ta không rộng nhưng có nhiều vùng sinh thái nên các vùng chuyên canh phải phù hợp với điiêù kiện tự nhiên cụ thể từng vùng. Cùng với cây nông lâm nghiệp chủ lực phải đi đôi với đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu. Vùng đồng bằng sông Hồng sau cây lúa phải coi xuất khẩu khoai tây, đậu là mặt hàng chủ lực Vùng trung du miền núi phía Bắc chè được coi là chủ lực, sau đó là cà phê, dâu tằm, hồi, quế và đậu tương Vùng khu 4: lạc, đậu, dâu tằm ở vùng ở vùng thấp, chè, cà phê hồ tiêu xuất khẩu ỏ vùng cao Vùng duyên hải miền Trung : Hồ tiêu, dâu tằm, mía đường xuất khẩu Vùng Tây Nguyên : Cà phê xuất khẩu, cao su, chế biến gỗ. ..các mặt hàng nông lâm sản xuất khẩu chủ lực của cả nước là gạo, cà phê, chè, cao su. Sở dĩ phải xác định nông lâm sản chủ lực của cả nước và từng vùng để phân định a sản phẩm nào do Trung ương quản lí, sản phẩm nào do địa phơng quản lí và từ đó phân định thị trường xuất khẩu, tránh tình trạng xuất khẩu lộn xộn như hiện nay Đi đôi với chọn mặt hàng xuất khẩu là tìm thị trường tiêu thụ với lượng lớn, giá cả hợp lí sẽ thúc đẩy sản xuất trong cơ chế thị trường. Sự cạnh tranh về giá, cạnh tranh để bán được hàng có lãi là một cuộc cạnh tranh sống còn của các nhà sản xuất kinh doanh và nó bắt đầu từ khâu sản xuất. Việc tạo ra mặt hàng và mua nguyên liệu, giá mua vật tư hợp lí để kích thích được sản xuất là rất quan trọng. Để làm được việc này, cần xử lí tốt đầu vào, nghĩa là cùng đồng thời xử lí tốt 3 nôi dung: Đất đai, lao động, vốn. Các khoản chi phí đầu vào này được tổng hợp trong giá thành nông lâm sản. Vì thế sản xuất nông sản gì ? Lượng bao nhiêu? Sản xuất với quy trình nào, công nghệ chế biến ra sao là những vấn đề cơ bản phải làm rõ của mỗi số lượng vật tư nhập từ ngoàig vào để giải quyết sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu vật tư, từ đó ổn định nông lâm sản. Khi sản xuất nông lâm sản xuất khẩu còn non yếu, chưa đủ sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế thì nhà nước phải có chính sách bảo hiểm giá và trợ giá đối với hàng nông lâm sản. Là nông lâm sản xuất khẩu nên nó có yêu cầu cao về kĩ thuật sản xuất và chế biến, bảo quản nhằm đạt chất lượng cao, hạ giá thành, vì vậy việc sử dụng các thành phần kinh tế tham gia sản xuất sản phẩm như thế nào là phải cân nhắc cẩn thận, nhà nước nên tập trung đầu tư vào vùng chuyên canh, cây xuất khẩu dưới hình thức hợp đồng kinh tế (Bán vật tư, mua sản phẩm, có ứng trước và có trách nhiệm thực hiện). Riêng đối với cây công nghiệp dài ngày, vì nhà nước đầu tư xây dựng cơ bản lớn nên cần củng cố các nông trường quốc doanh. Trong các nông trường quốc doanh thực hiện biện pháp giao thầu cho các hộ gia đình có tiềm lực để đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng vườn cây nông trường làm cung ứng vật tư kĩ thuật chế biến nông sản xuất khẩu thông qua các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu chuyên ngành của nhà nước. Nông trường quốc doanh trở thành “Ông chủ ” quản lí các điền chủ bằng các biện pháp kinh tế và tiềm lực kinh tế cũng có thể thành lập các hiệp hội các công ty cổ phần sản xuất kinh doanh nông lâm sản xuất khẩu, bao gồm của quóc doanh, tập thể hộ gia đình theo đơn đặt hàng của nhà nước. Tuy nhiên cần thống nhất quan điểm khuyến khích mọi thành phần kinh tế làm hàng xuất khẩu nhưng không nên mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu nông lâm sản cho các thành phần kinh tế , có như vậy nhà nước mới quản lí được kim ngạch xuất khẩu, điều phối hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và đủ lực để cạnh tranh trên thương trươbngf quốc tế. Phải xây dựng một hệ thống chính sách kinh tế hoàn chỉnh, đồng bộ để tạo điều kiện đẩy nhanh nông nghiệp phát triển và tăng nhanh lâm sản xuất khẩu, những chính sách kinh tế đó là: Chính sách đầu tư vốn và ưu tiên vốn cho cây con xuất khẩu chủ lực cho vùng sản xuất nguyên liệu, sản phẩm cho xuất khẩu. Vấn đề đó trước mắt dành cho thâm canh, đảm bảo cho cây con được chăm sóc nuôi dưỡng đúng quy trình Chính sách giá nông lâm sản xuất khẩu. Giá mua nông lâm sản chính là giá xuất nông lâm sản đó (phí xuất + thuế hàng hoá + lãi kinh doanh của đơn vị). Nhà nước chỉ bảo hiểm trợ giá khi : + Giá xuất hạ mà giá mua vật tư thiết bị không hạ hoặc gia xuất không tăng mà giá mua vật tư thiết bị lại tăng + Thời tiết bất thuận, mất mùa do thiên tai Chính sách thuế: Nên nghiên cứu chuyển việc đánh thuế nông nghiệp sử dụng đất và thuế hoa lợi ruộng đất sang tiền cho thuê đất, giảm thuế bán nông lâm sản cho người sản xuất, sử dụng các hình thức thuế một cách hợp lí tránh chồng chất lên nhau. 2-/ Chính sách của nhà nước đối với các nhà kinh doanh Quốc hội cần xây dựng một luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phản ánh được chính sách thương mại trong quá trình hội nhập, trong đó không chỉ có các loại thuế cơ bản thuế bổ sung như dự thảo luật mà còn có loại thuế khác như thuế thu mua, hạn ngạch thuế quan, thuế áp dụng cho mậu dịch biên giới...,các loại thuế mà nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng. Theo dõi và xử lí đung đắn về tỷ giá và lãi xuất, tỷ giá hối đoái và lãi xuất là vấn đề phức tạp, việc điều chỉnh chúng phù hợp với cung cầu thực tế thị trường là vấn đề rất quan trọng, bảo đẩm khuyến khích được xuất khẩu, kiểm soát được nhập khẩu, tăng trữ lượng ngoại tệ, quản lí ngoại tệ, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới, nhất là trong giai đoạn chống buôn lậuhiện nay bằng cách đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và quản lí, kết hợp chặt chẽ khoa học công nghệ với sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu xây dựng sắp xết hệ thống doanh nghiệp và các thành viên trong hệ thống xuất nhập khẩu, khắc phục các hiện tượng kinh doanh “chồng chéo”, “tranh mua, tranh bán” khiến hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam luôn bị ép giá. Trên cơ sở đó, tăng cường hiệu quả quản lí nhà nước về các nguồn lực, đất đai, lao động tay nghề, đồng thời cần chấn chỉnh công tác kế toán, chế độ phân phối thù lao, lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gắn lợi ích và trách nhiệm vật chất với hiệu quả kinh doanh. Nhà nước cần chú trọng đến việc xem xét lại các thủ tục hành chính trong quá trình xuất nhập khẩu cho phù hơph để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động có hiệu quả nhất đối với các lực lượng thu gom và tiêu thụ hàng nông lâm sản xuất khẩu. Công tác nghiên cứu thị trường, công tác tiếp thị và xúc tiến thương mại để mở rông thị trường xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông lâm sản nói riêng ở tầm vĩ mô là rất quan trọng. Tuy một số hàng nông lâm sản của ta đã chiếm lĩnh thi phần đáng kể trên thế giới nhưng chủ yếu là xuất sang Châu á. ở các thị trường khác, thị phần còn nhỏ, lại thường phải xuất qua các tổ chức trung gian vừa làm giảm hiệu quả xuất khẩu, vừa không tạo được thị trường ổn định. Để khắc phục tình trạng này, Bộ thương mại phải kết hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng một số bộ có liên quan dẩy mạnh công tác nghiên cứu để có chính sách thị trường đúng đắn, tích cực, chủ động đàm phán mở thêm thị trường mới kí đước hiệp định cấp nhà nước, tham gia các thị trường hàng hoá của thế giới và cố gắng kí được các hợp đồng xuất khẩu dài hạn với khối lượng lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ nông lâm sản một cách vững chắc có hiệu quả Các công ty kinh doanh hàng nông lâm sản, trước hết là các tổng công ti chuyên doanh; cần có sư đầu tư thoả đáng cho công tác tiếp thị, phối hợp chặt chẽ với các Bộ hữu quan, đai diện thương mại của ta ở các nước, các hiệp hội quốc tế và khu vực để tìm kiếm khách hàng tranh thủ kí các hợp đồng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Bộ thương mại có thể xem xét xắp xếp lại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và phân loại để có cơ chế, chính sách phù hợp từng loại doanh nghiệp. Áp dụng các luật pháp sẵn sàng nhập các doanh nghiệp hoạt đọng không có hiệu quả hay cổ phần hoá các doanh nghiệp này nhằm tạo ra một lực lượng kinh doanh xuất nhập khẩu hiệu quả hơn cả về số lượng và chất lượng. Nhà nước mở rộng và nâng cao chất lượng hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế đẩy mạnh xuất khẩu. + Duy trì và phát triển thị trường ASEAN vì các nước ASEAN sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan vào năm 2003 để khuyến khích thương mại giữa các nước. + Khai thông hiệp định thương mại Việt-Mĩ + Gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) KẾT LUẬN Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng nông lâm sản nói riêng trên thực tế là rất phức tạp và khó khăn, do đó việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng nông lâm sản hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Chuyên đề này em xin nêu một số ý kiến có tính chất vi mô, vĩ mô để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông lâm sản để góp pgần vào qua trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình giúp đỡ của GS TS Đặng Đình Đào đã giúp đỡ em hoàn tất đề tài này Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 1999 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1-/ Giáo trình kinh tế thương mại ĐH KTQDHN PGS-TS Đặng Đình Đào; TS-Hoàng Đức Thân. 2-/ Giáo trình: Quản trị kinh doanh thương mại ĐH KTQDHN PGS-TS Hoàng Minh Đường. 3-/ Giáo trình thương mại quốc tế. ĐH KTQDHN TS-Nguyễn Duy Bột 4-/ Giáo trình Tổ chức nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá ĐH KTQDHN TS-Trần Chí Thành 5-/ Marketing Quốc tế và quản lý xuất khẩu. NXB Giáo dục Hà Nội - 1994. 6-/ "Incoterm 1990" Bộ Thương mại. 7-/ Tạp chí thương mại 1996, 1997, 1998, 1999. 8-/ Thời báo kinh tế 1996, 1997, 1998, 1999. 9-/ Giá cả thị trường các năm 1996, 1997, 1998, 1999. 10-/ Tạp chí phát triển kinh tế 1997, 1998, 1999. 11-/ Tạp chí công nghiệp nhẹ 12-/ Tạp chí nghiên cứu lý luận 13-/ Tạp chí kinh tế và phát triển 14-/ Niên giám thống kê 1996 - NXB Thống kê 15-/ Hướng phát triển xuất nhập khẩu 1996 - 2000 16-/ Thành công của Singapore trong phát triển kinh tế - NXB Thống kê 1991. 17-/ Kinh tế NICs Đông Nam Á kinh nghiệm đối với Việt Nam. NXB Thống kê - 1992 18-/ Một số vấn đề phát triển của các nước ASEAN. NXB Thống kê 1992. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0658.doc
Tài liệu liên quan