Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý Nhà nước về Thương mại

Sản xuất hàng hoá, lưu thông hàng hoá và thương mại là một phạm trù lịch sử. Nó sinh ra, phát triển và mất đi trong những điều kiện kinh tế nhất định. Sản xuất hàng hoá thống nhất quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, lưu thông hàng hoá là hình thức phát triển của trao đổi hàng hoá có tiền tệ làm vật ngang giá chung, vai trò môi giới để mua bán hàng hoá. Quá trình tái sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu liên kết mật thiết với nhau : Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các Mác nhấn mạnh : sản xuất thể hiện là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng phân phối và trao đổi là điểm trung gian. Điểm trung gian này có hai yếu tố. Thương mại nằm ở khâu trao đổi, nó giữ vị trí trung gian trong quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội. Trao đổi hàng hoá là cầu nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng,giữa sản xuất với phân phối, giữa phân phối với tiêu dùng. Lưu thông ách tắc, sản xuất bị cản trở, bị kìm hãm, nghĩa là kinh tế kém phát triển. Dẫn đến thu nhập của người dân giảm, tình trạng thất nghiệp gia tăng. Thương mại trở thành khâu tất yếu của quá trình sản xuất phân phối trao đổi tiêu dùng. Tính tất yếu ấy thể hiện ra tính phổ biến với quan hệ tỷ lệ thuận. Sản xuất càng phát triển qui mô thương mại càng lớn.

doc100 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 909 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý Nhà nước về Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiện nay cũng chưa hình thành được tổ chức lực lượng này mà vẫn còn tổn tại các lực lượng quản lý thị trường và lực lượng quản lý thị trường thuộc Sở Thương mại hoạt động theo Nghị định l0/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ. Do vậy lực lượng quản lý thị trường chưa đủ mạnh, chưa kịp thời ngăn chặn được các hành vi kinh doanh trái phép, buôn lậu, trốn thuế, làm và bán hàng giả.. Hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn huyện còn bị coi nhẹ có nhiều việc rất cần nhưng không ai làm, biên chế cán bộ làm công tác này lại nằm ở phòng tài chính kế toán huyện, chủ yếu là cấp phát đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh doanh theo Nghị nghị định 66/HĐBT. Trong khi số hộ kinh doanh này ở địa bàn huyện rất nhiều, sự phối hợp để quản lý sau giấy phép giữa phòng tài chính kế toán và các đội quản lý thị trường thiếu chặt chẽ. Hệ thống tổ chức này lại không rõ ràng, rành mạch. Ở tỉnh chi cục quản lý thị trường trực thuộc sở, ở huyện đội quản lý thị trường chịu sự lãnh đạo song trùng của chi cục quản lý thị trường và uỷ ban nhân dân huyện. 4.2. Về kế hoạch quy hoạch mạng lưới Công tác kế hoạch quy hoạch phải gắn với thị trường, đặc biệt là thị trường nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa. Tăng cường hơn nữa việc hướng dẫn cho các thương nhân thực hiện đúng chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt Luật Thương mại cũng như những văn bản dưới luật. Việc sắp xếp đối với các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, chưa theo đúng tinh thần của nghị quyết 12 của Bộ Chính trị trị (Khoá VII) đề ra chỉ mới thực hiện đọc đối với các doanh nghiệp Nhà nước thuộc bộ và sở còn lại các doanh nghiệp không thuộc Bộ và Sở quản lý thì Bộ, Sở không có thẩm quyền sắp xếp lại củng cố hoàn thiện do đó hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước còn chồng chéo, trùng lắp cạnh tranh nhau một cách không lành mạnh. Công tác thông tin thương mại và thị trường còn yếu kém, chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế xã hội. Bộ, Sở Thương mại chưa thực hiện tốt chức năng xúc tiến thương mại dịch vụ, hỗ trợ các thành phần kinh tế hoạt động đồng thời giúp bộ và . sở thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước theo đúng quy định của Luật Thương mại. 4.3. Quản lý chất lượng hàng hoá. Trong hoạt động thương mại, công tác quản lý chất lượng hàng hoá: lưu thông trong nước và hàng hoá xuất nhập khẩu hướng dẫn tiêu dùng hợp lý cũng chưa được chú trọng đúng mức. Công tác kiểm tra, kiểm soát chống hàng giả hàng kém chất lượng còn nhiều bất cập, kinh phí cho công tác chống hàng giả chưa được quan tâm, trình độ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng hàng hoá còn yếu trong khi phương tiện chưa được trang bị đầy đủ thiếu sự phối hợp chật chẽ nhiều ngành nhiều cấp. Chưa có sự phán biệt rõ ràng việc quản lý chất lượng hàng hoá giữa Bộ Thương mại và Cục chất lượng hàng hoá. Những vấn đề đặt ra cùng với những điều kiện mới đã xuất hiện đang đòi hỏi phải tìm kiếm giải pháp cơ bản hữu hiệu góp phần .hoàn thiện nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về thương mại hiện nay. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI I . ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THƯƠNG MẠI 1. Mục tiêu phát triển ngành thương mại 1.1. Mục tiêu Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện tổ chức quản lý thương mại ở các ngành, các cấp nhằm thực hiện tốt chức năng như xây dựng pháp luật, hoàn chỉnh cơ chế chính sách bao gồm chính sách kinh tế đối ngoại và tổ chức thị trường ở các cấp vĩ mô, chỉ đạo hướng dẫn và tổ chức thi hành pháp luật, cơ chế chính sách,' thanh tra và kiểm tra, kiểm soát thị trường. Tổ chức lại hoạt động thương mại - dịch vụ trong phạm vi cả nước nhằm ổn định thị trường theo hướng giao lưu hàng hoá trên các vùng thành thị, nông thôn. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, - phù hợp với sự phát triển kinh tế theo hướng dịch vụ công nghiệp - nông nghiệp. Trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển một cách hợp lý, kinh doanh đúng pháp luật và thực hiện văn minh thương nghiệp. Chấn chỉnh xuất nhập khẩu theo hướng khuyến khích mạnh xuất khẩu, quản lý nhập khấu đáp ứng nhu cầu vật tư cho sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân đảm bảo cân đối cung cầu, ổn định giá cả. Thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước một cách hợp lý, có thời gian và tuỳ từng mặt hàng để thúc đẩy sản xuất. Phấn đấu vươn lên, cạnh tranh với hàng ngoại nhập trên thị trường, đáp ứng lợi ích của người tiêu dùng, tạo điều kiện đổi mới thiết bị công nghệ nhất là các ngành sử dụng nhiều lao động, ngành hàng dùng nguyên liệu từ sản phẩm nông nghiệp. Phát triển thị trường, mở rộng giao lưu hoá trên tất cả các vùng, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm đáp ứng các nhu cầu cho sự công nghiệp hoá, hiện đại . hóa. Thông qua việc tổ chức thị trường, lưu thông hàng hoá làm cho thương nghiệp thực sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động xã hội. 1.2. Nhiệm vụ Một là, tổ chức thị trường. + Hoạt động xuất nhập khẩu: cần đẩy mạnh hơn nữa vấn đề mở rộng thị trường, đây là vấn đề quyết định đối với các doanh nghiệp. Do đó, phải chú trọng khai thác tốt thị trường xuất khẩu quen thuộc như Hàn quốc, Trung quốc, ASEAN. Khôi phục lại thị trường xuất khẩu trước đây như Nga, Đông âu và từng bước thâm nhập sâu vào các thị trường mới đặc biệt là thị trường Mỹ và các nướcthuộc khối EU. + Tổ chức thị trường mua bán hàng hoá và hoạt động dịch vụ trong nước một cách xuyên suốt, phù hợp với từng vùng từng địa phương trong đó. + Tổ chức thị trường đô thị gồm các thị trường thành phố, các trung tâm thị xã. Theo định hướng thị trường đây là nơi phát hàng. thực hiện mọi liên kết giữa thương nghiệp với sản xuất công nghiệp, tạo dần văn minh thương nghiệp và là nơi phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. + Xây dựng thị trường nông thôn là các thị trường ở các vùng thuộc huyện theo hướng tạo mối liên kết giữa thương nghiệp sản xuất nông nghiệp chế biến nông sản và thực hiện chính sách nông thôn, miền núi. + Chuẩn bị tốt điều kiện để từng bước thích ứng với việc nước ta hội nhập AFTA, WTO. Tóm lại, trên phạm vi cả nước, quản lý Nhà nước về Thương mại phải thấy rõ "Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển, thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất, có hệ thống chính sách phù hợp để tạo môi trường ổn định và động lực phát triển, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường" sao cho thị phù hợp với thẩm quyền của mình. Chúng ta không chỉ tập trung vào phát triển các trung tâm kinh tế lớn mà còn phải nỗ lực xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường. - Hai là, định hướng hoạt động thương mại - dịch vụ cho các thành phần kinh tế. + Doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn cổ phần chi phối Nhà nước (hoặc cổ phần đặc biệt) xác định chủ đạo trong các lĩnh vực gồm: - Nắm vững kinh doanh xuất nhập khẩu. - Nắm bán buôn các mặt hàng quan trọng như xi măng, sắt, thép, xăng dầu, nông sản, lương thực, đường, muối iốt, giấy, xe máy, phân bón hóa học v.v... - Hình thành các trung tâm Thương mại ở các thành phố lớn, các thị xã và xuống cả các thị trấn trong toàn quốc. - Tham gia vào một số hình thức kinh doanh dịch vụ như quảng cáo, hội chợ triển lãm, dịch vụ nhà ở, dịch vụ ăn uống, dịch vụ hành chính, văn phòng dịch vụ cho các trung tâm công nghiệp, dịch vụ nhận ngoại thương. Tăng cường tổ chức liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế khác để nhận làm đại lý, cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm. Phấn đấu để hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện cổ phần hóa trong ngành Thương mại đều được cổ phần hóa từ đó hòa nhập cao tiến trình kinh tế mới. + Hợp tác xã Thương mại dịch vụ - Tổ chức rút kinh nghiệm, hướng dẫn, giúp đỡ các hợp tác xã hoạt động theo từng vùng, từng khu vực, đồng thời tạo điều kiện và hướng dẫn việc thành lập các hợp tác xã Thương mại dịch vụ. - Tập trung củng cố, phát triển các hợp tác xã theo luật hợp tác xã để cùng thương nghiệp quốc doanh thực hiện chức năng đầu tư phục vụ sản xuất tiêu dùng hàng hóa nông sản, thực phẩm, phục vụ tiêu dùng của dân cư, nhất là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Vận động thành lập các hợp tác xã Thương mại dịch vụ ở các phường xã để tận dụng tốt nhất mọi tiềm lực nhàn rỗi và phục vụ một cách thuận tiện nhất đến người tiêu dùng. Tổ chức thực hiện các mô hình kinh doanh tổng hợp kết hợp giữa sản xuất - chế biết với kinh doanh Thương mại, phát triển hệ thống cung ứng, tiêu thụ và ký gửi hàng hóa cho các tổ chức Nhà nước và các thành phần kinh tế khác. + Các thành phần kinh tế khác Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển. Nhằm tận dụng khả năng kinh doanh, và vốn đầu tư đẩy nhanh tốc độ Thương mại dịch vụ, góp phần giải quyết lao động, mở rộng lưu thông hàng hóa, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Đồng thời hướng dẫn giúp đỡ dịch vụ kinh doanh theo đúng hướng, đúng quy hoạch và đúng pháp luật. - Thực hiện tốt việc quản lý các doanh nghiệp sau khi cấp giấy phép, tăng cường theo dõi mạng lưới kinh doanh của các doanh nghiệp Thông qua việc báo cáo địa điểm kinh doanh, hoạt động, vốn đầu tư kinh doanh, lao động, nghĩa vụ thuế và các hiệu quả kinh tế theo ngành quản lý một cách chặt chẽ, kịp thời. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thực hiện đúng tỷ lệ xuất khẩu đã quy định tại giấy phép đầu tư, tích cực khai thác thị trường xuất khẩu, giảm đến mức thấp nhất việc tiêu thụ sản phẩm ở thị trường Việt Nam. * Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu và phát triển xuất khẩu BIỂU VII. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VÀ PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU Nguồn: Phương án xuất nhập khẩu 2000 - 2010 Bộ TM Đơn vị tính: Triệu USD Danh mục KH 2000 Dự báo 2005 Tốc độ pt bq % Kim ngạch xuất khẩu 13.000 22.910 12 Phân theo cơ cấu Hàng N - L - TS 4.850 6784 6,9 Hàng CNn và TTCN 5.050 10157 15 Hàng CNN và KS 3.100 5969 14 Phân theo vốn ĐT DN có VĐTTN 10.000 16105 10 DN có VĐTNN 3.000 6805 17,8 Phân theo mặt hàng Lạc nhân 45 77 10 Cao su 153 329 8 Cà Phê 600 766 5 Chè 48 78 8 Hạt tiêu 160 225 10 Nhân điều 100 160 10 Gạo 1024 1250 4 Danh mục KH 2000 Dự báo 2005 Tốc độ pt bq % Than đá 105 120 2.7 Dầu thô 2520 1800 -6.5 Hàng thuỷ sản 1100 2000 13 Hàng rau quả 80 150 13 Hàng dệt và hàng may 1950 4000 15 Giầy dép các loại 1650 3000 13 Hàng thủ công mỹ nghệ 180 500 23 Hàng ĐT & máy vi tính 700 2500 29 Sản phẩm phần mềm 5 100 82 Hàng cơ khí 30 100 27 BIỂU VII. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VÀ PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU Nguồn: Phương án xuất nhập khẩu 2000-2010, Bộ Thương mại Danh mục Kế hoạch 2000 2005 Tốc độ pt bg % Kim ngạch nhập khẩu 13.000 23.952 13 Phân theo cơ cấu Thiết bị phụ tùng 3.500 8.178 18,5 Nguyên nhiên vật liệu 8.900 14.997 11 Hàng tiêu dùng 600 776 5,3 Phân theo vốn DN có VĐTTN 9.400 15.840 11 DN có VĐTNN 3.600 8.112 17,6 Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 dự kiến là 46.862 triệu USD. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu là 22.910 triệu USD tăng 76,2% so với thực hiện năm 2000. Kim ngạch nhập khẩu là 23.952 tăng 84,2% so với thực hiện năm 2000. 1.3. Định hướng tăng cường quản lý Nhà nước đối với Thương mại Trong những năm qua hoạt động Thương mại trong toàn quốc đã có những bước tiến đáng kể. Các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào các hoạt động thương mại - dịch vụ góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh và quản lý Nhà nước về Thương mại vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như đã nêu ở trên. Để tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng VIII. Nghị quyết 12/BCT của B Chính trị về các chính sách của Nhà nước về phát triển thương nghiệp XHCN. Ngành Thương mại từ Trung ương đến địa phương không ngừng hoàn thiện quản lý Nhà nước về Thương mại hơn nữa bởi lẽ : * Quản lý Nhà nước về Thương mại nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước, mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương cũng nhu khu vực và thế giới. Phát triển thị trường, mở rộng giao lưu hàng hóa trên tất cả các vùng, đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc tổ chức tốt thị trường và lưu thông hàng hóa làm cho thương mại thật sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất. Mở rộng thị trường nước ngoài gắn liền với việc phát triển ổn định thị trường trong nước, lấy thị trường trong nước là cơ sở, đạt hiệu quả kinh doanh thương mại trong hiệu quả kinh tế xã hội chung. * Quản lý Nhà nước về thương mại nhằm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Quản lý Nhà nước về thương mại phải quản lý các hoạt động kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế phải dựa trên cơ sở những quy định pháp luật hiện hành và có quy hoạch định hướng cụ thể nhằm tạo cho các doanh nghiệp phát triển theo đúng pháp luật, đúng định hướng, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà điển hình là cá hộ kinh doanh nhỏ. Tổ chức điều hành hoạt động doanh nghiệp phải dựa trên có cơ sở các quy hoạch định hướng của ngành và kế hoạch phát triển của doanh nghiệp. trong quản lý hoạt động của doanh nghiệp không chỉ chú trọng hiệu quả kinh doanh mà phải chú trọng đến thực hiện các nhiệm vụ xã hội. * Quản lý Nhà nước về thương mại góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của thương nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Hoạt động của thương mại mà trước hết là thương mại Nhà nước thực hiện phải hướng vào phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, coi trọng cả hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả xã hội. Phát huy sử dụng tốt khả năng, tích cực của các thành phần kinh tế trong giao lưu hàng hóa, đi đôi với việc xây dựng thương nghiệp Nhà nước trên các lĩnh vực và mặt hàng quan trọng. Cần phân biệt và xác định rõ giữa công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực thương mại - dịch vụ với việc tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. * Quản lý Nhà nước về thương mại nhàm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mục tiêu quản lý Nhà nước nhằm làm cho thị trường phát triển lành mạnh, lưu thông hàng hóa thông suốt, mở rộng thị trường đến các vùng, các miền nhất là thị trường nông thôn, vùng miền núi; đáp ứng nhu cầu về sản xuất đời sống với giá cả ổn định làm cho hoạt động thương mại thực sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển, ngăn chặn hiện tượng đầu cơ nâng giá, chống buôn lậu, quản lý tốt thị trường chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI. 1. Hoàn thiện công tác kế hoạch quy hoạch phát triển thương mại và dịch vụ ở tất cả các ngành hàng, các vùng, các khu vực trên toàn quốc 1.1. Củng cố, mở rộng mạng lưới và phát triển thị trường Hướng xuất khẩu của chúng ta là tạo thêm mặt hàng, nhóm hàng có khối lượng và giá trị xuất khẩu lớn, phấn đấu đưa nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đi vào ổn định và trở thành mũi nhọn. Hướng nhập khẩu là tập trung vào các loại máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, chú ý nhập khẩu thiết bị công nghệ tiên tiến, củng cố vị thế xuất nhập khẩu ở nước ta trên thị trường thế giới; góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tập trung khai thác, khuyến khích sản xuất các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn và ổn định. Muốn thế cần thực hiện các giải pháp sau. · Quy hoạch phát triển thương mại đối với thị trường đô thị. Thị trường đô thị là trung tâm sản xuất, chế biến và tiêu thụ tập trung, nhu cầu phong phú và rất đa dạng. Đô thị lại là đầu mối giao lưu, là nơi phát luồng hàng có khả năng định hướng và điều tiết thị trường xã hội. Do đó, Thương mại Nhà nước phải tổ chức theo hướng: - Mở rộng công ty lớn chuyên doanh một số nhóm hàng tại các thành phố và khu công nghiệp lớn, chủ yếu làm nhiệm vụ phát luồng hàng mua bán buôn, liên kết với các nhà sản xuất, dầu tư vào sản xuất, chế biến, xác lập mạng lưới mua bán giữa các vùng và ngành càng mở rộng mạng lưới ra xa hơn nhằm hình thành các kênh phân phối, qua đó đảm bảo thị trường cung ứng và tiêu thụ vững chắc. - Các công ty tổng hợp còn lại phải chú trọng chủ yếu vào khâu bán lẻ bằng cách đầu tư vào các trung tâm này. Hoạt động của các công ty loại này nhằm để nâng cao văn minh thương nghiệp. - Phát triển và tăng cường xây dựng thêm các chợ, cửa hàng bán lẻ xuống tận các cụm dân cư, xã, thôn, đường phố trong toàn quốc để phục vụ một cách hiệu quả. - Từng bước xây dựng các siêu thị từ lớn trung bình và nhỏ tùy vào địa . điểm từ thành phố đến các tỉnh, huyện. - Đây là loại hình kinh doanh mới ở Việt Nam, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của dân cư đô thị, phù hợp với tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh tế đất nước. - Củng cố và mở rộng liên kết hợp tác giữa thương nghiệp quốc doanh và hơp tác xã mua bán trên tinh thần hỗ trợ lần lẫn để cùng phát triển. - Khuyến khích hình thành các hiệp hội xuất nhập khẩu theo ngành nghề để tạo thuận lợi trong việc tạo nguồn hàng và tìm thị trường, ký kết hợp đồng với đối tác.v.v... · Quy hoạch và phát triển Thương mại đối với thị trường nông thôn Thị trường nông thôn là nơi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh của nông dân với tỷ trọng lớn và đòi hỏi nhu cầu lớn về vật tư nông nghiệp, phục vụ sản xuất đây cũng là nơi hàng hóa nông sản phẩm do nông dân sản xuất ra với khối lượng lớn cần tiêu thụ và chế biến. Tổ chức thị trường nông thôn trước hết đảm bảo yêu cầu sao cho người nông dân bán được nông sản phẩm, mua được vật tư cho sản xuất, hàng tiêu dùng cho sinh hoạt được thuận lợi với giá cả hợp lý; Phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Do đó mô hình chủ yếu để phát triển thương nghiệp ở nông thôn là chợ và cụm Thương mại dịch vụ ở thị tứ, thị trấn. Thông qua chợ và cụm Thương mại Nhà nước, của hợp tác xã mua bán và các loại hình thương nhân khác. Đây là vấn đề rất cần thiết làm cho người nông dân nông thôn đã bị tư thương chi phối, vai trò Thương mại của Nhà nước ngày càng tỏ ra yếu kém, các mặt hàng chính sách thiết yếu phục vụ cho miền núi phải thông qua tư thương mới đến được người tiêu dùng và ngược lại nông sản của nông dân sản xuất ra lại bị tư thương ép giá, ép cấp. Khắc phục tình trạng này phải: Tạo môi trường phát triển thị trường nông thôn. Thực hiện tự do hóa lưu thông hàng hóa nông sản trong nội địa và xuất khẩu, cho phép các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước cạnh tranh bình đẳng. Tăng cường Thông tin về thị trường nông sản phẩm và vật tư nông nghiệp, đặc biệt là hàng hóa về nhập khẩu và xuất khẩu giúp cho người sản xuất lựa chọn sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Sớm khôi phục và phát triển mạng lưới hợp tác xã Thương mại, tổ chức mạng lưới thu mua nông sản và hệ thống kho theo hướng mở rộng đại lý thu mua, xây dựng các trạm thu mua và sơ chế nông sản trên từng vùng, từng địa bàn trọng điểm. khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nhằm khai thác tối đa nguồn nông sản. Phát triển và tăng cường xây dựng thêm các chợ ở các cụm xã, liên xã. Đồng thời tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát của các ngành thuế, công an, quản lý thị trường để ngăn chặn hiện tượng đầu cơ, nâng giá, ép giá, chống buôn lậu và gian lận Thương mại, bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của người tiêu dùng, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, hướng thị trường nông thôn, miền núi phát triển đúng hướng, đúng pháp luật và có lợi cho phát triển kinh tế. Đối với địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa do sản xuất còn thấp, cần trợ giá các mặt hàng thiết yếu kịp thời cho đồng bào đến tận cụm xã và miền núi ở các vùng hẻo lánh. Bên cạnh việc củng cố, sắp xếp lại Thương mại quốc doanh và hợp tác xã mua bán, cho tư thương được kinh doanh những mặt hàng mà Nhà nước không cấm hoặc bị giới hạn quy mô. Khuyến khích kinh tế cá thể, thừa nhận kinh tế tư bản tư nhân trong hoạt động Thương mại, phát huy những mặt tích cực của họ trong lưu thông hàng hóa. Đồng thời chấn chỉnh việc cấp giấy phép kinh tế, có chế độ quản lý sau giấy phép kinh doanh thật chặt chẽ với Thương mại tư nhân, phái có biện pháp xử lý thật nghiêm đối với những hộ kinh doanh không chấp hành đúng chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. 1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Ở nước ta, qua những năm đổi mới. Nền kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau có điều kiện đua tài cạnh tranh trong thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Các doanh nghiệp đã góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, nhưng nhìn chung hiệu quả chưa cao. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước chưa tận dụng tốt những cơ hội phát triển do nền kinh tế thị trường tạo ra mà ngược lại bị điêu đứng trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Cần nghiên cứu "áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý, giúp đỡ và thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh". Do vậy, trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, vấn đề tiếp tục hoàn thiện hệ thống Thương mại Nhà nước và hợp tác xã Thương mại là một yêu cầu bức thiết trong việc hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động Thương mại. Đó là: Sắp xếp lại các doanh nghiệp Thương mại hiện có, đầu tư phát triển có trọng điểm, đặc biệt đối với các doanh nghiệp được xác định là then chốt. Đồng thời thực hiện việc cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp không nhất thiết đuy trì hình thức l00% vốn Nhà Nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Thương mại dịch vụ, kiên quyết xử lý dứt điểm những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Đổi mới quản lý, đổi mới phương thức kinh doanh và cơ chế quản lý của doanh nghiệp Nhà nước. Để vốn liếng tài sản của doanh nghiệp Nhà nước sử dụng một cách có hiệu quả, có chủ sở hữu đích thực, tạo động lực thúc đẩy phát triển, cần sớm khắc phục tình trạng doanh nghiệp Thương mại Nhà nước chịu sử quản lý chi phối theo 2 bộ phận như hiện nay. Đó là sự quản lý, sự chỉ đạo không đầy đủ, thiếu rõ ràng về trách nhiệm quyền hạn chuyên môn cấp tiến với tư cách cơ quan chủ quản và chi phối quản lý về vốn của Tổng cục vốn Nhà nước. Điều này làm cho doanh nghiệp Nhà nước nói chung, doanh nghiệp Thương mại Nhà nước nói riêng vừa thụ động trước thị trường, vừa không xác định là trách nhiệm của chính doanh nghiệp. Trong khi chờ có chủ trương về cơ chế "Chủ quản" cũng như giải quyết những vấn đề sở hữu về vốn và tài sản của doanh nghiệp Nhà nước, điều quan trọng mang tính tình thế hiện nay là phải tổ chức thật tốt bộ máy lãnh đạo cũng như quản lý trong doanh nghiệp. Phải xác định rõ tiêu chuẩn chức danh cán bộ, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ: đặc biệt là giám đốc doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp cũng phải có tư tưởng mới và luôn xác định làm giám đốc là một nghề, là một người làm thuê mà Nhà nước là chủ, được Nhà nước giao vốn và kinh doanh theo đúng mục tiêu nhiệm vụ do Nhà nước giao cho. Các doanh nghiệp cần xác định mục tiêu chiến lược, nắm chắc thị trường, hoạt động đồng bộ, thống nhất, hợp tác chặt chẽ với người sản xuất để làm đại lý bao tiêu sản phẩm, liên doanh với sản xuất trực tiếp đầu tư sản xuất, mở rộng hệ thống đại lý, chuyển dần từ bán lẻ sang bán buôn. Việc đổi mới kinh doanh Thương mại phải đi đôi với đổi mới phương thức quản lý bằng cách hoàn thiện cơ chế khoán - hạch toán đúng theo chế độ thống kê - kế toán của Nhà nước. Tăng cường quản lý xác định trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp Nhà nước. · Các doanh nghiệp Nhà nước cần phải: Chủ động nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo kinh doanh có lãi, tự bổ sung vốn. Đồng thời chú trọng nghiên cứu nhu cầu vốn cho kinh doanh trong từng thời vụ, lúc mà doanh nghiệp cần mua nguồn hàng phù hợp nhất. Rà soát lại trong từng doanh nghiệp, xác định rõ bộ phận tài sản, công nợ dây dưa, vận dụng phù hợp chính sách chế độ quy định hiện hành, tập trung xử lý đưa vào nguồn vốn lưu chuyển phục vụ sản xuất kinh doanh. Sử dụng tốt nguồn vốn ngân sách cấp: Ngoài nguồn vốn tín dụng Thương mại trung hạn và dài hạn được vay theo từng dự án khả thi có thể tranh thủ các nguồn vốn từ Trung ương, nguồn tín dụng ưu đãi Trên cơ sở quy hoạch đã được xác định, các đề án đã được xác định, tiến hành gọi vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước Nhanh chóng hình thành thị trường vốn tạo điều kiện để các doanh nghiệp mua bán cổ phiếu, huy động vốn trên thị trường theo các quy định của pháp luật. Chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là chuyển một phần sở hữu Nhà nước thành sở hữu các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh: huy động được một nguồn vốn nhất định trong và ngoài nước nhằm tăng vốn đầu tư cho kinh doanh, tạo điều kiện để người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp tạo sự quan tâm gắn bó của người lao động đối với doanh nghiệp. Chỉ tiến hành cổ phần hóa những doanh nghiệp kinh doanh các ngành không quan trọng, kinh doanh tổng hợp. · Đối với hợp tác xã mua bán Quản lý Nhà nước về Thương mại trên các địa bàn tỉnh, huyện hướng vào việc tiếp tục củng cố, phát triển các hợp tác xã theo luật hợp tác xã. Để cùng Thương mại Nhà nước thực hiện chức năng đầu tư phục vụ sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nông sản - thực phẩm, phục vụ tiêu dùng dân cư nhất là dân cư vùng sâu vùng xa. Trên từng địa bàn tỉnh, huyện tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm quản lý và chính sách đối với các hợp tác xã đã được củng cố và thành lập trong thời gian qua để có biện pháp phát triển trong thời gian tới. Tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn cổ phần chi phối của Nhà nước và hợp tác xã. Để hợp tác xã có điều kiện phát triển ổn định, đồng thời làm đại lý cho các doanh nghiệp có vốn cổ phần chi phối của Nhà nước. Hướng dẫn về pháp luật, chính sách có liên quan và giúp đỡ trong việc tổ chức hợp tác xã như điều lệ mẫu đại hội xã viên, đăng ký kinh doanh, cách hạch toán lỗ lãi, phương án ăn chia, tuyên truyền rộng rãi luật Hợp tác xã để tạo niềm tin và khuyến khích các hộ tiêu thương, các doanh nghiệp nhỏ cùng nhau góp vốn, góp sức để thành lập mới hợp tác xã. · Các thành phần kinh tế khác. Với các thành phần kinh tế khác quản lý Nhà nước hướng vào việc: * Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển tận dụng khả năng kinh doanh và vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển Thương mại - dịch vụ. Hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp kinh doanh theo đúng pháp luật, đúng định hướng quy hoạch phát triển Thương mại. Cung cấp Thông tin về các chính sách, chế độ của Nhà nước có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp nhận, giải quyết nhu cầu của các doanh nghiệp kịp thời, thỏa đáng phù hợp với quy định hiện hành. Giúp các doanh nghiệp tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cung cấp Thông tin có liên quan đến kinh tế và pháp luật. * Tiếp tục thực hiện tốt việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp nhất là sau cấp giấy phép kinh doanh. Trường hợp vi phạm trong kinh doanh như kinh doanh không giấy phép, kinh doanh sai nội dung giấy phép, không thực hiện tốt pháp lệnh thống kê - kế toán, lợi dụng đầu cơ nâng giá, tranh mua, tranh bán, trốn lậu thuế, làm và bán hàng giả phải kiên quyết xử lý đúng pháp luật. Đối tượng những hộ không chấp hành đủ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải thu hồi giấy phép và tuỳ theo mức độ vi phạm, nếu nặng phải chuyển sang xử lý hình sự. Hàng năm chúng ta phải tổ chức các hội nghị gặp gỡ các doanh nghiệp nhằm trao đổi Thông tin, giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện chính sách và pháp luật trong kinh doanh. * Phối hợp giữa Bộ Thương mại - Sở Thương mại và các ngành, ủy ban nhân dân các cấp để quản lý và kiểm tra doanh nghiệp, tránh chồng chéo hoặc buông lỏng quản lý. 4.3. Quy hoạch phát triển mạng lưới Thương mại dịch vụ - Quy hoạch sắp xếp các chợ Đối với hệ thống chợ ở nước ta hiện nay đã được phần thành 3 cấp, chợ loại 1, loại 2 và 3. Ngoài ra còn có rất nhiều chợ nhỏ tự phát do đó phải có giải pháp quy hoạch sắp xếp chợ như sau: * Quy hoạch mạng lưới chợ trong đó cải tạo, nâng cấp xây dựng một số chợ mới, quản lý chặt chẽ hoạt động của chợ nhất là đối với chợ loại 1 và loại 2. Quy hoạch và xây dựng các chợ ở các xã nông thôn theo từng quy mô hợp lý và phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội Ở từng địa phương để tránh tình trạng quy hoạch xong chợ mà không có người đến mua bán. Củng cố tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý chợ một cách thống nhất và có hiệu quả. - Quy hoạch mạng lưới kinh doanh các ngành hàng Quy hoạch đối với các ngành hàng kinh doanh có điều kiện theo Nghị định 1l/CP ngày 3/3/99. - Quy hoạch mạng lưới kinh doanh giết mổ gia súc, gia cầm Quy hoạch các điểm giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn các thành phố và các tỉnh làm cơ sở cho việc thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của từng cơ sở tư nhân để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Quy hoạch mạng lưới kinh doanh xăng dầu khí đốt và hoá lỏng, xăng dầu và khí đốt là nguyên nhiên vật liệu rất quan trọng trong công nghiệp cũng như sinh hoạt. Vì vậy việc cung cấp dịch vụ này là rất quan trọng tránh sự cố xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn trong sinh hoạt và sản xuất. Trong thời gian tới cần tiếp tục quy hoạch mạng lưới kinh doanh xăng đầu trong toàn quốc, cần thường xuyên rà soát lại quy hoạch để kịp thời điều chỉnh, bổ xung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế. Sắp xếp và củng cố hoàn chỉnh mạng lưới kinh doanh gas để tránh tình trạng xẩy ra việc nâng giá như những tháng vừa qua. - Quy hoạch mạng lưới kinh doanh nhà trọ Hiện nay ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Sinh viên và công nhân, người làm thuê về rất đông. Từ đó nhu cầu nhà trọ cho họ tăng lên rất nhanh mà chủ yếu là tự phát ở hộ dân. Vì thế thời gian tới chúng ta phải: Quy hoạch cụ thể mạng lưới kinh doanh nhà trọ, nhà tập thể cho công nhân và sinh viên thuê. Tổng rà soát, thẩm tra và quy hoạch mạng lưới này. Quy hoạch phát triển nhà trọ thành khu vực do Nhà nước quản lý để cho thuê trách tình trạng phát triển tự pháp khó quản lý như hiện nay. Đối với các hộ xây dựng kinh doanh cho. thuê nhà trọ . phải xin phép và nộp thuế ' - Quy hoạch mạng lưới kinh doanh đá quý, vật liệu xây dựng, nhà hàng, ăn uống bình dân Từng bước quy hoạch sắp xếp lại để các ngành nghề này đi vào hoạt động có nề nếp theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước. 2. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường để điều tiết bằng kinh tế đúng mức, đúng pháp luật tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại Để góp phần tổ chức tốt công tác thị trường thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về Thương mại trong giai đoạn hiện nay. Lực lượng quản lý thị trường từ Trung ương đến địa phương cần tăng cường thanh tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật thương mại, tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, làm và bán hàng cấm, hàng giả, đầu cơ lũng đoạn thị trường, các hành vi kinh doanh trái phép khác vi phạm pháp luật thương mại. Đây là nội dung cơ bản được quy định trong Luật Thương mại. Để làm tốt công tác này cần tập trung vào: Nghiên cứu từ thực tế, khuyến nghị Chính phủ sớm có Nghị định về tổ chức, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ quyền hạn việc chuyển đổi cục quản lý thị trường thành thanh tra chuyên ngành Thương mại, trên cơ sở sắp xếp lại lực lượng quản lý thị trường theo Luật Thương mại. Sớm sửa đổi và bổ sung pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, đồng thời ban hành những chế định pháp lý bức thiết về thương mạt để đảm bảo thực thi luật Thương mại nói riêng và pháp luật nói chung. Bộ máy thanh tra chuyên ngành Thương mại cần được tổ chức thành hệ thống dọc, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Từ Bộ Thương mại đến Sở Thương mại và dưới đó là các đội để bám sát địa bàn. Thống nhất phối hợp thanh tra kiểm tra và xử lý những vi phạm. Cán bộ thanh tra chuyên ngành Thương mại phải có kiến thức về quản lý thị trường, có nghiệp vụ chuyên sâu, hiểu biết, nắm vững pháp luật. Đồng thời đội ngũ cán bộ này phải là những người có nhiệt tình, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng để hạn chế những tùy tiện hay những tiêu cực cá nhân trong khi thi hành công vụ. Cần thiết phải trang bị cấp hiệu, cờ hiệu cho thanh tra chuyên ngành thương mại, thanh tra chuyên ngành Thương mại ở địa phương cần được cơ quan tài chính địa phương cấp phát trực tiếp vì trong những năm qua Sở Tài chính đã quản lý cơ quan quản lý thị trường. Do vậy, những yêu cầu bức xúc về kinh phí, phương tiện hoạt động được giải quyết kịp thời đáp ứng yêu cầu hoạt động kiểm tra kiểm soát. Nếu kinh phí hoạt động qua Sở Thương mại thì việc cấp phát đó chỉ là hình thức, thêm cầu nối và bị bó hẹp trong phạm vi kinh phí hành chính thì thanh tra chuyên ngành thương mại không thể hoạt động được. Có chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm công tác này như chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ công tác phí và kể cả chế độ khi bị thương tật, hy sinh khi thi hành công vụ. Ngoài ra, còn có chế độ thích đáng cho mạng lưới đặc tình, chế độ mua tin quần chúng. Có sự phối hợp thường xuyên để tạo sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp thì công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại mới có kết quả, không chồng chéo nhau khi kiểm tra. 3. Rà soát thường xuyên luật lệ, chính sách đối với hoạt động thương mại dịch vụ góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý ngành thương mại của nước ta Hoàn thiện quản lý Nhà nước về Thương mại cần tập trung vào tạo dựng môi trường lành mạnh, thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển đồng thời quản lý có hiệu quả, hiệu lực trong các hoạt Thương mại. 3.1. Hoàn thiện chính sách thị trường Mặc dù luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân đã có tác dụng tích cực, đóng góp đáng kể vào quá trình đổi mới phát triển kinh tế nước ta. Đến nay nội dung của 2 luật trên không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, không đủ khả năng để điều chỉnh các đối tượng kinh doanh ngày càng nhiều và vô cùng phức tạp, đến nay không còn hiệu lực. Vì vậy, ngày 12/6/1999, Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 5 Thông qua. Đã mở rộng hơn nửa phạm vi điều chỉnh, nội dung đầy đủ hơn, bao quát hơn, phù hợp với yêu cầu tăng cường quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng của giới kinh doanh. Phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. Góp phần không nhỏ vào việc cải thiện môi trường kinh doanh. Thúc đẩy thêm việc huy động nội lực và phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới . . Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thực hiện từ ngày 1/1/2000 do đó cần có Nghị định và các văn bản có liên quan khác, cần cụ thể hóa hơn các nội dung và luật đã quy định Nghị quyết 12/BCT ngày 3/1/1996 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thực hiện và có phát huy tác dụng, dần dần đã đi vào cuộc sống. Ngành Thương mại trong thời gian qua đã có những chuyển hướng nhất định. Trên cơ sở quan điểm từng bước hoàn thiện về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý: Bộ Thương mại và cơ quan chức năng cùng các sở chuyên ngành Thương mại cần tiến hành sở kết, tổng kết rút kinh nghiệm, hướng phát triển thương mại trong thời gian tới tạo điều kiện vừa phát triển thương mại đối với thị trường trong nước mà còn định hướng phát triển thương mại với thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường khu vực ASEAN. - Tiếp lục hoàn thiện, sử dụng đúng đắn các công cụ tài chính tín dụng, thuế. Hai luật thuế mới là thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đã được thực hiện từ năm 1999. Qua hơn 1 năm thực hiện bước đầu đã thu được một số kết quả nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa phù hợp với tình hình kinh doanh hiện nay và đang cần được Chính phủ sửa đổi bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp hơn với chủ trương của cả nước và thông lệ quốc tế. Hoàn thiện cơ chế giả, chính sách quản lý giá thật chủ động sát thực tiễn để có giải pháp hữu hiệu, tránh đột biến có thể xảy ra. 3.2. Tiếp tục nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động Thương mại Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động Thương mại cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: * Theo điều 246 luật Thương mại, Chính phủ phải thống nhất quản lý Nhà nước về Thương mại. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Thương mại. Các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý theo lĩnh vực được phân công phụ trách và phối hợp với Bộ Thương mại, UBND các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước về Thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ. Như vậy Bộ Thương mại là cơ quan Trung ương cao nhất thay mặt Chính phủ quản lý Nhà nước về lĩnh vực thương mại từ Trung ương đến địa phương. Tiếp đến là Sở Thương mại là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh trực tiếp quản lý chức năng Nhà nước về hoạt động thương mại đối với các thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương mại trong phạm vi tỉnh. Mặc dù được đánh giá ở Việt Nam "Thương mại hợp pháp vẫn chịu sự quản lý sát sao" song với Luật Thương mại nói trên, đánh giá qua quá trình thực hiện chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, như Thương mại - Tài chính - Thuế - Quản lý thị trường - Quản lý chất lượng hàng hóa v.v... đã dẫn đến tình trạng hiện nay vừa thiếu chặt chẽ lại có sự chồng chéo giữa chức năng nhiệm vụ của các cơ quan. Đặc biệt là đối với các hộ kinh doanh nhỏ, thì phòng Tài chính kế hoạch huyện cấp giấy phép kinh doanh, chi cục thuế chỉ chuyên về vấn đề thu thuế. Đội quản lý thị trường chuyên về vấn đề kiểm tra và xử phạt. Điều này đã dẫn đến tình trạng mạnh ngành nào ngành ấy làm, vừa gây phiền hà, không khớp nhau, có hộ đăng ký kinh doanh nhưng trốn thuế, có hộ nộp thuế đầy đủ nhưng không đăng ký kinh doanh ... * Tiếp tục hoàn thiện chế độ đăng ký kinh doanh tổ chức và tạo điều kiện cấp phép dễ dàng hơn, thuận lợi hơn tránh thủ tục phiền hà. Hiện nay việc cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập doanh nghiệp do nhiều cơ quan đảm nhận. Bộ, Sở Kế hoạch và đầu tư, Ban Tổ chức chính quyền, Sở, Bộ Thương mại. Điều này gây khó khăn trong cấp phép vừa khó quản lý đối với cơ quan quản lý chuyên ngành Thương mại. Nếu để cho ngành thương mại vừa cấp giấy phép vừa quản lý thì chưa chắc đã tốt. Bởi vì nó có sự thống nhất, song thực tế lại mắc vào tình huống vừa đánh trống vừa thổi kèn dẫn đến hiệu quả quản lý không cao. Nên chăng vẫn để cho Bộ, Sở Kế hoạch và đầu tư cấp giấy phép còn việc quản lý sau giấy phép vẫn giao cho ngành thương mại nhưng có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan cấp đăng ký và cơ quan quản lý để việc quản lý chặt chẽ hơn. Ví dụ như khi cấp đăng ký kinh doanh xong thì cơ quan đăng ký phải báo ngay cho cơ quan quản lý và ngược lại cơ quan quản lý phải quản lý chặt chẽ việc kinh doanh đúng mặt hàng và thời gian để phản hồi lại cho cơ quan cấp đăng ký. Sở Thương mại có trách nhiệm tổng hợp báo cáo UBND tỉnh - Bộ Thương mại đồng thời chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường phối hợp với các cơ quan chức năng để quản lý kiểm tra sau khi cấp giấy phép, xử lý kiên quyết những trường hợp kinh doanh không đúng quy định của pháp luật. Nhanh chóng có biện pháp củng cố và quy định thống nhất về việc chấp hành chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đối với cơ quan quản lý Nhà nước nên thống nhất chế độ báo cáo chuyên ngành quản lý. 4. Tăng cường củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước từ Thương mại 4.1. Bộ Thương mại Bộ Thương mại là cơ quan thay mặt Chính phủ quản lý Nhà nước về Thương mại. Bộ máy Bộ Thương mại được sắp xếp theo hướng tinh gọn, giảm mạnh biên chế, sát nhập những bộ phận không cần thiết để phù hợp hơn với tình hình mới. Tuy đã đạt được những kết quả nhất định trong việc củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý ở Bộ song tổ chức bộ máy của Bộ Thương mại theo Nghị định 95/ CP ngày 4/12/1993 bộc lộ một số hạn chế, nhược điểm. Vì vậy để từng bước hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý Nhà nước về Thương mại ở Trung ương Căn cứ vào nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước về Thương mại theo điều 244 ® 246 Luật Thương mại và căn cứ nội dung của Nghị định 95/CP ngày 4/12/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Bộ Thương mại, với yêu cầu thực tế là chúng ta đang hội nhập với khu vực và với thế giới. Việt nam đã là thành viên của ASEAN, AFEC tham gia nhiều tổ chức kinh tế khác và Bộ Thương mại là đầu mối đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ và thực tiễn chỉ đạo và điều hành hoạt động Thương mại cần tổ chức như sau: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ theo yêu cầu mới và vai trò của Bộ Thương mại là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý Nhà nước về Thương mại. Để xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thương mại bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hoạt động quản lý. Xây dựng bộ máy tố chức hợp lý tinh gọn, phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các Vụ, Cục kết hợp với việc đổi mới đội Ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiến trình cải cách hành chính. Trong điều kiện chuyển cơ chế thì cần phải làm rõ để hướng mạnh hoạt động của các Vụ, Cục hiện có vào việc thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ. Xây dựng chiến lược quy hoạch kế hoạch phát triển Thương mại. Xây dựng chính sách và luật pháp làm cơ sở pháp lý để điều tiết và phát triển Thương mại. Tổ chức phát triển thị trường trong và ngoài nước, xúc tiến Thương mại, nhất là xuất khẩu. Kiểm tra, kiểm soát thị trường, quản lý chất lượng hàng hoá, chống hoạt động kinh doanh phi pháp. Quản lý và giám sát hoạt động của các doanh nghiệp trực thuộc Bộ. Phương châm sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Bộ Thương mại phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những mặt hạn chế của bộ máy hiện có để từng bước hoàn thiện để bộ máy cơ quan Bộ hoạt động có hiệu quả hơn. 4.2. Sở Thương mại Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của Sở Thương mại là công cụ của UBND tỉnh có chức năng quản lý về thương mại trên địa bàn tỉnh. Sở Thương mại có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thị trường, phổ biến hướng dẫn thực hiện pháp luật, giám sát việc chấp hành của các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kính tế. Tiếp cận trực tiếp với sự vận động của thị trường. Do đó, Sở là địa chỉ phản hồi đầy đủ nhất các thông tin quản lý. Nhưng trên thực tế hoạt động thương mại trong cơ chế thị trường ngày càng phát triển mạnh và vô cùng phức tạp. Song ở Thông tư 09/CP ngày 14/4/95 chưa quyết định thống nhất tổ chức bộ máy ở các Sở làm cho công tác quản lý Nhà nước về Thương mại ở các địa phương thiếu thống nhất, đồng bộ. Chỉ vì yêu cầu đặt ra phải có bộ máy quản lý hoạt động động thương mại có hiệu lực trên địa bàn tỉnh, huyện mà Bộ Thương mại đã thông qua Chính phủ ban hành Thông tư 36/TTLB ngày 20/1/2000 hướng dẫn chức năng nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy ở Sở Thương mại. Để Sở Thương mại thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quyền hạn quản lý Nhà nước ở địa phương theo luật Thương mại. Bộ Thương mại trực tiếp hướng dẫn các Sở Thương mại từng bước thực hiện Thông tư 36/TTLB để sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Sở Thương mại. Trước hết Sở Thương mại xác định được rằng chi cục quản lý thị trường không phải là một phòng chuyên môn thuộc Sở tạo điều kiện cho tính độc lập sáng tạo của quản lý thị trường. Thông tư 36 cũng đã xác định rõ số lượng phòng cần thiết cho tất cả các Sở và một số phòng theo yêu cầu đặc biệt nhưng trên thực tế cần có sự linh hoạt vào điều kiện thực tế cụ thể của từng địa bàn. Hiện nay Sở Thương mại còn được Bộ Thương mại ủy quyền cấp giấy phép xuất nhập khẩu cho các hoạt động gia công đối với nước ngoài và các dự án của nước ngoài tại Việt nam, quản lý văn phòng đại diện, quảng cáo Thương mại, hội chợ triển lãm Thương mại và các hoạt động xúc tiến Thương mại, quản lý chất lượng hàng hoá. Xuất phát từ yêu cầu mở rộng thị trường Xã hội nhất là thị trường nông thôn và miền núi từ ủy quyền nói trên để tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về Thương mại trên từng địa bàn hệ thống các phòng ban của Sở đã được sắp xếp lại phù hợp hơn bao gồm: Phòng Tổ chức - Hành chính và thanh tra. Phòng Kế hoạch - Tổng hợp và xúc tiến Thương mại. Phòng Quản lý Thương mại: Phòng Quản lý du lịch trực thuộc Sở. Đây là cơ quan tham mưu của Sở Thương mại ngoài ra căn cứ vào yêu cầu, nội dung và khối lượng công việc có thể thành lập phòng như Phòng Quản lý văn phòng đại diện, Chi nhánh thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài, Phòng Quản lý xuất nhập khẩu trung tâm Thông tin và xúc tiến Thương mại. Tại địa bàn địa phương (các tỉnh) vẫn duy trì tổ chức chi cục quản lý thị trường trực thuộc Sở thương mại. Qua nhiều năm hoạt động đã thu được nhiều thành tựu trong việc kiểm tra kiểm soát và chống buôn lậu, gian lận thương mại. Song trong Luật Thương mại lại nói tới thanh tra chuyên ngành thương mại có chức năng tương tự như quản lý thị trường nhưng quyền hạn lại ít hơn vậy nên chăng chúng ta phải bổ xung thêm chức năng cho thanh tra chuyên ngành thương mại như cục quản lý thị trường trước đây để phát huy hiệu quả hoạt động. 4.3. Phòng Thương mại huyện Trong điều kiện hiện nay, thị trường phát triển rất nhanh thành phần kinh tế tư nhân, cá thể phát triển nhanh từ thành thị đến nông thôn cho nên bộ máy quản lý Nhà nước về Thương mại cấp huyện cũng phải được củng cố tương xứng với việc phát triển của thị trường và để giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động Thương mại. Hiện nay, hầu hết các huyện chưa có Phòng Thương mại mà nó chỉ là một bộ phần nằm trong Phòng Hành chính với số lượng nhân viên quá ít, chỉ có một người, trình độ chuyên môn thiếu, vì vậy để thực hiện việc quản lý được tốt và có hiệu quả nhất thiết các quận huyện phải căn cứ vào quy định tại TTLT số 36/2000 quy định đối với các quận của thành phố thuộc Trung ương, các thành phố thị xã thuộc tỉnh được xếp hạng đô thị Loại II; III thành lập Phòng Thương mại du lịch. Các thị xã không thuộc diện trên và các huyện có nhiều hơn 2000 thương nhân thành lập Phòng Thương mại - Dịch vụ. Các huyện còn lại thành lập bộ phận quản lý về thương mại thuộc một phòng chuyên môn khác. Các huyện phải nhanh chóng triển khai thực hiện việc củng cố lại bộ máy này để đáp ứng yêu cầu thực tế rất phức tạp tại địa phương mà hầu như từ trước đến nay chưa dược quản lý. 5. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý thương mại nói chung, quản lý Nhà nước về Thương mại Tiếp tục hoàn thiện quản lý Nhà nước về Thương mại, ngoài việc lổ chức bộ máy còn phải chú trọng đến đội ngũ cán bộ. Với bộ máy tinh gọn thì đội ngũ cán bộ phải giỏi chuyên môn, từ về phẩm chất đạo đức mới mang lại hiệu quả cao . Thực trạng đội ngũ cán bộ hiện nay mặc dù đã qua nhiều năm củng cố và sàng lọc nhưng nhìn chung cán bộ cấp Sở, huyện cần phải được đào tạo lại thì mới có thể đảm đương được nhiệm vụ được giao. Làm tốt việc quy hoạch cán bộ , gửi cán bộ đi đào tạo tại nước ngoài để bảo đảm chất lượng cán bộ đối với từng vị trí ,chức danh. Cần thường xuyên kiểm tra chuyên môn , sàng lọc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ , kiên quyết thay thế các cán bộ có chuyên môn thấp , phẩm chất năng lực kém . Thực hiện tốt công tác tuyển chọn, sử dụng cán bộ có khả năng và trình độ chuyên môn để phát huy hết sở trường . Có chế độ ưu đãi đối với cán bộ tự học tập nâng cao trình độ . 6. Hoàn thiện, đổi mới công tác thông tin Thương mại và hoạt động xúc tiến Thương mại Thông tin đối với hoạt động Thương mại ngày nay là nhu cầu không thể thiếu được. Đối với quản lí Nhà nước về Thương mại thông tin là rất quan trọng nói .Thiếu thông tin Nhà nước sẽ không có định hướng phát triển sản xuất, kinh doanh phù hợp .Thiếu thông tin sẽ làm cho sự phối kết hợp giữa các ngành , các cơ quan hữu quan không được chặt chẽ . Công việc thu thập và xử lí thông tin phải được giao cho Cục xúc tiến thương mại và các tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài . Cục xúc tiến thưong mại và các tham tán cần phân tích thị trường , dự báo về tiềm năng và phổ biến đến các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm thị trường và định hướng kinh doanh đúng đắn đồng thời các doanh nghiệp qua đó giới thiệu mình với bạn hàng tốt hơn. Cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ thông tin Thương mại có trình độ để có thể nâng cao chất lượng của thông tin. Việc hoàn thiện hệ thông thống tin thương mại còn phải giải quyết tốt các vấn đề sau: Hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống phương tiện máy móc, thiíet bị cần thiết cho việc thu thập , xử lí thông tin dữ liệu và lưu trữ thông tin. Hệ thống này cần phải đảm bảo cung cấp đầy đủ , chính xác và kịp thời cho các hoạt động quản lí thương mại. 7. Quản lí chặt chẽ chất lượng hàng hoá kinh doanh Thương mại, tăng cường công tác đấu tranh chống gian lận thươngmại Chất lượng hàng hoá trong kinh doanh là yếu tố quyết định sự sống còn đối với doanh nghiệp. Do đó muốn đảm bảo uy tín thương mại đối với người tiêu dùng và bạn hàng ngoài nước , Nhà nước cần tăng cường quản lí chặt chẽ chất lượng hàng hoá trên thị trường, kiên quyết không để hàng giả , hàng kếm chất lượng tham gia vào thị trường, đấu tranh chống các hoạt động gian lận thương mại . Đây là một khâu vô cùng quan trọng nhưng hiện nay trách nhiệm chưa được phân định rõ thuộc về bộ phận nào. Chính phủ nên sớm chuyển nhiệm vụ quản lí chất lượng sang một cơ quan chuyên môn nhue Bộ Thương mại để cho phù hợp với Luật Thương mại, vai trò và vị trí của Bộ Thương mại. MỤC LỤC BỘ THƯƠNG MẠI UBND TỈNH Các tổ chức giúp đỡ Bộ trưởng thực hiện chức năng QLNN Các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại Các tổ chức sự nghiệp Sở Thương mại các tỉnh thành phố Văn phòng Bộ Vụ Khoa học kỹ thuật Tổng công ty Xăng dầu Viện nghiên cứu TM Phòng t/c hành chính thanh tra Vụ xuất nhập khẩu Vụ Pháp chế Phòng Kinh doanh tổng hợp Vụ Đầu tư Vụ Tài chính Kế toán Tổng công ty Muối Tạp chí Thương mại Phòng Quản trị Du lịch Vụ Thống kê Vụ Tổ chức cán bộ Tổng công ty máy phụ tùng Báo Thương mại Ban Thanh tra Vụ c/s thị trường trong nước Vụ Thanh tra Bộ Trung tâm thông tin TM Chi cục quản lý Vụ c/s thị trường đa biên Cục quản lý thị trường Các trường ĐT chuyên môn Vụ c/s thị trường các nước khác Châu á và TBD Cục quản lý chất lượng hàng hoá và đo lường Vụ c/s thị trường các nước Âu Mỹ và các t/c kinh tế quốc tế Các phòng ban TM huyện Vụ c/s thị trường Châu Phi Tây Phòng Thương mại huyện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5640.doc
Tài liệu liên quan