Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội

Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản đang là một vấn đề hết sức quan trọng. Là một doanh nghiệp nhà nước, trải qua quá trình hình thành và phát triển hơn 100 năm, công ty Kinh doanh nước sạch Hà Nội đã gặp không ít khó khăn. Song với nội lực của chính mình cộng với sự chỉ đạo trực tiếp của Sở giao thông công chính Hà Nội, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của Ban lãnh đạo Thành phố Hà Nội Công ty đã vững vàng phát triển mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng được một nhu cầu sử dụng nước khá lớn. Đó cũng là thành quả nhất định mà công ty đạt được cho tới nay. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty vẫn còn thấp. Vì vậy trong điều kiện hiện nay đòi hỏi Công ty phải có những chính sách, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên toàn công ty.

doc63 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hí đến mức có thể. Ta thấy hệ số doanh lợi, hiệu suất sử dụng tổng tài sản của Công ty rất thấp, xét về mặt tài chính chỉ số thấp như vậy chứng tỏ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thấp. Tuy nhiên xét về mặt xã hội, do Công ty là doanh nghiệp công ích, ngoài mục tiêu kinh doanh là sinh lời thì Công ty còn phải đảm bảo mục tiêu xã hội: cung cấp nước sạch tới từng người dân nội ngoại thành thủ đô, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Giá bán nước sạch do quy định của nhà nước, ngoài việc căn cứ vào giá thành sản xuất còn phải căn cứ vào thu nhập trung bình của người dân. Lợi nhuận không phải là mục tiêu hàng đầu mà trong những năm qua Công ty sản xuất kinh doanh có lãi là một điều đáng mừng. Các chỉ số tài chính trong tương lai phải cao hơn nữa để phù hợp với môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp. 2. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Tài sản cố định phản ánh năng lực sản xuất kinh doanh cũng như trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới việc tạo ra sản phẩm tăng năng suất lao động... từ đó tạo ra lợi nhuận làm cho doanh nghiệp phát triển không ngừng. Do vai trò quan trọng của việc sử dụng tài sản cố định mà doanh nghiệp ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. Dựa vào các chỉ tiêu tài chính để phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ. Bảng 13: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng TSCĐ Đơn vị tính: triệu đồng TT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 2004/2003 Chênh lệch 2005/2004 Số tiền % Số tiền % 1 TSCĐ bình quân 677252,5 727603,5 786681,5 50351 7,43 59078 8,12 2 Doanh thu thuần 211855 229861 330982 18006 8,5 101121 44 3 Lợi nhuận sau thuế 12167 15035 14788 2868 23,57 -247 -1,64 4 Sức sản xuất của TSCĐ 0,313 0,316 0,421 0,003 0,96 0,105 33,23 5 Hàm lượng TSCĐ 3,197 3,165 2,377 -0,032 -1 -0,788 -24,9 6 Sức sinh lợi của TSCĐ 0,018 0,021 0,019 0,003 16,7 -0,002 -9,52 Nguồn: phòng kế toán – tài vụ ( Lưu ý: “tài sản cố định bình quân là bình quân số học của nguyên giá TSCĐ có ở đầu kỳ và cuối kỳ với khấu hao luỹ kế cuối kỳ trước chuyển sang”- giáo trình tài chính – doanh nghiệp – nhà xuất bản thống kê Hà Nội năm 2005). Sức sản xuất của TSCĐ là chỉ tiêu đầu tiên được sử dụng để phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ, nó cho biết một đơn vị tài sản cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng TSCĐ càng cao. Công thức tính: Sức sản xuất của TSCĐ trong một kỳ= Doanh thu thuần trong kỳ/ TSCĐ bình quân trong kỳ. Nhìn vào bảng 13 ta thấy sức sản xuất của TSCĐ tăng dần qua các năm. Năm 2003 một đồng TSCĐ thì thu được 0.313 đồng doanh thu thuần. Năm 2004 cứ một đồng TSCĐ đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì thu được 0,316 đồng doanh thu thuần, tăng 0,003 đồng so với năm 2003, tương ứng với tốc độ tăng 0,96%. Năm 2005 sức sản xuất của TSCĐ tăng hơn hẳn (0,421), mỗi đồng TSCĐ được sử dụng đem lại doanh thu thuần cao hơn năm 2004 là 0,105 đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 33,23%. Tóm lại năm 2005 chỉ tiêu sức sản xuất của TSCĐ đạt cao nhất trong 3 năm, mặc dù tốc độ tăng TSCĐ năm 2005 (8,48%) nhỏ hơn tốc độ tăng TSCĐ năm 2004 (23,39%) nhưng một đồng TSCĐ năm 2005 sản sinh ra nhiều doanh thu thuần hơn chứng tỏ việc đầu tư vào TSCĐ đã phát huy được hiệu quả, khai thác tốt công suất của máy móc thiết bị, sử dụng thời gian làm việc của chúng hiệu quả. Một số dây chuyền sản xuất được mua sắm từ năm 2004 nhưng năm 2005 mới đưa vào sử dụng hiệu quả. Hàm lượng TSCĐ cho biết để tạo ra được 1 đơn vị doanh thu thuần cần bao nhiêu đơn vị TSCĐ, chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu suất sử dụng TSCĐ càng lớn. Công thức tính: Hàm lượng TSCĐ = ( TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ / doanh thu thuần trong một kỳ) Qua bảng 13 ta thấy hàm lượng TSCĐ năm 2004 nhỏ hơn năm 2003 là 0,032 về số tuyệt đối và 1% về số tương đối. Vì thế mà hiệu quả sử dụng TSCĐ năm 2004 cao hơn năm 2003. Năm 2004 để tạo được một đồng doanh thu thuần chỉ cần 3,165 đồng TSCĐ trong khi đó năm 2003 để tạo ra được một đồng doanh thu thuần cần tới 3,197 đồng TSCĐ. Năm 2005 để tạo ra được một đồng doanh thu thuần chỉ cần có 2,377 đồng TSCĐ. Hàm lượng TSCĐ năm 2005 giảm 0,788 về số tuyệt đối, giảm 24,9% về số tương đối. Điều này chứng tỏ việc sử dụng TSCĐ của Công ty tương đối hợp lý, cần phát huy hơn nữa trong những năm tới. Sức sinh lợi của TSCĐ cho biết mỗi đơn vị tài sản cố định đưa vào hoạt động sản suất kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đơn vị lợi nhuận. Công thức tính: Sức sinh lợi của TSCĐ = Lợi nhuận sau thuế / TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ. Qua bảng 13 ta thấy năm 2003 cứ một đồng TSCĐ đưa vào sản xuất kinh doanh Công ty thu được 0,018 đồng lợi nhuận. Năm 2004 mỗi đồng TSCĐ đưa vào sản xuất kinh doanh Công ty thu được 0,021 đồng lợi nhuận, tăng 0,003 đồng so với năm 2003, tương ứng với tốc độ tăng 16,7%. Tuy nhiên năm 2005 mỗi đồng TSCĐ đầu tư vào sản xuất kinh doanh Công ty chỉ thu được 0,019 đổng lợi nhuận, giảm 0,002 đồng so với năm 2004, tương ứng với tốc độ giảm 9,52%. Ta thấy chỉ tiêu sức sản xuất của TSCĐ có xu hướng tăng, tuy nhiên sức sinh lợi của tài sản cố định lại có xu hướng giảm. Nguyên nhân là do việc sử dụng tài sản cố định là tương đối hợp lý, một số máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ được đầu tư mua sắm từ năm 2004 nhưng đến năm 2005 mới đem vào sử dụng. Nhưng lợi nhuận sản sinh từ mỗi đồng TSCĐ giảm là do lợi nhuận năm 2005 giảm nhiều so với năm 2004, do chi phí quản lý và chi phí bán hàng tăng nhiều, trong khi đó doanh thu thuần tăng với tốc độ nhỏ hơn. Tóm lại với đặc thù là doanh nghiệp nhà nước lại sản suất sản phẩm chính là nước sạch _ nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt và sản xuất, tuy nhiên lại chịu sự quản lý của nhà nước, giá bán theo quy định của cơ quan quản lý cấp trên. Về thực tế thì giá bán nước hiện nay chưa đủ để bù đắp lại chi phí sản xuất, tỷ lệ thu tiền nước còn thấp, không thể tránh khỏi tình trạng thất thoát nước nên lợi nhuận trên mỗi đồng TSCĐ rất thấp mặc dù việc quản lý và sử dụng TSCĐ tương đối tốt. Để tăng khả năng sinh lời của mỗi đồng tài sản nói chung ( TSCĐ nói riêng) thì không chỉ phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp mà còn thụ thuộc vào chính sách của ngành nước. 3. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Trong bất cứ doanh nghiệp nào tài sản bao giờ cũng gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Tài sản cố định bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn, được đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn. Tài sản lưu động mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong cơ cấu tổng tài sản ( khoảng 30%) tuy nhiên có vị trí rất quan trọng. Khi phân tích hiệu quả sử dụng tài sản, ngoài việc xem xét hiệu quả sử dụng tài sản cố định, thì phải phân tích hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, để thấy toàn diện về tình hình quản lý và sử dụng tài sản của Công ty có hiệu quả không. Các chỉ tiêu được sử dụng để phân tích thực trạng sử dụng tài sản lưu động của Công ty gồm: Vòng quay dự trữ, tồn kho Kỳ thu tiền bình quân Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng TSLĐ +) Vòng quay dự trữ, tồn kho được sử dụng để phản ánh số lần luân chuyển hàng tồn kho trong một kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính toán nhằm mục đích xác định mức dự trữ vật tư hàng hoá hợp lý. Công thức tính Vòng quay dự trữ tồn kho = Giá vốn hàng hoá / Tồn kho bình quân trong kỳ Bảng 14: Chỉ tiêu vòng quay dự trữ tồn kho Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 2004/2003 Chênh lệch 2005/2004 Số tiền % Số tiền % Giá vốn hàng hoá 131291 142450 195504 11159 8,5 53054 37,24 Tồn kho bình quân 24115,5 25212,5 27340,5 1097 4,5 2128 8,44 Vòng quay dự trữ tồn kho 5,44 5,65 7,15 0,21 3,86 1,5 26,55 Nguồn: phòng kế toán – tài vụ Qua bảng 14 ta thấy năm 2003 ta thấy hàng tồn kho chỉ luân chyển được 5,44 vòng. Năm 2004 vòng quay dự trữ, tồn kho là 5,65 tăng lên 0,21 về số tuyệt đối và tương ứng với số tương đối là 3,86% so với năm 2003. Năm 2005 hàng tồn kho luân chuyển được 7,15 vòng, tăng 1,5 vòng so với năm 2004, tương ứng với tốc độ tăng 26,55%. Vòng quay dự trữ tồn kho năm 2005 tăng mạnh là do tốc độ tăng của giá vốn hàng bán (37,24%) gấp gấn 4 lần so với tốc độ tăng của tồn kho bình quân (8,44%). Chỉ tiêu vòng quay dự trữ tồn kho tăng thì số lần dự trữ vật tư hàng hoá nhiều, do vậy công tác quản lý vật tư cần được chú trọng hơn. Chỉ tiêu này tăng chứng tỏ việc hoạt động sản xuất của Công ty tương đối khẩn trương, thời gian gián đoạn là thấp. +) Kỳ thu tiền bình quân cho biết số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu, chỉ tiêu này được tính như sau: Kỳ thu tiền bình quân = Tổng số ngày trong 1 kỳ/ Vòng quay khoản phải thu trong kỳ Vòng quay khoản phải thu trong kỳ = doanh thu bán hàng trong kỳ / Các khoản phải thu bình quân Bảng 15: Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 2004/2003 Chênh lệch 2005/2004 Số tiền % Số tiền % Doanh thu BH 211855 229861 330982 18006 8,5 101121 44 Phải thu BQ 50792 54014 76213 3222 6,34 22199 41,1 Vòng quay khoản phải thu 4,17 4,26 4,34 0,09 2,16 0,08 1,88 Kỳ thu tiền BQ 86,31 84,6 82,89 -1,71 -1,98 -1,71 -2,02 Nguồn: phòng kế toán – tài vụ ( Tổng số ngày trong kỳ = 360 ngày ) Năm 2003 cần 86,31 ngày để thu được các khoản phải thu. So sánh với năm 2003 thì năm 2004 số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu là 84,6, giảm số tuyệt đối là 1,71, số tương đối 1,98%. Năm 2005 cần 82,89 ngày để thu được các khoản phải thu, giảm 1,71 so với năm 2004, tương ứng với tốc độ giảm là 2,02%. Nguyên nhân kỳ thu tiền bình quân giảm là do vòng quay khoản phải thu tăng. Vòng quay khoản phải thu có xu hướng tăng, do tốc độ tăng của doanh thu bán hàng ( năm 2005 là 44%) cao hơn tốc độ tăng của các khoản phải thu bình quân ( năm 2004 là 41,1%). Mà kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng tốt. Vì thế mà trong những năm tới cần giảm chỉ tiêu này hơn nữa bằng các biện pháp tăng doanh thu bán hàng. Các khoản phải thu bình quân giữ ở mức ổn định. +) Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng TSLĐ Hiệu quả sử dụng TSLĐ = Kết quả / Tài sản lưu động Kết quả được biểu hiện bằng doanh thu hay lợi nhuận trong kỳ sản xuất kinh doanh, còn TSLĐ được tính bình quân trong kỳ. Bảng 16: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng TSLĐ Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 2004/2003 Chênh lệch 2005/2004 Số tiền % Số tiền % Doanh thu thuần 211855 229861 330982 18006 8,5 101121 44 Lợi nhuận sau thuế 12167 15035 14788 2868 23,57 -247 -1,64 TSLĐ bình quân 264898 276563 320427 11665 4,4 43864 15,86 Vòng quay TSLĐ 0,80 0,83 1,03 0,03 3,75 0,2 24,1 Mức đảm nhiệm TSLĐ 1,25 1,2 0,97 -0,05 4 -0,23 -19,17 Hiệu quả sử dụng TSLĐ 0,046 0,054 0,046 0,008 17,39 -0,008 -17,39 Nguồn: phòng kế toán – tài vụ Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động ( hay vòng quay tài sản lưu động ): được sử dụng để biết mỗi đơn vị TSLĐ sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Công thức tính: Vòng quay TSLĐ trong kỳ = Doanh thu thuần trong kỳ/TSLĐ bình quân trong kỳ. Ta nhận thấy: năm 2003 cứ một đồng TSLĐ của Công ty được huy động vào sản xuất tạo ra được 0,8 đồng doanh thu thuần. Năm 2004 một đồng TSLĐ được huy động vào sản xuất tạo ra 0,83 đồng doanh thu thuần, tăng 0,03 đồng so với năm 2003, tương ứng với mức tăng 3,75%. Năm 2005 một đồng TSLĐ đưa vào sản xuất kinh doanh sản sinh ra 1,03 đồng doanh thu thuần, tăng lên 0,2 đồng so với năm 2004, tương ứng với mức tăng là 24,1%. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSLĐ càng tốt. Vòng quay tài sản lưu động có xu hướng tăng và năm 2005 là cao nhất, đây là một tín hiệu tốt và cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới. Nguyên nhân của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản lưu động năm 2005 tăng tới 24,1% là do doanh thu thuần năm 2004 tăng với tốc độ 44%, trong khi đó tốc độ tăng của TSLĐ bình quân trong kỳ là 15,86%. Vì thế mà tăng doanh thu là một nhiêm vụ rất quan trọng để đảm bảo các chỉ tiêu tài chính khả quan. Mức đảm nhiệm TSLĐ: chỉ tiêu này cho biết để đạt được mỗi đơn vị doanh thu thì Công ty cần bao nhiêu đơn vị TSLĐ. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. Công thức tính: Mức đảm nhiệm TSLĐ = TSLĐ bình quân sử dụng trong kỳ/doanh thu thuần. Qua bảng trên ta thấy, năm 2003 để đạt được một đồng doanh thu cần 1,25 đồng TSLĐ đưa vào sử dụng. Năm 2004 mức đảm nhiệm TSLĐ là 1,2 giảm 0,05 so với năm 2003, tương ứng với mức giảm 4%. Năm 2005 để đạt được một đồng doanh thu thuần cần 0,97 đồng TSLĐ, giảm 0,23 đồng so với năm 2004, tương ứng với mức giảm 19,17%. Ta thấy mức đảm nhiệm TSLĐ giảm là một xu hướng tích cực chứng tỏ việc sử dụng tài sản lưu động của Công ty càng ngày càng phát huy được hiệu quả tốt. Hiệu quả sử dụng TSLĐ trong kỳ phản ánh mỗi đơn vị TSLĐ đem lại bao nhiêu lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Công thức tính: Hiệu quả sử dụng TSLĐ = Lợi nhuận sau thuế / TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Ta thấy cứ mỗi đồng TSLĐ tạo ra được 0,046 đồng lãi năm 2003; 0,054 đồng lãi năm 2004; 0,046 đồng lãi năm 2005. Như vậy là so với năm 2003, năm 2004 chỉ tiêu này tăng 0,008, tương ứng với số tương đối 17,39%. Năm 2005 chỉ tiêu này giảm 0,008 (17,39%) so với năm 2004. Hiệu quả sử dụng TSLĐ biến thiên không đều trong 3 năm 2003, 2004, 2005. Nguyên nhân của việc năm 2005 chỉ tiêu hiệu quả sử dụng TSLĐ giảm xuống bằng năm 2003 là do lợi nhuận sau thuế năm 2005 giảm trong khi đó TSLĐ bình quân năm 2005 tăng. Để chỉ tiêu này tăng trong những năm tới cần có biện pháp tăng lợi nhuận sau thuế. Như trên đã phân tích, hiệu suất sử dụng TSLĐ có xu hướng tăng, Mức đảm nhiệm TSLĐ có xu hướng giảm là tốt. Chỉ có chỉ tiêu hiệu quả sử dụng TSLĐ chưa đạt. Tuy nhiên giá trị các chỉ tiêu này còn rất bé, xét về mặt tài chính là chưa hiệu quả. Nguyên nhân của hạn chế trên là do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Vì thế cần tìm ra nguyên nhân để đưa ra giải pháp phù hợp. IV. Đánh giá về hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty trong một số năm gần đây. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi hoạt động cũng đều đặt ra những mục tiêu phải đạt được. Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu vì nó là chỉ tiêu đầu tiên phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để đạt được lợi nhuận ngày càng cao thì Công ty phải không ngừng nâng cao hiệu quả của các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Trong đó việc sử dụng tài sản, bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động là yếu tố rất quan trọng. Từ phần phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản ta thấy trong những năm gần đây Công ty có những mặt tích cực và hạn chế. Trước hết ta xem xét những mặt mà Công ty đã làm được. 1. Thành công Về cơ bản chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản có xu hướng tăng chứng tỏ quá trình sản xuất liên tục, không gặp phải những sự cố lớn. Bởi lẽ Công ty là doanh nghiệp sản xuất nước sạch và cung cấp các dịch vụ truyền dẫn, lắp đặt. Mà nguyên liệu sản xuất nước sạch từ nguồn nước ngầm được hút từ các mạch nước ngầm theo đường ống truyền dẫn nước về nhà máy. Nước thành phẩm lại theo đường ống dẫn nước đến người tiêu dùng. Đó là một công trình khép kín và ít chịu ảnh hưởng của thiên tai, thời tiết. Ngày 11/6/1985, chính phủ Việt Nam và chính phủ phần Lan ký hiệp định viện trợ không hoàn lại để cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống cung cấp nước sinh hoạt với tổng số vốn đầu tư khoảng 147.232.000.000 đồng và 80.000 USD. Từ dự án này Công ty đã thay thế, đổi mới toàn bộ máy móc thiết bị, nhà xưởng, đường ống truyền dẫn… một cách hiện đại nhất. Mặt khác trong những năm gần đây Công ty liên tục đầu tư vào mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải truyền dẫn, thiết bị dụng cụ quản lý, TSCĐ khác, đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn nhà nước cấp, vốn vay, vốn viện trợ và vốn tích luỹ của Công ty. Bên cạnh đó Công ty được các nước trên thế giới quan tâm hỗ trợ, ngoài hỗ trợ về vốn còn hỗ trợ về mặt công nghệ sản xuất, Công suất của máy móc thiết bị ngày càng lớn, máy móc thiết bị cũ dần dần được thay thế hiện đại hơn. Công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định và lưu động tương đối tốt, chẳng hạn như vòng quay dự trữ tồn kho cao, kỳ thu tiền bình quân thấp…nên chất lượng nước được nâng cao, nhiều khu vực khó khăn về nước đã được cải thiện. Xuất phát từ chính sản phẩm của Công ty là nước sạch, nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh, nên Công ty được sự chỉ đạo trực tiếp của thành uỷ, UBND thành phố, sở giao thông công chính và các ban ngành của thành phố, trong công tác sản xuất, phân phối nước, đặc biệt quan tâm cấp vốn đối ứng cho công tác đầu tư mở rộng phát triển hệ thống cấp nước Hà Nội. Ngành nghề sản xuất nước đã có từ lâu đời ( hơn 100 năm ) cộng với truyền thống đoàn kết nhất trí của ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên giúp cho Công ty khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao do sự phát triển của nền kinh tế, Công ty không ngừng mở rộng sản xuất, sản phẩm được tiêu thụ nhiêu hơn, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Từ đó nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Ngoài việc tiền lương cao hơn thì cán bộ công nhân viên của Công ty còn được hưởng nhiều lợi ích hơn: tiền thưởng, tiền phụ cấp, bảo hiểm y tế v.v… 2. Hạn chế. Qua phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ở phần trên, ta thấy trong thời gian qua đã có những mặt thành công nhất định nhờ sự nỗ lực phấn đấu của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên toàn Công ty, tuy nhiên Công ty vẫn còn nhiều hạn chế trong việc quản lý và sử dụng tài sản. Như các chỉ tiêu hệ số doanh lợi, hiệu quả sử dụng TSCĐ, TSLĐ có chiều hướng giảm. Năm 2005 doanh thu tăng, tài sản tăng nhưng chỉ số sinh lợi lại giảm. Đối với tài sản cố định, chỉ tiêu sức sản xuất của TSCĐ tăng nhưng chỉ tiêu sức sinh lợi của TSCĐ lại giảm. Mặt khác 2 chỉ tiêu này rất thấp, xét về mặt tài chính là chưa hiêu quả. Mỗi đồng TSCĐ đưa vào sản xuất kinh doanh đem lại doanh thu và lợi nhuận rất nhỏ. Dù TSCĐ trong thời gian gần đây được đầu tư nhiều song chưa thay thế hết được một số TSCĐ có tuổi thọ từ rất lâu cần được đổi mới mới đem lại hiệu quả. Đối với tài sản lưu động, các chỉ tiêu vòng quay dự trữ tồn kho, kỳ thu tiền bình quân, sức sản suất của TSLĐ tăng, tuy nhiên chỉ tiêu sức sinh lợi của TSLĐ trong năm 2005 giảm. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSLĐ, hiệu quả sử dụng TSLĐ lại rất thấp, chứng tỏ mỗi đồng TSLĐ đưa vào sản xuất kinh doanh chỉ tạo ra doanh thu và lợi nhuận thấp. Xét về cơ cấu tài sản, tỷ trọng tài sản lưu động của Công ty còn thấp, điều này ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Công ty. Cơ cấu tài sản không hiệu quả ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn. Tài sản lưu động được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn, còn TSCĐ được tài trợ bằng nguồn vốn dài hạn. Những bất cập này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà Công ty không ngừng mở rộng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch ngày càng lớn. Việc sử dụng tài sản chưa thật hiệu quả sẽ không đem lại lợi nhuận cao, điều này ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới máy móc trang thiết bị, tăng năng suất và nâng cao đời sống người lao động, đảm bảo các mục tiêu kinh tế xã hội. Vì thế đòi hỏi Công ty phải đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói riêng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung trong những năm tới. 3. Nguyên nhân của những hạn chế. Như trên đã phân tích, hoạt động quản lý và sử dụng tài sản của Công ty thời gian qua có những mặt thành công, cần được phát huy hơn nữa. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, việc khắc phục những hạn chế này mới đem lại sự phát triển không ngừng. Để tìm ra giải pháp phù hợp cần xem xét những nguyên nhân của những hạn chế trên. a) Nguyên nhân chủ quan Do lịch sử phát triển hơn 100 năm, nhiều hệ thống xử lý nước từ thời kỳ bao cấp vẫn còn được sử dụng đến bây giờ. Mặc dù trong những năm gần đây Công ty rất chú trọng vào đầu tư đổi mới máy móc, trang thiết bị, phương tiện vận tải truyền dẫn nhưng chưa đồng bộ. Mà quy trình sản xuất nước sạch là một quy trình khép kín từ việc khai thác nước ngầm, đến việc cung cấp nước đến từng hộ gia đình. Hệ thống cấp nước không đồng bộ, 25% là đường ống cũ từ thời pháp chưa được nâng cấp cải tạo gây rò rỉ thất thoát nước lớn, ảnh hưởng tới việc cấp nước trong khu vực. Xuất phát từ đặc điểm sản phẩm chính của Công ty là nước sạch, Công ty không có sản phẩm dở dang, sản phẩm tồn kho. Vì vậy mà nó làm giảm giá trị tài sản lưu động. Tình trạng thất thoát nước trong khâu cung cấp và tỷ lệ thu tiền nước chưa cao là nguyên nhân dẫn đến doanh thu thực tế của Công ty thấp. Từ khi xoá bỏ chế độ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty hoạt động dưới sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, song phải tự vận động trong công tác tìm nguồn tài trợ và vay vốn đầu tư nước ngoài, việc trả lãi vốn vay gặp nhiều khó khăn. Vốn quen kiểu quản lý thời bao cấp nên bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường công tác quản lý còn thiếu chặt chẽ. Thủ tục quản lý chưa sát với thực tế, nặng về giấy tờ, làm cho việc quản lý tài sản của Công ty trở nên khó khăn hơn. b) Nguyên nhân khách quan. Năm 1997 dự án hợp tác giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Phần Lan kết thúc, bên Phần Lan đã giao cho Công ty quản lý một số máy móc thiết bị, nhà xưởng nhưng hệ thống truyền dẫn đến nay mới được bàn giao. Việc chậm chễ trong bàn giao đã làm cho vốn cố định của Công ty không được tính đủ để tái đầu tư. Do vậy Công ty phải tự lo các khoản chi phí sửa chữa, bảo dưỡng tuyến đường ống truyền dẫn này. Tốc độ đô thị hoá nhanh, làm tăng nhu cầu sử dụng nước mà hệ thống cấp nước chưa tương xứng đối với yêu cầu phát triển, nên càng làm tăng thêm khó khăn giữa cung và cầu. Tình hình suy thoái các bể giếng có xu hướng gia tăng nhiều, nhiều nhà máy sản xuất nước đã giảm tới 15- 20% công suất như: Tương Mai, Pháp Vân, Hạ Đình, Mai Dịch, Ngọc Hà, làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác. Do nước ở các bể giếng này là nguồn nguyên liệu sản xuất nước nên gây khó khăn trong công tác sản xuất và cung cấp nước tới người sử dụng. Nước ngọt là nguồn tài nguyên quý của quốc gia, muốn có nguyên liệu để sản xuất nước sạch phải có nguồn nước tự nhiên. Mà việc khai thác nguồn nước này chịu sự quản lý của sở tài nguyên môi trường. Do vậy quá trình sản xuất chưa được chủ động. Giá nước mang tính điều tiết cao do chịu ảnh hưởng điều tiết của nhà nước. Chính vì thế mà giá bán chưa bù đắp được chi phí sản xuất. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản, TSCĐ, TSLĐ rất thấp. Ngoài ra người dân còn sử dụng nước chưa hợp lý, lãng phí, nhiều người còn vi phạm đục phá trái phép đường ống nước gây tổn thất cho Công ty. Dẫn đến tình trạng nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt nhưng lại không được cung cấp, đây là hiện tượng “vừa thừa, vừa thiếu” và cần phải khắc phục. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng của doanh thu không cao, còn lợi nhuận thì giảm đáng kể. PHẦN 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN Ở CÔNG TY KINH DOANH NƯỚC SẠCH HÀ NỘI I. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP. Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích hạng I, song nhà nước chỉ quản lý trên góc độ vĩ mô, còn việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào là do bản thân Công ty. Chính vì phải tự huy động vốn, tự hạch toán kinh tế, nên lợi nhuận bao giờ cũng là mục tiêu hàng đầu. Lợi nhuận có tăng thì mới đảm bảo được các mục tiêu kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống người lao động cũng như tham gia công tác xã hội. Một trong những điều kiện để tăng lợi nhuận đó là việc sử dụng hiệu quả tài sản. Tăng lợi nhuận tác động trở lại làm tăng các chỉ số phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản. Chính vì thế mà các giải pháp đưa ra ngoài việc tăng giá trị tài sản còn tập trung vào việc tăng khả năng sinh lãi. 1. Làm tốt công tác đầu tư đổi mới máy móc trang thiết bị. Trên 100 năm hình thành và phát triển của Công ty với tiền thân là sở máy nước Hà Nội được phép xây dựng từ năm 1894. Hiện nay nhiều máy móc, dây chuyền sản xuất đã cũ, lạc hậu nhưng vẫn còn được sử dụng. Điển hình là 25% đường ống cũ từ thời Pháp thuộc chưa được nâng cấp cải tạo gây rò rỉ thất thoát lớn, ảnh hưởng tới việc cấp nước trong khu vực. Vấn đề đầu tư đổi mới máy móc thiết bị là một yêu cầu tất yếu, nhưng không phải bất cư doanh nghiệp nào cũng có tiềm lực tài chính lớn để đổi mới hoàn toàn. Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội không phải là một ngoại lệ nên việc đầu tư phải được xem xét kỹ lưỡng và có chọn lọc theo hướng thay thế dần dần. Chính vì thế mà trong 10 năm gần đây Công ty đã rất nỗ lực cải tạo, nâng cấp và đổi mới máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng… Để thực hiện nhiệm vụ trên, ngay từ năm 1997, Công ty đã xúc tiến nhiều chương trình hợp tác: Chương trình hợp tác kỹ thuật Việt Nam – Đan Mạch, đây là chương trình cho vay của Đan Mạch, với tổng số vốn là 5,84 triệu USD với mục đích giúp Công ty thực hiện kỹ thuật lồng ống truyền dẫn mà không cần phải đào đường, để giải quyết cải tạo ống ở khu phố cổ, nơi dân cư đông đúc, khu buôn bán. Chương trình dự án 1A vay vốn của Ngân hàng thế giới (WB) với sự trợ giúp của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật, tài chính của Finida (Phần Lan) và WB. Đây là chương trình quan trọng nhất của Công ty trong giai đoạn hiện nay với số vốn vay là 33,1 triệu đô la và vốn đối ứng phía Việt Nam là 16 triệu đô la. Với số vốn này Công ty sẽ xây dựng thêm 2 nhà máy sản xuất nước mới là: Nam Dư và Cao Đỉnh. Hiện nay khi 2 nhà máy đã hoàn thành, nâng công suất cấp nước của Công ty lên 430.000 m3/ngày đêm. Ngoài các chương trình hợp tác về tài chính, công nghệ, kỹ thuật Công ty phải chú trọng đến công tác đầu tư: đầu tư bao nhiêu, như thế nào cho loại máy móc, trang thiết bị nào? Để làm được Công ty cần chú trọng các vấn đề sau: Thứ nhất là nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ phụ trách quản lý đầu tư. Phân công trách nhiệm, quyền hạn một cách chặt chẽ. Đặc biệt có chế độ thưởng phạt cho những cán bộ hoàn thành tốt hoặc không tốt công việc. Thứ hai phải nghiên cứu khảo sát kỹ lưỡng những máy móc thiết bị nào cần được bảo dưỡng, cần được thay thế một số chi tiết, cần phải thay thế mới toàn bộ. Tránh đầu tư không đúng, không đạt hiệu quả, gây tổn thất cho Công ty. Thứ ba phải lựa chọn nhà cung cấp trang thiết bị tin cậy, đặc biệt trong hợp tác với nước ngoài, tránh tình trạng “cũ người, mới ta”. Cuối cùng để có thể thực hiện các hoạt động đầu tư cần phải có tiền. Do vậy huy động nguồn vốn là một nhiệm vụ khá quan trọng. Do đặc thù sản xuất kinh doanh của Công ty nên nguồn vốn nhà nước cấp là chủ yếu. Tuy nhiên trong môi trường kinh doanh hiện nay không thể chỉ chông chờ vào ngân sách nhà nước mà phải tìm nhiều nguồn tài trợ khác như: vốn viện trợ, vốn vay ưu đãi của các nước phát triển, vốn vay tín dụng ưu đãi, vốn tích luỹ từ lợi nhuận để lại… Khi máy móc thiết bị được đổi mới là cơ sở để nâng cao công suất, nâng cao khối lượng và chất lượng nước sạch, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đây là cơ sở để phấn đấu đến năm 2010 sản lượng nước sản xuất đạt 1,1 triệu m3 đủ cung cấp cho 3 triệu dân vơi mức 170 lít/ người/ ngày đêm. 2. Hoàn thiện công tác quản lý tài sản. Qua bảng cân đối kế toán các năm, Công ty có giá trị tài sản tương đối lớn ( hơn 1000 tỷ đồng), với tốc độ tăng trưởng khoảng 15%/ năm thì đến năm 2010 con số này còn lớn hơn nhiều. Với khối lượng tài sản lớn, tuy nhiên hiệu suất sử dụng chưa cao (qua phân tích chỉ tiêu sức sản xuất của TSCĐ, TSLĐ). Điều này có nghĩa là nhiều máy móc thiết bị chưa được sử dụng đúng công suất, nhiều loại được đầu tư mới nhưng chưa được vận hành ngay, nhiều loại tài sản không được sử dụng đúng mục đích. Rõ rang công tác quản lý tài sản còn chưa tốt và cần phải xem xét lại. Nội dung giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài sản: * Đối với tài sản cố định phải quản lý một cách chặt chẽ, có hệ thống, phân công trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể đến từng bộ phận. Giao trách nhiệm trực tiếp quản lý TSCĐ tới từng xí nghiệp, nhà máy. Tại đây TSCĐ được theo dõi thường xuyên, trực tiếp về số lượng, chủng loại, tình hình sử dụng. Từ đó làm tăng trách nhiệm của từng cá nhân đối với TSCĐ được giao trách nhiệm quản lý, thực hiện chế độ thưởng phạt. Phòng kỹ thuật của Công ty sẽ lấy số liệu này làm cơ sở để tiến hành kiểm tra, lập kế hoạch tu bổ, sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ. Họ sẽ lập ra kế hoạch đầu tư, tái đầu tư, thanh lý những TSCĐ hỏng, không thể sửa chữa được. Bên cạnh đó họ cũng tham gia vào quá trình đánh giá lại TSCĐ, giám định TSCĐ mua mới. Giao cho phòng kế toán – tài vụ của Công ty quản lý, kế toán TSCĐ mở sổ sách, lập thẻ tài sản theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ, lập khấu hao tài sản, thanh lý kiểm kê về mặt giá trị. Công ty trang bị hệ thống vi tính để việc quản lý tài sản thực hiện được dễ dàng hơn. * Đối với tài sản lưu động: Tỷ trọng TSLĐ phải đạt ở mức phù hợp, có như vậy mới đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh một cách liên tục, nhưng không được lãng phí. Tỷ trọng TSLĐ mà lớn sẽ gây ứ đọng vốn. Xác định cơ cấu TSLĐ một cách hợp lý. Hàng tồn kho lớn sẽ làm giảm số vòng quay dự trữ, tồn kho. Lượng tiền mặt nhiều gây ứ đọng vốn. Các khoản phải thu tăng sẽ làm cho kỳ thu tiền bình quân tăng, mà chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. Tóm lại việc quản lý tài sản tốt sẽ nâng cao hiệu suất sử dụng, là điều kiện để tăng sản lượng nước sản xuất, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và từ đó tăng hiệu quả sử dụng tài sản. 3. Nâng cao trình độ của cán bộ quản lý và công nhân. Trong quá trình sản xuất, con người là nhân tố trung tâm. Nguời công nhân có nhiệm vụ trực tiếp sản xuất biến các yếu tố đầu vào thành đầu ra, cán bộ quản lý có chuyên môn, kinh nghiệm mới đưa ra quyết định một cách khoa học, chính xác, đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Các phòng ban chức năng có nhiệm vụ điều hoà, phối hợp các hoạt động của toàn Công ty. Về trình độ của cán bộ công nhân viên toàn Công ty được xem xét qua bảng sau: Bảng 17: Cơ cấu trình độ cán bộ công nhân viên Chỉ tiêu Số người Tỷ lệ % Đại học và trên đại học 280 17,4 Trung cấp và cán sự kỹ thuật 119 7,4 Nhân viên 481 29,9 Công nhân 729 45,3 Tổng 1609 100 Nguồn: phòng tổ chức – đào tạo Hiện nay đội ngũ cán bộ của Công ty có trình độ chưa cao, chỉ chiếm 17,4 %. Trong khi đó những người không qua đào tạo chính quy, hoặc đào tạo ở trình độ thấp lại chiếm tỷ trọng lớn. Điều này ảnh hưởng đến khả năng nhạy bén của Công ty trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Nguyên nhân có thể là do Công ty vẫn chịu ảnh hưởng bởi cung cách quản lý thời bao cấp, thế hệ trẻ đều là con em của cán bộ công nhân viên trong Công ty. Do vậy nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn là một vấn đề cấp thiết. Đặc biệt là đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật. Giải pháp đề ra: Đối với cán bộ lãnh đạo, họ đều là những người có kinh nghiệm, có chuyên môn, một số người đã qua đào tạo bài bản, một số người trưởng thành từ công nhân qua kinh nghiệm và học hỏi để đi lên. Chính vì vậy mà thời điểm hiện nay có thể vẫn đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, nhưng trong tương lai cần có một ban lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, nhanh nhạy với thời cuộc. Cần tìm kiếm những nhân viên trẻ có trình độ, đạo đức, nhiệt tình để bồi dưỡng, dần đưa họ vào các vị trí phó phòng, trưởng phòng, để xây dựng nên đội ngũ kế cận năng động, sáng tạo. Đối với nhân viên quản lý, thường xuyên có các lớp đào tạo ngắn hạn để bổ sung kiến thức, đặc biệt là các kiến thức cập nhật như công nghệ thông tin. Khuyến khích nhân viên có khả năng và điều kiện nên đi học ở bên ngoài ( ví dụ học cao học, học tại chức bằng 2). Đối với nhân viên kỹ thuật, trình độ của họ quyết định trực tiếp đến việc sử dụng máy móc thiết bị, tăng công suất, tăng chất lượng nước. Trong thời gian qua nhiều máy móc thiết bị được đổi mới hoàn toàn, vì thế trình độ của họ cần được nâng cao để có thể quản lý và sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Do vậy việc chuyển giao công nghệ phải bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Tổ chức các lớp huấn luyện về loại máy móc thiết bị mới trước khi đưa vào sử dụng. Đối với công nhân cần khuyến khích họ nâng cao tay nghề qua việc: tổ chức các lớp đào tạo công nhân trẻ, học hỏi kinh nghiệm từ các công nhân lành nghề. Cần dùng lợi ích vật chất để khuyến khích họ làm việc hăng say. Điều kiện thực hiện Phòng tổ chức đào tạo phải lên kế hoạch lựa chọn cán bộ công nhân viên cần đào tạo, lựa chọn phương thức đào tạo phù hợp (đào tạo ngắn hạn, dài hạn, tập trung, không tập trung, đào tạo bên trong, đào tạo bên ngoài…), lựa chọn thời gian đào tạo phù hợp. Lựa chọn nguồn kinh phí đào tạo hợp lý, tiết kiệm. Hỗ trợ một phần kinh phí cho cán bộ đi học dài hạn. 4. Chú trọng vấn đề phân tích tài chính Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp phải tự hạch toán độc lập thì vấn đề phân tích tài chính càng phải được chú trọng. Mục đích của việc phân tích tài chính là đánh giá những mặt đạt được, những mặt còn hạn chế trong quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp để cải thiện tình hình tài chính trong tương lai. Công ty sẽ gặp khó khăn trong việc đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh cuối kỳ nếu không sử dụng các phương pháp phân tích tài chính. Chẳng hạn nếu chỉ thấy doanh thu và lợi nhuận tăng thì chưa thể kết luận là Công ty làm ăn có hiệu quả được. Vấn đề là làm sao để một đồng vốn, một đồng tài sản đưa vào hoạt động tạo ra càng nhiều đồng doanh thu và lợi nhuận càng tốt. Nội dung của phân tích tài chính bao gồm: Phân tích các tỷ số tài chính Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian Giải pháp phân tích tài chính: + Thu thập thông tin sử dụng trong phân tích tài chính: thông tin bên trong doanh nghiệp chủ yếu là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của khoảng thời gian cần phân tích. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp như: thông tin liên quan đến tình hình phát triển của nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất, thông tin về ngành lĩnh vực sản xuất, thông tin về cơ chế, pháp luật. + Lựa chọn phương pháp phân tích: gồm 2 phương pháp, phương pháp truyền thống là phương pháp tỷ số, phương pháp phân tích tài chính Dupont. Đa số các doanh nghiệp ở Việt Nam đều sử dụng phương pháp truyền thống. Công ty sử dụng phương pháp tỷ số do nguồn thông tin kế toán tài chính được cung cấp đầy đủ, áp dụng được công nghệ thông tin vào phân tích, khai thác có hiệu quả số liệu và phân tích có hệ thống theo chuỗi thời gian. + Quyết định và dự đoán: Từ kết quả phân tích, đưa ra quyêt định liên quan đến việc tăng trưởng, phát triển và tối đa hoá lợi nhuận trên một đồng tài sản. Dự đoán được tình hình tài chính, sản xuất, kinh doanh trong những năm tới. + Đào tạo nhân viên: cán bộ tài chính đòi hỏi không chỉ tính toán chính xác mà còn phải có cái nhìn tổng quát, đưa ra được ý kiến đóng góp. Cần phải nâng cao hơn nữa trình độ của nhân viên tài chính, đặc biệt phải tuân thủ các quy định về kế toán, kiểm toán, cập nhật những quy định mới. Làm tốt công tác phân tích tài chính là cơ sở để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, cơ sở để tìm ra biện pháp tăng hiệu quả sử dụng tài sản. 5. Quản lý khách hàng và làm tốt công tác ghi thu tiền nước. Tổng số khách hàng của Công ty tính đến ngày 31/12/2005 là 360000 khách hàng có hoá đơn được Công ty quản lý. Còn số khách hàng thực tế sử dụng nước sạch là trên 1.67 triệu người bao gồm dân nội thành và ngoại thành. Vì vậy mà có hiện tượng nhiều hộ gia đình sử dụng nước nhưng lại chỉ đăng ký chỉ một hoá đơn. Điều này, cũng ảnh hưởng đến công tác truy thu tiền nước. Do vậy mà sản lượng nước sản xuất ra lớn nhưng không phải m3 nước nào cũng thu được tiền Giải pháp: Trước hết phải đầu tư cải tạo hệ thống đường ống dẫn nước (25% hệ thống này được xây dựng từ thời Pháp thuộc, hiện nay vẫn còn sử dụng). Hệ thống đường ống có tốt sẽ tránh được việc dò dỉ nước, đảm bảo chất lượng nước sạch. Thực hiện việc thu đúng, thu đủ, không để sót khách hàng trong hệ thống quản lý của Công ty. Phòng kinh doanh có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện công tác ghi thu tiền nước: + Lên kế hoạch và đặt ra mục tiêu tỉ lệ nước thu được tiền. + Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng nhân viên đến các khu vực một cách có hệ thống và dễ quản lý + Công ty có thể đưa hình thức thưởng phạt để tăng phần trách nhiệm đối với đội ngũ công tác ghi thu tiền nước. Vấn đề chống thất thoát nước cần được chú trọng. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến việc giảm doanh thu. Trước hết phải xác định được tại sao lại thất thoát nước, nơi nào xẩy ra hiện tượng đó và biện pháp xử lý như thế nào. + Nguyên nhân có thể do: Hệ thống đường ống bị rò rỉ xuống cấp, người dân sử dụng nước chưa hợp lý, lãng phí, nhiều người còn vi phạm đục phá hệ thống dẫn nước trái phép. + Phải tăng cường lắp đặt đồng hồ tổng, xác định xem tỷ lệ thất thoát nứơc là bao nhiêu %, chia nhỏ tỷ lệ này để xác định khu vực có hiện tượng thất thoát nước, từ đó đầu tư hợp lý vào việc cải tạo, xử lý đường ống. + Ban thanh tra cần có các biện pháp kiểm tra và đề ra các chế tài để xử lý những cá nhân, tập thể vi phạm. + Tuyên truyền đến người dân về ý thức sử dụng và bảo vệ hệ thống nước. 6. Tăng cường nhiều nguồn nước và nâng cao chất lượng nước sạch: Hiện nay, Công ty chủ yếu sử dụng nguồn nước ngầm từ các bể giếng ngầm trong thành phố để đưa vào xử lý. Tuy nhiên do khai thác từ lâu, nên nguồn nứơc này đã giảm đáng kể, lại phải chịu quy định quản lý của Sở Môi trường. Do vậy, mà trong những năm tới Công ty phải tìm kiếm nguồn nước khác (chẳng hạn như nước sông). Mặt khác, nhu cầu sử dụng nước sạch ngày càng lớn đòi hỏi phải có nguồn nước tốt cả về số lượng và chất lượng. Giải pháp đề ra: + Thành lập Ban dự án tìm kiếm nguồn nước mới. + Khảo sát chất lượng nứơc, trữ lượng nước ở các sông khu vực Hà Nội, các tỉnh lân cận Hà Nội. + Phối hợp với các cơ quan khác để có thể hợp tác, đưa việc khai thác nguồn nứơc ấy vào sản xuất. Chẳng hạn hiện nay Công ty đang có dự án phối hợp với thuỷ điện sông Đà để tiếp nhận nguồn nước mặt sông Đà thông qua một Công ty con. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của người dân ngày càng lớn, chất lượng nước sạch luôn đặt lên hàng đầu, tiếp đó mới đến số lượng. Người dân nông thôn cũng muốn dùng nứơc máy thay thế cho nước giếng, nước ao hồ. Do vậy, việc sử dụng các biện pháp nâng cao chất lượng nước sạch là hết sức cần thiết. Các biện pháp sử dụng: + Phòng KCS kiểm tra định kỳ phối hợp với tổ chức y tế dự phòng. Nước thành phẩm phải đảm bảo những tiêu chuẩn nhất định. + Định kỳ xúc xả đường ống, phát triển dự án sửa chữa đường ống. + Nâng cao chất lượng nguồn nước , nguồn nguyên liệu có tốt thì sản phẩm mới đảm bảo chất lượng. + Sử dụng máy móc, thiết bị đồng bộ, hiện đại. Điều kiện thực hiện: + Ban lãnh đạo Công ty phải quan tâm sát sao đến tình hình kinh doanh hiện nay những vấn đề mà Công ty gặp phải, có tầm nhìn chiến lược. + Tập trung huy động nguồn vốn tín dụng ưu đãi + Đẩy mạnh các chương trình liên doanh, liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước. Lợi ích từ giải pháp: Mở rộng nguồn nước và nâng cao chất lượng nước sạch nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước trong tương lai, để ổn định việc phát triển sản xuất, tăng doanh thu và lợi nhuận. 7. Đổi mới cơ chế tổ chức hoạt động tại Công ty theo mô hình tổng Công ty Công ty kinh doanh nứơc sạch Hà Nội là một đơn vị có nhiều đơn vị thành viên tương đối lớn. Công ty hiện đang quản lý lượng tài sản có giá trị tương đối lớn nếu so với mức trung bình của một Công ty Nhà nước độc lập ở Việt Nam. Những đơn vị này hạch toán độc lập thậm chí hạch toán báo sổ, không có đặc điểm của một pháp nhân độc lập. Vì vậy, năng lực huy động vốn và khả năng quản lý tài chính, doanh thu, chi phí, giá thành, kết quả sản xuất kinh doanh, công nợ còn hết sức hạn chế và trông chờ vào sự quản lý từ trên. Việc quản lý kinh doanh hiện nay của Công ty theo mô hình một cấp do đó tính liên kết giữa các đơn vị thành viên là liên kết hành chính, theo chỉ đạo hành chính và tập trung từ bộ máy lãnh đạo của Công ty. Mô hình này khó đáp ứng được nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất. Hơn nữa, sự phát triển kinh tê-xã hội của thủ đô nói chung và lĩnh vực sản xuất kinh doanh nước sạch nói riêng đòi hỏi bản thân các đơn vị kinh doanh nước sạch phải mở rộng sản xuất kinh doanh, hình thành thêm nhiều nhà máy cung ứng, nhiều loại hình phụ trợ. Nếu vẫn còn tiếp tục giữ nguyên mô hình hiện nay thì không tránh khỏi những khó khăn, bất cập trong quản lý sau này. Nội dung giải pháp: Tổng Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội là hình thức liên kết và chi phối lẫn nhau giữa các pháp nhân độc lập trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nước sạch và các lĩnh vực phụ trợ có liên quan trên địa bàn Hà Nội. Tổng Công ty là công ty nhà nước hoạt động theo luật Doanh nghiệp. Mục tiêu hoạt động của tổng Công ty là liên kết và tập hợp các đơn vị thành viên nhằm tăng cường tích tụ, tập trung vốn, chuyên môn hoá hoạt động sản xuất nước sạch, đáp ứng nhu cầu của nhân dân thủ đô, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, góp phần đáp ứng các nhu cầu sự phát triển kinh tế - xã hội - chính trị của thành phố Hà Nội. Tổng Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội có cơ cấu tổ chức quản lý điều hành gồm: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng, Bộ máy giúp việc. SƠ ĐỒ 3: MÔ HÌNH TỔNG CÔNG TY KINH DOANH NƯỚC SẠCH HÀ NỘI Các đơn vị hạch toán phụ thuộc Tổng công ty UBND TP HÀ NỘI TỔNG CÔNG TY Công ty TNHH một thành viên (công ty con) Công ty liên kết Công ty cổ phần Các đơn vị hạch toán phụ thuộc tổng Công ty bao gồm: Nhà máy nước Mai Dịch. Nhà máy nước Ngọc Hà Nhà máy nước Hạ Đình. Nhà máy nước Ngô Sĩ Liên. Nhà máy nước Tương Mai. Nhà máy nước Yên Phụ Nhà máy nước Lương Yên Nhà máy nước Pháp Vân Nhà máy nước Cáo Đỉnh Nhà máy nước Nam Dư Xí nghiệp cơ điện vận tải Công ty TNHH một thành viên (Công ty con): Công ty kinh doanh nước sạch số 1. Công ty kinh doanh nước sạch số 2 Công ty kinh doanh nước sạch số 3 Công ty kinh doanh nước sạch số 4 Công ty xử lý nước sạch số 4 Công ty xử lý nước ngầm Thượng Cát Công ty khai thác nước mặt sông Hồng Công ty cổ phần bao gồm: Công ty sản xuất và kinh doanh vật tư thiết bị ngành nước Công ty sản xuất kinh doanh thiết bị đo lường ngành nước Công ty đầu tư xây dựng công trình Công ty tư vấn thiết kế Công ty kinh doanh dịch vụ tổ hợp Công ty con liên kết: Công ty cổ phần đầu tư và kinh doanh nước sông Đà Các công ty con liên kết. Lợi ích của giải pháp: Việc chuyển đổi Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội thành Công ty hoạt động theo mô hình tổng Công ty có khả năng khắc phục được những hạn chế đặc thù của các đơn vị kinh doanh nước sạch trên địa bàn Hà Nội hiện nay, đồng thời tạo điều kiện tích tụ và tập trung vốn, giải quyết vấn đề đầu tư vốn cho ngành kinh doanh nước sạch. Phân định rõ về địa vị pháp lý cũng như quan hệ về tài sản, vốn, quyền lợi của các đơn vị thành viên cũng như của Công ty. Việc đổi mới cơ chế tổ chức hoạt động theo mô hình tổng Công ty là một trong những tiền đề cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh sau này, thúc đẩy chủ trương xã hội hoá ngành kinh doanh nứơc sạch. Đảm bảo mục tiêu nâng cao khả năng thoả mãn nhu cầu về nước sạch của nhân dân thủ đô, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và chính trị của thành phố Hà Nội một cách dài hạn, bền vững và có hiệu quả. II. Kiến nghị đối với cấp trên. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cần có sự phối hợp giữa doanh nghiệp và nhà nước. Nhà nước tạo hành lang pháp lý cũng như sự hỗ trợ về nguồn vốn, chương trình hợp tác để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Dưới đây là một số giải pháp đối với nhà nước để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản: 1. Hỗ trợ nguồn vốn với lãi suất tín dụng ưu đãi. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động cũng cần có một số vốn nhất định. Với một lượng vốn nhất định tương đương với một lượng tài sản có giá trị bằng nhau. Muốn tăng tài sản cần phải có tăng lượng vốn tương ứng. Chẳng hạn vay vốn để đầu tư xây dựng nhà máy mới, mua sắm máy móc thiết bị, triển khai các dự án… Đối với các doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn chủ yếu là do ngân sách cấp. Việc cung cấp vốn ở các doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan quản lý cấp trên. Vốn đối với sản xuất kinh doanh là nhu cầu bức thiết nhưng nếu lãi suất vốn vay quá cao sẽ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước không còn bao cấp như trước, tức là thiếu vốn thì nhà nước cấp, còn thua lỗ thì nhà nước chịu. Hiện nay các doanh nghiệp quốc doanh cũng phải tự thân vận động. Vì là hình thức doanh nghiệp nhà nước nên việc huy động vốn từ bên ngoài là rất khó khăn. Trong thời gian qua, nguồn vay vốn chủ yếu của công ty từ quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội. Ưu điểm của nguồn vốn này là lãi suất thấp song lại không chủ động trong kinh doanh, nhất là khi thiếu vốn vẫn phải chờ cấp trên phê duyệt. Thiết nghĩ nhà nước cần huy động được nhiều nguồn vốn tín dụng ưu đãi hơn để có thể đáp ứng đủ nhu cầu của các doanh nghiệp. Ngoài nguồn vốn ODA, nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng thế giới cần phải mở rộng quan hệ ngoại giao để thu hút sự quan tâm của các nước phát triển. Nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước tiến tiến sẽ góp phần không nhỏ vào nhu cầu vốn tín dụng ưu đãi của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 2. Cải cách thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính ở Việt Nam hiện nay mặc dù đã có cố gắng tinh giảm, song vẫn còn rườm rà. Đặc biệt là tệ quan liêu, nạn tham nhũng và năng lực của cán bộ các cơ quan hành chính về cơ bản còn thiếu sự sáng tạo ảnh hưởng không nhỏ đến nỗ lực của nhà nước ta. Cải cách thủ tục hành chính vẫn là một nhiệm vụ khá nặng nề. Ngày nào mà các thủ tục này chưa được gọn nhẹ thì ngày đó nền kinh tế chưa thể phát triển vượt bậc được. 3. Hoàn thiện mô hình tổng công ty nhà nước. Việc chuyển đổi thí điểm doanh nghiệp nhà nước sang mô hình tổng Công ty đã được chính phủ cho phép áp dụng đối với 52 đơn vị trong vòng 5 năm qua. Đây là một hình thức xắp xếp lại doanh nghiệp góp phần làm giảm doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ, tập trung hơn vào những ngành then chốt để giữ vai trò chi phối nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên,quá trình thí điểm cũng đã chỉ ra nhiều vưỡng mắc về quy trình, chính sách hay việc chưa xoá bỏ được hẳn kiểu quan hệ hành chính… Hiện nay, Hà Nội có 5 tổng công ty thí điểm hoạt động theo mô hình này. Mặc dù mới chỉ hoạt động được hơn 1 năm nhưng đánh giá về hiệu quả hoạt động kinh doanh, các tổng công ty này đều đạt tỷ lệ tăng trưởng bình quân 10%/năm đã khắc phục được những khuyết tật trong cơ chế quản lý và điều hành theo hình thức hành chính, chuyển giao kế hoạch, giao vốn sang cơ chế liên kết, đầu tư tài chính. Về cơ bản đây là những bước chuyển biến tích cực song bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế căn bản mà nguyên nhân chính là do nhận thức và năng lực tổ chức quản lý điều hành của một số tổng công ty, công ty mẹ còn chưa tương xứng với trách nhiệm được giao. Điều này dẫn đến tình trạng hành chính hoá các mối quan hệ, can thiệp sâu vào quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các công ty con. Chính hạn chế đó đang tạo ra sự hoài nghi trong dư luận về mô hình tổ chức mới này khi cho rằng đây chỉ là sự giảm tải từ bao cấp toàn phần sang bao cấp một phần. Thực tế một số tổng công ty hiện nay được thành lập trên cơ sở những doanh nghiệp có sẵn, trong đó có một số doanh nghiệp nhà nước kinh doanh không hiệu quả, tỷ lệ mất vốn cao. Tuy nhiên nhà nước lại thiếu chính sách cụ thể đối với những người trực tiếp quản lý vốn nhà nước tại các công ty này. Nếu mô hình tổng công ty hoạt động không hiệu quả, làm thất thoát vốn nhà nước thì khó có thể xác định trách nhiệm thuộc về cấp nào. Trong số hơn 200.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước có gần 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù các doanh nghiệp này có ưu điểm riêng như cơ động, linh hoạt nhưng trước đòi hỏi cao về tính cạnh tranh khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới, việc xây dựng các doanh nghiệp lớn mạnh về vốn, có sức chi phối cao với nền kinh tế trong nước ở một số lĩnh vực trọng điểm là điều cốt yếu. Đây chính là lý do mà mô hính Tổng công ty được nhà nước quan tâm và đặt ra yêu cầu cao đối với việc thí điểm mô hình này. Hành lang pháp lý mà Nhà nước đang xây dựng sẽ còn tiếp tục được hoàn chỉnh trong quá trình thực hiện, nhưng điều cốt lõi trong quá trình xây dựng mô hình này là phải chuyển hẳn quan hệ hành chính sang quan hệ kinh tế thị trường. Xu hướng tiếp theo các doanh nghiệp phải tiếp tục đổi mới theo hướng hạn chế vốn nhà nước chi phối, đa dạng hoá sở hữu. Mệnh lệnh hành chính từ nay sẽ thay thế bởi hình thức chi phối bằng vốn, công nghệ, thị trường, thương hiệu của công ty. KẾT LUẬN Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản đang là một vấn đề hết sức quan trọng. Là một doanh nghiệp nhà nước, trải qua quá trình hình thành và phát triển hơn 100 năm, công ty Kinh doanh nước sạch Hà Nội đã gặp không ít khó khăn. Song với nội lực của chính mình cộng với sự chỉ đạo trực tiếp của Sở giao thông công chính Hà Nội, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của Ban lãnh đạo Thành phố Hà Nội Công ty đã vững vàng phát triển mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng được một nhu cầu sử dụng nước khá lớn. Đó cũng là thành quả nhất định mà công ty đạt được cho tới nay. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty vẫn còn thấp. Vì vậy trong điều kiện hiện nay đòi hỏi Công ty phải có những chính sách, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên toàn công ty. Qua thời gian thực tập tại Công ty Kinh doanh nước sạch Hà Nội, với trình độ có hạn, em đã cố gắng phản ánh khá rõ về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng tài sản, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36359.doc
Tài liệu liên quan