Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt

Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Để hình thành nên tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông doanh nghiệp cần phải có một số vốn thích ứng để đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản ấy được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Như vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất là số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục nên vốn lưu động cũng vận động liên tục, chuyển hoá từ hình thái này qua hình thái khác. Sự vận động của vốn lưu động qua các giai đoạn có thể mô tả bằng sơ đồ

doc55 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 943 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à VLĐ nói riêng. Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, vì vậy nền kinh tế muốn phát triển thì doanh nghiệp hoạt động phải có hiệu quả. Như đã phân tích ở trên, sử dụng hiệu quả VLĐ là một nhân tố tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuát kinh donh của doanh nghiệp. Do đó, không thể phủ nhận vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trên thực tế những năm vừa qua, hiệu qủa sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước đạt thấp. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp chưa bắt kịp với cơ chế thị trường nên còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn. Mặt khác, hiệu quả sử dụng VLĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kĩ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức thúc đẩy sản xuất phát triển. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và tổng hợp nhằm khai thác để khả năng vốn có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả từng đồng VLĐ nhằm làm cho VLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, qua đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt được số VLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn có ý nghĩa quan trong trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn VLĐ. Do đặc điểm VLĐ lưu chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái VLĐ thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn VLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo toàn VLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một lượng vật tư, hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cương quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có được trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật được cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường. Đặc biệt khi khai thác được các nguồn vốn, sử dụng tốt nguồn vốn lưu động, nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như việc giảm chi phí về lãi vay. Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. 1.3 Nhân tố ảnh hưởng đếnhiệu qủa sử dụng vốn lưu động Vốn lưu động được vận động chuyển hoá không ngừng. Trong quá trình vận động đó, vốn lưu động chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. 1.3.1 Nhân tố chủ quan * Xác định nhu cầu vốn lưu động: do xác định nhu cầu VLĐ thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. * Việc lựa chọn phương án đầu tư: là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm lao vụ dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời giá thành hạ thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ và ngược lại. * Do trình độ quản lý: trình độ quản lý của doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn đến thất thoát vật tư hàng hoá trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến sử dụng lãng phí VLĐ, hiệu quả sử dụng vốn thấp. * Do kinh doanh thua lỗ kéo dài, do lợi dụng sơ hở của các chính sách gây thất thoát VLĐ, điều này trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ. 1.3.2 Nhân tố khách quan * Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Do tác động của nền kinh tế tăng trưởng chậm nên sức mua của thị trường bị giảm sút. Điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít hơn, lợi nhuận giảm sút và như thế sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. * Rủi ro: do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên tai gây ra như hoả hoạn, lũ lụt...mà các doanh nghiệp khó có thể lường trước được. * Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên sẽ làm giảm giá trị tài sản, vật tư...vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá trị của sản phẩm thì hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. * Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà nước có sự thay đổi về chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế... cũng tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng tới công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tổ chức và sử dung VLĐ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của từng nhân tố, tìm ra nguyên nhân của những mặt tồn tại trong việc tổ chức sử dụng VLĐ, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất, để hiệu quả của đồng vốn lưu động mang lại là cao nhất.  Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần đại việt 2.1 Khái quát về tình hình sử dụng vốn lưu động trong Công ty cổ phần Đại Việt 2.1.1 Tổng quan về công ty cổ phần Đại Việt Công ty Cổ Phần Đại Việt ra đời theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 0103002976 ngày 8 tháng 10 năm 2001 của phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội. Tên công ty: Công ty Cổ Phần Đại Việt Tên giao dịch: DAI VIET JOINT STOCK COMPANY Tên viết tắt: DVC., JSC Địa chỉ trụ sở chính: Số 13 ngõ 174, phố Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. Công ty Cổ Phần Đại Việt được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, tổ chức và hoạt động theo Luật Công ty trên cơ sở các thành viên tự nguyện tham gia góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu rủi ro và lỗ tương ứng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty theo tỷ lệ cổ phần của công ty mình sở hữu hoặc đại diện của các chủ sở hữu.. Sơ đồ bộ máy tổ chức công ty P. Kế toán P. Kỹ thuật Kế toán kho Kế toán thanh toán P. Kinh doanh Đại hội đồng cổ đông Ban Giám đốc Hội đồng quả trị Ban kiểm soát + Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết. + Quản trị công ty: + Hội đồng quản trị: do đại hội đồng bầu, là cơ quan thường trực của Đại Hội Đồng, thay mặt Đại Hội Đồng quản trị công ty giữa các kỳ Đại Hội đồng và có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty. Hội đồng quản trị có những quyền hạn và trách nhiệm như sau: Quản trị công ty theo pháp luật, kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán cho từng loại, quyết định việc chào bán cổ phần mới, trình Đại Hội đồng cổ đông việc tổ chức lại hoặc giải thể công ty, đề xuất việc đề cử và bãi miễn thành viên Hội đồng quản trị và ban kiểm soát, trình báo cáo quyết toán hàng năm lên Đại Hội đồng, kiến nghị mức trả cổ tức, quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý các khoản lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh; thông qua qui chế lao động, tiền lương phụ cấp, thưởng phạt. + Ban kiểm soát: Ban kiểm soát gồm 3 thành viên do Đại Hội đồng bầu và bãi nhiễm với đa số phiếu bằng hình thức trực tiếp bỏ phiếu kín. Các kiểm soát viên chịu trách nhiệm trước Đại Hội đồng về những sai phạm của mình gây thiệt hại cho công ty trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Ban kiểm soát có quyền hạn và trách nhiệm chính như sau: thông báo định kì tài chính, kết quả kiểm soát cho hội đồng quản trị, tham gia ý kiến cho hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại Hội đồng ; thành viên ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu báo cáo cũng như bí mật của công ty. Không được cung cấp bất kì thông tin nào của công ty mà theo quyết định của công ty được coi là bảo mật. + Ban giám đốc: giám đốc điều hành là người đại diện theo Pháp luật của công ty, là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày, chịu trách nhiệm cá nhân trước Hội Đồng quản trị về việc tiến hành các quyền và nghĩa vụ được giao. Giám đốc có quyền hạn và trách nhiệm như sau: Đại diện cho công ty trong các giao dịch với các cơ quan nhà nước, các tổ chức và các nhân về các vấn đề liên quan đến các hoạt động của công ty; thay mặt Đại Hội đồng quản ly toàn bộ tái sản của công ty, xây dựng cơ cấu ,tổ chức điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của công ty theo đúng pháp luật; quyết định tuyển dụng sa thải, bổ nhiệm , miễn nhiệm ,cách chức khen thưởng, kỷ luật nhân viên và các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh do Đại Hội đồng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; báo cáo Hội đồng quản trị và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. + Các phòng nghiệp vụ: + Phòng kế toán: Hạch toán các nghiệp vụ phát sinh không chỉ cho công ty mà còn cho các khách hàng của công ty. Quản lý lượng hàng hoá nhập bán. Đây là phòng có chức năng rất quan trọng của công ty trong quá trình kinh doanh, bám sát quá trình đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác ,kịp thời phục vụ cho GĐ ra quyết định đúng đắn . + Phòng kinh doanh: phụ trách việc kinh doanh, mua bán, Marketing, trao đổi hàng hoá, linh kiện máy tính, máy văn phòng và các sản phẩm dịch vụ khác mà công ty cung cấp. Phòng kinh doanh làm nhiệm vụ bán hàng, tạo ra doanh thu và lợi nhuận chính cho công ty. Mục tiêu của phòng kinh doanh là làm tốt khâu bán hàng, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tổ chức quảng bá hình ảnh, sản phẩm của công ty trên thị trường. Bên cạnh đó , theo xu hướng chung của thị trường, phòng kinh doanh có nhiệm vụ theo sát những biến động của thị trường về giá cả, nhu cầu để tư vấn đa dạng hoá sản phẩm, mặt hàng kinh doanh đáp ứng nhu cầu khách hàng trong lĩnh vực chủ yếu về thiết bị công nghệ thông tin. + Phòng kỹ thuật: phụ trách công viêc lắp đặt, cài đặt hệ thống, bảo hành, bảo trì các sản phẩm dịch vụ do công ty cung cấp. + Phòng kế toán: gồm có kế toán kho và kế toán thanh toán. Kế toán thanh toán quản lý chi tiêu chung trong công ty, các phát sinh chi tiêu hàng ngày, từ đú tập hợp đến cuối kỡ, đối chiếu nguồn thu, cỏc khoản phải thu, cỏc khoản phải trả, cỏc khoản chi phớ phỏt sinh trong kỡ do hoạt động kinh doanh. Bỏo cỏo tổng hợp, tổ chức ghi chộp phản ỏnh một cỏch chớnh xỏc, kịp thời về hiện trạng bỏn hàng, nguồn thu từ hoạt động bỏn hàng. Trong cụng viờc của kế toỏn thanh toỏn cú nhiệm vụ của kế toỏn cụng nợ: Theo dừi hợp đồng kinh doanh, để chốt thời điểm thanh toỏn tiền hàng của khỏch hàng, đồng thời theo dừi hoạt động bỏn hàng, tiờu thụ sản phẩm, tổng hợp doanh thu, và bỏo cỏo thường xuyờn tỡnh hỡnh tiờu thụ, cụng nợ của khỏch hàng. Từ đú hối thỳc nhõn phiờn phũng kinh doanh thu tiền theo đỳng hạn với khỏch hàng. Kế toỏn kho: Bộ phận này cú trỏch nhiệm theo dừi, ghi chộp cỏc nghiệp vụ phỏt sinh trong vấn đề nhập , xuất , tồn sản phẩm. Đồng thời cú trỏch nhiệm tập hợp số liệu cho kế toán thanh toán, phòng kinh doanh và báo cáo trực tiếp ban giám đốc 2.1.2 Tình hình sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp 2.1.2.1 Cơ cấu vốn kinh doanh Việc phân bổ tài sản thế nào cho hợp lý để phát huy hiệu quả, đó là vấn đề của mọi doanh nghiệp. Để nắm được điều này chúng ta hãy xem xét kết cấu tài sản của công ty trong 3 năm gần đây qua bảng số 01 Bảng số 01: Cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt (năm 2005 - 2007) Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Vốn kinh doanh 628,5 100 956 100 1317,75 100 Vốn lưu động 523,5 83,29 811 84,83 1130,85 85,81 Vốn cố định 105 16,71 145 15,17 186,9 14,19 Qua bảng số 01 chúng ta nhận thấy vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng của công ty có sự tăng lên cả về giá trị và tỷ trọng: Vốn kinh doanh: năm 2007 tăng 1,38% so với năm 2006 và tăng 2,09% so với năm 2005 Vốn lưu động: năm 2007 tăng 1,39% so với năm 2006 và tăng 2,16% so với năm 2005 Bên cạnh đó, tỷ trọng vốn cố định lại có xu hướng giảm trong 3 năm vừa qua. Cụ thể năm 2005 chiếm 16,71% vốn kinh doanh, sang đến năm 2006 và 2007 chỉ còn 15,17% và 14,19% Trong cơ cấu vốn kinh doanh, vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn 80% đến 90% . Điều này đã phần nào nói lên được đặc điểm của doanh nghiệp kinh doanh thương mại như Công ty cổ phần Đại Việt. 2.1.2.2 Cơ cấu nguồn vốn Bảng số 02: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt (năm 2005 - 2007) Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Nguồn vốn 628,5 100 956 100 1317,75 100 Nợ phải trả 328,5 52,27 641 67,05 952,75 72,3 Nợ ngắn hạn 228,5 36,35 541 56,59 802,75 60,92 Nợ dài hạn 100 15,91 100 10,46 150 11,38 Vốn chủ sở hữu 300 47,73 315 32,95 365 27,7 Lợi nhuận không chia 15 1,57 50 3,79 Vốn góp 300 47,73 300 31,38 315 23,9 Ta thấy trong năm 2005, vốn chủ sở hữu chiếm 47,73% nguồn vốn kinh doanh, nợ phải trả chiêm 52,27%. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu và nợ phải trả là gần ngang bằng nhau, điều đó cho thấy phần nào về sự chủ động nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, không quá phụ thuộc vào nguồn vốn đi vay. Nhưng đến năm 2007, do nhu cầu mở rộng thị trường, công ty đã tăng số vốn kinh doanh lên 1.317.750.000đ và các khảon nợ của công ty cũng theo đó tăng lên. Năm 2007 nợ phải trả của công ty là 952.750.000đ chiếm 72,3% tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Với tình hình kinh doanh hiện nay, việc tăng các khoản nợ ngắn hạn sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của công ty do phải trả lãi vay lớn. Ngoài ra việc kinh doanh phụ thuộc vào vốn vay cũng làm cho vai trò tự chủ của công ty bị hạn chế và khả năng rủi ro về tài chính cao, công ty cần phải tăng nguồn vốn chủ sở hữu và giảm nguồn vốn vay. 2.2 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt 2.2.1 Báo cáo tài chính Công ty cổ phần Đại Việt (2005-2007) Bảng số 03: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt (năm 2005 - 2007) Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Doanh thu 1785,000 2890,750 4756,600 Giá vốn hàng bán 1333.800 2178,15 3665,150 Lãi gộp 451,200 712,600 1091,450 Chi phí bán hàng và quản lý DN 256,500 342,750 528,250 Lợi nhuận trước thuế 194,700 369,850 563,200 Thuế thu nhập doanh nghiệp 54,516 103,558 157,696 Lợi nhuận sau thuế 140,184 266,292 405,504 Trả lãi cổ phần 130,184 251,292 355,504 Lợi nhuận không chia 10,000 15,000 50,000 Sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là lợi nhuận, lợi nhuận càng cao thì doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng qui mô sản xuất ( tái sản xuất mở rộng), vị thế của doanh nghiệp càng được củng cố trên thị trường. Ngược lại nếu làm ăn thua lỗ thì doanh nghiệp dễ dẫn đến tới phá sản. Qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt trong 3 năm 2005 đến 2007, ta thấy tổng doanh thu trong 3 năm của công ty đã tăng lên. Năm 2006 tổng doanh thu là 2890,75 triệu đồng tăng 61,95% tương ứng 1785 triệu đồng so với năm 2005, năm 2007 tổng doanh thu là 4756,6 triệu đồng tăng 64,55% tương ứng 2890,75 triệu đồng so với năm 2006. Đồng thời với việc tăng doanh thu, giá vốn hàng bán cũng tăng. Xem xét giá vốn hàng bán ta thấy năm năm sau tăng bình quân 65% so với năm trước. Với tốc độ tăng giá vốn như vậy so sánh với tốc độ tăng doanh thu thì tốc độ tăng giá vốn hàng bán gần ngang bằng với tốc độ tăng doanh thu , chứng tỏ công ty chưa thực sự đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Chi phí năm 2005 khoảng 14% thì sang 2006 và 2007 chi phí chỉ còn khoảng 11% so với doanh thu. Ngoài ra, trong hai năm qua các hoạt động kinh doanh của công ty lại đang có dấu hiệu tăng lên cụ thể là: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm 2006 tăng đáng kể so với năm 2005 là 90%, năm 2007 so với 2006 là 59,3%. Điều này cho thấy công ty kinh doanh có hiệu quả. Tóm lại, tuy còn nhiều khó khăn nhưng nhờ sự cố gắng của toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty kinh doanh và xây dựng nhà đã khắc phục mọi khó khăn để kết quả kinh doanh năm 2007 đạt kết quả rất tốt. Và với sự nỗ lực này của công ty chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng hoạt động kinh doanh của Công ty trong các năm tiếp theo sẽ đạt kết quả tốt hơn. 2.2.2 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt 2.2.2.1 Vốn và nguồn vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt Công ty cổ phần Đại Việt là một doanh nghiệp thương mại nên yếu tố vốn luôn là một vấn đề quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sự cần thiết của vốn và tính ổn định của nguồn vốn luôn được doanh nghiệp chú trọng quan tâm. Trong bảng số 2 thể hiện cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 năm 2005 dến 2007, trên cơ sở đó ta thấy: Nguồn vốn thường xuyên = vay dài hạn + vốn chủ sở hữu Nguồn vốn thường xuyên năm 2005 = 100 + 300 = 400 triệu đồng chiếm tỷ trọng 63,64% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn thường xuyên năm 2006 = 100 + 315 = 415 triệu đồng chiếm tỷ trọng 43,41% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn thường xuyên năm 2007 = 150 + 365 = 515 triệu đồng chiếm tỷ trọng 39,8% tổng nguồn vốn Nguồn vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn Năm 2005 nguồn vốn tạm thời là: 228,5 triệu đồng chiếm 36,35% tổng nguồn vốn. Năm 2006 nguồn vốn tạm thời là: 541triệu đồng chiếm tỷ trọng 56,59% tổng nguồn vốn. Năm 2007 nguồn vốn tạm thời là: 802,75 triệu đồng chiếm tỷ trọng 60,92% tổng nguồn vốn. Như vậy xét về tính ổn định của nguồn vốn, từ những tính toán phân tích ở trên ta có thể đi đến một số nhận xét, đánh giá khái quát tình hình nguồn vốn kinh doanh của công ty trong 3 năm từ 2005 và 2007 như sau: Nguồn vốn kinh doanh có xu hướng tăng, nguồn vốn thường xuyên chủ yếu đầu tư vào vốn lưu động đây là một điều thuận lợi trong việc huy động vốn lưu động vào phục vụ cho hoạt động kinh doanh, nó cũng phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp thương mại cần nhiều vốn lưu động. Nhìn chung, hệ số nợ lớn nhưng nguồn vốn thường xuyên cũng chiếm tỷ trọng nhỏ do đó công ty phải luôn quan tâm tới cách thức sử dụng vốn vay cho hợp lý và có hiệu quả, cũng như quan tâm tới vấn đề an ninh tài chính của công ty. 2.2.2.2 Nguồn vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt Là một doanh nghiệp thương mại, do đó vốn lưu động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn. Nguồn vốn lưu động của công ty gồm: nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời. Nguồn vốn lưu động thường xuyên đảm bảo một phần cho tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Qua thể hiện cơ cấu vốn ở bảng số 1 và 2 ta có: Nguồn vốn lưu động thường xuyên năm 2005 = 523,5 – 228,5 = 295 triệu đồng chiếm tỷ trọng 56,35% trong tổng số tài sản lưu động. Nguồn lưu động thường xuyên năm 2006 = 811- 541 = 270 triệu đồng chiếm tỷ trọng 32,29% trong tổng số tài sản lưu động. Nguồn lưu động thường xuyên năm 2007 = 1130,85 – 802,75 = 328,1 triệu đồng chiếm tỷ trọng 29,1% trong tổng số tài sản lưu động. Bảng 04. Nguồn vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % I.Vốn lưu động 523,5 100 811 100 1130,85 100 Tiền 76,50 14,61 90,50 11,16 125,69 11,11 Các khoản phải thu 124,50 23,78 196,86 24,27 281.42 24,89 Hàng tồn kho 274,45 52,43 465,28 57,37 680,90 60,21 TSLĐ khác 48,05 9,18 58,36 7,2 42,84 3,79 II.Nguồn vốn lưu động 14,61 Theo thời gian huy động và sử dụng Nguồn VLĐ thường xuyên 423,50 80,9 711 91,89 980,85 86,74 Nguồn VLĐ tạm thời 100 19,1 100 8,11 150 13,26 Qua bảng 3 ta thấy vốn lưu động năm 2005 là: 523,5 triệu đồng năm 2006 là: 811 triệu đồng, năm 2007 là 1130,85 triệu đồng như vậy vốn lưu động năm 2006 tăng so với năm 2005 là 287,5 triệu đồng, năm 2007 tăng so với 2006 là 319,85 triệu đồng tỷ lệ tăng tương ứng là 54.92% và 39,44%. Trong đó chủ yếu là các khoản phải thu tăng, năm 2006 tăng so với 2005 là 72,36 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng 58,12%, năm 2007 tăng so với 2006 là 84,56 triệu tương ứng tỷ lệ tăng 42,95%. Tiền mặt tăng: năm 2006 tăng so với 2005 là 14 triệu tương ứng 18,3%, năm 2007 tăng so với 2006 là 35,19 triệu tương ứng với 38,89%. Đặc biệt hàng tồn kho của công ty tăng lớn nhất, năm 2006 tăng so với năm 2005 là 190,83 triệu tương ứng 69,53%, năm 2007 tăng so với 2006 là 215,62 triệu tăng tương ứng 46,34% Có thể nói, việc luôn có lượng hàng trong kho thường xuyên để đáp ứng nhu cầu kinh doanh thường xuyên của công ty, nhưng lượng hàng tồn kho sao cho là hợp lý lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Với tỷ trọng hàng tồn kho quá nhiều lại là một bất lợi đối với công ty trong hoạt động kinh doanh, do bị ứ đọng một lượng vốn lớn và bị khách hàng chiếm dụng vốn, khi đó công ty cần có những biện pháp kịp thời và cứng rắn trong việc thu hồi nợ, cũng như cần nghiên cứu thị trường, thẩm định về loại hàng, chất lượng, giá cả để giảm dần lượng hàng tồn kho tới mức hợp lý nhất, từ đó làm cho đồng vốn lưu động được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn quá nhiều để hoạt động kinh doanh liên tục và bình thường thì tất yếu doanh nghiệp lại phải đi vay ngân hàng. Năm 2006 nguồn vốn lưu động tạm thời là: 100 triệu tương ứng chiếm tỷ trọng 8,11% tổng nguồn vốn lưu động. Năm 2007 nguồn vốn lưu động tạm thời là: 150 triệu chiếm tỷ trọng 13,26%. Như vây nguồn vốn lưu động tạm thời năm 2007 tăng so với năm 2006 là 50 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng là 50% Xét trên tình hình thực tế của công ty cũng như kết quả hoạt động kinh doanh 3 năm gần đây cho thấy công ty đã biết khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn lưu động thường xuyên nhằm đảm bảo nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh. Điều này chứng tỏ công ty rất năng động trong việc tổ chức nguồn vốn lưu động đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả cao nhất. 2.2.2.3 Vốn tiền mặt và khả năng thanh toán của Công ty cổ phần Đại Việt Trong hoạt động kinh doanh vốn tiền mặt là hết sức quan trọng và cần thiết, nó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp hàng ngày như mua sắm hàng hoá, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và động lực trong “đầu cơ” trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng kinh doanh khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì một mức dự trữ vốn tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu được triết khấu trên hàng mua trả đúng kỳ hạn, làm tăng hệ số khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Song việc dự trữ tiền mặt phải luôn luôn chủ động và linh hoạt. Bảng 05. Tình hình tiền mặt và khả năng thanh toán của Công ty cổ phần Địa Việt Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Tiền mặt 76,50 100 90,50 100 125,69 100 Tiền tại quỹ 14,50 18,95 20 22,1 28,01 22,28 Tiền gửi ngân hàng 62 81,05 70,50 77,9 97,68 77,72 Từ bảng trên ta thấy: Năm 2005 vốn tiền mặt là: 76,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 14,61% trong tổng VLĐ. Năm 2006 vốn tiền mặt là: 90,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 11.16% trong tổng VLĐ. Năm 2007 vốn tiền mặt là: 125,69 triệu đồng chiếm tỷ trọng 11.11% trong tổng VLĐ. Như vậy vốn tiền mặt năm 2006 đã tăng so với năm 2005 là: 14 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 18.3%, năm 2007 tăng so với 2006 là 35,19 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 38,9% Vốn tiền mặt tăng là do: Tiền mặt tại quỹ năm 2006 tăng so với năm 2005 là 5,5 triệu tươ, năm 2007 tăng so với 2006 là 8,01 triệu tương ứng tỷ lệ 40,05% Song tiền mặt tại quỹ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn tiền mặt. Trong khi đó TGNH lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn tiền mặt. Cụ thể năm 2005 là 62 triệu đồng chiếm tỷ trọng 81,05% tổng vốn tiền mặt, năm 2006 là 70,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 77.9% tổng vốn tiền mặt, năm 2007 là 97,68 triệu chiếm tỷ trọng 77,72%. Như vậy TGNH năm 2006 tăng so với năm 2005 là 8,5 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 13,7%, năm 2007 tăng so với 2006 là 27,18 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 38,55%. Việc tăng TGNH là một điều có lợi cho công ty vì khi đó ta không chỉ được hưởng lãi mà việc dùng chúng để thanh toán cũng khá thuận tiện, nhanh gọn, chống thất thoát nhờ hệ thống thanh toán của ngân hàng. Lý do TGNH tăng do trong kỳ những khoản chưa dùng đến công ty đem gửi vào ngân hàng như: quỹ phát triển kinh doanh, quỹ khen thưởng phúc lợi hoặc do khách hàng thanh toán cho công ty qua ngân hàng. Việc dự trữ lượng tiền mặt tại quỹ thấp sẽ giúp công ty tăng được các tài sản lưu động sinh lãi giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Mặt trái của nó là công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng để trang trải khoản chi phát sinh, khi đó chi phí sử dụng vốn sẽ tăng cao hơn ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Như vậy ta thấy công ty dự trữ một lượng ít vốn tiền mặt trong tổng vốn lưu động. điều này chưa cho phép công ty có thể đáp ứng nhanh các khoản chi khi cần thiết, cũng như chớp cơ hội kinh doanh. Song công ty luôn phải xem xét để có một tỷ trọng hợp lý sao cho hiệu quả sử dụng vốn tiền mặt là hiệu quả và hợp lý nhất. Việc dự trữ một lượng vốn tiền mặt nói riêng và tình hình vốn lưu động nói chung có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của công ty. Trong nền kinh tế thị trường, các đối tác kinh doanh, nhất là các bạn hàng thường xuyên quan tâm đến khả năng thanh toán để xem xét và đưa ra các quyết định tài chính khi quan hệ với doanh nghiệp. Đối với Công ty cổ phần Đại Việt việc xem xét khả năng thanh toán còn có ý nghĩa trong việc đánh giá và điều chỉnh lại tình hình tài chính của mình sao cho đảm bảo khả năng thanh toán tốt hơn cũng như đảm bảo về sự lành mạnh tài chính của công ty. TSLĐ Khả năng thanh toán ngắn hạn = Nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn: 523,5 + Năm 2005 : = 2.29 228,5 Cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì DN có 2,29 đồng VLĐ có khả năng chuyển thành tiền mặt để thanh toán. 881 + Năm 2006 : = 1,63 541 Cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì DN có 1,63 đồng VLĐ có khả năng chuyển thành tiền mặt để thanh toán. 1130,85 + Năm 2007 : = 1,41 802,75 Cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì DN có 1,41 đồng VLĐ có khả năng chuyển thành tiền mặt để thanh toán. Như vậy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đang giảm dần, nhưng vẫn có thể coi là an toàn, bởi vì vào năm 2004 công ty chỉ cần giải phóng 1/1,41 = 70,9% số tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn hiện có là đủ thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên không phải hệ số này càng lớn càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng vốn không hiệu quả, vì bộ phận này không vận động, không sinh lời. Nhưng dây là doanh nghiệp thương mại do đó tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, thì hệ số này lớn và ngược lại. Khi đó lại có được sự hợp lý trong khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. TSLĐ - hàng tồn kho Khả năng thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nhanh: 523,5 – 274,45 + Năm 2005 : = 1,09 228,5 811 – 465,28 + Năm 2006 : = 0,64 541 1130,85 – 680,9 + Năm 2007 : = 0,56 802,75 Hệ số thanh toán nhanh giảm dần từng năm, nhìn chung công ty gặp ít khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Vì các tài sản lưu động và đầu ngắn hạn và vật tư hàng hoá tồn kho có thể nhanh chuyển đổi thành tiền đáp ứng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Bảng 06. Tổng kết khả năng thanh toán của công ty. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Hệ số thanh toán ngắn hạn 2,29 1,63 1,41 2. Hệ số thanh toán nhanh 1,09 0,64 0,56 Các khoản phải thu Trong quá trình kinh doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau thường tồn tại một khoản vốn trong quá trình thanh toán, đó là các khoản phải thu. Tỷ lệ các khoản phải thu trong các doanh nghiệp có thể khác nhau, thông thường chúng chiếm từ 15% đến 20% trên tổng tài sản của doanh nghiệp. Qua bảng 4 và bảng 6 trên ta thấy khoản phải thu năm 2006 tăng so với năm 2005 là 72,36 triệu đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là 58,12%, năm 2007 tăng so với 2006 là 84,56 triệu đồng với tỷ lệ tương ứng là 44,48 % cụ thể: Năm 2005 tổng các khoản phải thu là: 124,5 triệu đồng chiếm 23,78% tổng vốn lưu động. Năm 2006 tổng các khoản phải thu là: 196,86 triệu đồng chiếm 24,27% tổng vốn lưu động. Năm 2007 tổng các khoản phải thu là: 281,42 triệu đồng chiếm 24,89% tổng vốn lưu động. Như vậy ta thấy các khoản phải thu năm sau cao hơn so với năm trước, doanh nghiệp chưa xử lý tốt vấn đề thu hồi nợ, khách hàng vẫn còn nợ DN một khoản tương đối lớn, vốn lưu động bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng VLĐ bị giảm. Vấn đề cần giải quyết với DN lúc này và trong tương lai là thu hồi nợ tốt, với khách hàng mua chịu với thời gian lâu sẽ chịu giá bán cao hơn. Để đánh giá đúng tình hình quản lý các khoản phải thu ta sử dụng một số chỉ tiêu sau: Doanh thu(thuần) Vòng quay các khoản phải thu = Số dư bình quân các khoản phải thu 1785 + Năm 2005: = 14,34 (vòng) 124,5 2890,75 + Năm 2006: = 14,68 (vòng) 196,86 4756,6 + Năm 2006: = 16,9 (vòng) 281,42 360 Kỳ thu tiền trung bình = Vòng quay các khoản phải thu 360 + Năm 2005: = 25,1(ngày) 14,34 360 + Năm 2006: = 24,5(ngày) 14,68 360 + Năm 2007: = 21,3(ngày) 16,9 Với các chỉ tiêu tính toán trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau: Vòng quay các khoản phải thu năm 2005 và 2006 lần lượt là 14,34 và 14,68(vòng) nên tốc độ thu hồi các khoản phải thu là chưa tốt. Điều đó chứng tỏ công ty phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu(phải cấp tín dụng nhiều cho khách hàng). Tình trạng này rất rễ xảy ra sự thiếu hụt vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh của công ty. Kỳ thu tiền trung bình năm 2007 là 21.3(ngày). Đây là một biểu hiện tốt hơn. Chỉ mất khoảng 21 ngày DN đã thu hồi được các khoản phải thu. Mặt khác khoản phải thu năm 2007 lại có xu hướng tăng so với năm 2005 và 2006. Đây là một hạn chế của công ty trong công tác thu hồi nợ. Quản lý hàng tồn kho Đây là một doanh nghiệp thương mại nên hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, mà cụ thể ở Công ty cổ phần Đại Việt là các loại máy tính, linh kiện máy tính, các thiết bị ngoại vi, máy văn phòng, thiết bị mạng Đây chủ yếu là tồn kho dự trữ ở dạng chờ bán, nên việc tồn bao nhiêu lại phụ thuộc vào: - Cách thức tiêu thụ sản phẩm. - Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và khách hàng. - Khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Để xem xét hàng tồn kho của công ty là hợp lý hay không ta trở lại xét bảng 4. Theo bảng4 (Nguồn vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt) ta thấy hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn lưu động,cụ thể. Năm 2005 hàng tồn kho là 274,45 triệu đồng chiếm tỷ trọng 52,43% tổng vốn lưu động, năm 2006 hàng tồn kho là 465,28 triệu đồng chiếm tỷ trọng 57,37% tổng vốn lưu động, năm 2007 hàng tồn kho là 680,09 triệu đồng chiếm tỷ trọng 60,21% tổng vốn lưu động. Như vậy hàng tồn kho mỗi năm tăng khoảng 200 triệu và tương ứng tỷ lệ tăng dao động từ 46% đến 70%. Điều này là biểu hiện chưa được tốt, DN có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường một lượng hàng lớn, song tỷ trọng này vẫn còn rất cao, công ty cần có biện pháp sao cho việc dự trữ tồn kho đúng mức hợp lý sẽ giúp cho công ty không bị thiếu sản phẩm hàng hoá để bán, đồng thời sử dụng tiết kiệm và hợp lý vốn lưu động. 2.2.3. Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt 2.2.3.1 Kết quả đạt được Qua một số phân tích các chỉ tiêu cũng như số liệu kinh doanh của công ty trong 3 năm từ 2005 đến 2007, ta nhận thấy rằng mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự quyết tâm cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên nên Công ty cổ phần Đại Việt đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Công ty đã khai thác triệt để nguồn vốn hiện có và vốn đi vay, do đó doanh thu hàng năm và lợi nhuận 3 năm vừa qua được cải thiện đáng kể. Để biết tình hình cụ thể, ta có thể xem xét một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt Hiệu suất sử dụng VLĐ. Hiệu suất sử dụng VLĐ là một chỉ tiêu khá quan trọng nói lên hiệu quả của công ty trong công tác quản lý VLĐ. Nó lên khả năng tạo ra đơn vị doanh thu trên lượng VLĐ mà Công ty đã bỏ ra. Hiệu suất sử dụng VLĐ được tính bằng công thức: Hiệu suất sử dụng VLĐ = Tổng doanh thu VLĐ Hiệu suất sử dụng vốn lưu động: 1785 + Năm 2005: = 3,4 523,5 Nghĩa là trong năm 2005, một đồng VLĐ đã tạo ra 3,4 đồng doanh thu. 2890,75 + Năm 2006: = 3,56 811 Nghĩa là trong năm 2006, một đồng VLĐ đã tạo ra 3,56 đồng doanh thu. 4756,6 + Năm 2007: = 4,2 1130,85 Nghĩa là trong năm 2006, một đồng VLĐ đã tạo ra 4,2 đồng doanh thu. Như vậy ta thấy qua 3 năm, hiệu suất sử dụng VLĐ của doanh nghiệp năm 2007 đã tăng lên so với năm 2003 và ở mức cao. Doanh nghiệp đã làm ăn khá có hiệu quả, doanh thu tăng cao, hiệu quả sử dụng VLĐ cũng tăng theo. Sức sinh lợi của VLĐ Đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng nói lên khả năng của VLĐ , được đánh giá bằng thương số giữa lợi nhuận sau thuế và VLĐ LNST Sức sinh lợi của VLĐ = VLĐ Sức sinh lời của VLĐ: 140,184 + Năm 2005: = 0,27 523,5 Doanh nghiệp bỏ ra 1đ VLĐ thì thu được 0.27 đ LNST. 266,292 + Năm 2006: = 0,33 811 Doanh nghiệp bỏ ra 1đ VLĐ thì thu được 0.33 đ LNST. 405,504 + Năm 2007: = 0,36 1130,85 Doanh nghiệp bỏ ra 1đ VLĐ thì thu được 0.36 đ LNST. Đây là một con số khá cao. Nó phản ánh VLĐ của doanh nghiệp đã mang lại hiệu quả tốt cho doanh nghiệp. Vòng quay hàng tồn kho. Trong quá trình kinh doanh , DN liên tục mua các hàng hoá của mình rồi lại bán ra. Nếu như DN tiêu thụ hàng hoá tốt thì thu hồi được vốn nhanh. Nhiệm vụ nhà quản trị là phải tính toán sao cho lượng hàng trong kho của mình là hợp lý nhất. Cùng một lượng VLĐ nếu đem lại một lượng doanh thu càng lớn thì lượng vốn đó càng có ý nghĩa. Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu nói lên số chu kỳ kinh doanh của Công ty là bao nhiêu lần trong năm. Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho: 1333,8 + Năm 2005: = 4,86 274,45 2178,15 + Năm 2006: = 4,68 465,28 3665,15 + Năm 2007: = 5,38 680,9 Qua kết quả trên ta thấy năm 2005, doanh nghiệp đã thực hiện được 4,86 chu kỳ kinh doanh, năm 2006 số chu kỳ kinh doanh doanh nghiệp thực hiện được là 4,68 chu kỳ, năm 2007 số chu kỳ kinh doanh doanh nghiệp thực hiện được là 5,38 chu kỳ . Ta thấy trong 2 năm 2005 và 2006 số chu kỳ giảm, đến năm 2007 chu kìy kinh doanh mới tăng được gần 1 chu kỳ. Điều này cho ta thấy doanh nghiệp đã thực hiện chưa tốt việc quay vòng vốn, chưa đem lại hiệu quả cao trong sử dụng VLĐ. 2.2.3.2 Hạn chế – Nguyên nhân Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay cũng như các công ty thương mại, đặc biệt là các công ty họat động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Công ty cổ phần Đại Việt cũng còn gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ dẫn tới việc hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Đó là một số vấn đề cụ thể sau: + Doanh nghiệp còn thiếu về vốn do đó hàng năm luôn phải đi vay một lượng vốn lớn làm công ty phải trả nhiều lãi vay cũng như không chủ động trong việc kinh doanh, do các khoản vay chủ yếu là ngắn hạn. + Công ty chưa làm tốt công tác thanh toán và thu hồi nợ, làm hạn chế tính luân chuyển của vốn. Với mục đích là mở rộng thị phần nên công ty muốn có nhiều bạn hàng mới, chính sách tín dụng nới lỏng hơn cả về thời gian, số lượng và phạm vi. Chưa có các biện pháp cứng rắn trong việc thu hồi nợ, do đó các khách hàng vẫn thanh toán nợ chậm, dây dưa chiếm dụng vốn của công ty làm tăng lãi trả ngân hàng ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh cũng như làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. + Chất lượng nghiên cứu thị trường chưa cao cũng như công tác vận chuyển, công tác bán hàng chưa tốt đã làm cho hàng tồn kho còn nhiều do đó hiệu quả sử dụng VLĐ bị giảm đi đáng kể. + Trong việc sử dụng vốn lưu động công ty vẫn còn bị lãng phí một lượng vốn rất lớn. + Công ty chưa khai thác hết đượctiềm năng của nhân tố con người. Công tác quản lý nhân sự chủ yếu trên góc độ hành chính nên hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm mà chi phí quản lý doanh nghiệp vẫn cao. Trên đây là một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ ở Công ty cổ phần Đại Việt. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. + Yếu tố con người: Quản lý chưa xác định được đúng nhu cầu về VLĐ của doanh nghiêp,đội ngũ kinh doanh hoạt động chưa thực sự hiệu quả thể hiện ở lượng hàng tồn kho còn cao. + Yếu tố kỹ thuật: Do thị lĩnh vực công nghệ thông tin thường xuyên thay đổi, các vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn và luôn được thay thế bằng các công nghệ và thiết bị tiên tiến hơn trong thời gian ngắn. Dẫn tới việc các sản phẩm tồn kho dễ bị lạc hậu và khó tiêu thụ + Cơ chế: Sự quản lý không chặt chẽ, cơ chế bán hàng, công nợ không phù hợp gây thất thoát VLĐ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng VLĐ. Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần đại việt 3.1 Định hướng phát triển công ty Trong xu thế đổi mới của đất nước, nền kinh tế thị trường đó và đang mở ra nhiều cơ hội cũng như thỏch thức lớn đối với cỏc Doanh nghiệp.Để cú thể đứng vững và khụng ngừng lớn mạnh trờn thị trường, đũi hơi cỏc Doanh nghiệp phải chỳ trọng đến tất cả cỏc khõu trong qua trỡnh hoạt động kinh doanh, từ khõu bỏ vốn ra cho đến tiết kiệm được chi phớ và thu được lợi nhuận cao để bự đắp sự trượt giá trờn thị trường khụng ổn định hay thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, cải thiện đời sỗng cho người lao động và mở rộng mạng lưới tiờu thụ để chi nhỏnh khụng ngừng phỏt triển.Và để cú chỗ đứng vững chắc trờn thị trường cỏc Doanh nghiệp phải luụn phấn đấu nõng cao chất lượng, giảm giỏ thành sản phẩm để cú thể cạnh tranh với cỏc Doanh nghiệp khỏc. Đồng thời nõng cao uy tớn với khỏch hàng, hết hợp tạo thương hiệu mạnh mở rộng mạng lưới tiờu thụ sản phẩm trờn thị trường Với thế mạnh là một công ty đã hoạt động lâu năm trên thị trường sản phẩm công nghệ tại Việt Nam, Công ty cổ phần Đại Việt luôn hướng tới mục tiêu trở thành một đơn vị hàng đầu của lĩnh vực này. Trong thời gian tới, công ty sẽ tiến hành mở thêm chi nhánh và mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tại các tỉnh phía Bắc. Cụ thể công ty sẽ mở thêm hai chi nhánh tại Hà Nội để phát triển bán lẻ và tiến hành mở rộng mạng lưới phân phối về các tình thành lân cận. Chính vì thế để phục vụ tốt hoạt động mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp, ban lãnh đạo công ty coi yếu tố vồn là một vấn đề sống còn, đặc biệt là vốn lưu động. 3.2 Giải pháp nhằm năng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động 3.2.1 Xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp Xác định đúng đắn nhu cầu VLĐ thường xuyên, cần thiết để đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, tiết kiệm và có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt trong điều kiện các doanh nghiệp chuyển sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, mọi nhu cầu về VLĐ cho hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp đề phải tự tài trợ thì điều này càng có ý nghĩa thiết thực hơn. Thực trạng ở Công ty cổ phần Đại Việt cho thấy: VLĐ chủ yếu là vốn vay( chiếm 62,75% tổng VLĐ năm 2005, chiếm 79,4% tổng VLĐ năm 2006 và chiếm 84,25% tổng VLĐ năm 2007) mà chủ yếu là nợ ngắn hạn. Do đó việc sử dụng vốn vay này được xem như là con dao hai lưỡi. Mặt thuận lợi là công ty có vốn để kinh doanh, mặt khác nó tạo nên gánh nặng nợ nần mà chỉ khi hoạt đông kinh doanh xấu đi sẽ thấy hậu quả của nó ngay vì tiền lãi phải trả rất lớn. Để sử dụng nguồn vốn này hợp lý và có hiệu quả cần xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết tối thiểu cho hoạt động kinh doanh , trong đó cần xem xét nhu cầu vốn cho từng khâu của VLĐ. Từ đó bố trí cơ cấu VLĐ đầy đủ, hợp lý. Trên cơ sở nhu cầu VLĐ, lập kế hoạch sử dụng VLĐ sao cho chi phí sử dụng vốn là thấp nhất mà đưa lại hiệu quả cao nhất. Lập kế hoạch xin cấp vốn cũng như tìm nguồn vốn bổ sung thích hợp từ các khoản như: lợi nhuận sau thuế hàng năm, quỹ khấu hao hàng năm để bổ sung vào nguồn VLĐ thường xuyên. Song việc dự đoán nhu cầu VLĐ thường xuyên sao cho là hợp lý trong từng thời kỳ lại phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau như: Quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ; sự biến động của các loại hàng hoá trên thị trường; chính sách chế độ về lao động, tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp; trình độ tổ chức quản lý sử dụng VLĐ của doanh nghiệp trong quá trình dự trữ sản xuất, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, giảm thấp tương đối nhu cầu VLĐ không cần thiết công ty có thể có các biện pháp sau để tác động đến các nhân tố ảnh hưởng trên sao cho có hiệu quả nhất như: Qua tổng kết đánh giá phải xác định được quy mô kinh doanh hiện tại và dự đoán được quy mô kinh doanh trong những năm tới một cách sát thực nhất. Đánh giá sự biến động của giá cả thị trường năm qua cũng như những năm tới trên cơ sở sự biến động về tình hình tài chính khu vực và thế giới, tình hình chính trị trong và ngoài nước... Hàng quý phải cập nhật những thông tin sơ bộ về tình hình kinh doanh, về các nguồn vốn đang vận động cũng như các nguồn vốn đang ứ đọng để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ của công ty trong các khâu của hoạt động kinh doanh. 3.2.2 Nâng câo hiệu quả quản lý hàng tồn kho Tỷ lệ hàng tồn kho của doanh nghiệp là quá cao, khoảng trên 50% trong năm 2005 , 2006 . Đặc biệt năm 2007 hàng tồn kho lên tới trên 60%. Hàng tồn kho quá lớn và tăng đột biến như vậy sẽ làm phát sinh thêm chi phí lưu kho, chi phí bảo quản, vật tư bị biến chất , mất mát...Hơn nữa vốn lưu động của Công ty phần lớn là đi vay ngắn hạn, phải chịu lãi suất. Do vậy, việc giải phóng một lượng lớn vốn lưu động bị ứ đọng trong hàng tồn kho là biện pháp quan trọng nhất góp phần tiết kiệm chi phí sử dụng vốn, chi phí lưu trữ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong Công ty . Khi đã giải phóng được hàng tồn kho và xác lập được mức dự trữ hàng tồn kho tối ưu thì trước tiên Công ty sẽ có thêm một lượng tiền mặt để cải thiện khả năng thanh toán của mình hoặc đầu tư vào mục đích kinh doanh khác đồng thời tiết kiệm được nhiều khoản chi phí khác. 3.2.3 Nâng cao hiệu quả công tác thu hồi công nợ Công ty bị chiếm dụng vốn nhiều mà chủ yếu nằm ở các khoản phải thu của khách hàng và các khoản phải thu khác. Nguyên nhân do: -Thứ nhất: với mục tiêu của công ty là mở rộng thị phần nên công ty mong muốn tìm được nhiều bạn hàng mới, do đó chính sách tín dụng đã lới lỏng đối với khách hàng. Công ty có thể gia hạn nợ với thời gian dài hơn, số lượng lớn hơn và phạm vi khách hàng rộng hơn. -Thứ hai: công tác thẩm định uy tín và khả năng tài chính của khách hàng chưa được tốt, do đó công ty vẫn ký hợp đồng tiêu thụ với một số khách hàng mà khả năng thanh toán thấp. -Thứ ba: trong một số trường hợp khi ký kết hợp đồng với khách hàng chưa có các điều kiện ràng buộc chặt chẽ về thời gian thanh toán và các điều khoản thanh toán mang tính pháp lý khác, do đó khách hàng coi thường kỷ luật thanh toán, dẫn đến khách hàng trả nợ chậm, dây dưa chiếm dụng vốn của công ty. Do đó, để đảm bảo sự ổn định, lành mạnh và tự chủ về mặt tài chính, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động từ đó góp phần sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, thì công ty cần phải có những biện pháp hữu hiệu để làm tốt hơn nữa công tác thanh toán và thu hồi nợ. Để làm tốt công tác trên, theo em công ty cần áp dụng một số biện pháp cụ thể sau: Chính sách tín dụng có lỏng song phải ở trong một giới hạn an toàn, nó phải có sự hợp lý với khả năng tài chính của công ty, cũng như có thể gia hạn nợ căn cứ vào giá trị thực tế của lô hàng và tình hình thực tế của khách hàng sao cho vừa mềm mỏng vừa có khả năng thu hồi nợ nhanh nhất. Trước khi ký kết hợp đồng và chấp nhận tín dụng công ty cần phải làm tốt hơn nữa công tác thẩm định về uy tín và khả năng thanh toán của khách hàng. Cụ thể phải xem xét: khả năng thanh toán, hệ số tín nhiệm, uy tín của khách hàng trên thương trường, tình hình hoạt động kinh doanh và cả những yếu tố tiềm năng có thể. Nếu chưa có điều kiện đi sâu thẩm định thì bắt buộc bên đối tác phải sử dụng đến các biện pháp như đặt cọc, trả trước một phần giá trị hợp đồng.... Trong hợp đồng tiêu thụ công ty cần phải quy định rõ thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán... và yêu cầu các bên phải chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các điều khoản quy định trong hợp đồng phù hợp với chế độ chính sách tài chính hiện hành. Nếu thanh toán chậm so với thời hạn quy định đối tác sẽ phải chịu phạt vi phạm hợp đồng, phạt nợ quá hạn và phải chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng. Để giúp công ty có thể nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, hạn chế phát sinh các chi phí không cần thiết hoặc rủi ro, công ty có thể tiến hành các biện pháp chủ yếu sau: Phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài công ty, thường xuyên đôn đốc thu hồi nợ đúng hạn. Có chính sách bán chịu đúng đắn đối với từng khách hàng cụ thể. Khi bán chịu cho khách hàng phải xem xét kỹ khả năng thanh toán trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết. Phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ(khách quan, chủ quan) để có biện pháp xử lý thích hợp, như gia hạn nợ, thoả ước xử lý. 3.2.4 Nâng cao trình độ đội ngũ quản lý và nhân viên Nhân tố con người được xem là vô cùng quan trọng trong bất cứ môi trường nào. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh thì mọi thành công hay thất bại phần lớn đều do con người đem lại. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường ngày nay, người ta không chỉ cần có vốn, công nghệ mà quan trọng hơn cả là con người, song con người có sẵn về tài về đức chưa đủ mà những con người ấy phải tạo thành một khối thống nhất thật sự vững mạnh, tạo nên sự lành mạnh của văn hoá doanh nghiệp. Thực tế trong nhiều năm qua, cũng giống như các doanh nghiệp tư nhân khác, công ty vẫn chưa khai thác hết sức lực, trí tuệ của cán bộ công nhân viên trong công ty, phát huy tiềm năng trong mỗi cá nhân để tạo nên một tổ chức thống nhất, mạnh về mọi mặt. Đây là một vấn đề tồn tại cần phải có những biện pháp khắc phục, tuy nhiên để làm tốt việc này là rất khó vì sự trì trệ của thời kỳ bao cấp đã ăn sâu vào nếp sống của người Việt Nam. Vậy để làm tốt công tác này, theo tôi công ty có thể giải quyết một số vấn đề sau: Thường xuyên đánh giá tổng kết về cơ cấu tổ chức, về trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, từ đó có các khoá học đào tạo chuyên sâu, nâng cao trình độ chuyên môn, sao cho đáp ứng mọi nhu cầu mới luôn thay đổi hiện nay. Trên nền tảng của những cán bộ công nhân viên dày dặn kinh nghiệm để từng bước đưa các cán bộ công nhân viên trẻ chưa nhiều kinh nghiệm để học hỏi và dần khẳng định mình cũng như cống hiến tài năng của mình vì sự nghiệp chung của công ty. Làm tốt công tác nhân sự là một nhân tố quan trọng góp phần vào hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Do vậy, công ty cần quan tâm nhìn nhận vấn đề này một cách thường xuyên trong tất cả mọi định hướng, chiến lược của công ty. Kết luận Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Do vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động phải là nhiệm vụ thường xuyên và mục tiêu lâu dài của các doanh nghiệp. Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về vốn lưu động, đi sâu phân tích từng khoản mục tài sản lưu động đã cho thấy rõ hơn về tình hình sử dụng vốn lưu động ở Công ty cổ phần Đại Việt. Đồng thời cũng qua đó để tìm ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong Công ty. Với những biện pháp đã nêu ra trong chuyên đề này, hy vọng rằng nó sẽ được Công ty xem xét để áp dụng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong Công ty. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng hiệu quả sử dụng vốn lưu động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động đòi hỏi sự cố gắng, quan tâm thường xuyên của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty chứ không phải chỉ ở một bộ phận chức năng hay một cá nhân nào. Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Đại Việt, được sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của Thầy giáo hướng dẫn, Ban Lãnh đạo Công ty, các phòng ban đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Vì vậy tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ chân tình này. Tuy nhiên, do trình độ khả năng còn hạn chế nên những vấn đề được đề cập chắc chắn còn chưa đầy đủ và còn sai sót, tôi hy vọng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty để chuyên đề được hoàn thiện với chất lượng cao hơn. Hà Nội, tháng 7/2008 mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7843.doc
Tài liệu liên quan