Đề tài Nội dung quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quy luật đó như thế nào trong giai đoạn hiện nay

Chúng ta cần nắm chắc quan điểm của Đảng "phải biết kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị". Nghĩa là, trong đổi mới hệ thống chiníh trị chúng ta phải tiến hành từng bước, phù hợp với đổi mới kinh tế, cần nắm chắc "mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa", "phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân" "dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ cương chống khuynh hướng cực đoan, quá khích, lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" nhằm gây rối về chính trị không chấp nhận đa nguyên đa đảng". Để làm được điều đó nhà nước ta phải không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, để trở thành một Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong hệ thống chính trị.

doc22 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 958 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quy luật đó như thế nào trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Xuyên suốt quá trình lịch sử phát triển của loài người chúng ta đã trải qua năm chế độ xã hội: xã hội nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Đó là sự đấu tranh thay thế lẫn nhau của các chế độ xã hội, xã hội sau cao hơn xã hội trước. Trong tương lai, chúng ta đang tiến dần đến sự tự do, tức là khi xã hội không còn cảnh người bóc lột người. Đó chính là xã hội công sản chủ nghĩa. Lịch sử xã hội loài người đều tuân theo qui luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất". Rộng ra một chút là "mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng". Hai qui luật này chi phối toàn bộ hệ thống xã hội từ trước tới nay. Điều này đã được chứng minh chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh: Qua đó ta thấy được nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi xã hội là do sự tác động qua lại giữa các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, còn nguyên nhân trực tiếp sự biến đổi này là sự tác động qua lại giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Do đó việc nc những qui luật này không những đưa ra được chính sách chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với mỗi quốc gia mà còn làm tiền đề cho sự dự đoán xu thế phát triển của thế giới để từ đó đề ra những biện pháp và quyết sách hợp lý và đón đầu, hạn chế những mặt tiêu cực do xu thế này gây ra. Trong công cuộc xây dựng đất nước của chúng ta, chúng ta đã có những bài học đắt giá khi không hiểu một cách cặn kẽ quy luật này. Ngày nay nhà nước ta đã có cơ chế thông thoáng và nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường định hướng xã họi chủ nghĩa nước ta đang từng bước đổi mới để phù hợp với xu thế thời đại. Là một sinh viên của trường Đại học Kinh tế quốc dân. Em càng thấy được tầm quan trọng những quy luật trên đặc biệt nước ta đang trên đường "công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Vì vậy em đã chọn đề tài: "Nội dung quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quy luật đó như thế nào trong giai đoạn hiện nay" A. Đặt vấn đề Như chúng ta đã biết học thuyết Mác - xít về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan, là căn cứ khoa học cho cách mạng chủ nghĩa xã hội trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là: quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất", và mối quan hệ biện chứng giữa "cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng". Hai quy luật này đã chi phói toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Trong thực tế hiện nay, từ khi chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào nhưng nước ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát triển đất nước là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Đảng ta đã xác định "xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nhgiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính quá độ" và cũng từ việc vận dụng này mà Việt Nam thu hút được người trong giới lãnh đạo với giới kinh doanh trên thế giới. Để làm rõ luận điểm trên chúng ta đi sâu vào phân tích học thuyết Mác -xít về hình thái kinh tế - xã hội và quá trình vận dụng của Đảng ta trong thực tế nhằm làm sáng tỏ rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.Sau đây chúng ta lần lượt đi tìm hiểu rõ hai quy luật trên và quá trình vận của Đảng và những thành tựu cùng với hạn chế trong quá trình vận dụng đó. B. Giải quyết vấn đề I. Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Mối quan hệ biện chứng giữa chúng 1. Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất và tái sản xuất. Nó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là một sự kết hợp giữa 3 yếu tố: con người, công cụ lao động, đối tượng lao động. Trong đó "con người" giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò quyết định vì: con người không những chỉ chế tạo ra công cụ mà còn trực tiếp sử dụng nó và đề ra những kế hoạch, lựa chọn những phương pháp lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Vì vậy Lênin đã rất coi trọng để sản xuất ra của cải vật chất. Vì vậy Lênin đã rất coi trọng người công nhân, người lao động. Ông đã từng viết "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động". Nhận thức rõ điều đó Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội bền vững. Đây là nguồn lực của mọi nguồn lực, nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp phát triển. Tại Đại hội đại biểu toán quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta đã xác định "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Coi việc "nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Do vậy việc khai thác và sử dụng, phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng với nước ta. Bên cạnh yếu tố "con người" thì công cụ lao động cũng đóng vai trò cơ bản trong tư liệu sản xuất. Con người đã trải qua quá trình tích luỹ kinh nghiệm và những phát huy những sáng chế kĩ thuật làm cho công cụ lao động không ngừng được cải thiện và hoàn thiện. Chính điều đó đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự biến đổi của xã hội. Như vậy trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế lịch sử. Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa xâm nhập vào yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất mà còn đem lại sự thay đổi về chất. Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động. 2. Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là quan hệ sản xuất giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất. Nó được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất chứ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế - tổ chức. Trong đó quan hệ kinh tế xã hội biểu hiện hình thức xã hội của sản xuất, nó biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức quản lí điều hành, quan hệ phân phối sản phẩm. Cả ba mặt này tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong ba mặt đó thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định vì: trong xã hội lực lượng nào, giai cấp nào nắm những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì họ có vai trò tổ chức, quản lí, điều hành nền sản xuất, do đó họ có quyền đưa ra và thực hiện phương thức phân phối sản phẩm. Trái lại những lực lượng nào, giai cấp nào không có tư liệu sản xuất trong tay, khi đó họ có thể tồn tại được thì họ phải bán sức lao động của chính mình và trở thành những công nhân làm thuê. Trong quá trình phát triển của nhân loại đã chứng kiến hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Trong đó sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Khi đó xã hội sẽ tồn tại quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Còn sở hữu công cộng là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản xuất thuộc mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Khi đó quan hệ xã hội là quan hệ bình đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Bên cạnh quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất thì tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất. Còn quan hệ phân phối sản xuất là kích thích trực tiếp lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế - tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất. Nó vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ thuật của nền sản xuất. Quan hệ này phản ánh trình độ phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất. Nó do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định. 3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất phải phụ thuộc với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Đó cũng là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất. 3.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đói với quan hệ sản xuất Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất vì: Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả thì con người luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển công lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố đồng nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy lực lượng sản xuất là nội dung là phương thức còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết đinh hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức thay đổi theo. Tuy nhiên lực lượng sản xuất không chỉ quyết định quan hệ sản xuất mà còn quyết định cả những quan hệ sản xuất khác của con người như giai cấp, quan hệ dân tộc, chính trị Và đồng thời quyết định sự phát triển của chính bản thân nền sản xuất xã hội. Điều đó được thể hiện trong "sự khốn cùng của triết học". C.Mác viết "nhưng quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình". 3.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất Nếu ở phần trên: lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng không có nghĩa là quan hệ sản xuất thụ động, lệ thuộc vào lực lượng sản xuất. Trái lại nó tác động mạnh mẽ lên lực lượng sản xuất theo hai chiều: hoặc là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, hoặc là kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Ngược lại nó không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên tác động kìm hãm đó chỉ tạm thời, theo tính tất yếu khách quan cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Khi đó phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã nói "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội". Nhưng rồi quan hệ sản xuất mới này sẽ lại trở nên không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển hơn nữa, sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn ra. Trong xã hội loài người lịch sử phát triển của những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao: phương thứuc sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và trong tương lai là cộng sản chủ nghĩa. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì: những mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ chức, quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quyết định phương thức phân phối và phân chia của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ quần chúng lao động, một lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao động. Tóm lại vấn đề then chốt trong quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là: sự phù hợp (hay không phù hợp) của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng của sự phù hợp (hay không phù hợp) là năng suất lao động xã hội. Tuy nhiên việc hiểu không đúng vấn đề trên hoặc hiểu một cách đơn giản sẽ dẫn đến những sai lầm tai hại trong việc đề ra chính sách hoạt động thực tiễn của con người. Và một trong những sai lầm cơ bản: chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò "thúc đẩy, mở đường" của quan hệ sản xuất. Cụ thể hơn là tuyệt đối hoá quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và coi thường, không chú trọng vào vai trò của quan hệ tổ chức quản lí sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm. Chính điều này dẫn đến nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng trong những năm cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỉ XX. II. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 1. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Nó được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Cơ sở hạ tầng cấu thành từ những quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất và từ những quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất của đời sống xã hội. Cơ sở hạ tầng của một xã hội gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo, nó chi phối các quan hệ sản xuất khác. Đồng thời nó cũng quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định. Như vậy nếu xét trong phương thức sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp thành" cơ sở kinh tế xã hội, là cơ sở hiện thứuc trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng. 2. Kiến trúc thượng tầng Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùng với những thiết kế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội các đoàn thể xã hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng là mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận đọng, phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn triết học tôn giáo, nghệ thuật chỉ gián tiếp với nó. Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp vì nó phản ánh cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng của giai cấp đối kháng. Và đặc trưng của kiến trúc thượng tầng là tư tưởng, chính trị của giai cấp thống trị. Bên cạnh đó nhà nước có vai trò quan trọng vì nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. 3. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Giữ chúng có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và ngược lại kiến trúc thượng tầng tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. 3.1. Vai trò quyết định cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định. Cụ thể là cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó như thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học và các quan hệ, các thể chế tương ứng như vậy. Ví dụ như nếu quan hệ sản xuất là phong kiến thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng từ hệ tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học cho đến thiết chế xã hội đều của giai cấp phong kiến, nó phản ánh và bảo vệ lợi ích cho giai cấp phong kiến. Ngoài ra vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng còn được thể hiện ở chỗ: Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C.Mác đã viết "cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Chẳng hạn, khi cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản thời kỳ cạnh tranh tự do chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng bị biến đổi. Trong đó, nn dân chủ tư sản chuyển thành nhà nước độc quyền, các quan điểm chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật có xu hướng phản tiến bộ. Như vậy khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời, thì "sớm muộn" kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và hình thành nên kiến trúc thượng tầng mới để bảo đảm sự tương ứng. Sở dĩ có sự "sớm muộn" trong sự mất đi hay ra đời của kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng là do kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối tạo nên tính phức tạp của quá trình mất đi hay nảy sinh, hình thành nên một kiến trúc thượng tầng mới. Cụ thể là luôn luôn có những yếu tố thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như: chính trị, pháp luật Song song với nó là những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật hoặc có những yếu tố vấn được kế thừa trong xã hội mới. Hơn nữa quá trình thay đổi đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cuộc cách mạng xã hội đầy gay go và phức tạp. 3.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng Tuy cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Nhưng toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nên nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động đó đều diễn ra bằng nhiều hình thức, cách thức khác nhau. Trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối. Trong xã hội có giai cấp việc giành chính quyền cũng là để tạo sức mạnh kinh tế. Sau khi quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh nhà nước được tăng cường. Khi đó lại tạo thêm sức mạnh vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế của giai cấp cầm quyền. Cứ như thế, sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị đưa lại sự phát triển hợp với quy luật. ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục tiêu của chính trị. Điều đó được thể hiện rõ hơn ở các nhà nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, họ đã tìm cách "điều chỉnh" xã hội bằng một loạt chính sách kinh tế nhằm làm dịu những mâu thuẫn xã hội. Tất nhiên những điều chính đó không giải quyết cơ bản mâu thuẫn đối kháng trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều: Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Đây chính là sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầmg lên cơ sỏ hạ tầng. Sự tác động đó được thể hiện ở chức năng chính trị - xã hội của kiến trúc thượng tầng nhằm bảo vệ duy trì củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Ngược lại nếu kiến trúc thượng tầng lạc hậu hơn hoặc "vượt quá xa" so với cơ sở hạ tầng thì đều dẫn đến sự "khập khiễng" giữa chúng. Từ đó nó sẽ cản trợ sự phát triển kinh tế xã hội. Quá trình thay đổi luôn luôn diễn ra trong mỗi hình thái kinh tế xã hội. Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt càng thể hiện với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu quá nhận manh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ định tính tất yếu thì kinh tế - xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy ý chí. III. Sự vận dụng hai quy luật trên của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay Như vậy học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của mác - Lênin đã chỉ ra 2 quy luật: đó là sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mối quan hệ đặc biệt quan trọng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Qua hai quy luật đó ta thấy được nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi xã hội là do sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Còn nguyên nhân trực tiếp là sự biến đổi này là sự tác động qua lại giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Việc nhận thức đúng hai quy luật trên có tầm quan trọng, đặc biệt là đề ra đường lối phát triển của đất nước. Nếu nhận thức và vận dụng sai 2 vấn đề đó thì có thể dẫn tới những kết quả khó lường. 1. Những sai lầm của Đảng ta về việc vận dụng không đúng 2 quy luật trên. Sau khi thống nhất Tổ quốc (1975) cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và những buổi đầu do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan chúng ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô hình đó chỉ phù hợp và có vai trò tích cực trong điều kiện đất nước còn chiến tranh. Còn sau khi giành được chính quyền, đất nước được hoà bình mô hình đó đã dần dần bộc lộ những hạn chế của nó và dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội. Nhìn từ góc độ hai quy luật trên, đặc biệt là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ta thấy: chúng ta còn lúng túng trong việc xây dựng lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Đã có thời kì ta đã tuyệt đối quan hệ sản xuất vào quan hệ sở hữu và đồng nhất hợp tác xã, quốc hữu hoá, thực hiện chính sách đưa nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang trong thời kì thấp kém. Hơn nữa, nước ta còn tuyệt đối hoá vai trò "đi trước, mở đường" của quan hệ sản xuất làm cho "khoảng cách" giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ngày càng rộng ra, dẫn đến nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng trong những năm cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỉ XX. Tại Đai hội Đảng toàn lần thứ VI. Đảng đã vạch ra những sai lầm và bắt đầu khắc phục thì chúng ta lại vấp phải sai lầm thứ hai trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiên tiến với lực lượng sản xuất lạc hậu. Chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, què quặt nhằm xây dựng mô hình lâu dài công - nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý, trình độ tính chất sử dụng của nông dân và kết quả là rất nhiều máy móc do nhà nước đưa vào để sản xuất nông nghiệp đều bị bỏ vào kho. Bên cạnh 2 sai lầm trên chúng ta còn vấp phải sai lầm trong việc xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến việc phát triển lực lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Chúng ta xoá sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nổi vai trò "người nội trợ cho xã hội", gây nhiều khó khăn ách tắc cho lưu thông hàng hoá và khong đáp ứng nhu cầu cần thiết cho nhân dân. 2. Vận dụng của Đảng và Nhà nước ta về hai quy luật trên trong giai đoạn hiện nay. 2.1. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Để khắc phục những sai lầm đó, Đảng ta xác định nội dung cơ bản của đường lối đổi mới về kinh tế: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chính sách của Đảng ta nhằm xây dựng lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, giải quyết được mối quan hệ giữa chúng. Về lực lượng sản xuất: chủ trương của Đảng sẽ xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại nhưng cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, để đảm bảo tính phủ định có kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc để tạo nên một sự phát triển ổn định, bình thường. Từ đó tránh được sự "gãy gục" trong tiến trình phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời những tiến bộ khoa học kĩ thuật, nhập khẩu tư liệu sản xuất hiện đại, chuyển giao công nghệ qua liên kết kinh tế và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Từ đó tạo nên sự tiến bộ về lực lượng sản xuất do tiếp thu có chọn lọc từ bên ngoài với những cơ sở vật chất và lực lượng sản xuất vốn có trong nước để đẩy nhanh và rút ngắn thời hạn phát triển lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, vươn lên kịp trình độ của thế giới. Bên cạnh đó việc nâng cao trình độ văn hoá trình độ kĩ thuật chuyên môn, ý thức, thái độ của người lao động với sản xuất là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác kĩ thuật và tư liệu sản xuất vốn có, để sáng tạo hơn trong quá trình sản xuất. Về quan hệ sản xuất : Như ở phần trên ta đã nói chủ trương nhà nước là xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn vì: trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay vừa thấp lại không đồng đều nên không thể nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước đại hội VI. Làm như vậy sẽ đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ lực lượng sản xuất. Vì vậy việc đưa chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, xây dựng khả năng, năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển. Giải quyết mối quan hệ biện chứng quan hệ sở hữu - lực lượng sản xuất sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Trong những lần vấp ngã như vậy. Đảng ta thấy được tầm quan trọng của quy luật "quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất" đồng thời cũng thấy được những hậu quả việc nhận thức không đúng, không vững hoặc hiểu một cách đơn giản. Từ đó Đảng rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích Phương hướng cũng như giải pháp để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học - kỹ thuật, chú trọng việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định những hình thức, bước đi thích hợp. Bên cạnh đó Đảng cũng nhận thức được rằng: Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không có thay đổi. Trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản nhưng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, chúng ta chú trọng việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Việc thay thế quanhệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phải giải quyết đồng bộ ba mặt: xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lí, chế độ phân phối. Hơn nữa từ thực tế đã thấy rõ nếu chế độ quản lí và phân phối không được xây dựng theo nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội và trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu tư liệu sản xuất. Như vậy quá trình "công nghiệp hoá - hiện đại hoá" ta nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, còn việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp. 2.2. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Chúng ta đang xây dựng cơ sở hạ tầng theo quan điểm đổi mới được Đảng ta vạch rõ trong các đại hội VI, VII, VIII, đặc biệt tiếp tục khẳng định ở đại hội IX của Đảng "thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần". Các thành phần kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Như vậy trong quá trình đổi mới kinh tế, bằng việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta chính là một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhát chúng cạnh tranh với nhau, vừa liên kết, đan xen với nhau, bổ sung cho nhau. Việc đổi mới kinh tế xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta không thể tách rời những vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội, những theer chế tương ứng thuộc kiến trúc thượng tầng. Để đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, "phải kiên định quan điểm có tính nguyên tắc" giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội", "kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chi phối trong đời sống tinh thần của nhân dân ta". Chúng ta cần nắm chắc quan điểm của Đảng "phải biết kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị". Nghĩa là, trong đổi mới hệ thống chiníh trị chúng ta phải tiến hành từng bước, phù hợp với đổi mới kinh tế, cần nắm chắc "mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa", "phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân" "dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ cương chống khuynh hướng cực đoan, quá khích, lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" nhằm gây rối về chính trị không chấp nhận đa nguyên đa đảng". Để làm được điều đó nhà nước ta phải không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, để trở thành một Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong hệ thống chính trị. Còn việc đổi mới kinh tế, Đảng ta đưa việc phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân lực lên quốc sách hàng đầu. Bên cạnh đó tiếp tục xây dựng văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc góp phần làm cho đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú. C. Kết thúc vấn đề I. Thành tựu - Sự ổn định chính trị - xã hội là nền tảng vững chắc tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đó là thế mạnh cần khai thác của nước ta hiện nay. Quan hệ sản xuất được đổi mới phù hợp hơn với thực tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể chế kinh tế thị trường bắt đầu được hình thành và vận hành có hiệu quả. Hệ thống kinh tế và xã hội. - Cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến, năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đã tăng lên đáng kể, tạo ra khả năng tốt hơn trong việc khai thác các nguồn lực phát triển từ lao động, đất đai, từ cơ sở kĩ thuật của nền kinh tế và xã hội. - Quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao của nước ta đã được mở rộng nhiều trên thương trường quốc tế. - Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong mấy năm gần đây tương đối cao và khá ổn định: GDP bình quân tăng 7,5%/năm. GDP (2000) đã gấp hơn 2 lần so so với 1990. Năm 2003 2006 2007 GDP (%) 7,27 8,17 8,3 II. Hạn chế - Trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém, quy mô sản xuất bé, GDP bình quân còn thấp so với các nước phát triển trên thế giới. Mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư chưa đủ sức tạo sức bật đối với sản xuất và phát triển thị trường, hệ thống tài chính, tiền tệ còn những yếu kém và bất cập. - Cơ cấu kinh tế tuy có chuyển dịch nhưng còn chậm, chưa phát huy được lợi thế. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội chưa đáp ứng yêu cầu. Các chỉ tiêu và chất lượng hiệu quả kinh tế vĩ mô và các doanh nghiệp đều có những yếu kém đáng lo ngại và đang đứng trước những thách thức rất lớn trong hội nhập kinh tế quốc tế. - Về lĩnh vực xã hội còn nhiều vấn đề tồn tại, nếu không sớm khắc phục thì sẽ hạn chế lớn đến động lực phát triển. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn khá cao, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới Cải cách hành chính tiến hành chậm, hiệu lực quản lý của nhà nước còn hạn chế. Tình hình lạm phát và tham nhũng còn chưa được ngăn chặn có hiệu quả, gây thất thoát lớn và tốn kém các nguồn của cải tạo ra nguy cơ mất ổn định xã hội. III. Giải pháp - Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư phát triển kinh doanh. - Hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường - Tăng cường hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. - Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng chính sách kinh tế đối ngoại. - Chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Đồng thời tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh. IV. Kết luận chung Qua quá trình tìm hiểu mối quan hệ biện chứng của quy luật "quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất", "cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng". Ta thấy được học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác xít đã trở thành kim chỉ nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Nó không những được vận dụng ở các xã hội chủ nghĩa mà còn được vận dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa. Cũng như Mác đã nói: "học thuyết hình thái kinh tế - xã hội" luôn luôn đúng với mọi chế độ xã hội. Đối với Việt Nam, một nước đi lên CNXH từ xuất phát điểm thấp: nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, nông nghiệp manh mún với hình ảnh con trâu đi trước cái cày theo sau. Đặc biệt là chúng ta đã bỏ qua tư bản chủ nghĩa - đây là giai đoạn tích luỹ về mặt kinh tế - khoa học kĩ thuật. Vì vậy việc vận dụng đúng hai quy luật trên càng trở nên cấp bách cần thiết. Tuy nhiên, sự vận dụng đó các triệt để, sáng tạo, thì giúp nước ta trở thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có thể đuổi kịp các nước trên thế giới, nâng cao vị thế trên trường quốc tế cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin 2. Chương trình sơ cấp lý luận chính trị - học phần: Triết học Mác - Lênin. 3. Các chuyên đề về triết học 4. Hỏi - đáp về triết học Mác - Lênin 5. Tạp chí Triết học số 5 - 2000 6. Tạp chí Triết học số 1 - 2001 7. Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội VI của Đảng 8. Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội VIII của Đảng 9. Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8943.doc
Tài liệu liên quan