Đề tài Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên - Thực trạng và một số giải pháp

Phát triển DNV&N nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng luôn là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Đối với nước ta, một nước đang phát triển, lại đang trong quá trình đổi mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì phát triển loại hình doanh nghiệp này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trên thực tế việc nghiên cứu, hình thành hệ thống xúc tiến hỗ trợ phù hợp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển là công việc hết sức phức tạp , đòi hỏi nhiều thời gian, công sức của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức và nhiều người. Trong khung khổ bài viết này tôi đã phân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp chủ yếu để phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên phạm vi một địa bàn lãnh thổ cụ thể- Thành phố Thái Nguyên. Bài viết này đã hoàn thành được những nội dung khoa học cơ bản sau: - Thứ nhất, đã hệ thống hóa được một số những vấn đề lý luận cơ bản về DNV&N, đặc biệt là đã đưa ra và lý giải những tiêu thức xác định DNV&N ở nước ta hiện nay. Khẳng định vai trò to lớn và lâu dài của các DNV&N trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đưa nước ta thành một nước giàu mạnh, văn minh và hiện đại.

doc79 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 827 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên - Thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hộ cá thể và tiểu chủ,và mới đây nhất là luật doanh nghiệp sửa đổi đã tạo hàng lang pháp lý ngày càng thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. - Thứ hai, là do có sự quan tâm của thành uỷ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân Thành phố đã chỉ đạo các cấp các ngành chức năng của Thành phố bám sát chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước, vận dụng phù hợp vào điều kiện cụ thể của Thành phố và của từng cơ sở. Cụ thể, sự quan tâm này được thể hiện trên các mặt sau: - Tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp các cơ sở sản xuất kinh doanh về mặt thủ tục như thủ tục cấp giấy phép hành nghề và kinh doanh, mặt bằng sản xuất, - Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng ( quĩ quốc gia giải quyết việc làm, các ngân hàng trên địa bàn Thành phố). - Cung cấp thông tin, tư vấn, định hướng để các doanh nghiệp phát triển. - Giúp các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, kí kết các hợp đồng kinh tế. - Có chính sách thuế ưu đãi đối với các đơn vị mới ra đời, các sản phẩm mà Thành phố khuyến khích hoặc /và có giá trị xuất khẩu ( chè, mành cọ, gang đúc,). - Thứ ba, sự phát triển có hiệu quả của các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên trước hết là do sự cố gắng nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, trong đó các chủ doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Thật vậy, sau thời gian đầu bỡ ngỡ, hiện nay trình độ quản lý và quản trị kinh doanh của các doanh nhân đã có sự cải thiện đáng kể, đã dần thích ứng với cơ chế thị trường, nhờ vậy nhiều cơ sở không những tạo được vị thế vững chắc cho mình mà con phát triển với tốc độ khá cao. 2. Một số tồn tại Bên cạnh những thành tựu đạt được các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh Thành phố Thái Nguyên còn có những tồn tại cần khắc phục sau: - Trước hết đó là, mặc dù có sự phát triển nhanh về số lượng các cơ sở nhưng qui mô đầu tư còn quá thấp, nhất là thành phần hộ sản xuất cá thể. Cơ cấu đầu tư, ngành nghề và phân bố địa lý còn mất cân đối chưa có tác dụng tích cực đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển của địa phương. Tuy chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các doanh nghiệp nhưng mức đóng góp vào nền kinh tế còn ở mức thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của loại hình doanh nghiệp này. - Thứ hai, chất lượng sản phẩm còn khá thấp, mẫu mã sản phẩm chưa đa dạng. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thi trường còn rất yếu. Các doanh nghiệp bị cạnh tranh gay gắt ngay trên thi trường tỉnh nhà, trong đó đáng kể đến là các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành thế mạnhvà truyền thống của thành phố như: sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản. - Thứ ba, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn quá thấp, lực lượng lao động và máy móc thiết bị chưa được tận dụng hết công suất, tỷ lệ số cơ sở làm ăn thua lỗ và phá sản chiếm một mức khá cao trong tổng số các doanh nghiệp (bình quân khoảng 30%). Sự phát triển của các cơ sở còn mang nặng tính tự phát, manh mún. Các doanh nghiệp thường bị động trong quan hệ thị trường và khả năng tiếp thị sản phẩm. - Thứ tư, sự tập trung với số lượng quá lớn các cơ sở trong nội thành hiện nay, một mặt gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng tới cuộc sống của các hộ dân cư trong Thành phố, mặt khác ảnh hưởng tới sự phát triển lâu dài và ổn định của các doanh nghiệp . + Nguyên nhân của những hạn chế nói trên xuất phát từ cả hai phía trong và ngoài doanh nghiệp trong đó tập trung vào các vấn đề sau - Do các thủ tục vay vốn từ các ngân hàng của thành phố cũng như của các của Trung ương còn nhiều phức tạp và có những đIúm chưa phù hợp, cộng thêmnhững tiêu cực phát sinh nên việc huy động vốn việc huy động vốn của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.Bên cạnh đó, khả năng tích tụ vốn ở Thành phố Thái Nguyên khá thấp nên vốn đầu tư còn ít, khả năng bổ sung vốn không nhiều dẫn tới hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn, không có khả năng đổi mới côngnghệ,, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường. - Mặc dù đã có những cải thiện song trình độ lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ của Thành phố còn yếu kém nhiều mặt, kể cả lao động quản lý. Phần lớn chủ doanh nghiệp chỉ kinh doanh theo kinh nghiệm mà không được trang bị kiến thức kinh doanh hiện đại. Họ không có một chiến lược kinh doanh cụ thể, chỉ xoay quanh tìm kiếm các thương vụ bằng vận may rủi. Điều này tạo ra sự thiếu ổn định trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. -Trong các cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh của thành phốthì các cơ sở thuộc thành phầnkinh tế cá thể chiếm tỷ trọng quá lớn (luôn chiếm trên 90%), trong khi đó 3 thành phần kinh tế còn lại chỉ chiếm chưa đầy 5%. Sự gia tăng về số lượng các cơ sở trong những năm vừa qua chủ yếu là sự gia tăng của thành phần kinh tế cá thể. Sự mất cân đối nàylà nguyên nhân dẫn tới tình trạng hoạt dộnh phân tán manh mún với quy mô vốn nhỏ bé của các doanh nghiệp trên địa bàn này. -Cơ sở hạ tầng của thành phố Thái Nguyên còn kém phát triển. Hệ thống đường giao thông cấp phối nhỏ hẹp còn chiếm tỷ trọng lớn, chưa có các khu công nghiệp tập trung, các trung tâm tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp còn quá ít,Điều này không chỉ hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn mà còn là nguyên nhân dẫn tới thực trạng thu hút vốn đầu tư, thành lập các doanh nghiệp liên doanh, liên kết ở thành phố diễn ra hết sức chậm chạp. Hiện nay trên địa bàn thành phố chỉ có duy nhất một công ty liên doanh- “Công ty sản xuất giấy xuất khẩu Thái Nguyên” -Môi trường kinh doanh không ổn định, cơ chế kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành và chưa đồng bộ. Trong tình hình đó các doanh nghiệp khó có thể xác định chiến lược đầu tư hợp lý, thường chạy từ ngành này sang ngành khác để đối phó với những biến động của thị trường. -Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh hiện nay nói riêng thiếu hẳn sự định hướng phát triển và hỗ trợ cần thiết từ phía nhà nước. ở nước ta hiện nay thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách cho nó ra sao là những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Cơ chế chính sách của nhà nước về thuế suất, tín dụng, lãi suất chưa có tác dụng khuyến khích và bảo trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Chương III Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên I. Định hướng phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta nói chung và ở thành phố Thái Nguyên nói riêng Nhìn vào thực tiễn nền kinh tế nước ta hơn một thập kỉ qua, sự phát triển nhanh chóng với những đóng góp to lớn của các DNV&N nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng là không thể phủ nhận. Vì vậy, thúc đẩy sự phát triển hơn nữa loại hình doanh nghiệp này không chỉ là một kế sách tạm thời mà là một chiến lược lâu dài, ngay cả khi nền kinh tế đạt được trình độ phát triển cao. Tuy nhiên, phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên phạm vi cả nước nói chung và ở thành phố Thái Nguyên nói riêng cần nhất quán một số quan điểm định hướng sau: 1. Phát trển các DNV&N phải gắn với việc tạo lập các quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp lớn vơí các DNV&N, trong đó các doanh nghiệp lớn đóng vai trò đầu mối trung tâm, chi phối và dẫn dắt các DNV&N Thế giới hiện nay đang diễn ra hai quá trình trái ngược nhau. Một mặt, xu thế tập trung hoá và quốc tế hoá kinh tế đã thúc đẩy tăng nhanh quy mô của các tập đoàn kinh tế lớn. Mặt khác, xu thế cải cách công nghệ với tốc độ nhanh và nhu cầu thay đổi thường xuyên của thị trường lại đòi hỏi phải tổ chức các đơn vị kinh tế ở quy mô vừa và nhỏ để dễ thích ứng với môi trường kinh doanh. Nước ta cũng không đứng ngoài quá trình chung đó. Để đạt được những mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không thể thiếu các doanh nghiệp lớn có trang thiết bị hiện đại với đội ngũ lao động có trình độ cao, có khả năng cạnh tranh, nhất là trên thị trường thế giới. Trong những năm tới, các doanh nghiệp lớn sẽ chiếm lĩnh những ngành công nghiệp trọng yếu, những lĩnh vực đòi hỏi phải tổ chức liên hoàn giữa các khâu, sử dụng tổng hợp các yếu tố sản xuất hoặc phải lựa chọn công suất lớn mới có hiệu quả, khu vực còn lại là lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong quá trình phát triển, các DNV&N có thể liên kết lại trong tổng công ty, hoặc hợp nhất lại thành doanh nghiệp lớn. Việc sáp nhập là do yêu cầu khách quan , do lợi ích kinh tế quy định chứ không phải thu hẹp đâù mối một cách giản đơn, máy móc. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngoài việc đẩy mạnh các ngành công nghiệp trọng yếu do các doanh nghiệp lớn đảm nhận, cần phải phát huy sức mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc cung ứng những phụ kiện và những nguyên liệu hoặc dịch vụ nhất định. Với chức năng kinh tế như vậy, các DNV&N sẽ đóng góp vào nền kinh tế bằng cách tạo ra mối liên kết ngành và nhân rộng hiệu ứng lan toả. Mối liên kết này tạo ra sự hỗ trợ thúc đẩy cả doanh nghiệp lớn và DNV&N phát triển, trong đó doanh nghiệp lớn đóng vai trò trung tâm, nòng cốt còn DNV&N sẽ trở thành các vệ tinh của các doanh nghiệp lớn. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong quá trình phát triển kinh tế, các doanh nghiệp lớn chi phối các ngành trọng yếu đã lựa chọn việc mua các yếu tố đầu vàc sản xuất trong nước thay cho việc nhập khẩu linh kiện và nguyên liệu thô mà trong nhiều trường hợp có thể rẻ hơn. Đây là một gợi ý quan trọng cho việc khuyến khích mối liên kết ngành ở nước ta hiện nay. Các mối liên kết này mang lại lợi ích cho cả hai phía, nhất là hạn chế những rủi ro, nguy cơ cho DNV&N trong cạnh tranh trên thị trường. Quan hệ liên kết kinh tế giữa DNV&N với các doanh nghiệp lớn có thể được thực hiện qua các hình thức: -DNV&N sơ chế, doanh nghiệp lớn tinh chế nguyên liệu và tổng hợp sử dụng nguyên liệu. -Để chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh, doanh nghiệp lớn sản xuất những chi tiết, bộ phận khó đòi hỏi công nghệ phức tạp, DNV&N gia công các bộ phận, các chi tiết còn lại, doanh nghiệp lớn tiến hành lắp ráp, tiêu thụ sản phẩm. -Doanh nghiệp lớn làm một số dịch vụ cho DNV&N, chẳng hạn như bao tiêu sản phẩm, tư vấn về đầu tư, chuyển giao công nghệ, đào tạo.... Công cụ để thực hiện liên kết kinh tế nói trên là hợp đồng kinh tế, tổ chức các hiệp hội theo ngành hoặc cao hơn có thể là tập đoàn kinh tế.Vấn đề cơ bản là phải dựa trên yêu cầu khách quan của phân công lao động. 2. Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ( ngoài quốc doanh) trên cơ sở đa dạng hoá ngành nghề và mặt hàng sản xuất, đồng thời duy trì và phát triển ngành nghề, mặt hàng truyền thống của địa phương Trong nên kinh tế thị trường, vấn đề đa dạng hoá sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng được đặt ra như một yêu cầu cần thiết khách quan. Tuy nhiên để quá trình đa dạng hoá đạt kết quả kinh tế cao cần hết sức tránh xu hướng đa dạng hoá một cách cảm tính, gặp gì sản xuất ấy, phương hướng sản xuất không được định hình một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn. Để phát huy tối đa hiệu qủa của đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, quá trình đa dạng hoá của các doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh được đặt trong mối quan hệ với việc phát huy tối đa thế mạnh của các ngành nghề truyền thống, của các " làng nghề" đã có. Doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh có ưu thế nổi bật là qui mô vừa và nhỏ, có thể lựa chọn địa điểm linh hoạt trên cơ sở tận dụng được các nguồn tài nguyên, nguyên liệu phân tán ở khắp các địa phương để sản xuất hàng hoá. Điều đó mở ra khả năng rộng lớn trong việc đa dạng hoá, mở rộng mặt hàng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên không thể phát triển tràn lan những ngành nghề như mong muốn, điều đó vượt ra ngoài khả năng của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh hiện nay. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh trước hết phải vực dậy các ngành nghề truyền thống đã có, tận dụng một cách tối đa lợi thế về tay nghề, về lực lượng lao động, về truyền thống sản xuất , về khả năng nguyên liệu ở những vùng nông thôn làm động lực phát triển cho chính bản thân nó. Duy trì và phát triển các ngành nghề và mặt hàng truyền thống là cơ sở để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm đồng thời tạo nên thế mạnh, vẻ độc đáo riêng của công nghiệp mỗi vùng. 3. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở sử dụng công nghệ và kĩ thuật hiện đại Trong tình hình nền kinh tế thị trường hiện nay, việc đổi mới và hiện đại hoá kĩ thuật, công nghệ là một yêu cầu quan trọng mang tính sống còn đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó xuất phát từ thực trạng công nghệ, kĩ thuật còn lạc hậu tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay. Vì vậy trong thời gian tới cần tập trung sự ưu tiên cho các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ có khả năng sử dụng những công nghệ- kĩ thuật tiên tiến, hiện đại vào sản xuất. Điều quan trọng là các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ phải tự xác định được công nghệ thích hợp của mình là gì? Có phù hợp với đặc điểm, điều kiện, qui mô sản xuất , trình độ tiếp nhận của cán bộ công nhân hay không? Thị trường trong và ngoài nước sẽ ra sao? Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thế nào? Để vừa đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ, vừa đáp ứng được những đặc điểm và điều kiện riêng của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, phương hướng chung về công nghệ có thể nêu lên như sau: áp dụng công nghệ nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ hiện đại với một số doanh nghiệp có khả năng. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến lương thực, thực phẩm cần áp dụng công nghệ hiện đại, còn đối với đại đa số các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ còn lại vẫn duy trì và áp dụng công nghệ ở nhiều trình độ khác nhau tuỳ điều kiện cụ thể nhưng cần đầu tư có trọng điểm. 4. Phát triển DNV&N ngoài quốc doanh phải đảm bảo khuyến khích phát triển các hình thức sở hữu khác nhau Mục tiêu phát triển các DNV&N ở nước ta nói chung và thành phố Thái nguyên nói riêng không nằm ngoài việc huy động vốn trong dân, giải quyết thất nghiệp, nâng cao thu nhập của dân cư, tăng thu ngân sách cho Nhà nước. Trong những năm qua, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh đã có sự khôi phục và phát triển với nhiều hình thức sở hữu, nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời. Mỗi doanh nghiệp đều có những ưu nhược điểm riêng trong việc đáp ứng các mục tiêu nói trên. Vì vậy, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp sẽ khắc phục được các nhược điểm, phát huy những ưu điểm của mỗi loại hình doanh nghiệp đáp ứng một các tốt nhất hệ thống mục tiêu đặt ra. Việc lựa chọn và tập trung ưu tiên cho các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể theo hướng: cần tập trung ưu tiên các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty, trước hết là các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn,tạo điều kiện để phát triển nhanh hơn nữa loại hình công ty cổ phần, các hình thức kinh tế nhà nước. Đổi mới và khôi phục các loại hình kinh tế hợp tác, khuyến khích sự phát triển của kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty có quy mô sản xuất (quy mô về vốn và lao động) lớn hơn cả. Điều đó tạo ra những thuận lợi cơ bản trong việc tiếp nhận tiến bộ khoa học-công nghệ vào sản xuất, kể cả về quy mô vốn để tiếp nhận cũng như khả năng sử dụng có hiệu quả những thành tựu kĩ thuật mới. Trên phương diện tập trung vốn, loại hình công ty, đặc biệt là công ty cổ phần có những ưu việt hơn hẳn so với doanh nghiệp tư nhân, nhưng trên thực tế các loại hình này vẫn còn ít được áp dụng. Điều đó có nguồn gốc từ tâm lý, tập quán sản xuất nhỏ, manh mún còn ăn sâu trong tư duy kinh tế của người Việt Nam, không dễ gì một sớm một chiều có thể thay đổi được. Nhìn chung trong giới doanh nhân nước ta, tâm lý trong trong làm ăn vẫn là không muốn chia sẻ quyền lực trong quản lý. Do vậy hình thức doanh nghiệp tư nhân tuy có hạn hơn về khả năng huy động vốn song lại phù hợp với đặc điểm tâm lý nói trên. Việc định hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh không thể bỏ qua đặc điểm này. Mặt khác, việc xây dựng và phát triển công ty cổ phần đòi hỏi những điều kiện nhất định, gắn liền với quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp , việc xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Có thể nói trong những năm trước mắt, Thành phố Thái Nguyên chưa có đủ điều kiện để có thể phát triển loại hình doanh nghiệp này, do vậy từ nay tới 2010 cần tập trung ưu tiên, khuyến khích các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, khẩn trương tạo điều kiện để cho ra đời các công ty cổ phần theo đúng nghĩa của nó. 5. Phát triển DNV&N phải gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường quản lý vĩ mô, bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên Hệ thống pháp luật đảm bảo cho nền kinh tế nói chung và cho các DNV&N nói riêng đi vào nền nếp, vận hành theo một trật tự nhất định có sự kiểm soát của Nhà nước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay còn bộc lộ nhiều thiếu sót chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế hiện nay. Do vậy, cùng với quá trình xây dựng và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo sự điều chỉnh và điều tiết các hoạt động kinh tế của xã hội và của riêng loại hình doanh nghiệp này. Chúng ta cần quán triệt hơn nữa nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ pháp luật, đồng thời cần quán triệt hơn nữa tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Song song với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, việc phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ cũng phải đặt trong quá trình kiện toàn và tăng cường chính sách và biện pháp quản lý của Nhà nước. Hiện nay, việc quản lý Nhà nước vừa buông lỏng vừa thiếu hướng dẫn trong quản lý. Việc kiện toàn và tăng cường quản lý Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho phát triển doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh phải đi theo hướng: vừa hoàn thiện và cải tiến bộ máy tổ chức quản lý, vừa hoàn thiện tăng cường các chính sách quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển, đồng thời có biện pháp kiểm tra kiểm soát để đảm bảo cho sự phát triển đúng hướng. Đảm bảo vệ sinh môi trường và cảnh quan thiên nhiên là một yêu cầu quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. ở Thành phố Thái Nguyên hiện nay, các cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang gây ô nhiễm môi trường ngày càng lớn. Nếu tình trạng này kéo dài thì chắc chắn sẽ gặp những cuộc khủng hoảng lớn giữa yêu cầu của sự phát triển và đảm bảo môi trường sống trong sạch cho dân cư. Do đó vấn đề đặt ra là phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ phải trên cơ sở đảm bảo vệ sinh môi trường và cảnh quan tự nhiên. Trên đây là những quan điểm định hướng cho sự phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên . Trong thời gian tới, động thái phát triển kinh tế của đất nước và những nhân tố tác động từ bên ngoài tiếp tục đem laị những cơ hội và thách thức mới cho sự phát triển của các doanh nghiệp doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này, vấn đề cấp bách hiện nay là tìm kiếm và thực thi các giải pháp hữu hiệu để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách hiệu quả nhất. II. Một số giải pháp chính nhằm phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên Như chúng ta đã biết, trong cơ chế thị trường ,mọi doanh nghiệp đều chịu sự tác động của hai nhóm nhân tố bên trong và bên ngoài.Vì vậy các giải pháp phát triển các doanh nghiệp cần phải tác động vào cả hai nhóm yếu tố này. 1. Hệ thống các giải pháp liên quan tới các yếu tố bên trong tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp 1.1. Nâng cao năng lực tài chính, tăng cưòng khả năng huy động vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của các doanh nghiệp Có thể nói cái khó nhất đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên hiện nay là thiếu vốn, nhất là vốn bổ sung. Do thiếu vốn, nhiều phương án kinh doanh mất tính khả thi thậm chí nhiều cơ hội kinh doanh bị tuột mất. Vốn ít, nhiều doanh nghiệp không chịu đựng được những cú sốc của thị trường, nhất là với một thị trường đang trong quá trình hình thành ở nước ta. Tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau cũng đẩy không ít các doanh nghiệp vào thế sập tiệm ngoài ý muốn. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên thường bị kẹp giữa hai gọng kìm: khi mua phải ứng tiền trước, phải trả đủ tiền khi nhận hàng; còn khi bán, muốn bán được phải bán chịu. Đã thế, loại hình doanh nghiệp này lại rất khó có thể huy động vốn từ các nguồn tín dụng. Khi có nhu cầu huy động vốn họ buộc phải vay trong dân, dưới hình thức nặng lãi. Rốt cuộc là, kết thúc mỗi chu kì kinh doanh, sau khi trả lãi suất tiền vay, lợi nhuận còn lại hầu như không đáng kể. Hiệu quả kinh doanh thấp lại không đủ cơ sở cho việc lập luận chứng khả thi để các ngân hàng làm thủ tục giải ngân. Thật là một vòng luẩn quẩn, một khó khăn được bình phương đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. Để tháo gỡ vòng luẩn quẩn trên, về phía doanh nghiệp có thể sử dụng một số biện pháp sau: -Một là, thực hiện sự hợp tác dưới nhiều hình thức như liên doanh, liên kết để tăng cường khả năng tài chính. Dưới hình thức này, một số doanh nghiệp ít vốn tại địa bàn có thể tìm thấy những người bạn liên minh có nhiều vốn ở địa phương khác muốn làm ăn trên địa bàn mình, hoặc thuần tuý chỉ muốn mở rộng địa bàn hoạt động. Bằng cách này, nhiều doanh nghiệp ít vốn nhưng có quan hệ công nghệ với nhau có thể liên minh lại để đối phó với sự ép giá, ép thể thức thanh toán của cả người bán nguyên liệu với người mua sản phẩm hoặc đẩy nhanh vòng quay của vốn do có sự tin cậy lẫn nhau, giảm bớt thủ tục thanh toán, thậm chí có thể tránh được thuế đánh trùng lắp nhiều lần. Quan hệ liên minh với các doanh nghiệp lớn có thể là chỗ dựa để các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ vay được vốn trên cơ sở uy tín của các doanh nghiệp này với các ngân hàng. Thực tế ở Thành phố Thái Nguyên hiện nay, xu hướng liên doanh, liên kết phát triển rất chậm chạp. Có rất ít doanh nghiệp liên kết được với các công ty kinh doanh có uy tín ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và số doanh nghiệp liên kết được với công ty nước ngoài chỉ đếm trên đầu ngón tay mà phần lớn laị là các doanh nghiệp lớn. Tình hình này có ảnh hưởng từ tư tưởng cục bộ địa phương và tư duy sản xuất nhỏ, cần được khắc phục kịp thời. -Hai là, đẩy nhanh quá trình tích lũy, tái đầu tư mở rộng kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao hơn, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Bằng cách đó, có thể huy động được vốn dưới hình thức tín chấp. -Ba là, sử dung có hiệu quả nguồn vốn tự có và vốn đi vay. Trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ xảy ra mâu thuẫn là vừa thiếu vốn lại vừa sử dụng vốn rất lãng phí. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, các doanh nghiệp phải tránh tình trạng để vốn nằm đọng ở các khâu ( như dự trữ vật tư quá lớn, vốn nằm ở sản phẩm dở dang hoặc tồn kho quá nhiều). Biện pháp để khắc phục tình trạng này là thực hiện phương thức thanh toán qua ngân hàng, thông qua đó những khoản tiền nhàn rỗi vẫn có thể sinh lời. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng tiếp cận với các tri thức và kinh nghiệm quản trị vốn hiện đại. Hiện tại, hiệu quả sử dụng vốn vẫn được xem xét một cách giản đơn. 1.2. Tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ nhiều trình độ, công nghệ trung gian, tranh thủ công nghệ hiện đại Bên cạnh khó khăn về vốn, tình trạng thiết bị kĩ thuật và công nghệ cũng đang là một vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên. Kĩ thuật công nghệ lạc hậu, kéo theo năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh và doanh thu hạn chế đang là áp lực nặng nề đối với các doanh nghiệp này. Để khắc phục tình trạng trên, yêu cầu bức thiết hiện nay đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương là phải nỗ lực đầu tư để đổi mới trang thiết bị. Tuy nhiên, việc quyết định áp dụng công nghệ ở trình độ nào phải dựa trên cơ sở phân tích kĩ thực trạng về vốn, trình độ đội ngũ lao đông, đặc điểm ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt hoạt động,... Phương hướng chung đối với các doanh nghiệp hiện nay là: Với các doanh nghiệp tư nhân, công ty liên doanh, hợp tác xã và các hộ cá thể có khả năng, hoạt động trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và truyền thống của địa phương như: đúc gang, thép, chế biến chè, khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản thì cần thiết phải áp dụng ngay công nghệ tiên tiến hiện đại. Có như vậy mới nâng cao được chất lượng và mẫu mã sản phẩm, phát huy được lợi thế so sánh của địa phương, cải thiện vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, trước hết là thị trường nội hạt của thành phố. Còn đối với các doanh nghiệp không đủ điều kiện huy động vốn, các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành không phải là thế mạnh của thành phố, sản phẩm làm ra được xác định tiêu thụ ở thị trường tỉnh và không có sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập như: Các cơ sở sản xuất bia hơi, đồ may mặc... thì có thể tận dụng công nghệ trung gian, công nghệ thu hút nhiều lao động để giảm thiểu chi phí và tận dụng nguồn nhân lực dồi dào với giá thuê nhân công thấp tại địa phương. Các doanh nghiệp thiếu vốn có thể thực hiện các giải pháp sau: - Thứ nhất, tiến hành liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để tạo ra những cơ sở kỹ thuật và tài chính đủ mạnh, đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản trị hiện đại. - Thứ hai, các doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức tín dụng thuê mua để bổ xung máy móc thiết bị. Với hình thức này, doanh nghiệp được sử dụng máy móc thiết bị cần thiết mà không phải đầu tư một lần với số lượng vốn lớn. Nhờ đó giải quyết được vấn đề khó khăn về vốn của doanh nghiệp. Hình thức này hiện đang có xu hướng phổ biến ở nước ta. 1.3. Đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ lao động, kể cả đội ngũ lao động trực tiếp và đội ngũ cán bộ quản lý để có khả năng nắm bắt và sử dụng nhanh chóng kỹ thuật sản xuất mới cũng như sử dụng kiến thức và kinh nghiệm quản trị hiện đại. Trình độ kỹ thuật của đội ngũ lao động có ảnh hưởng tới năng suất lao động, trực tiếp tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Như đã trình bày ở chương II, hiện nay hầu hết đội ngũ lao động ở các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ thành phố Thái Nguyên có trình độ rất thấp, phần đông là chưa qua đào tạo cơ bản, các chủ doanh nghiệp thiếu kiến thức quản trị hiện đại và quản trị bằng kinh nghiệm chủ yếu. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp này là cần phải hoạch định và triển khai chiến lược đào tạo thích hợp để khắc phục tình trạng trên. Để thực hiện mục tiêu này, các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ thành phố Thái Nguyên cần áp dụng một số giải pháp sau: - Thứ nhất, bản thân các chủ doanh nghiệp cần thường xuyên trau dồi, nâng cao kiến thức quản trị bằng cách tham gia vào các lớp tại chức, các khoá học quản trị ngắn ngày do Nhà nước tổ chức, thông qua đó để tiếp cận với kiến thức quản trị hiện đại và nắm bắt được những thông tin mới về pháp luật, chính sách doanh nghiệp cũng cần tham gia vào câu lạc bộ doanh nghiệp của thành phố để học hỏi thêm kinh nghiệm từ các doanh nghiệp bạn. - Thứ hai, xắp xếp và bố trí nhân lực trong doanh nghiệp một cách hợp lý dựa trên cơ sở năng lực và sở trường của từng người. Qua việc nắm rõ năng lực của từng nhân viên, doanh nghiệp có thể phân loại và đối tượng nào có khả năng học nâng cao, đối tượng nào cần đào tạo cơ bản và đào tạo lại... tránh tình trạng đào tạo một cách đại trà, đào tạo theo phom một cách thiếu hiệu quả. - Thứ ba, tổ chức các phong trào thi tay nghề trong doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích vật chất đối với những người có thay nghề cao, có sáng kiến mới trong lao động ... - Thứ tư, tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp lơn, các công ty nước ngoài để nhận được sự hỗ trợ trong đào tạo lao động. Nhờ đó cácc doanh nghiệp có thể giảm được chi phí đào tạo mà vẫn thực hiện được mục tiêu chiến lược về lao động. - Thứ năm, bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động sẵn có, các doanh nghiệp cần hết sức chú ý tới khâu tuyển dụng lao động. Thành phố Thái Nguyên là một trung tâm đào tạo lớn của cả nước, hàng năm đào tạo ra hàng ngàn kỹ sư, công nhân kỹ thuật lành nghề trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Như vậy vấn đề đặt ra hiện nay đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ của thành phố là làm thế nào để thu hút được đội ngũ nhân công này. Giải pháp tốt nhất có lẽ là dùng chính sách khuyến khích vật chất thông qua tiền lương, tiền thưởng và các trợ cấp khác. 1.4. Xúc tiến mở rộng thị trường, kể cả thị trường tại chỗ, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Hiện nay, thị trường chủ yếu của các cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ttrên địa bàn Thành phố Thái Nguyên vẫn là thị trường tại chỗ, còn thị trường ngoài tỉnh và nhất là thị trường nước ngoài chỉ chiếm một tỷ trọng không đáng kể. Ngay trên thị trường địa phương, sản phẩm hàng hoá của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ cũng đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại theo nhiều đường nhập khác nhau và từ các tỉnh khác, nhất là từ Thành phố Hà Nội tràn về. Để xúc tiến mở rộng thị trường, các doanh nghiệp này cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: - Thứ nhất, cần xác định và thị trường mục tiêu phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Với chất lượng và mẫu mã như hiện nay, ngoài một số sản phẩm truyền thống như: chè, gang đúc, mành cọ, còn lại các sản phẩm khác của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thành phố Thái Nguyên khó có thể cạnh tranh được với những sản phẩm chất lượng cao của các doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố lớn phía Nam. Trong khi đó, thành phố Thái Nguyên là trung tâm vùng của các tỉnh miền núi phía Bắc, có sự gần gũi với các tỉnh này về vị trí địa lý cũng như phong tục tập quán, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng,... Hơn nữa sức cạnh tranh của các doanh nghiệp tại các tỉnh này không cao. Do đó, trước mắt cần tập trung thâm nhập và khai thác triệt để thị trường này, coi đó là thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. - Thứ hai, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo lập uy tín lâu dài của doanh nghiệp đối vơi khách hàng, thực hiện định vị sản phẩm phù hợp với khả năng, thị hiếu của người tiêu dùng. Khả năng cạnh tranh của các hàng hoá dịch vụ thường liên quan đến 3 yếu tố: Chất lượng, giá cả và thời gian. Đảm bảo thoả mãn khách hàng cả về chất lượng và giá cả thì sẽ có lợi cho việc nâng cao thị phần của doanh nghiệp. Hiện nay, ở nước ta, do công nghiệp chậm phát triển, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, trình độ văn hoá, văn minh công nghiệp chưa cao nên chưa có truyền thống quản lý chất lượng thực sự. Các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào phản ứng thị trường để thực hiện công tác quản lý chất lượng. Chính vì thế, việc tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm được coi là một biện pháp cần thiết để mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên. - Thứ ba, các doanh nghiệp phải hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vào việc đáp ứng nhu cầu của thị trường trên cơ sở đó nâng cao lợi nhuận cho mình. Liên quan đến nhu cầu thị trường có một số nhân tố như: tốc độ gia tăng của dân số, thu nhập của các hộ gia đình, phong tục và tập quán tiêu dùng, mức độ đô thị hoá của địa bàn cư trú, các yếu tố địa lý. - Thứ tư, tổ chức tốt hoạt động Marketing của doanh nghiệp nhằm nghiên cứu và dự báo nhu cầu thị trường. Cần phải xây dựng các phối thức tiếp thị hợp lý nhằm xác định các chiến lược về sản phẩm, giá cả, phân phối, và cổ động. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ phải đặc biệt quan tâm đến việc duy trì, mở rộng thị trường hiện tại và tương lai, kết hợp thị trường địa phương với thị trường trong nước và quốc tế. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn chế, không có khả năng chi phí lớn cho quảng cáo, cần tranh thủ các loại hình cổ động tốn ít chi phí đồng thời nâng cao khả năng tiếp thị của nhân viên tiếp thị. Điểm yếu của các DNV&N về vấn đề thị trường là ít có điều kiện tiếp cận với những thông tin về thị trường. Hầu như các doanh nghiệp chỉ quan tâm giải quyết các vấn đề tiêu thụ sản phẩm qua hệ thống trực tiếp bán hàng. Để khắc phục tình trạng trên, các doanh nghiệp cần xúc tiến các hoạt động nghiên cứu thị trường, nắm bắt kịp thời, chính xác các thông tin thị trường, tổ chức công tác tiếp thị, quảng cáo, tham gia các hội chợ triển lãm.để tạo lập và định vị hình ảnh của doanh nghiệp trong con mắt người tiêu dùng. - Thứ năm, phát triển quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp lớn nhằm dựa vào các doanh nghiệp lớn để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ. Dựa vào mối quan hệ này để vươn ra thị trường quốc tế. - Thứ sáu, cần chú trọng không chỉ thị trường trong nước mà phải tìm cách xâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở đây thưòng ít chú ý tới thông tin thị trường thế giới. Họ thường cho rằng đây là thị trường dành cho các doanh nghiệp lớn mà không thấy rằng rất nhiều mặt hàng của các DNV&N ở địa phương có khả năng suất khẩu như mành cọ, chè xanh, gang đúc.Để vươn ra thị trường khu vực và quốc tế,các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên trước hết phải chú ý đến thị trường các nước ASEAN, đặc biệt là thị trường ở các nước có trình độ tương đương với nước ta như: Lào, Malayxia, Inđônêxia,. Các giải pháp về vốn, thị trường, công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ cần phải được thực hiện một cách đồng bộ, hỗ trợ cho nhau để tăng cường sinh lực cho các doanh nghiệp. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là cần phải xây dựng được chiến lược thích hợp về vốn, thị trường , công nghệ và lao động để nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh và đảm bảo sự phát triển vững chắc, lâu dài của mỗi doanh nghiệp. 2. Hệ thống các giải pháp liên quan đến các nhân tố bên ngoài tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp Sự phát triển của các doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào các nhân tố bên trong mà còn chịu tác động của các yếu tố bên ngoài liên quan đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất là hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước. Cụ thể ở đây, sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên chịu tác động rất lớn của hệ thống chính sách kinh tế cũng như mức độ hỗ trợ của UBND tỉnh, thành phố Thái Nguyên và của Trung ương. Cơ chế chính sách của các cấp này có tác động quan trọng tới việc xác định mục tiêu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, các cấp nói trên cần phối hợp để hoạch định một chính sách hỗ trợ cụ thể và phù hợp. Với thực trạng phát triển của các doanh nghiệp này hiện nay, chính sách hỗ trợ cần tập trung vào các vấn đề sau: 2.1. Đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước cần cải tiến hơn nữa thủ tục hành chính về việc kiểm tra kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở vẫn đảm bảo đầy đủ những nguyên tác pháp lý cần thiết. Các thủ tục hành chính ở nước ta nói chung và ở thành phố Thái Nguyên nói riêng còn rất phức tạp, có quá nhiều đầu mối tham gia vào việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó dẫn tới tình trạng can thiệp quá sâu và có phần chồng chéo của các cơ quan quản lý Nhà nước và quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước đồng thời vi phạm vào quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp. Vấn đề trên không thể giải quyết một sớm một chiều, song để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trên địa bàn phát triển, thành phố Thái Nguyên không thể không quán triệt vấn đề này. 2.2. Thành phố Thái Nguyên cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng kinh tế là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư. ở thành phố Thái Nguyên hiện nay, cơ sở hạ tầng như giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống xử lý rác thải và chất thải,... còn kém phát triển, đặc biệt là ở năm xã miền núi ngoại thành. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là cần đầu tư xây mới và nâng cao các cơ sở hạ tầng đã có. Tuy nhiên, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, trong khi đó ngân sách của thành phố Thái Nguyên còn hạn chế, do đó trước mắt cần đầu tư theo trọng điểm tập trung vào những công trình có tính cấp thiết và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cụ thể là: - Tiến hành nâng cấp, mở rộng các tuyến đường giao thông trong thành phố, đặc biệt là các tuyến đường nối giữa nội thành với 5 xã miền núi ngoại thành. - Tiến hành xây dựng các khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tập trung, đưa hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vào nề nếp, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, lâu dài của các doanh nghiệp đồng thời thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đối với các cơ sở có quy mô sản xuất nhỏ không có khả năng tham gia vào các khu công nghiệp tập trung thì thành phố Thái Nguyên cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ có trọng điểm, tiến tới hình thành các làng nghề sản xuất công nghiệp. Trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay có thể hình thành được một số làng nghề như: làng nghề đúc gang, thép ở Lương Sơn; làng nghề chế biến chè ở Tân Cương; làng nghề sản xuất sản phẩm mộc, tấm lợp... Các làng nghề được hình thành và phát triển sẽ là cơ sở để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của các cơ sở sản xuất công nghiệp ở địa phương so với các địa phương khác. 2.3. Tích cực hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ Tình trạng thiếu vốn để đổi mới công nghệ và kĩ thuật là khó khăn chủ yếu của phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên hiện nay. Do nhiều nguyên nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh có ít điều kiện vay vốn ngân hàng. Cái thiếu nhất đối với các doanh nghiệp loại vừa và đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ là vốn cơ bản, nhưng việc vay trung hạn và dài hạn của ngân hàng đối với họ bị hạn chế. Để tháo gỡ vấn đề trên đồng thời hỗ trợ vốn có hiệu quả cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thành phố cần kiến nghị với Nhà nước đổi mới chính sách vốn đối với loại hình doanh nghiệp này theo hướng: Ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cụ thể là: - Ưu đãi lãi suất: Lãi suất vay hiện nay là khá cao đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế khá lớn mà nguồn tài chính để hỗ trợ thì có hạn, nên khó có thể ưu đãi được tất cả các doanh nghiệp này. Do vậy, trong chính sách ưu đãi vốn cần chọn đúng đối tượng với nguồn lực ít thì mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với nhiệm vụ chiến lược và hộ trợ cho các hoạt động đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới, đào tạo nghề, các hoạt động dịch vụ tư vấn... tuy nhiên để hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện tài chính có hạn cần có những giải pháp đặc biệt, một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. - Thành lập các quỹ hỗ trợ: Cần huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các địa phương như T.P Thái Nguyên thì các nguồn vốn có thể là: Từ ngân sách thành phố, từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ cho các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công nghệ... cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thành lập trung tâm bảo lãnh: Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ một trong những khó khăn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó rất cần các tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay vốn (doanh nghiệp), người cho vay (ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) là Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt được mức độ rủi ro khi vay vốn. 2.4. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại Như đã trình bày chương II, hiện nay gần như 100% máy móc thiết bị của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đều do các doanh nghiệp Nhà nước thải ra hoặc là máy móc tự tạo. Giá trị máy móc thiết bị chỉ chiếm khoảng từ 10 - 20% giá trị tài sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành sản phẩm cao đã dẫn đến sản phẩm khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến, thành phố Thái Nguyên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ sau: Thứ nhất, cần có chính sách hỗ trợ vật chất cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư đổi mới công nghệ như: - Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng đối với những tư nhân vay vốn cho mục đích đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, - Thực hiện ưu tiên miễn giảm thuế cho các sản phẩm có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao, các sản phẩm mới do các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ sản xuất ra, - Miễn thuế trong 3 năm đầu và giảm 50% cho hai năm tiếp theo như đề nghị của Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã đề xuất. Thứ hai, cần xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ, tổ chức bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, áp dụng lãi suất thấp cho các doanh nghiệp vay vốn để đổi mới kỹ thuật - công nghệ hoặc áp dụng các phương pháp quản trị sản xuất, quản trị chất lượng sản phẩm tiên tiến. Thứ ba, xây dựng các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại thành phố để trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp về các mặt: chế thử sản phẩm, đảm bảo các hoạt động đo lường, thử nghiệm chất lượng sản phẩm,... Thứ tư, thường xuyên cung cấp cho các doanh nghiệp những thông tin về công nghệ tiên tiến, tình hình thị trường và các quá trình chuyển giao thông qua các hình thức như: hội thảo, tham quan, triển lãm,... giúp các doanh nghiệp tự xác định được những công nghệ hiện đại, phù hợp. 2.5. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đào tạo các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý và lao động có tay nghề cao Như đã trình bày, hiện nay trình độ đội ngũ lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên khá thấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng trên, thành phố Thái Nguyên cần phải có những giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp. - Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề cácc cơ sở đào tạo hiện có, cần sớm đào tạo dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời đầy mạnh hoạt động của các trung tâm hiện có. Thông qua các tổ chức đào tạo dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thành phố có thể thực hiện sự tài trợ về tài chính cho việc đào tạo, tài trợ đội ngũ cán bộ giảng dạy và các chương trình giảng dạy. - Thường xuyên bồi dưỡng các kiến thức quản trị, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ các chủ doanh nghiệp. Tiến hành đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản trị đã có, cung cấp cho họ những thông tin, những kiến thức mới, những phương thức quản trị tiên tiến, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. - Kết hợp với các trường đại học trên địa bàn để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chủ doanh nghiệp, tiến đến chỉ cấp giấy phép hoạt động cho các cơ sở có chủ doanh nghiệp đã được đào tạo. - Đối với các nghệ nhân, lao động có kỹ thuật cao trong các nghề truyền thống như: Đúc gang, thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản cần có chính sách để họ đóng góp phát triển các ngành nghề, mặt khác dạy nghề và truyền nghề cho lớp công nhân trẻ. - Thành lập các trung tâm tư vấn về quản trị kinh doanh với đối tượng chủ yếu và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. - Xem xét lại các chương trình đào tạo hiện có, đồng thời tăng cường các mối liên hệ, hợp tác trao đổi giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình, mục tiêu đào tạo để nâng cao chất lượng của công tác đào tạo và phục vụ có hiệu quả hơn, trực tiếp hơn cho các doanh nghiệp. 2.6. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các tổ chức phi chính phủ nhằm mục đích hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện nay ở thành phố Thái Nguyên cần thiết phải hình thành một trung tâm tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng với chức năng sau: - Hỗ trợ đào tạo các nhà quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ phấn đấu để các chủ doanh nghiệp khởi sự kinh doanh trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đều có những kiến thức cần thiết về kinh doanh. Trung tâm có thể đặt quan hệ với các trường đại học ở địa phương, với các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài trong việc đào tạo nhân sự cho các doanh nghiệp. - Chức năng thứ hai của trung tâm là tư vấn cho các chủ doanh nghiệp về các vấn đề như: lập dự án đầu tư, quảng cáo, kế toán, thực hiện dịch vụ cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu, xuất bản các sách báo nhằm nâng cao kiến thức về kinh doanh. - Làm trung gian giữa các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh kể cả đối tác nước ngoài. Trung tâm có thể thực hiện việc đàm phán, giao dịch với các bạn hàng nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ, tổ chức triển lãm, giới thiệu sản phẩm, thông qua đó các chủ doanh nghiệp có thể tìm kiếm các đối tác đầu tư, tìm kiếm thị trường và các nguồn tài trợ từ bên ngoài để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với quá trình phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, trong một tương lai không xa hiệp hội các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên cũng cần được thành lập. Hiệp hội sẽ cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp giải quyết các thủ tục hành chính, là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết các vấn đề thủ tục. Hiệp hội cũng là nơi đứng ra bênh vực quyền lợi của các chủ doanh nghiệp. Trong hiệp hội này các doanh nghiệp có thể tìm thấy sự bảo trợ chính của hiệp hội. Trên đây là một số giải pháp chủ yếu để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên hiện nay. Những giải pháp trên có liên quan chặt chẽ với nhau, do vậy trong quá trình thực hiện cần chú ý đến tính đồng bộ của nó. Tách rời các biện pháp hoặc chỉ thực hiện một cách cục bộ khó có thể đem lại những hiệu quả thiết thực, lâu dài. Kết luận Phát triển DNV&N nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng luôn là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Đối với nước ta, một nước đang phát triển, lại đang trong quá trình đổi mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì phát triển loại hình doanh nghiệp này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trên thực tế việc nghiên cứu, hình thành hệ thống xúc tiến hỗ trợ phù hợp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển là công việc hết sức phức tạp , đòi hỏi nhiều thời gian, công sức của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức và nhiều người. Trong khung khổ bài viết này tôi đã phân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp chủ yếu để phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên phạm vi một địa bàn lãnh thổ cụ thể- Thành phố Thái Nguyên. Bài viết này đã hoàn thành được những nội dung khoa học cơ bản sau: - Thứ nhất, đã hệ thống hóa được một số những vấn đề lý luận cơ bản về DNV&N, đặc biệt là đã đưa ra và lý giải những tiêu thức xác định DNV&N ở nước ta hiện nay. Khẳng định vai trò to lớn và lâu dài của các DNV&N trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đưa nước ta thành một nước giàu mạnh, văn minh và hiện đại. - Thứ hai, đã phân tích, đánh giá một cách toàn diên, cụ thể tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên. Trong đó bài viết đã đi sâu phân tích những hạn chế, khó khăn mà các doanh nghiệp này gặp phải trong quá trình hoạt động, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế đó. - Thứ ba, trên cơ sở đánh giá những ưu nhược điểm chủ yếu, bài viết đã đưa ra năm quan điểm định hướng phát triển chung cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đề xuất một hệ thống các giải pháp, phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên trong thời gian tới. Tuy những giải pháp này chỉ mang tính định hướng, chưa đi vào cụ thể nhưng có thể xem đó là tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách và các chủ doanh nghiệp. Hy vọng rằng nó có thể góp một phần nhỏ vào sự phát triển công nghiệp của địa phương. Tài liệu tham khảo 1. Niên giám thống kê TPTN 1996-1999 2, Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 1996-1999 3. Các báo cáo tổng kết của Phòng CNTPTN 1996-2000 4. Văn kiện đại hội Đảng bộ TPTN lần thứ 14 5. Giáo trình những nội dụng cơ bản về quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ – Tác giả TS Đồng Xuân Ninh 6. Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội – Tác giả PGS. PTS Lê Văn Tâm – NXB Chính trị quốc gia . 7. Chính sách hộ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.- NXB Chính trị quốc gia. 8. Vấn đề phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta- NXB Chính trị quốc gia. 9. Tạp chí Công nghiệp nhẹ các số: 6; 9; 10/1995. 10. Tạp chí Phát triển kinh tế số 10/1996; 64/1996; 96/1998. 11. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 1/1999, số 4/1996, số 10/2000. 12. Tạp chí Tài chính số 7/1995, số 5/1997, số 12/1998, số 1/2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0168.doc
Tài liệu liên quan