Đề tài Quan hệ giữa xã hội tự nhiên vầ vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở nước ta

Qua những số liệu cụ thể đã được dẫn ra trong phần thực tiễn của tiểu luận, ta thấy rằng vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay đang là vấn đề cấp bách của nước ta cũng như thế giới. Sự ô nhiễm môi trường đang ở mức độ báo động, nếu cứ tiếp tục “đào bới” thiên nhiên như hiện nay thì chúng ta đang tự đẩy mình đến chỗ suy tàn dù cho kinh tế, khoa học công nghệ có phát triển đến đâu vì sự phát triển đó là không bền vững. Để đạt được sự phát triển mọi mặt đời sống đặc biệt là mục tiêu kinh tế thì con người cũng đang ngày càng huỷ hoại môi trường sinh thái, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Việt Nam với tư cách là một thành viên của ngôi nhà trái đất, vì vậy phải có trách nhiệm như mọi thành viên khác của thế giới. Nhiệm vụ của thế giới hiện nay là hướng tới việc xây dựng một xã hội phát triển nhưng bảo đảm tính bền vững. Phát triển bền vững không nhất thiết coi trọng chỉ đơn thuần tăng trưởng kinh tế. Nó phải nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế để giảm đói nghèo và khai thác tài nguyên hợp lý đi đôi với ngăn ngừa các suy thoái môi trường trong tương lai. Phát triển bền vững đạt được nhờ một phần tiến bộ khoa học – kỹ thuật trên cơ sở ứng dụng các mô hình sản xuất với công nghệ “sạch”, hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, ổn định khí hậu, thích hợp với phát triển dân số và hoạt động kinh tế của con người. Suy cho cùng, việc giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái là thực hiện sự phát triển bền vững, sự tăng trưởng kinh tế lâu dài, không thể vì các lợi ích trước mắt cục bộ và tạm thời mà huỷ hoại môi trường sinh thái.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ giữa xã hội tự nhiên vầ vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động của chu trình sinh học - đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa các hệ thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển xã hội. Là nguồn gốc sự xuất hiện xã hội vì xã hội hình thành trong quá trình tiến hoá thế giới vật chất. Là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống con người và các hoạt động xã hội. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội. Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của con người và động vật. Là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên vì lao động là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Trong quá trình sử dụng các nguồn vật chất của sinh quyển để sống và lao động sản xuất, con người đã làm biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả các thành phần khác của chu trình sinh học. Biến đổi này có thể là sự cải tạo nhưng cũng có khi là sự phá hoại. Nếu con người không điều tiết việc sử dụng, khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng hoảng sinh thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội bị phá vỡ, sự sống của con người và xã hội loài người bị đe doạ. Chính vì vậy, trong sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội, yếu tố xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng. Con người cần phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, sử dụng hợp lý các nguồn vật chất của tự nhiên để bảo đảm sự cân bằng của hệ thống tự nhiên xã hội. 1.3.2. Các yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên: _ Phụ thuộc trình độ phát triển xã hội: Người ta nói rằng:”Có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử ra thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không thể tách rời nhau. Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau.” Tự nhiên là nguồn gốc của xã hội vì thế lịch sử xã hội là sự tiếp tục lịch sử tự nhiên. Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, lịch sử phát triển của tự nhiên không chỉ phụ thuộc sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố tự nhiên thuần tuý mà còn chịu sự chi phối mạnh mẽ và sâu sắc của các yếu tố xã hội. Ngược lại sự phát triển của lịch sử xã hội không thể tách rời các yếu tố tự nhiên vì trong mối quan hệ tự nhiên và quan hệ với nhau con người mới làm nên lịch sử nhân loại. C. Mác và Ph. Ăngghen đã xuất phát từ tiền đề – sự tồn tại của những con người sống và sự tác động của những con người đó lên phần còn lại của giới tự nhiên nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Để làm nên lịch sử xã hội, con người phải tồn tại trong môi trường tự nhiên và phải tác động vào môi trường đó để lấy những gì cần thiết cho sự sống của mình, cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Song lịch sử xã hội còn phát triển song hành với lịch sử tự nhiên. Sự phát triển của xã hội được C. Mác coi là một quá trình lịch sử – tự nhiên. Ta phải tất yếu thừa nhận lịch sử xã hội và lịch sử tự nhiên gắn bó hữu cơ và quy định lẫn nhau trong một quá trình lịch sử duy nhất. Chừng nào mà con người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên còn quy định lẫn nhau. Không thể loại trừ mối quan hệ lý luận và thực tiễn của con người với tự nhên ra khỏi sự vận động của lịch sử. Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau tạo thành môi trường sống của con người – môi trường sinh thái. Tính chất mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên được quy định bởi phương thức sản xuất, trước hết là lực lượng sản xuất và phù hợp với nó là quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội nói chung. Như Ăngghen viết:”Những quan hệ nhất định đó với giới tự nhiên, là do hình thức của xã hội quyết định và ngược lại”. Mối quan hệ xã hội – tự nhiên thể hiện thông qua quan hệ con người – tự nhiên, mà quan hệ này thực hiện thông qua lực lượng sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất luôn vận động, biến đổi tạo ra các bước chuyển về chất của xã hội loài người. Sự phát triển đó là kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều đặc trưng bởi một trình độ phát triển của công cụ sản xuất nhất định. Điều đó cho thấy, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ sản xuất – nhân tố năng động và cốt lõi quyết định trình độ phát triển của xã hội, quy định nội dung của sự phát triển của phương thức sản xuất. Công cụ sản xuất biến đổi và phát triển khiến sức chinh phục tự nhiên của con người ngày càng tăng, sự khác biệt giữa con người và tự nhiên tăng lên dẫn đến mau thuẫn, đối lập gay gắt trong hệ thống tự nhiên – xã hội dưới chủ nghĩa tư bản. Con người không chỉ coi tự nhiên như môi trường sống mà còn coi đó là kho tài nguyên vô tận để voư vét, khai thác không quan tâm tới hậu quả. Khủng hoảng sinh thái đang đe doạ nhân loại, đe doạ sự sống trên hành tinh. Muốn tồn tại và phát triển bền vững con người cần phải dừng hành động phá hoại môi trường vô tội vạ như hiện nay, thay đổi phương thức khai thác sử dụng hiên nhiên, nhất là phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, nguồn gốc phá hoại thiên nhiên. _ Phụ thuộc nhận thức và vận dụng quy luật tự nhiên và quy luật xã hội trong hoạt động thực tiễn: Xã hội và tự nhiên có mối quan hệ tác động nhau, điều này thể hiện thông qua các hoạt động của con người với tự nhiên. Các hoạt động đó tác động sâu sắc tới hệ thống tự nhiên – xã hội nhất bao gồm cả những hành động vô ý thức và những hành động có nhận thức rõ ràng, biết nắm bắt quy luật xã hôi và tự nhiên của chúng ta. Xã hội, tự nhiên, con người và hành động của con người tạo nên một thế giới mà ta đang sống. Sự phát triển của tự nhiên phụ thuộc và hoạt động thực tiễn của con người và xã hội. Trên phương diện xã hội, kết quả mà con người đạt được trong lao động sản xuất là nhằm mục đích phát triển xã hội. Song, dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, sự khai thác tự nhiên , vơ vét của cải để thu lợi nhuận tối đa đã tàn phá nặng nề tự nhiên. Xét trên bình diện tổng thể hệ thống tự nhiên – xã hội, hoạt động của con người là tự phát vì những hoạt động đó chưa tính toán đầy đủ quy luật tồn tại và phát triển của tự nhiên. Những hành động đó không chỉ huỷ hoại các sinh vật, mà còn làm tổn hại đến khả năng tự điều chỉnh của các hệ thống tự nhiên hay hệ thống tự điều chỉnh của sinh quyển. Lẽ đương nhiên tự nhiên đang quay lại trả thù chúng ta. Để không tiếp tục phạm sai lầm, phải tìm cách sống hài hoà với thiên thiên, điều khiển có ý thức mối quan hệ con người và tự nhiên. Để điều khiển tự nhiên, con người cần nhận thức được rằng mình là một bộ phận của tự nhiên, hơn thế còn là con đẻ của tự nhiên. Muốn thế chúng ta cần nắm vững các quy luật của tự nhiên, biết vận dụng những quy luật đó một cách chính xác vào trong hoạt động thực tiễn của mình. Vì tính chất của mối quan hệ lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên trước hết phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, vào chế độ xã hội, vào tính chất những điều kiện chính trị kinh tế – xã hội nên nếu chỉ thay đổi nhận thức thì chưa đủ. Muốn điều khiển được những lực lượng tự nhiên cần phải điều khiển được các lực lượng xã hội. Để loại trừ tận gốc nguyên nhân phá hoại tự nhiên và gây ô nhiễm môi trường thì phải loại bỏ chế độ người bóc lột người dựa trên cơ sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thiết lập nên một hình thái xã hội mới – hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là tiền đề giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. Chỉ dưới chủ nghĩa cộng sản, con người mới được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, được hành động tự do, có đầy đủ điều kiện xã hội và những tri thức cần thiết để nắm bắt các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội biết tự giác sống theo những quy luật đó. + Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của sự thống nhất biện chứng giữa con người, xã hội và tự nhiên: Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới: Triết học Mác đã nghiên cứu con người và tự nhiên trong sự thống nhất hữu cơ giữa chúng, đồng thời cũng chỉ ra sự khác nhau về chất giữa con người xã hội và tự nhiên. Một mặt chủ nghĩa Mác khẳng định ảnh hưởng to lớn của tự nhiên đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội; mặt khác, nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của con người và xã hội với tư cách là nhân tố gây ra sự biến đổi không ngừng của tự nhiên. Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã... Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó. Tính vật chất này được chứng minh bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên. Ăngghen còn đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất vật chất của thế giới nằm trong sự vận động chuyển hoá và phát triển không ngừng:”Vận động là cách thức tồn tại của vật chất. Bất kì ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động”. Thế giới cực kì phức tạp và đa dạng, được cấu thành từ nhiều yếu tố, suy cho cùng là từ ba yếu tố cơ bản: giới tự nhiên, con ngươi và xã hội loài người. Ba yếu tố thống nhất với nhau trong một hệ thống “Tự nhiên – Con người – Xã hội”. Chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, những đặc tính và những quan hệ khác nhau, những trạng thái những đặc tính và những quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động. Thế giới luôn vận động, nhưng lại luôn ổn định vì sự vận động của thế giươí là sự vận động có quy luật và tuân theo quy luật. Tất cả các quá trình diễn ra trong tự nhiên, trong xã hội và trong con người đều phải chị chi phối của một số quyluật phổ biến nhất định. Sự hoạt động của các quy luật đó đã nối liền các yếu tố của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, vĩnh viễn vận dộng và phát triển không ngừng trong không gian và thời gian. Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới do Ph. Ăngghen đưa ra đã khẳng định rằng tuy thế giới muôn màu muôn vẻ, vô cùng phức tạp nhưng chúng là một chỉnh thể toàn vẹn, vì chúng đều được cấu thành từ vật chất. Bằng sự vận động, các yếu tố của thế giới đẫ nối liền với nhau thành một hệ thống. ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới đối với việc giải quyết vấn đề sinh thái hiện nay: ý nghĩa phương pháp luận thứ nhất là: Các khoa học như thiên văn học, vũ trụ học... đã chỉ ra tính thống nhất của thế giới ở tầm vĩ mô. Vật lý học, hoá học... đã chứng minh được tính thống nhất vật chất của thế giới ở mức độ vi mô. Nhờ sinh vật học, con người đã nhận thức ra sự thống nhất vật chất của thế giới hữu cơ ở tầm vi mô và vĩ mô: đó là sự tồn tại của các đại phân tử di truyền ADN và ARN ở tất cả các cơ thể sống. Hệ thống Tự nhiên – Con người – xã hội là một bộ phận lớn nhất, bao trùm nhất đối với sự sống con người. Cơ sở thống nhất của hệ thống này được quy định bởi cấu trúc chặt chẽ, liên hoàn của sinh quyển và bởi cơ chế hoạt động theo nguyên tắc tự tổ chức, tự bảo vệ, tự điều chỉnh, tự làm sạch của chu trình sinh học. ý nghĩa phương pháp luận đầu tiên rút ra từ nguyên lý là: Phải có quan điểm hệ thống, quan điểm toàn diện và phát triển trong việc giải quyết các vấn đề sinh thái hiện nay. Do đó, con người cần nhận thức rằng con người và xã hội dù phát triển đến mức độ cao cũng chỉ là một bộ phận của sinh quyển. Con người và xã hội tuy đã có sức mạnh to lớn, về một mặt nào đó có thể so sánh với sức mạnh tự nhiên nhưng hoạt động của con người không thể vượt ra ngoài hệ thống. ý nghĩa phương pháp luận thứ hai là: Con người cần phải tìm ra những phương sách thích hợp, cần thiết để giải quyết những mâu thuẫn giữa xã hội và tự nhiên. Về mặt cấu trúc, giữa con người xã hội và tự nhiên không có gì mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa xã hội và tự nhiên nảy sinh từ hoạt động của con người, bắt đầu từ phương thức sản xuất. Bởi vậy, việc giải quyết mâu thuẫn cũng phải bắt đầu từ việc khắc phục những sai lầm của phương thức sản xuất. Hoạt động sản xuất của con người ngoài việc tái sản xuất xã hội mà còn phải tái sản xuất những tài nguyên thiên nhiên đã tiêu dùng và thải bỏ trong qua trình sản xuất. ý nghĩa phương pháp luận thứ ba là: Sự thống nhất của ba yếu tố tự nhiên, con người và xã hội trong hệ thống là một tất yếu khách quan, vốn có. Chính con người và xã hội góp phần quan trọng vào việc phá vỡ sự thống nhất đó. Con người phải có trách nhiệm thiết lập lại sự thống nhất đó để tạo nên sự hài hoà thật sự giữa xã hội và tự nhiên. Trên cơ sở nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển cao, con người cần phải hướng hoạt động của xã hội vào việc tìm kiếm các con đường dẫn đến sự thống nhất thật sự giữa các yếu tố trong hệ thống Tự nhiên – Con người – Xã hội. + Sự thống nhất biện chứng của mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. C. Mác và Ph. Ăngghen luôn nhấn mạnh đến vai trò quyết định của lực lượng sản xuất, của kinh tế đối với sự phát triển xã hội, song, không bao giờ các ông tách rời lực lượng sản xuất ra khỏi quan hệ sản xuất, nghĩa là tách mối quan hệ giữa con người với con người, vì đó là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của một phương thức sản xuất xác định. Con người làm nên lịch sử xã hội mà xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người và người. Do đó, nói đến sự tiến bộ xã hội không thể chỉ nói đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên mà phải tính đến cả mối quan hệ giữa con người và con người, nhất là mối quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất. Nếu sự tiến bộ xã hội được xem xét theo sự thống nhất lịch sử cụ thể của các mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên, thì trong quá trình lịch sử tự nhiên, các cuộc cách mạng lực lượng sản xuất đã đưa đến ba trình độ phát triển của xã hội loài người. Cuộc cách mạng sản xuất lần thứ nhất đã tách con người ra khỏi thế giới động vật, song, trong buổi đầu sơ khai của lịch sử, xã hội và tự nhiên đã hoà nhập lại thành một chỉnh thể thống nhất, chưa có sự đối lập giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người. ở giai đoạn hai của sự tiến bộ xã hội, các cuộc cách mạng lực lượng sản xuất đã đưa đến sự tách biệt, đối lập gay gắt giữa con người và tự nhiên, cùng với nó là sự mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa con người với con người. Điều này tiêu biểu ở các nước tư bản chủ nghĩa, bọn tư bản nhằm thu lợi nhuận tối đa đã không tiếc gì việc khai thác bừa bãi môi trường và người gánh chịu hậu quả chính là những người lao động nghèo. Hiện nay, ở các nước chậm phát triển nếu không có nhận thức đúng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường cũng rất dễ trở thành nạn nhân, bãi thải công nghệ lạc hậu, phá hoại môi trường của các nước phát triển. Việc đưa khoa học, kỹ thuật công nghệ trở thành lực lượng sản suất trực tiếp, cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ tư dẫn đến sự biến đổi sâu sắc mối quan hệ con người với tự nhiên và con người với con người. Sự vận động khách quan tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên sẽ dẫn đến sự thống nhất giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, giữa con người – xã hội – tự nhiên. Cơ sở bảo đảm sự thống nhất đó chính là sự thống trị của công nghệ trí tuệ trong giai đoạn phát triển mới này. Hoạt động trí tuệ của con người sẽ giữ vai trò quyết định trực tiếp đến cả sự tồn tại của xã hội lẫn tự nhiên. Môi trường sống duy nhất mà con người đang hướng đến để xây dựng là môi trường mà trong đó không cần sự đối lập gay gắt giữa con người và tự nhiên, cũng như sự đối kháng giữa con người với con người. Con người và tự nhiên, con người và con người có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau nên con người là chủ thể chính trong việc tạo nên một môi trường tự nhiên lành mạnh hay ô nhiễm. Điều này có mối quan hệ liên quan đến nhau rất lớn vì nếu chúng ta gây tác hại cho môi trường thì chính chúng ta đang làm hại bản thân. Nếu một số người vì lợi ích riêng mà phá hoại môi trường thì họ đang làm hại đến đồng loại của mình. Đồng ý rằng việc khai thác tài nguyên là góp phần sản xuất, tạo ra sự phát triển xã hội nhưng tăng trưởng mà không quan tâm đến sự bền vững thì tăng trưởng chỉ là trước mắt không lâu dài, thậm chí theo sau tăng trưởng là nguy cơ to lớn về việc mất đi môi trường sống. + Nguyên lý về sự điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên: Sự phát triển của xã hội loài người ngày nay đang hướng đến các mục tiêu: phồn thịnh về kinh tế, công bằng bình đẳng về xã hội và môi trường sinh thái trong sạch. Chỉ có hướng đến các mục tiêu đó, xã hội mới có thể đạt đến sự phát triển lâu bền. Con người bằng quá trình sản xuất xã hội đã gây nên biết bao vấn đề tiêu cực, bức xúc và nóng bỏng trong lĩnh vực môi trường sinh thái. Để tồn tại và phát triển trước tiên con người phải sửa chữa những sai lầm của mình, mà cơ sở phương pháp luận chung nhất đó là điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người (xã hội) và tự nhiên. Theo Ph. Ăngghen sự điều khiển một cách có ý thức ở đây không phải là bắt tự nhiên phải phục tùng con ngưòi một cách vô điều kiện như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác, mà là phải biết nắm vững những quy luật của tự nhiên và phải biết vận dụng những quy luật đó vào trong hoạt động thực tiễn của mình, trứoc hết và quan trọng hơn cả là vào quá trình sản xuất xã hội. Chương 2. Nhìn nhận thực tế môi trường hiện nay ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nóng bỏng này. 2.1 . Các khái niệm cần biết: _ Môi trường: Môi trường là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người, có quan hệ mật thiết đến sinh hoạt sống và phát triển của con người và xã hội loài người. Khái niệm môi trường ở đây không phải là thế giới tự nhiên nói chung bất kỳ mà là thế giới tự nhiên đặt trong mối quan hệ mật thiết với sinh hoạt sống và phát triển của con người và xã hội loài người. _ Môi trường sinh thái: Môi trường sinh thái là bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh liên quan đến sự sống của sinh thể. Đối với con người, môi trường sinh thái là tất cả điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại, phát triển của xã hội. _ Ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường (Điều 2, chương I, Luật bảo vệ môi trường của CHXHCN Việt Nam). _ Bảo vệ môi trường: Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên (Điều 1, chương I, Luật bảo vệ môi trường của CHXHCN Việt Nam). _ Phát triển bền vững: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ. Phát triển bền vững về môi trường là đòi hỏi phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất lương thực, chất đốt trong khi vẫn mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của số dân tăng nhanh. Phát triển bền vững là phải sử dụng có hiệu quả đất canh tác và nguồn nước cũng như lựa chọn kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng. Phát triển bền vững là bảo tồn nguồn nước, chấm dứt sử dụng lãng phí nước và cải thiện tính hiệu quả của hệ thống dẫn nước, cải thiện chất lượng nước, giới hạn mức khai thác nước từ các sông ngòi ao hồ sao cho không phá hoại các hệ sinh thái phụ thuộc vào nước, giới hạn khai thác nước dưới đất ở mức để các tầng nước ngầm có thể tự khôi phục. Phát triển bền vững là bảo tồn sự phong phú của đa dạng sinh học trái đất cho các thế hệ tương lai, ngăn chặn sự phá huỷ các hệ sinh thái, địa bàn cư trú và sự tuyệt chủng các giống loài. 2.2. Tình hình môi trường chung của thế giới: 2.2.1. Đặc điểm cơ bản cuộc sống hiện nay trên thế giới: _ Sự phân hoá sâu sắc mức sống giữa các nước, giữa các tầng lớp dân cư trong từng quốc gia dẫn đến thiếu đồng bộ trong vấn đề quan tâm đến môi trường. Điều này dẫn đến trên thế giới có hai quá trình suy giảm, ô nhiễm môi trường: + Ô nhiễm do thừa thãi của cải tại các nước thu nhập cao, hoặc tại các tầng lớp giàu có ở các nước khác thu nhập thấp hơn, việc sử dụng quá nhiều nguyên, nhiên, vật liệu, năng klượng vào sản xuất, sự tiêu xài quá mức trong đời sống gây lãng phí lớn vêg tài nguyên, suy thoái nghiêm trọng môi trường. + Ô nhiễm do đói nghèo do đói khổ phải jhai thác cùng kiệt tài nguyên thiên nhiên để bán kiếm sống, phải ở trong môi trường ô nhiễm và thấp kém về kinh tế – xã hội. _ áp lực gia tăng tự nhiên dân số cao dẫn đến thiếu chăm sóc sức khoẻ và ít quan tâm đến môi trường. Sự gia tăng cao về dân số, đặc n=biệt ở các nước đang phát triển đã dẫn đến sự căng thẳng về không gian sống và các áp lực về kinh tế – xã hội. Tác động trực tiếp việc làm suy giảm chất lượng môi trường sống và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. _ Việc sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống. Sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên trước hết được thể hiện ở các nước phát triển. Tuy chiếm 20% dân số thế giới nhưng đã sản sinh tới 3/4 trong tổng số 2,5 tỷ tấn chất thải toàn thế giới (số liệu năm 1985). ở các nước đang phát triển lại có tình trạng khai phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất và xuất khẩu chưa có sự kiểm soát chặt chẽ. _ Sự suy kém về kinh tế và môi trường ở phần lớn các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển có tới 60% dân số nhưng chỉ hưởng 5,6% thu nhập nói chung. ở các nước này có tới 1/3 dân số thế giới sống dưới mức nghèo khổ , nợ nước ngoài ngày càng tăng, giá cả hàng thô giảm sút mà sản phẩm chủ yếu lấy từ nguồn tài nguyên thiên nhiên được khai thác. Khủng hoảng kinh tế chính trị thường xảy ra ở các nước kém phát triển. Với những vấn đề trên dẫn đến việc bảo vệ và quản lý môi trường thường được xếp rất thấp trong danh mục ưu tiên của các nước đang phát triển. Do đó suy kém về kinh tế và môi trường là tình trạng phổ biến ở hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới hiện nay. _ Những cuộc cải cách kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau rất lớn trong các nước gây biến động đối với môi trường. Song song xu thế hoà nhập vẫn còn diễn ra nhiều cuộc chiến tranh phân chia lãnh thổ... Phần lớn những cuộc cải cách này gây nên những phức tạp, khó kiểm soát về các mặt như ở một số quốc gia châu Phi, một số nước hồi giáo, Châu á, kể cả ở Liên Xô cũ... Trong nhiều trường hợp gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến môi trường sống của khu vực. 2.2.2. Tình trạng môi trường thế giới hiện nay: _ Môi trường không khí: Tình trạng không khí bị ô nhiễm phổ bién ở phần lớn các nước, các khu vực trên thé giới. Mưa axit với quy mô ngày càng mở rộng gây hại nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp, cho bảo tồn các hệ sinh thái đặc trưng, làm giảm tuổi thọ của các công trình, các trang thiết bị máy móc. Sự phá huỷ tầng ôzon bình lưu của khí quyển đã làm cho trái đất chịu ảnh hưởng trực tiếp của bức xạ vũ trụ gây hại đối với sự thống sống sinh vật. Sự thay đổi của khí hậu và các hệ quả của nó. Do những tác động khó kiểm soát của con người vào môi trường đã làm đảo lộn hệ thống khí hậu tự nhiên. _ Môi trường nước: Sự suy thoái của môi trường biển đang ngày càng lớn hơn. Hiện nay, có 60% dân số thế giới sống trong khoản từ bờ biển vào sâu khoảng 100 km. Do đó quá trình hoạt động sống của con người với quá trình thải vào các nguồn nước đổ ra biển các chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, quá trình khai thác các nguồn lợi của biển và quá trình giao lưu kinh tế trên biển đã ngày càng tác động sâu sắc tới môi trường biển. Các nguồn nước nội địa (nước mặn và nước ngầm) cũng đang bị cạn kiệt ô nhiễm nghiêm trọng. ở mức độ phổ biến hiện nay là nước các sông hồ ... có các thành phố, khu công nghiệp phân bố hầu hết đã bị ô nhiễm nặng, có nơi ở tình trạng nguy hiểm. Hiện nay khoảng 1,2 tỷ dân chưa có đảm bảo nước sạch. Ước tính, tại các nước đang phát triển có khỏng 80% bệnh tật và 1/3 số người chất vì bệnh tật có liên quan đến nước ô nhiễm. _ Môi trường đất: Vùng đất dự trữ ngày càng bị thu hẹp do việc tăng cường sử dụng vào các mục đích khác nhau. Do nhu cầu phát triển mọi mặt, nhiều vùng đất trồng đã chuyển thành các đất chuyên dụng và đất thổ cư. Chất lượng đất cũng bị suy thoái ở nhiều nơi, đặc biệt là các nước đang phát triển. Việc sử dụng đất cho nông nghiệp còn mang nặng tính chất khai thác tự nhiên, bóc lột đất đai. Thiếu chú ý bồi dưỡng, cải tại đất đã làm cho nhiều vùng đất trở nên bạc màu, thoái hoá, không còn khả năng canh tác. _ Môi trường sinh vật: Sự phong phú của các loài động, thực vật của các hệ sinh thái ngày càng có nguy cơ suy giảm. Riêng ở Việt Nam, cuốn “sách đỏ” đã thống kê các loài sinh vật đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt: 350 loài động vật gồm: 78 loài thú, 83 loài chim, 54 loài bò sát, ếch nhái, và các loài động vật dưới nước khác: 38 loài cá nước ngọt, 37 loài cá biển... Sự mất cân bằng sinh thái rừng, biển đã và đang diễn ra ở hầu khắp các khu vực trên thế giới. Diện tích rừng bị thu hẹp do đẩy mạnh khai thác phục vụ sản xuất chủ yếu ở các nước đang phát triển và do mở rộng diện tích trồng trọt. ở nhiều nước, các sản phẩm quý của rừng (ngà voi, sừng tê giác, mật rắn, da cá sấu, da trăn, vảy tê giác...) trở thành các mặt hàng mua bán đắt tiền. 2.2.3. Tính thời đại của vấn đề môi trường và phát triển: Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX, vấn đề môi trường ngày càng được cộng đồng thế giới quan tâm. Điều này thể hiện rõ trong việc thành lập các tổ chức chuyên về vấn đề bảo vệ môi trường và ngày càng có nhiều công ước quốc tế về môi trường đựoc các nước trên thế giới thâm gia và thực hiện. Hội nghị quốc tế Con người và Môi trường ở Stốckhôm, tháng 6-1972 lập ra tổ chức Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và lấy ngày 5/6 là ngày Môi trường Thế giói. Từ khi được thành lập UNEP đã có những đóng góp tích cực giải quyết các vấn đề về môi trường trên phạm vi toàn cầu, từng khu vực và mỗi quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn hàng loạt các vấn đề chưa được giải quyết, thậm chí còn nặng nề và phức tạp hơn. Đó là tình trạng ô nhiễm môi trường, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái các nguồn gen và hệ sinh thái, tình trạng hoang mạc hoá phát triển, sự suy giảm tầng ôzon , những biến đổi khí hậu toàn cầu theo hướng bất lợi... Hội nghị cấp cao Thế giới về môi trường và phát triển Rio – 92 là hội nghị có quy mô lớn nháat kể từ trước đó. Hội nghị đưa ra “Tuyên ngôn Rio” gồm 27 nguyên tắc về vấn đề môi trường và phát triển, cùng “Chương trình hành động” nhằm giải quyết những vấn đề về môi trường và phát triển bền vững trên phạm vi toàn cầu. Sự biến đổi khí hậu, suy thoái tầng ôzon, nạn ô nhiễm không khí, sông ngòi, biển cả,... đang là nguy cơ đe dọa toàn cầu. Chỉ có sự hợp tác quốc tế giúp đỡ, tương trợ nhau để tiến hành bảo vệ môi trường. Đã có nhiều công ước quốc tế quan trọng về vấn đề môi trường và phát triển được thông qua và áp dụng trên thế giới như: _ Về khí quyển: Công ước bảo vệ tầng ôzon. Công ước Geneve về ô nhiễm không khí trên một vùng rộng qua nhiều biên giới. _ Về đại dương: Công ước Liên hợp quốc về luật biển. Công ước Quốc tế về săn cá voi. Công ước về bảo vệ các nguồn tài nguyên động vật Nam Cức. _ Về nguồn nước ngọt: Công ước về vùng hồ của các hồ lớn. Hiệp ước về các dòng sông chung. _ Về chất thải: Công ước Basle về những hoạt động hạn chế chất phế thải độc hại và cách xử lý. Công ước Bamaco cấm nhập khẩu chất phế thải độc hại, kiểm soát nhập khẩu qua biên giới và quản lý chất phế thải độc hại. _ Về bảo vệ tính đa dạng sinh học: Công ước về việc bảo vệ những vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế. Công ước về việc bảo vệ các di sản thiên nhiên và văn hoá thế giới (UNESCO, Paris). Công ước về buôn bán các loài có nguy cơ bị tiêu diệt (CITES, Washington). Công ước bảo vệ các loài hoang dã di cư (Bonn). 2.3. Tình hình chung về môi trường Việt Nam: 2.3.1. Tổng quan về môi trường Việt Nam: Đất nước ta trong thời gian gần đây đã trải qua các cuộc chiến tranh tàn khốc và kéo dài, tình trạng đó đã kìm hãm sự phát triển và huỷ hoại môi trường sống một cách khủng khiếp nhất, trên quy mô rộng lớn và kéo dài. Nước ta đang trên đà xây dựng phát triển, đòi hỏi sử dụng ngày càng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, các chất thải trong sản xuất cũng ngày càng tăng lên. Nền kinh tế chưa phát triển, song tình trạng ô nhiễm môi trường do các hoạt động của các ngành sản xuất, dịch vụ gây ra cũng khá nghiêm trọng. Hiện nay nước ta còn đang phải đương đầu với những vấn đề môi trường nghiêm trọng, như nạn phá rừng và xói mòn đất, khai thác quá mức tài nguyên ven biển, đe doạ các hệ sinh thái và làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên sinh vật, làm suy thoái các nguồn gen. Dự tính nếu hiện nay cả nước chỉ còn khoảng hơn 20% diện tích lãnh thổ đất nước còn rừng che phủ và ngày một giảm dần (mỗi năm mất khoảng 20 vạn ha) thì đến thế kỷ 21 Việt Nam sẽ không còn rừng. Nước ta có mật độ dân số vào loại cao trên thế giới (hơn 230 người/km2), mặt khác mức tăng dân số cũng vào loại cao (khoảng 2%). Dân số đông và tăng nhanh trong khi diện tích đất không tăng làm cho bình quân về diện tích đất ở và diện tích đất canh tác theo đầu người rất thấp và lại có xu hướng giảm dần. Dân số tăng nhanh cùng với quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá ở nước ta được đẩy mạnh, mặt khác trình độ dân trí thấp, ý thức của mọi người bảo vệ môi trường sống và nhận thức chấp hành pháp luật còn hạn chế... Đó chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho môi trường sống ở nước ta bị xuống cấp, bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. 2.3.2. Các yếu tố tác động đến môi trường sinh thái nước ta: _ Tác động của công nghiệp: Mặc dù giá trị gia tăng sản lượng công nghiệp ở nước ta trong giai đoạn 1991-1995 đã đạt 13,3% năm, riêng năm 1995 đạt 14,5%. Nhưng sản lượng công nghiệp của nước ta tương đối nhỏ, chưa tới 25% GDP. Do vậy, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền công nghiệp nước ta vẫn phải duy trì giá trị gia tăng sản lượng công nghiệp trong những năm tới là 14-15%. Điều đó tất yếu dẫn đến nhu cầu sử dụng năng lượng và nguyên liệu tăng lên một cách đáng kể. Kèm theo sự gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng, nguyên liệu trong phát triển công nghiệpthì lượng các chất phế thải trong công nghiệp, trong tiêu dùng cũng sẽ tăng lên nhanh chóng ở cả ba dạng vật chất (long, rắn, khí). Các chất phế thải này đã, đang và sẽ là hiểm hoạ đe doạ nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái nước ta. Do nền công nghiệp ở nước ta còn ở trình độ kém phát triển, quy mô vừa và nhỏ, chưa được quy hoạch, xây dựng ở những địa điểm thích hợp, phần lớn tập trung ở những trung tâm đô thị. Thiết bị, công nghệ sản xuất vừa cũ vừa lạc hậu, vừa sử dụng không hợp lý các nguồn nguyên liệu, lại vừa tiêu tốn nguyên liệu, làm cho tỷ phế thải công nghiệp lớn. Tới 80% xí nghiệp công nghiệp chưa có hệ thống xử lý chất phế thải, số còn lại cũng chưa hoàn chỉnh. Tình trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất công nghiệp đặc biệt nghiêm trọng ở một số đô thị, khu công nghiệp tập trung. Ví dụ: về bụi ở các khu mỏ than, nồng độ bụi vượt tới 5 lần tiêu chuẩn cho phép, hàm lượng SiO2 có trong bụi chiếm đến 16-30%, 85% công nhân mỏ bị bệnh bụi phỏi. Về hơi khí độc trong thành phần không khí có CO, CO2, SO2, NO2, với tỷ lệ khá cao. Theo số liệu nghiên cứu về sự ô nhiễm môi trường chỉ riêng đối với việc tiêu thụ xăng và than trong những năm gần đây, trung bình hằng năm đã có 700.000 tấn bụi, lượng SO2 là 7000 tấn và lượng NO2 là 180.000 tấn tung vào không khí. Tình trạng nước thải do sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ở nước ta rất nghiêm trọng. ở Hà Nội, có từ 100.000 – 150.000m3 nước thải công nghiệp trong ngày - đêm không qua xử lý. Các nhà máy dệt ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi ngày đổ ra sông một lượng nước thải chưa được xử lý là 300.000m3 gây ô nhiễm nặng trên các dòng sông. Công nghiệp sản xuất mía đường, thuộc da cũng làm ô nhiễm môi trường, do lượng nước bùn, khí, các chất thải rắn, những chất phế thải này không chỉ gây tác hại cho môi trường sinh thái dưới tác động hoá học mà còn gồm các tác động sinh học làm bẩn môi trường. _ Tác động của nông nghiệp: Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất chính có tác động mạnh mẽ đến chất lượng môi trường. Nền nông nghệp nước ta đang phát triển từ một nền nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, kỹ thuật sản xuất còn bị hạn chế, kiến thức về môi trường, ý thức giác ngộ về bảo vệ môi trường của người dân chưa cao nên tác động của quá trình hoạt động nông nghiệp tới chất lượng môi trường sinh thái ở nước ta khá nặng nề. Khả năng tận dụng đất tối đa để đưa vào sản xuất nông nghiệp khoảng 11 triệu ha. Số đất có khả năng tận dụng đưa vào sản xuất chủ yếu là đất bạc màu phải cải tạo, đất trồng cây công nghiệp lâu năm và đồng cỏ chăn nuôi. Diện tích đất xấu cần phải cải tạo chiếm trên 20% diện tích đất tự nhiên. Nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng đất bạc màu nhưng nguyên nhân chính là nạn phá rừng đầu nguồn khá phổ biến và trầm trọng trong những năm qua gây lũ lụt, đất bị xói mòn, kiệt màu. Việc sử dụng phân bón, các loại thuốc bảo vệ mùa màng, kích thích tăng trưởng một cách bừa bãi trong phát triển nông nghiệp ở nước ta là một trong những nguyên nhân làm giảm số lượng loài sinh vật có ích, giảm đa dạng sinh học, làm mất vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. Hàng năm nước ta dùng 15.000 – 25000 tấn thuốc trừ dịch hại và bảo vệ thực vật. Sử dụng cả loại thuốc thế giới đã cấm, sử dụng với liều lượng quá cao, sử dụng vào thời gian không thích hợp nên gây tác hại không nhỏ tới môi trường sinh thái và sức khoẻ con người. _ Tác động của hệ thống giao thông vận tải: Trong những năm gần đây, đặc biệt ở các thành phố lớn tập trung đông dân cư, có sự tăng vọt phương tiện giao thông vận tải ôtô, xe máy gây ô nhiễm môi trường, tạo ra bụi, khí độc, tiếng ồn. ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố khác có lượng ôtô và đặc biệt xe máy hoạt động khá lớn gây ô nhiễm bụi, khí độc, tiếng ồn vượt tiêu chuẩn nhiều lần. Riêng Hà Nội hàng ngày trên đường phố có từ 6000 – 8000 ôtô và 40.000 – 50.000 xe máy hoạt động, độ ồn trung bình của Hà Nội là 75-79 đêxiben. Đáng chú ý là lượng ôtô, xe máy được sử dụng ở nước ta phần lớn là các loại xe cũ, xe bãi rác nên lượng khí độc phế thải cao. 2.3.3. Những nguyên nhân cơ bản gây ô nhiễm và suy thoái môi trường ở nước ta: Dù nói gì đi nữa thì tình trạng suy thoái môi trường hiện nay là do chính con người tạo ra và ngày nay chúng ta đang phải gánh chịu hậu quả đó. Thực chất đây chính là mối liên hệ, tác động tiêu cực của con người tới tự nhiên, xã hội. Đúng như triết học đã chứng minh con người có mối liên quan mật thiết với tự nhiên vì chúng ta là sản phẩm của tự nhiên mà tự nhiên cũng là môi trường sống quanh ta. Qua quá trình sản xuất để hình thành các hình thái kinh tế – xã hội, con người đã khai thác từ tự nhiên, từ một lượng ít ban đầu chúng ta ngày càng không biết điểm dừng vì tài nguyên không phải vô tận. Xuất phát từ nhận thức kém, con người chỉ biết khai thác mà không biết củng cố môi trường. Ví dụ, chặt phá cây rừng thì phải biết trồng cây gây rừng. Con người, xã hội, tự nhiên có sự thống nhất biện chứng với nhau, nên nếu một bộ phận trong hệ thống này bị huỷ hoại thì sẽ ảnh hưởng đến các bộ phận còn lại. Do đó ta cần phải tìm hiểu nguyên nhân gây nên ô nhiễm và suy thoái môi trường sống để có biện pháp khắc phục. _ Trước hết phải kể đến hậu quả của cuộc chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hoá học. Hàng triêụ người dân Việt Nam đã nhiễm chất độc hoá học, nguy hiểm nhất là chất điôxin – chất độc màu da cam do đế quốc Mỹ rải xuống miền Nam Việt Nam từ năm 1961-1972 đã có tác động vô cùng nguy hiểm đến môi trường Việt Nam. _ Một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra ô nhiễm môi trường là sự phát triển dân số quá nhanh và di dân tự do. Tăng dân số vẫn ở mức độ cao và di dân nội bộ từ các khu vực nghèo tài nguyên thiên nhiên đang tăng lên, không kiểm soát được. Trung bình trong 10 năm qua (1989-1999) tỷ lệ tăng trưởng dân số là 1,7%. Với mức tăng trưởng như vậy theo dự báo đến 2020 số dân nước ta xấp xỉ 100 triệu người, trong khi tài nguyên đất, tài nguyên nước và các dạng tài nguyên khác có xu thế giảm. Trong các vấn đè môi trường sinh thái cấp thiết của nước ta hiện nay như mất rừng, giảm lượng đất đai canh tác, ô nhiễm và khan hiếm các nguồn nước ngọt, ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường xã hội... đều có nguyên nhân từ sự gia tăng dân số. _ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Quá trình này đòi hỏi các nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường sống ngày càng xấu đi. Mặt khác quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá nhiều khu vực, vùng lãnh thổ chưa quán triệt đầy đủ hoặc chưa đúng quan điểm phát triển bền vững, tức là chưa tính toán đầy đủ hoặc đúng các yếu tố môi trường trong phát triển kinh tế – xã hội của nhiều ngành, địa phương. _ Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp: Kiến thức và nhận thức về môi trường và phát triển bền vững chưa được nâng cao cho các nhà ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng. Còn tồn tại nhiều quan điểm cực đoan về moi trường. _ Du lịch, thương mại và môi trường: Trong nền kinh tế thị trường, hoà nhập du lịch là một yếu tố quan trọng nhưng khi chưa xem xét việc thay đổi mẫu hình tiêu thụ, phát triển các sản phẩm thân thiện môi trường, đồng bộ vấn đề môi trường xã hội, văn hoá, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học thì sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực cho môi trường. _ Năng lực quản lý môi trường còn hạn chế: Hiện trạng công tác quản lý môi trường đang có nhiều vấn đề chưa đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường còn quá ít, thiếu tập trung, hệ thống các chính sách, luật pháp chưa đồng bộ, thiếu hệ thống. Chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường chưa được tiến hành rộng khắp. Các kiến thức phổ cập về bảo vệ môi trường chưa được đưa vào hệ thống giáo dục ở các cấp học, bậc học. Thông tin chưa được cung cấp thường xuyên đến cộng đồng. 2.4. Một số giải pháp cơ bản đối với vấn đề môi trường sinh thái hiện nay: Con người hoàn toàn có khả năng điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa chúng ta và tự nhiên. Do đó, huỷ hoại môi trường chủ yếu do con người gây nên thì con người cũng có thể có cách khắc phục các hậu quả đó. Việc giải quyết vấn đề này phụ thuộc trình độ nhân thức của chúng ta về các quy luật tự nhiên và xã hội để điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với môi trường. _ Thay đổi nhận thức – xây dựng ý thức sinh thái. Để tồn tại và phát triển, con người và xã hội đã không ngừng tác động lên tự nhiên và ở mức độ này hay mức độ khác đã làm biến đổi nó. Trong suốt tiến trình lịch sử, sự giải quyết các mâu thuẫn giữa xã hội đang phát triển và tự nhiên về cơ bản chỉ nhằm phục vụ lợi ích con người, vì sự tồn tại xã hội. vì vậy, cùng sự phát triển lực lượng sản xuất, sự phát triển của xã hội là sự suy thoái của môi trưòng tự nhiên. Xây dựng ý thức sinh thái là cách mới đối với các vấn đề thuộc lĩnh vực mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên. Coi ý thức sinh thái là sự nhận thức một cách tự giác của con người về mối quan hệ giữa con người – xã hội – tự nhiên và các phương thức điều khiển một cách có ý thức các mối quan hệ đó nhằm tạo ra hài hoà thật sự giữa xã hội và tự nhiên, tạo điều kiện phát triển lâu bền cho xã hội. ý thức sinh thái biểu hiện trong lĩnh vực sản xuất đó là sinh thái hoá nền sản xuất xã hội, xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái..., trong đời sống xã hội là đạo đức sinh thái, pháp lý sinh thái... _ Tiến hành những hoạt động có ý thức nhằm tái sản xuất và tiến đến tái sản xuất mở rộng chất lượng môi trường sinh thái. Khi tác động lên tự nhiên và biến đổi nó, con người luôn đặt ra cho mình mục đích vật chất. Với mục đích đó con người đã lao vào khai thác tự nhiên bất chấp quy luật tồn tại và phát triển của nó. Nhưng có những nguồn vốn cơ bản mà bất kỳ nền sản xuất nào cũng phải tính đến đó là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, con người, tư bản... Thực tế nền sản xuất từng quốc gia trong đó có Việt Nam đã phạm sai lầm nghiêm trọng là “tiêu xài” phung phí nguồn vốn quan trọng nhất – nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt nguồn tài nguyên không tái tạo được. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một loại vốn con người chưa thể làm ra được mà chỉ tìm ra và sử dụng chúng. Khi nền sản xuất xã hội đã thực hiẹn chức năng tái sản xuất cac nguồn tài nguyên thiên nhiên thì về cơ bản xã hội đã thực hiện được việc điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con người (xã hội) với tự nhiên. _ Kết hợp các mục tiêu kinh tế với sinh thái. ở nhiều nước công nghiệp phát triển đã cho thấy rằng, những thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm môi trường tự nhiên đem lại và những chi phí sửa chữa thiệt hại bao giờ cũng lớn hơn rất nhiều so với chi phí chủ động ngăn chặn ngay từ đầu sự ô nhiễm. Đồng thời, việc ngăn chặn sự ô nhiễm thường dễ hơn việc thủ tiêu hậu quả. Do đó, đầu tư vào bảo vệ môi trường, vào công nghệ bảo vệ thiên nhiên, trong hầu hết các trường hợp đều mang lại lợi ích kinh tế to lớn, cải thiện và bảo toàn chất lượng môi trường sống. Như vậy, chủ động đầu tư vào bảo vệ môi trường vừa đạt mục tiêu kinh tế, vừa đạt mục tiêu sinh thái. _ Hướng mọi hoạt động của con người vào mục đích phát triển bền vững của xã hội. Mục tiêu kinh tế theo nghĩa chung nhất là sự tăng trưởng kinh tế nhằm tạo ra những điều kiện kinh tế – xã hội thuận lợi thúc đẩy nhanh sự tiến bộ xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế chỉ là một phương tiện cơ bản để có thể phát triển được, còn để phát triển lâu dài ta cần hướng tới phát triển bền vững. Như mọi sinh vật, con người rất cần môi trường tự nhiên trong sạch. Hơn lúc nào hết sự phát triển xã hội chỉ đựoc coi là phát triển, tiến bộ đích thực khi có sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái. Nếu xã hội cứ tiếp tục phát triển theo xu hướng khai thác thiên nhiên đến cạn kiệt và đem lại sự nguy hiểm cho nó thì thế hệ mai sau không còn cơ hội để phát triển. Do đó, sự phát triển lâu bền ngày nay đang là vấn đề bức xúc và sống còn của nhân loại. _ Vai trò của thông tin và hệ thống điều khiển sinh thái. Ngày nay, một bộ phận của xã hội đang bước vào thời đại thông tin hay đang chuyển từ nên văn minh công nghiệp dang nền văn minh trí tuệ. Vấn đề môi trường sinh thía là vấn đề thời đại mang tính toàn cầu, để giải quyết nó cần phải có sự hợp tác giữa các nước, các vùng khác nhau trên hành tinh, trước hết là trong lĩnh vực thông tin. Để điều khiển một cách có ý thức môi trường sống, trước hết cần phải có những thông tin đầy đủ về hiện trạng hệ sinh thái trong một vùng hay một phạm vi nghiên cứu cùng những tác động của con người có ảnh hưởng lên chúng và đặc biệt là những hâụ quả có thể mang tính chất nguy hiểm cho sự sống của các sinh vật và cải thiện môi trường sống. 2.5. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn từ 2001 đến 2010 cho thấy sự quan tâm của Nhà nưóc đối với bảo vệ môi trường. _ Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước. Cần ban hành bổ sung các tiêu chuẩn và quy định bảo vệ đối với các nguồn nước. Phấn đấu đến 2005 cải tạo được 40% các dòng sông, hệ thống tiêu thoát nước. Xử lý triệt đẻ 90% các nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng tại cá khu công nghiệp. Có kế hoạch khai thác cụ thể các nguồn nước. _ Bảo vệ môi trường đất và sử dụng bền vững tài nguyên đất. Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch các văn bản pháp quy quản lý tài nguyên đất. Sử dụng hệ sinh thái và địa lý đặc thù phải dựa trên cơ sở cân bằng sinh thái, qui hoạch khu bảo tồn. _ Bảo tồn đa dạng sinh học. Bộ ngành địa phương cần phối hợp tiến hành các chương trình bảo vệ, tăng cường tài trợ, quản lý vườn quốc gia, công viên biển.. . Nâng độ che phủ rừng để cân bằng sinh thái tự nhiên. _ Bảo vệ môi trường không khí. Từng đơn vị sản xuất, kinh doanh và các cơ quan quản lý phải kiểm soát chặt chẽ việc phát thải khí ô nhiễm bụi. Từng bước phấn đấu đẻ môi trường không khí ở nước ta được trong lành theo các tiêu chuẩn tiếp cận mức trung bình của các nước ASEAN. _ Bảo vệ môi trờng đo thị và khu công nghiệp. Thu gom và xử lý 90% chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp, thu gom xử lý 100% chất thải công nghiệp, chất thải bệnh viện và quản lý 100% chất thải độc hại. Đảm bảo 60% thành phố đạt tiêu chuẩn về cảnh quan sinh thái. Xử lý các cơ sơ sản xuất, kinh doanh,.. . đang gây ô nhiễm. _ Bảo vệ môt trường nông thôn. Xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường gắn với an toàn thực phẩm, hạn chế thay thế sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật độc hại. đảm bảo không còn hộ đói nghèo. Đến 2010 có 90% hộ ở nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh, thu gom xử lý 90% chất thải sinh hoạt, nguy hại. _ Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo. Sử dụng tổng hợp, hợp lý đi đôi bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ven bờ. Thực hiện các công ước và hiệp định quốc tế và khu vực liên quan đến biển và đại dương, môi trường biển. Phân vùng chức năng biển, ven biển.. . _ Bảo vệ các vùng đất ngập nước. Chấm dứt sử dụng đất ngập nước một cách không bền vững. Bảo tồn đa dạng sinh học. Khôi phục hệ sinh thái đất ngập nước. áp dụng hệ canh tác nông-lâm- ngư- nghiệp bền vững. _ Bảo vệ môi trường thiên nhiên và di sản văn hoá. Coi giữ gìn, bảo vệ, tôn tạo môi trường văn hoá, tự nhiên cho di sản văn hoá, thiên nhiên đất nước như bộ phận quan trọng của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. _ Sản xuất sạch hơn. áp dụng liên tục chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường đối với quy trình công nghệ, sản phẩm dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm thiểu rủi ro. _ Bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế – xã hội vùng. Chiến lược bảo vệ môi trường tại các vùng cần được lồng ghép với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, phù hợp điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế – xã hội có tính đặc thù mối vùng. _ Bảo vệ môi trường gắn với phát triển các ngành kinh tế. Các ngành kinh tế được lựa chọn phù hợp cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Sự phát triển các ngành này làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế có tác dụng đến môi trường theo hướng tích cực. _ Nghiên cứu khoa học, công nghệ về môi trường. Tăng cường năng lực và đẩy nhanh tôc độ nghiên cứu khoa học công nghệ môi trường đặt nền móng vững chắc phát triển ngành môi trường, phục vụ có hiệu quả các vấn đề môi trường. Kết luận Qua những số liệu cụ thể đã được dẫn ra trong phần thực tiễn của tiểu luận, ta thấy rằng vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay đang là vấn đề cấp bách của nước ta cũng như thế giới. Sự ô nhiễm môi trường đang ở mức độ báo động, nếu cứ tiếp tục “đào bới” thiên nhiên như hiện nay thì chúng ta đang tự đẩy mình đến chỗ suy tàn dù cho kinh tế, khoa học công nghệ có phát triển đến đâu vì sự phát triển đó là không bền vững. Để đạt được sự phát triển mọi mặt đời sống đặc biệt là mục tiêu kinh tế thì con người cũng đang ngày càng huỷ hoại môi trường sinh thái, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Việt Nam với tư cách là một thành viên của ngôi nhà trái đất, vì vậy phải có trách nhiệm như mọi thành viên khác của thế giới. Nhiệm vụ của thế giới hiện nay là hướng tới việc xây dựng một xã hội phát triển nhưng bảo đảm tính bền vững. Phát triển bền vững không nhất thiết coi trọng chỉ đơn thuần tăng trưởng kinh tế. Nó phải nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế để giảm đói nghèo và khai thác tài nguyên hợp lý đi đôi với ngăn ngừa các suy thoái môi trường trong tương lai. Phát triển bền vững đạt được nhờ một phần tiến bộ khoa học – kỹ thuật trên cơ sở ứng dụng các mô hình sản xuất với công nghệ “sạch”, hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, ổn định khí hậu, thích hợp với phát triển dân số và hoạt động kinh tế của con người. Suy cho cùng, việc giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái là thực hiện sự phát triển bền vững, sự tăng trưởng kinh tế lâu dài, không thể vì các lợi ích trước mắt cục bộ và tạm thời mà huỷ hoại môi trường sinh thái. Do thế giới là sự thống nhất của các yếu tố con người – xã hội – tự nhiên, chúng có mối quan hệ tác động qua lại và biện chứng lẫn nhau vì thế con người phá hoại môi trường đến đâu thì chúng ta sẽ phải gánh chịu hậu quả đến đấy mặc dù mục tiêu trước mắt làm chúng ta thoả mãn. Con người có khả năng điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên nên công việc bảo vệ môi trường phụ thuộc chủ yếu vào chúng ta chứ không phải bất kỳ yếu tố nào khác. Như vậy mục tiêu phát triển của con người Việt Nam và thế giới không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà còn là phát triển bền vững trong đó bảo vệ môi trường là mục tiêu hàng đầu. Phát triển bền vững phải hướng đến sự công bằng – công bằng giữa con người với con người, giữa thế hệ hôm nay với con cháu mai sau. Môi trường cần được giữ gìn không chỉ cho thế hệ hôm nay mà còn cả mai sau. Tháng 5 năm 2004 Tài liệu tham khảo Giáo trình triết học Mác – Lênin. (Bộ giáo dục và đào tạo – Nhà xuất bản chính trị quốc gia). Giáo trình triết học Mác - Lênin. (Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia cá bọ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản chính trị quốc gia). Quản lí môi trường. (PGS _ TS Nguyễn Đức Khiển – Nhà xuất bản lao động – xã hội). Thương mại môi trường và phát triển bền vững. (Bộ thương mại, viện nghiên cứu thương mại, trung tâm tư vấn đào tạo khoa học môi trường – Nhà xuất bản chính trị quốc gia). Một số vấn đề nhân văn trong việc sử dụng lợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. (Bộ khoa học công nghệ và môi trường, TS_ Hà Huy Thành – Nhà xuất bản chính trị quốc gia). Môi trường sinh thái – vấn đề và giải pháp. (PGS_PTS Nguyễn Thị Ngọc Trâm – Nhà xuất bản chính trị quốc gia). Kinh tế môi trường. (Bùi Văn Quyết – Nhà xuất bản tài chính). thiennhien.net nea.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35561.doc
Tài liệu liên quan