Đề tài Quan hệ kinh tế và thương mại Việt Nam - Trung quốc hiện tại và triển vọng

Trong lịch sử quan hệ Việt - Trung, chưa bao giờ mối quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước phát triển mạnh mẽ như những năm qua. Các chỉ số về kim ngạch xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch và dịch vụ đều tăng trưởng ổn định qua các năm. Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm qua đã có sự đóng góp không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và mục tiêu tăng trưởng kinh tế khu vực các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc nói riêng. Có thể nói rằng, sau hơn 10 phát triển kinh tế - thương mại qua biên giới Việt - Trung đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế - xã hội các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc, đã từng bước đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, đời sống nhân dân được cải thiện và ngày càng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế làm nảy sinh tiêu cực, đặc biệt là tình trạng buôn lậu qua biên giới cần phải ngăn chặn và đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp tạo nên môi trường lành mạnh làm tiền đề vững chắc cho mục tiêu phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt – Trung Trong thời gian tới.

doc96 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 747 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ kinh tế và thương mại Việt Nam - Trung quốc hiện tại và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại tạo thêm nhiều việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục thu hút đâu tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn có lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. Khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn vào tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn công ty lớn đầu tư vào Việt Nam đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào trong nước. Trên đây là cơ sở vững chắc tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển hơn nữa đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian tới. Chỉ cần hai phía đầu tư và tiếp nhận đầu tư nghiên cứu kỹ và đáp ứng những nhu cầu của nhau, nếu như sớm khắc phục được những nguyên nhân cụ thể, làm cho kim ngạch đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam thời gian qua chưa nhiều( như đã nêu ra trong phần 2 của bài viết này) các công ty và tập đoàn kinh tế trung bình và lớn của Trung Quốc tin tưởng vào tiền đồ phát triển của thị trường đầu tư ở Việt Nam, mạnh dạn đầu tư vào thị trường này. Trong những năm tới đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam sẽ có được bước đột phá mới. - Về du lịch: Trong khuôn khổ song phương, hợp tác du lịch Việt Nam -Trung Quốc cần tiếp tục thực hiện trao đổi đoàn cấp quốc gia mỗi năm một lần nhằm thắt chặt quan hệ hợp tác và trao đổi thông tin ở cấp lãnh đạo ngành, thoả thuận biện pháp tăng cường hợp tác. Hai bên cần phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tổ chức đưa đón khách là công dân Trung Quốc vào Việt Nam bằng hộ chiếu theo quyết định của Quốc vụ Viện Trung Quốc. Tạo điều kiện cho các địa phương, nhất là các tỉnh biên giới, tiến hành hợp tác du lịch, không ngừng nâng cao chất lượng đưa đón khách. Tiếp tục tăng cường hợp tác đầu tư, phát triển du lịch sinh thái, quản lý khách sạn, hỗ trợ hợp tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực, trong đó chú trọng vào đào tạo tiếng Việt và tiếng Trung cho hướng dẫn viên du lịch mỗi nước. Trong những năm 2003 và những năm tới, ở hai nước sẽ diễn ra những sự kiện quốc tế quan trọng liên quan đến du lịch như SEAGAMES lần thứ 22 tổ chức vào năm nay tại Việt Nam, Đại hội đồng tổ chức du lịch thế giới tổ chức năm 2003 tại Trung Quốc, Diễn đàn Du lịch Hiệp hội du lịch các nước Đông Nam Á ATF năm 2004 tại Việt Nam, Thế vận hội OLIMPIC năm 2008 tại Trung Quốc. Đây là điều kiện và là những dự án cụ thể mà du lịch hai nước có thể đẩy mạnh hợp tác du lịch trong khuôn khổ đa phương, mang lại nhiều nguồn lợi cho cả hai nước. Đẩy mạnh hợp tác du lịch Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay có đủ điều kiện vật chất và tinh thần, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế của thời đại, góp phần đẩy mạnh hợp tác và giao lưu văn hoá, kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa hai nước. Mặt khác hợp tác du lịch song phương sẽ phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo, hoạt động tích cực tại các diễn đàn và các thể chế đa phương, thể hiện vai trò là thành viên tích cực của cộng đồng du lịch quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập, phát triển và tiến bộ xã hội, chủ động góp phần giải quyết các vấn đề toàn cầu bức xúc đang diễn ra là yếu tố quan trong tạo cho hai nước những vị thế mới trên trường quốc tế, vì lợi ích của mỗi bên và sự ổn định, thịnh vượng chung của khu vực. 2.2. Phương hướng cơ bản trong phát triển kinh tế thương mại trong thời gian tới. Quán triệt sâu sắc các quan điểm và những mục tiêu trên, việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, thương mại qua các cửa khẩu biên giới Việt - Trung trong thời gian tới phải tuân theo những phương hướng cơ bản sau: - Mở rộng hoạt động giao lưu qua biên giới Việt - Trung một cách toàn diện cả về thương mại, dịch vụ, du lịch, đa dạng các loại hình xuất nhập khẩu như tạm nhập tái xuất, quá cảnh, mượn đường ... - Việc buôn bán qua biên giới phải tuân theo các thông lệ, tập quán quốc tế, thông qua các hiệp định hợp tác mà hai bên đã ký kết trong thời gian qua. Đồng thời tăng cường xuất nhập khẩu theo phương thức chính ngạch, hạn chế để giảm dần phương thức buôn bán tiểu ngạch qua biên giới. - Phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng trong quản lý tiền tệ và thanh toán quốc tế. Kiểm soát, hạn chế, tiến tới xoá bỏ các chợ trao đổi tiền tự do trên khu vực biên giới, tạo nên môi trường thanh toán lành mạnh, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Giảm đến mức cao nhất các phương thức giao dịch, thanh toán tự do, trực tiếp giữa các doanh nghiệp theo phương thức tiểu ngạch trước đây. - Phải tạo được nguồn hàng xuất khẩu ổn định, lâu dài và đáp ứng được nhu cầu của thị trường Trung Quốc. Tăng cường tìm hiểu thị trường Trung Quốc, thâm nhập sâu vào thị trường nội địa, đồng thời giữ vững thị trường xuất khẩu, cân bằng cán cân thương mại, tránh tình trạng nhập siêu như trong giai doạn trước đây. - Thay đổi cơ cấu hàng hoá xuất, nhập khẩu theo hướng đảm bảo lợi thế so sánh và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mỗi bên. Đối với Việt Nam, cần thiết phải tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô, tìm ra mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống. Chú trọng nhập khẩu những hàng hoá phục vụ thiết yếu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hạn chế đến mức tối đa nhập khẩu hàng tiêu dùng mà trong nước đã sản xuất được. - Đẩy mạnh xuất nhập khẩu nhưng phải kiểm soát được nguồn hàng xuất nhập khẩu. Có các biện pháp hữu hiệu để chống buôn lậu và gian lận thương mại, các hành vi tranh mua tranh bán, mất trật tự an toàn xã hội và các tệ nạn tiêu cực khác. - Phải khẩn trương xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu, nâng cấp các trục đường giao thông từ biên giới vào sâu trong nội địa; xây dựng kho ngoại quan, kho bảo thuế phục vụ tích cực cho việc bảo quản, lưu giữ hàng hoá xuất nhập khẩu. - Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoán để thu hút hơn nữa đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Trong đó ưu tiên đối với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc trên khu vực 6 tỉnh nghèo vùng núi phía Bắc. - Đầu tư cơ sở hạ tầng mang tính trọng điểm, chú trọng đến các khu di tích lịch sử, những nơi danh lam thắng cảnh, đồng thời đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, đặc biệt là đối với khách du lịch Trung Quốc nhằm phát triển hơn nữa các ngành thương mại, du lịch và dịch vụ là những thế mạnh vốn có của khu vực cửa khẩu biên giới. - Tự động hoá các quy trình nghiệp vụ kiểm tra hàng hoá của các cơ quan Hải quan, kiểm dịch tại cửa khẩu, đẩy nhanh tốc độ thông quan cho hàng hoá xuất nhập khẩu, tránh gây ùn tắc làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. II. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM TĂNG CƯỜNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ, THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC. Để quan hệ kinh tế thương mại qua biên giới Việt - Trung phát triển theo các quan điểm, mục tiêu và phương hướng nói trên, chúng ta phải thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau : 1. Xây dựng kế hoạch cụ thể cho phát triển kinh tế các tỉnh biên giới phía Bắc. Muốn phát triển quan hệ kinh tế - thương mại ổn định, lâu dài, vấn đề quan trọng nhất là phải xây dựng được kế hoạch cụ thể, phù hợp. Vì vậy các kế hoạch phải được xây dựng trên cơ sở ký kết các Hiệp định thương mại song phương, trên cơ sở tập quán, thông lệ buôn bán quốc tế. Qua đó mỗi bên phải có nhiệm vụ tôn trọng và tích cực thực hiện đúng các điều khoản đã ký. Trên cơ sở khung pháp lý như vậy mới tạo ra môi trường, hành lang cho hoạt động kinh tế- thương mại giữa hai nước được củng cố và phát triển vững chắc. Trong những năm qua, hai nước đã ký hơn 20 Hiệp định, trong đó Hiệp định thương mại được ký tháng 7/11/1997, Hiệp định thương mại ký tháng 10/1998 và một số các nghị định thư và Hiệp định khác nữa. Nhưng trong thực tế, các Hiệp định tuy đã được triển khai nhưng còn mang tính hình thức, chưa sâu sát cụ thể. Do đó, kể từ ngày ký Hiệp định cho đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu chính ngạch chiếm tỷ trọng chưa cao; hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch chưa được kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến hoạt động thương mại qua biên giới không ổn định, bất thường, lúc tăng, lúc giảm gây nhiều bất lợi cho phía Việt Nam. Mặt khác, phía Trung Quốc với mục đích lợi dụng thị trường Việt Nam để tiêu thụ hàng công nghiệp địa phương kém chất lượng, nhưng giá thấp, chủng loại đa dạng, phong phú, phù hợp với sức mua của thị trường Việt Nam nên họ thường xuyên đẩy mạnh buôn bán tiểu ngạch qua biên giới. Về phía Việt Nam, chính sách về kinh tế của ta chưa linh hoạt, uyển chuyển, bổ sung chưa kịp thời, dẫn đến các địa phương, các doanh nghiệp chưa chủ động trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đó cũng là nguyên nhân gây lộn xộn trong buôn bán trao đổi, mạnh ai nấy làm, tranh mua, tranh bán ... Nắm được sự thiếu thống nhất đó, phía Trung Quốc đã chủ động, chi phối hoạt động thương mại cửa khẩu biên giới Việt - Trung, làm cho ta luôn bị động. Cụ thể là, khi họ cần điều tiết thị trường như: thu mua trao đổi hàng hoá với khối lượng lớn, dồn dập, giá cả có thể tăng lên từng ngày, thậm chí từng giờ( đặc biệt đối với hàng hoá tươi sống). Nhưng khi nhu cầu phần nào đã được đáp ứng, họ thống nhất ép giá, hoặc tỷ giá , gây sức ép và bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Thậm chí họ dừng, không mua hàng đó nữa trong cùng một thời gian nhất định, khién cho một số hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã mang sang Trung Quốc rồi bán không được, mang về cũng không xong, gây thua lỗ nặng nề cho các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy giải pháp xây dựng kế hoạch buôn bán qua biên giới với Trung Quốc trên cơ sở ký kết các Hiệp định thương mại giữa hai nước, giảm thiểu tình trạng buôn bán tiểu ngạch, tăng cường buôn bán chính ngạch và triệt để tuân theo các tập quán và thông lệ quốc tế là giải pháp có tính chất tiên quyết, bảo đảm phát triển lâu dài, ổn định quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. 2.Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi cho phát triển kinh tế cửa khẩu biên giới. Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách đối với phát triển kinh tế vùng núi phía Bắc nhằm xoá đói giảm nghèo, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi. Trong đó chính sách ưu đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu biên giới đã và đang phát huy tác dụng tích cực, làm cho bộ mặt kinh tế vùng biên giới được nâng lên một bước, cải thiện được đời sống của nhân dân các tỉnh vùng núi biên giới phía bắc. Một số tỉnh như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai đã hình thành những trung tâm kinh tế lớn, tốc độ giao lưu thương mại với tốc độ khá cao nhưng trên thực tế vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế vốn có của kinh tế cửa khẩu biên giới. Do đó, trong thời gian tới ngoài những chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế nói chung thì cần phải có những chính sách đặc thù riêng cho các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc. Cụ thể là: - Từng bước hình thành khu kinh tế mở, cho tự do giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hoá trên khu vực biên giới cửa khẩu. Hàng hoá ra vào khu kinh tế mở, ngoài việc tuân thủ qui định về chính sách mặt hàng thì được tự do trao đổi, chỉ áp dụng chế độ kiểm tra giám sát Hải quan, không thu thuế đối với hàng hoá trong khu vực kinh tế mở. - Nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu được giữ lại 100% cho việc phát triển kinh tế tại địa phương trong vòng từ 5 - 7 năm , những năm tiếp theo sẽ có điều chỉnh cho phù hợp. Trước mắt, nguồn thu từ ngân sách phải khẩn trương đầu tư cho cơ sở hạ tầng cần thiết như: đường sá, kho tàng, bến bãi; nâng cấp về phương tiện thông tin liên lạc, đảm bảo kịp thời cho hoạt động giao lưu thương mại qua biên giới. - Hỗ trợ vốn để khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến hàng xuất khẩu như trồng cây ăn quả, song mây, gỗ nguyên liệu phục vụ cho chế biến hàng xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc. - Cải cách những thủ tục rườm ra đối với hoạt động xuất nhập cảnh, đồng thời nâng cấp điều kiện về cơ sở hạ tầng các khu du lịch nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút ngày càng nhiều khách du Trung Quốc sang Việt Nam. 3. Hoàn thiện hệ thống chính sách điều hành hoạt động xuất nhập khẩu. Chiến lược phát triển thương mại qua biên giới Việt - Trung cần phải được xem là một trong những bộ phận quan trọng của phát triển kinh tế đối ngoại. Vì vậy ngoài việc tuân thủ những chính sách chung điều hành xuất nhập khẩu của nhà nước, còn phải đặc biệt quan tâm tới tính chất đặc thù của khu vực biên giới các tỉnh phía Bắc, sao cho khai thác tốt được thế mạnh vùng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong những năm tới, chúng ta cần khẩn trương xây dựng chiến lược đặc thù cho hoạt động giao lưu thương mại trên các cửa khẩu biên giới Việt - Trung, có tính ổn định, lâu dài, trong đó phải xác định được chính sách mặt hàng, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu phù hợp với từng tuyến biên giới. Cụ thể như sau: - Chính sách mặt hàng: Xây dựng chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu hợp lý, tạo ra những sản phẩm có tầm chiến lược, có khối lượng lớn, trị giá cao, chất lượng tốt, phù hợp với ưu thế, tiềm năng của khu vực biên giới. Trên cơ sở đó xác định chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu đối với từng tuyến phía Bắc, phía Tây và Tây Nam, phù hợp với thị trường các nước láng giềng, qua đó vươn rộng sang nước thứ ba. Tiếp tục nâng cao tỷ lệ hàng hoá xuất khẩu đã qua chế biến để tăng nhanh kim ngạch hàng xuất khẩu. Chỉ có chuyển cơ cấu hàng xuất khẩu sang chế biến mới giải quyết được công ăn việc làm, nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý kinh tế , nâng cao chất lượng sản phẩm của hàng Việt Nam, đây là biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng và bảo vệ hàng trong nước có hiệu quả nhất. - Về nhập khẩu: Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo hướng trên thì hàng nhập khẩu phải đặc biệt ưu tiên nhập khẩu những thiết bị có kỹ thuật tiên tiến và công nghệ nguồn, không cho phép nhập khẩu thiết bị lạc hậu, năng suất thấp, gây ô nhiễm môi trường. Thực tế trong thời gian qua ta đã nhập khá nhiều các thiết bị đồng bộ của Trung Quốc thiết bị có công nghệ tiên tiến không nhiều mà chủ yếu là các thiết bị công nghệ trung bình, kém. Điển hình như các thiết bị sản xuất đường, thiết bị sản xuất xi măng, sản xuất hoá chất... Trong thời gian tới ta nên nhập khẩu thiết bị có công nghệ tiên tiến hơn từ các nước Châu Âu. Chỉ nhập khẩu những mặt hàng là nguyên liệu thiết yếu phục vụ cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, hàng kém phẩm chất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng hoặc hàng hoá trong nước đã sản xuất được. - Về xuất khẩu: Nhà nước tiếp tục có các biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác tiềm năng của đất nước, đẩy mạnh xuất khẩu, ưu tiên xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến từ hàng nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng trong nước, hàng thủ công mỹ nghệ. Đối với các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc, cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích các địa phương này sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác được lợi thế về địa lý, giảm được chi phí vận chuyển và nhiều thuận lợi khác sẽ làm tăng khả năng thâm nhập của hàng xuất khẩu của ta vào thị trường Trung Quốc. Bên cạnh việc tìm nguồn hàng mới, chúng ta phải tiếp tục khai thác thế mạnh của những nhóm hàng truyền thống như: gạo, cà phê, cao su, hạt điều, dầu thô, than đá, dép Bitis ... song phải hạn chế ngay việc xuất khẩu sản phẩm thô, chuyển ngay sang sản phẩm chế biến theo các hướng chủ yếu sau đây: Chuyển dần từ xuất khẩu dầu thô sang sản phẩm lọc dầu, dầu mỡ kỹ thuật cao và các sản phẩm hoá dầu để phục vụ sản xuất trong nước đồng thời xuất khẩu ra nước ngoài; Chuyển từ xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều thô sang thực phẩm chế biến, tiện lợi cho sử dụng, bảo quản; Giảm xuất khẩu các loại quặng thô như quặng sắt, quặng đồng, crômite, đất hiếm sang sản phẩm chế biến như tinh quặng có hàm lượng cao hơn . - Về phương thức buôn bán: Để khai thác ưu thế về địa lý và tiềm năng của các địa phương có biên giới, ngoài phương thức buôn bán thông thường cần áp dụng phương thức tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, quá cảnh. Xây dựng các kho Ngoại quan, kho bảo thuế để lưu giữ hàng hoá, những phương thức này sẽ mang lại một nguồn thu khá lớn cho ngân sách của nhà nước, khuyến khích các dịch vụ vận tải, bảo hiểm, giám định và các dịch vụ có liên quan khác cùng phát triển. Trong tới sẽ dần hạn chế phương thức buôn bán tiểu ngạch, đồng thời có sự quản lý chặt chẽ tránh tình trạng lợi dụng để buôn lậu, trốn thuế gây mất ổn định thị trường. Ngoài ra, chúng ta cần thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu trên cơ sở khai thác tối đa nguồn lực của địa phương và cả nước bằng việc tạo vùng nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu ở địa bàn các tỉnh biên giới, giải quyết công ăn việc làm và tăng nhanh phát triển kinh tế địa phương, đồng thời huy động sức mạnh kinh tế của các vùng, các khu kinh tế của các tỉnh phía sau, tạo nhiều nguồn hàng phục vụ cho giao lưu kinh tế thương mại. - Chính sách về thanh toán qua ngân hàng: Cho đến nay, ngân hàng chưa thực hiện được chức năng thanh toán cho hầu hết các hoạt động giao lưu kinh tế - thương mại qua cửa khẩu biên giới Việt - Trung. Theo số liệu thống kê ngân hàng mới chỉ thanh toán được 4,8% khối lượng giao dịch thương mại qua biên giới Việt - Trung. Do đó, trong thời gian tới ngành ngân hàng phải phát huy giữ vai trò chủ đạo về thanh toán ngoại hối qua biên giới và chỉ có làm tốt chức năng thanh toán mới tạo được sự ổn định trong giao lưu tiền tệ, hạn chế buôn lậu, đảm bảo phát triển quan hệ thương mại lành mạnh. Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng Trung Quốc, đồng thời có kế hoạch phối hợp với các ngành chức năng trên biên giới để thiết lập quan hệ quản lý đồng bộ về hoạt động tiền tệ trên biên giới. Ngành ngân hàng phải khẩn trương tổ chức hệ thống đổi tiền thuận lợi, có chính sách tỷ giá linh hoạt, phù hợp với thị trường tiền tệ, tìm mọi biện pháp thu hút và đưa hầu hết khối lượng thanh toán qua biên giới vào hệ thống ngân hàng. Hoạt động tiền tệ bị thả nổi vì một số lý do , song chủ yếu vẫn là do thiếu quy chế có hiệu lực và điều hành có hiệu quả. Do đó, trên khu vực biên giới hình thành các chợ đổi tiền hoạt động tự do gây nhiều lộn xộn và chủ yếu do người hoa chi phối. Để hoạt động tiền tệ đi vào kỷ cương thì song song với việc củng cố, cải tiến mạng lưới ngân hàng, cần phải tổ chức xắp xếp và quản lý các lực lượng kinh doanh ngoại hối thuộc các thành phần kinh tế trên khu vực này, yêu cầu hoạt động đổi tiền phải được phép của ngân hàng và chịu sự quản lý chặt chẽ của ngân hàng. Như vậy, sự hoạt động lành mạnh của thị trường tiền tệ sẽ có tác động tích cực đến các hoạt động giao lưu thương mại lành mạnh, tạo ra môi trường tốt để phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. - Hoàn thiện chính sách thuế: Trong thời gian qua, chính sách thuế được cải tiến, bổ sung sửa đổi rất nhiều cho phù hợp với chủ trương hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tuy nhiên hệ thống thuế còn nhiều sơ hở, bất hợp lý, gây khó khăn cả cho người thực hiện và cơ quan quản lý. Luật thuế, biểu thuế xuất nhập khẩu còn phức tạp, việc định danh tê gọi, mã số chưa đạt được sự thống nhất cao. Do đó, cần phải tiếp tục được sửa đổi, đơn giản hoá hệ thống biểu thuế, hạn chế việc áp dụng thuế suất theo công dụng của hàng hoá, gây sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế,vì cùng một mặt hàng có thể thay đổi mục đích sử dụng theo ý muốn của người nhập khẩu. Tiếp tục dành ưu đãi thuế suất đối với hàng xuất khẩu, trong giai đoạn này nên áp dụng mức thuế suất 0% cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến. Hạ thấp mức thuế suất đối với nguyên vật liệu, phụ liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời áp dụng các ưu đãi tín dụng để khuyến khích xuất khẩu. 4. Thu hút đầu tư trực tiếp từ phía Trung Quốc. Nhận xét ở tầm vĩ mô, môi trường kinh tế Việt Nam khá ổn định, đời sống nhân dân các vùng, cả thành thị và nông thôn không ngừng được nâng cao, bình quân mỗi năm thu nhập tăng khoảng 4 - 5 %. Đó là điều kiện để không ngừng mở rộng dung lượng của thị trường. Với chính sách phát huy mạnh mẽ nội lực ,vốn trong nước chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hơn nữa, chỉ số phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đạt mức cao hơn trình độ phát triển kinh tế, phản ánh những điểm nổi trội của chất lượng nguồn nhân lực, có khả năng tiếp thu và thích nghi cao với việc chuyển giao công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh. Trong những năm qua song song với công cuộc cải cách hành chính, Việt Nam đã dành những khoản đầu tư lớn để cải thiện đáng kể chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội như đảm bảo cung cấp điện ổn định hơn, cấp nước sạch và xử lý nước thải tốt hơn, hệ thống viễn thông được phát triển với tốc dộ rất cao cũng đã góp phần làm hạ giá thành các khoản đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Cùng với việc ban hành Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật đầu tư trong nước, Luật kinh doanh bảo hiểm, nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động của doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng cởi mở, minh bạch, có tính cạnh tranh cao, thuận lợi cho các nhà đầu tư và từng bước xoá bỏ những khác biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, tiến tới một hệ thống pháp lý áp dụng chung cho các doanh nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế. Một số biện pháp cụ thể: - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài theo hướng tạo sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định. Tiến tới xây dựng một bộ luật chung cho cả đẩu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; - Xây dựng hệ thống cơ chế chính sách cụ thể để cải thiện môi trường kinh doanh và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, nhất là đối với các lĩnh vực, địa bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư; - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, tiếp tục cổ phần hoá một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; - Nâng cao năng lực quản lý và sự phối hợp của chính quyền nhà nước các cấp đối với đầu tư nước ngoài, mở rộng thẩm quyền và trách nhiệm của địa phương nhằm giải quyết kịp thời các vướng mắc, hỗ trợ tốt nhất cho các nhà đầu tư; - Đơn giản hoá thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các qui trình, và thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục, nhắm tiết kiệm thời gian, chi phí kinh doanh, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. - Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng như cung cấp điện, nước, thông tin, cũng như nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật, công nghệ để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Với những quyết tâm cải cách về chính sách và thể chế, chúng ta tin tưởng rằng cơ hội đầu tư tại Việt Nam sẽ tiếp tục được mở rộng và công việc đầu tư kinh doanh tại Việt Nam sẽ ngày càng thuận lợi hơn. Hy vọng rằng các nhà đầu tư Trung Quốc sẽ tiếp tục đến với Việt Nam để cùng hợp tác làm ăn lâu dài và khai thác những tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, tạo ra những sản phẩm uy tín và chất lượng. 5. Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Chúng ta đã biết, buôn lậu là một hiện tượng tiêu cực có tính lịch sử, phổ thông và quốc tế, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế như nước ta hiện nay. Do đó, cuộc đấu tranh này đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và khoa học mới dành được hiệu quả. Trong khuôn khổ của bài viết tôi xin đưa ra một số giải pháp cơ bản sau đây: 5.1. Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế góp phần hạn chế tình trạng buôn lậu và hạn chế buôn lậu cũng nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế; tập trung phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp đổi mới. Trước mắt muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế phải phát huy tối đa các nguồn lực, đầu tư hợp lý, phát triển khoa học và công nghệ, đồng thời đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng cho những vùng trọng điểm, khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp nhằm phát huy hiệu quả giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu; trước mắt chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 7 của Bộ chính trị và chương trình hành động của Chính phủ. Phát triển kinh tế là một giải pháp cơ bản, có ý nghĩa toàn diện trong việc giải quyết các vấn đề lớn của các địa phương vùng biên giới, trong đó có chống buôn lậu. Xét về mặt xã hội, phát triển kinh tế làm tăng trưởng sản phẩm xã hội, tăng khối lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nội ngay ở thị trường biên giới cũng như nội địa. Kinh tế phát triển tạo thế ổn định trên cán cân ngoại thương, sẽ hạn chế xu thế "nước chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp" của hàng lậu, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội, càng hoàn thiện các biện pháp có tính toàn diện, tổng lực trên mặt trận chống buôn lậu ở biên giới. 5.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước là một giải pháp hết sức cơ bản, vừa là động lực của phát triển và hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh, vừa là giải pháp hạn chế việc nhập khẩu cũng như nhập lậu hàng hoá qua biên giới. Chống buôn lậu bằng giải pháp kinh tế chính là trách nhiệm của các nhà sản xuất trong nước, các doanh nghiệp trong nước. Nhất là trong điều kiện nước ta đã và đang từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Theo quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như AFTA, APEC, WTO đối với các nước tham gia, chúng ta không thể bảo hộ sản xuất lâu dài mà phải mở cửa thị trường bằng việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, cho phép hàng hoá nước ngoài được nhập khẩu và cạnh tranh bình đẳng. Trong những năm tới hàng hoá của các nước ASEAN ngày càng có cơ hội tràn vào thị trường Việt Nam khi bắt đầu từ năm 2003 chúng ta thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo thoả thuận. Đặc biệt chúng ta phải chịu sức cạnh tranh rất lớn hàng hoá từ nước láng giềng Trung Quốc vào nưóc ta. Trung Quốc hiện nay là nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất trên thế giới, hàng hoá nhiều chủng loại, mẫu mã đẹp, giá rẻ là những lợi thế gây sức ép trực tiếp rất lớn đối với thị trường Việt Nam, nhất là khi hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN + Trung Quốc sắp tới. Buôn lậu hàng hoá từ Trung Quốc vào Việt Nam qua biên giới phía Bắc hiện nay vẫn là chủ yếu, có thể nói ở đâu ta cũng thấy hàng hoá tiêu dùng Trung Quốc tràn ngập. Bởi vậy giải pháp hạn chế tối đa hoạt động buôn lậu là phải tăng cường đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất cả về số lượng và chất lượng hàng hoá, giảm giá thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá là một đòi hỏi bức xúc đối với các doanh nghiệp trong nước hiện nay, vừa bảo hộ phát triển sản xuất, giải quyết các vấn đề xã hội, vừa góp phần ngăn chặn làn sóng nhập lậu hàng hoá từ biên giới. 5.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về kinh tế. Hơn 15 năm đổi mới, Nhà nước ta đã xây dựng và hoàn thiện được hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, nhất là hệ thống pháp luật về kinh tế, đã thiết lập được cơ bản khung khổ pháp lý phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được thường xuyên điều chỉnh, bổ sung phù hợp với chủ trương hội nhập và luật pháp quốc tế. Tuy nhiên luật pháp về kinh tế của ta chưa đồng bộ, nhất quán và còn nhiều sơ hở, bất hợp lý, do đó bọn gian thương triệt để lợi dụng để buôn lậu, gian lận thương mại. Luật thuế, biểu thuế xuất nhập khẩu của ta còn phức tạp, việc định danh, tên gọi, mã số chưa đạt được sự thống nhất cao do đó cần sửa đổi, đơn giản hoá hệ thống biểu thuế, hạn chế việc áp dụng thuế suất theo công dụng của hàng hoá, gây sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế, vì cùng một mặt hàng có thể thay đổi mục đích sử dụng theo ý muốn của người nhập khẩu. Luật doanh nghiệp của ta tuy thông thoáng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh, song lại sơ hở và bị lợi dụng để thành lập các doanh nghiệp ma, lừa đảo chiếm dụng tài sản nhà nước, cần quy định bổ sung điều kiện thành lập doanh nghiệp tư nhân, ngoài vốn, tài chính thì người đứng ra thành lập phải có hộ khẩu, có trình độ kiến thức nhất định, am hiểu về pháp luật, quản lý kinh tế, tài chính Luật thuế giá trị gia tăng và chính sách hoàn thuế, thủ tục hoàn thuế, tuy mới áp dụng thực hiện nhưng có nhiều bất cập, sơ hở, bị nhiều thương nhân triệt để lợi dụng để gian lận lừa đảo chiếm đoạt ngân sách Nhà nước. Vừa qua ta có điều chỉnh bổ sung một số chính sách và thủ tục hoàn thuế, song đó chỉ là những biện pháp tình thế, chưa phải là biện pháp cơ bản để khắc phục tình trạng lợi dụng gian lận trên. Đó là chưa nói đến tình trạng các văn bản hướng dẫn luật còn chậm, thậm chí biến dạng, trái với nội dung quy định của pháp luật Thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh một số luật mới ở những lĩnh vực chưa có luật, hoặc mới chỉ ban hành các văn bản dưới luật hoặc luật cũ đã lạc hậu không phù hợp với tình hình thực tế. Cùng với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần phải đổi mới hoàn thiện hệ thống chính sách về kinh tế như chính sách thị trường, ruộng đất, chính sách thu nhập, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu Trong đó chính sách tài chính, tiền tệ đặc biệt quan trọng. Chính sách xuất nhập khẩu cần quy định định hướng thời kỳ, giảm bớt các quy định quản lý chuyên ngành hiện nay rất phức tạp, chồng chéo và thiếu thống nhất. Cần quan tâm đến chính sách đãi ngộ như lương bổng, thưởng cho những lực lượng tham gia chống buôn lậu, người có công phát hiện; chế độ chi công tác nghiệp vụ bí mật phục vụ chống buôn lậu một cách thoả đáng, vì chế độ chính sách hiện nay chưa động viên, khuyến khích phù hợp đối với lực lượng này, mặc dù chống buôn lậu, gian lận thương mại là một nhiệm vụ cam go, phức tạp, khó khăn và nguy hiểm. 5.4. Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng kết hợp với giải quyết các chính sách xã hội. Muốn chống buôn lậu có hiệu quả thì công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia công tác này là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Phải làm cho nhân dân các dân tộc ở vùng biên giới nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền về kinh tế, tác hại của nạn buôn lậu với sự phát triển kinh tế, tới an ninh chính trị và trật tự xã hội, chấp hành các quy định của pháp luật như: Không vượt biên giới trái phép, không vận chuyển hàng hoá trái phép qua biên giới, tổ chức cho từng hộ, từng gia đình tự giác ký cam kết không tham gia buôn lậu, mang vác hàng lậu Từ việc làm chuyển biến nhận thức đó để vận động nhân dân tham gia công tác chống buôn lậu, ủng hộ tạo điều kiện cho lực lượng chống buôn lậu, tố giác hoạt động buôn lậu, làm tai mắt cho cơ quan chức năng trong đấu tranh chống buôn lậu, bảo vệ an ninh biên giới, làm cho bọn buôn lậu bị cô lập không còn chỗ dựa để hoạt động. Tuy nhiên do khó khăn về kinh tế, việc làm, đời sống khó khăn, do đó công tác vận động quần chúng tham gia chống buôn lậu phải kết hợp đồng bộ với việc giải quyết các chính sách xã hội, nhất là ỏ vùng nông thôn, miền núi, đồng bào dân tộc Nhà nước, các cấp uỷ Đảng chính quyền địa phương cần quan tâm đầu tư phát triển kinh tế ở những vùng này, có chính sách, cơ chế hợp lý, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, xoá thế độc canh cây lúa, đầu tư mở rộng làng nghề, tăng thêm việc làm, tăng thu nhập, thay đổi cơ cấu sản xuất miền núi chuyển hướng sang trồng rừng, trồng cây công nghiệp, hướng dẫn áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật cho đồng bào. Có chính sách hợp lý phát huy thế mạnh từng vùng, nhất là vùng biên giới. Cần tiếp tục đầu tư xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại, khu bảo thuế Nghiên cứu phát triển những đặc khu kinh tế, áp dụng các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển kinh tế các vùng này nhằm thu hẹp khoảng cách kinh tế. Quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các vùng biên giới như đường giao thông, trường học, bệnh xá, điện, nước sạch; có chính sách hỗ trợ về xây dựng nhà ở (ngói hoá) cho đồng bào; đầu tư khai hoang mở rộng diện tích sản xuất, vận động và xây dựng các khu định canh, định cư cho đồng bào, nâng cao đời sống tinh thần như phủ sóng truyền hình, truyền thanh Có chính sách quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo cán bộ vùng cao, dân tộc ở biên giới, đồng thời thực hiện đúng đắn nghị quyết của Đảng về luân chuyển, tăng cường cán bộ cho cơ sở; có chính sách khuyến khích cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới Công tác vận động quần chúng và giải quyết các vấn đề xã hội có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, do đó phải được thực hiện đồng bộ, thiết thực mới có kết quả; đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền, các cấp, các ngành phải quan tâm giải quyết có như vậy chúng ta mới thực hiện được các nhiệm vụ chính trị kinh tế - xã hội trong đó có nhiệm vụ chống buôn lậu. 5.5. Tăng cường trách nhiệm của các lực lượng chức năng quản lý biên giới cửa khẩu. - Đối với lực lượng Hải quan: Chống buôn lậu qua biên giới là một nhiệm vụ quan trọng và trách nhiệm chủ yếu của lực lượng Hải quan, do đó phải xây dựng được một hàng rào Hải quan vững chắc. Hàng rào Hải quan là một khái niệm rộng, bao gồm hàng rào vô hình là hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trong chống buôn lậu qua biên giới, về quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, vật phẩm, phương tiện, ngoại hối, tiền tệ... qua biên giới. Còn hàng rào hữu hình là các biện pháp tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động qua cửa khẩu biên giới. Do đó tăng cường hàng rào Hải quan đòi hỏi nhiều yếu tố và điều kiện khách quan và chủ quan. Trước hết lực lượng Hải quan phải xác định trách nhiệm cao trong việc chống buôn lậu, chống gian lận thương mại ở cửa khẩu biên giới, thực hiện tốt Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chống buôn lậu, gian lận thương mại ở cửa khẩu. Luật Hải quan hiện nay quy định quyền hạn, phạm vi hoạt động của Hải quan trong chống buôn lậu còn hạn chế. Khảo sát kinh nghiệm tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan Trung Quốc về chống buôn lậu rất lớn như thành lập lực lượng cảnh sát chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, có quyền khám nhà, nơi ở, bắt giữ đương sự, điều tra từ khởi tố đến đề nghị truy tố các tội phạm buôn lậu, thanh tra các doanh nghiệp nên hiệu quả chống buôn lậu của Hải quan rất cao. Để khắc phục những hạn chế này, lực lượng Hải quan Việt Nam phải phát huy hết trách nhiệm, quyền hạn hiện nay trong chống buôn lậu ở cửa khẩu biên giới, đồng thời quan hệ phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trực tiếp khác trong chống buôn lậu như Bộ đội Biên phòng, Công an mới hoàn thành được nhiệm vụ. Đồng thời Nhà nước cần nghiên cứu đặc thù hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Hải quan để xây dựng mô hình tổ chức Hải quan đủ mạnh, được trang bị phương tiện, thiết bị hiện đại đáp ứng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương tiện ở cửa khẩu biên giới phục vụ chống buôn lậu, gian lận thương mại và đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và quá trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay. - Bộ đội Biên phòng: Với trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh, trật tự và tham gia chống buôn lậu qua biên giới phải tăng cường công tác tuần tra kiểm soát ở biên giới. Đặc biệt là trách nhiệm đấu tranh ngăn chặn tình trạng vượt biên trái phép của người, phương tiện vận tải qua biên giới trên bộ, trên sông, trên biển, nếu giải quyết tốt được tình trạng này sẽ ngăn chặn được nạn "cửu vạn" vượt biên mang, vác, vận chuyển hàng lậu qua biên giới hiện nay, đồng thời hỗ trợ phối hợp kịp thời cho các lực lượng chống buôn lậu ở biên giới có hiệu quả thì sẽ làm giảm đáng kể tình hình buôn lậu và đảm bảo an ninh, trật tự xã hội ở biên giới phía Bắc hiện nay. - Lực lượng Công an: Phát huy những kết quả trong việc điều tra khám phá các vụ buôn lậu, tham nhũng trong thời gian qua, phải xác định đấu tranh chống tội phạm buôn lậu hiện nay là một mặt trận quan trọng. Có trách nhiệm thường xuyên phối hợp với các lực lượng chống buôn lậu ở biên giới để điều tra đánh vào bọn buôn lậu đầu sỏ, các đường dây, tổ chức buôn lậu trong nước và quốc tế, làm rõ các hoạt động thông đồng, móc nối, tiếp tay, bảo kê cho buôn lậu, gian lận thương mại sẽ góp phần chủ yếu ngăn chặn, hạn chế tình hình buôn lậu và gian lận thương mại hiện nay và làm trong sạch bộ máy nhà nước. - Các lực lượng khác: Như Quản lý thị trường, cơ quan thuế... phải phát huy trách nhiệm trong việc kiểm tra kiểm soát thị trường nội địa, chế độ quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Phát hiện xử lý các hành vi chứa chấp, oa trữ, tiêu thụ hàng lậu. Đặc biệt là không để tình trạng hàng hoá nhập lậu được bày bán công khai như hiện nay, có như vậy mới làm mất chỗ "nương thân" để tồn tại của hàng lậu. Ngoài ra công tác chống buôn lậu đòi hỏi phải có sự tăng cường trách nhiệm và phối hợp của các tổ chức nhà nước khác, các cơ quan quản lý nhà nước như Thương mại, Đầu tư, Ngân hàng... phát huy chức năng quản lý của mình, tăng cường kiểm tra thường xuyên các hoạt động đăng ký kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp, quản lý thanh toán ngoại thương... nhằm hạn chế những kẽ hở trong công tác quản lý, ngăn chặn, phát hiện những hoạt động gian lận, lừa đảo, hoặc các dấu hiệu rửa tiền liên quan đến buôn lậu. Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội phải phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục quần chúng, đồng thời các cơ quan thông tin đại chúng phối hợp thường xuyên trong việc tuyên truyền công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại. Phát huy trách nhiệm và sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức trực tiếp và xã hội tạo ra thế trận tấn công toàn diện vào bọn buôn lậu là yếu tố thành công trên mặt trận này. 5.6. Đề cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp: Công tác chống buôn lậu đòi hỏi tạo ra sức mạnh tổng hợp và mạnh mẽ, rộng khắp, do đó phải có sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy trách nhiệm chống buôn lậu cần phải được quán triệt trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Chống buôn lậu là một vấn đề lớn của đất nước, do đó hơn ai hết, mỗi tổ chức Đảng, mỗi Đảng viên phải nhận thức rõ và thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu. Ở những địa bàn nóng về buôn lậu, tổ chức Đảng phải coi đó là một nhiệm vụ chính trị quan trọng để tập trung lãnh đạo, chính quyền phải đề ra các kế hoạch, biện pháp tổ chức lực lượng, đề ra những cơ chế, chính sách phù hợp để huy động tối đa lực lượng tham gia chống buôn lậu. Buôn lậu là giặc "nội xâm" do đó chống buôn lậu phải là cuộc cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp - một cuộc chiến tổng lực thời bình. Do đó phải xác định nơi nào tình hình buôn lậu còn xảy ra nhiều thì trước hết cấp uỷ Đảng, chính quyền nơi đó phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Có như vậy mới phát huy được vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp. Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vươn lên giải quyết những vấn đề thực tiễn hiện nay đặt ra trong công tác chống buôn lậu đối với từng địa phương và trong phạm vi cả nước, làm cơ sở cho Đảng, nhà nước hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương, giải pháp để tăng cường công tác chống buôn lậu có hiệu quả, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn buôn lậu nói chung và buôn lậu ở biên giới phía bắc nói riêng cũng là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền hiện nay. 6. Phát triển, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ làm công tác kinh tế - thương mại. Cán bộ trong lĩnh vực quan hệ kinh tế- thương mại phải có năng lực quản lý, quản trị kinh doanh, ngoại thương, ngoại ngữ , marketing. Đội ngũ đó phải thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành như: Hải quan, Công an, Biên phòng, cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, quản lý thị trường... thực trạng đội ngũ cán bộ trong quan hệ kinh tế- thương mại qua biên giới Việt – Trung còn thiếu, nghiệp vụ chưa thực sự tinh thông, một số ít yếu cả về phẩm chất đạo đức. Để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới, công tác cán bộ trong lĩnh vực hoạt động kinh tế- thương mại cần phải được quy hoạch, đào tạo , bồi dưỡng cho phù hợp với đặc điểm vùng, tập quán vùng. Vì cán bộ là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển các quá trình kinh tế nói chung, các quan hệ kinh tế- thương mại qua biên giới Việt - Trung nói riêng. Đây là một lĩnh vực khó khăn nên đòi hỏi phải đặc biệt chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này giỏi về nghiệp vụ, tốt về phẩm chất đạo đức theo hướng sau: - Cần quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn vững, hiểu biết pháp luật và các tập quán, thông lệ quốc tế, có phẩm chất đạo đức , chính trị tư tưởng vững vàng, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh tế đối ngoại. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo ngắn hạn, dài hạn, tuyển dụng... - Đào tạo cán bộ mới đi đôi với đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có, để từng bước thực hiện quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ trong quan hệ kinh tế- thương mại vững mạnh cả về nghiệp vụ chuyên môn và phẩm chất. - Phải có chính sách sử dụng cán bộ một cách khoa học, hợp lý, đúng người, đúng việc, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của nền kinh tế thị trường hiện đại. Mặt khác, cần chú ý thích đáng đến lợi ích kinh tế của đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ này để họ yên tâm công tác. 7. Tổ chức nghiên cứu thị trường Trung Quốc. Để dành thế chủ động và nâng cao hiệu quả kinh tế trong trong việc phát triển kinh tế- thương mại qua biên giới Việt - Trung, cần có một bộ phận chuyên nghiên cứu chiến lược và thông tin thị trường, nghiên cứu chính sách của Trung Quốc về phát triển xuất nhập khẩu đối với các nước láng giềng, đặc biệt là đối với Việt Nam. Trên cơ sở đó chúng ta xây dựng các phương án kinh doanh xuất nhập khẩu cho phù hợp với khả năng phát triển của kinh tế nước ta và của các tỉnh biên giới phía Bắc. Chú trọng hoạt động xuất nhập khẩu theo phương thức chính ngạch với các công ty Quốc mậu của Trung Quốc, từng bước giảm dần việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với các công ty biên mậu theo phương thức tiểu ngạch; việc thanh toán tiền hàng nhất thiết phải thông qua hệ thống ngân hàng theo đúng tập quán và thông lệ quốc tế. Hàng năm, chúng ta nên tổ chức đoàn đi khảo sát nghiên cứu thị trường Trung Quốc, tập trung nghiên cứu chính sách và học hỏi kinh nghiệm buôn bán trao đổi qua biên giới từ phía bạn. Bộ thương mại nên thường xuyên hơn tổ chức hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm và thăm do thị trường. Từ đó xây dựng chiến lược mặt hàng, đề ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nhằm thực hiện thành công chiến lược hướng về xuất khẩu, giảm tình trạng nhập siêu như hiện nay. 8. Xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực cửa khẩu biên giới. Kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, thậm chí có lúc, có nơi giữ vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các cửa khẩu biên giới Việt- Trung nằm ở khu vực có địa hình phức tạp, dốc, đồi núi cao lại xa các thành phố lớn, xa các trung tâm kinh tế của đất nước. Để đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển nhanh quan hệ kinh tế - thương mại qua các cửa khẩu biên giới Việt- Trung thì việc xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng khu vực cửa khẩu là vấn đề cấp thiết cần được khẩn trương thực hiện. Thực tế trong những năm qua, phía Trung Quốc đã chủ động chuẩn bị trước, họ đã xây dựng và phát triển cả giao thông vận tải, kho tàng, bến bãi, thông tin điện nướcđến các cửa khẩu biên giới, kể cả các ngành dịch vụ, du lịch, ngân hàng, tài chính, tín dụng. Về phía Việt Nam , trong thời gian qua chúng ta đã có sự đầu tư nhất định, nhưng kết cấu hạ tầng của ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu kinh tế – thương mại với Trung Quốc. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho quan hệ kinh tế – thương mại qua biên giới Việt – Trung còn hạn chế. Do đó, muốn đẩy mạnh quan hệ kinh tế- thương mại qua biên giới Việt – Trung thì chúng ta phải chủ động xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng theo hướng sau: - Việc xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới cần phải gắn với khuyến khích tập trung, thu hút và có chính sách ưu đãi thuận lợi cho cư dân làm ăn, sinh sống tại khu vực cửa khẩu và dọc trên các tuyến đường đi tới cửa khẩu, tạo môi trường sầm uất nhộn nhịp, phát triển giao lưu buôn bán. - Phải xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng một cách toàn diện cả về giao thông vận tải, kho tàng bến bãi; cả về đường bộ, đường sắt, đường hàng không; cả về điện nước cho các cửa khẩu hoặc thị xã, thị trấn gần cửa khẩu; cả về thông tin liên lạc, chợ, khách sạn khu vực biên giới... Việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải đồng bộ, phù hợp với điều kiện miền núi và mang tính hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước hiện tại và trong tương lai. - Kết cấu hạ tầng phải tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần tạo việc làm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm hàng hoá và tăng khả năng cạnh tranh trong quan hệ thương mại giữa hai nước, từ đó làm tăng thu nhập của người kinh doanh. Vì vậy, trong phát triển kinh tế- thương mại thì kết cấu hạ tầng là môi trường cứng, cần phải đi trước một bước. Chương trình phát triển kế cấu hạ tầng từ nay đến năm 2010 , cụ thể như sau: - Về giao thông vận tải: Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các tuyến quốc lộ hiện có, chú ý các đoạn đường hay sụt lở vào mùa mưa; củng cố hệ thống đường nối giữa các quốc lộ với các trung tâm huyện, xã, đặc biệt là ở vùng cao, các tuyến đường dọc biên giới, các tuyến đường đến cửa khẩu, bến cảng, sân bay... Gắn với việc phân bổ lại dân cư theo phương châm hình thành các cụm dân cư , thị tứ, thị trấn, khu kinh tế mới... Tiếp tục khôi phục và nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận Hà Nội- Lào cai- Côn Minh, Hà Nội - Đồng Đăng – Bằng Tường, Hà Nội - Thái Nguyên để đảm bảo vận chuyển hàng hoá, hành khách trong vùng và quá cảnh sang Trung Quốc và các nước khác. Tiếp tục nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc gia các quốc lộ chính từ Hà Nội đi các tỉnh vùng núi phía Bắc và giữa các tỉnh với nhau. Phát triển nâng cấp tiêu chuẩn quốc tế đường 1A; đường 18 từ Nội bài đi Bắc Ninh- Hạ Long và đoạn đường từ Hạ Long đi Móng Cái. - Phát triển thông tin, bưu chính -viễn thông: Cải tạo và nâng cấp và xây dựng mới các tổng đài và mạng lưới thông tin ở các đô thị, các khu công nghiệp và các điểm du lịch, bảo đảm nhu cầu thông tin liên lạc nội vùng, trong nước và quốc tế. Xây dựng các tổ chức hỗ trợ thương mại như: tư vấn thông tin thương mại, thị trường, pháp luật và kiến thức thương mại , dịch vụ... Phấn đấu đén năm 2010 xây dựng và phát triển hoàn chỉnh mạng lưới thông tin đến hầu hết các xã, thôn , bản... đặc biệt chú ý các xã vùng cao, biên giới, đáp ứng được nhu cầu thông tin nhanh chóng, kịp thời. - Phát triển mạng lưới điện, nước: Phấn đấu đến năm 2010, 100% số xã có điện. Ưu tiên đưa điện lưới quốc gia đến các đô thị, thị xã, các khu công nghiệp, khu kinh tế, ở các xã vùng cao, dân cư thưa, địa hình khó khăn hiểm trở, chủ yếu sử dụng thuỷ điện nhỏ để phục vụ cho từng thôn bản, phù hợp với việc quản lý. Nâng cao chất lượng cung cấp nước sạch và đảm bảo đủ nước cho khu vực cửa khẩu, các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Phấn đấu đến năm 2010, 100% các hộ ở các huyện vùng cao được sử dụng nước sạch. KẾT LUẬN Trong lịch sử quan hệ Việt - Trung, chưa bao giờ mối quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước phát triển mạnh mẽ như những năm qua. Các chỉ số về kim ngạch xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch và dịch vụ đều tăng trưởng ổn định qua các năm. Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm qua đã có sự đóng góp không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và mục tiêu tăng trưởng kinh tế khu vực các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc nói riêng. Có thể nói rằng, sau hơn 10 phát triển kinh tế - thương mại qua biên giới Việt - Trung đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế - xã hội các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc, đã từng bước đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, đời sống nhân dân được cải thiện và ngày càng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế làm nảy sinh tiêu cực, đặc biệt là tình trạng buôn lậu qua biên giới cần phải ngăn chặn và đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp tạo nên môi trường lành mạnh làm tiền đề vững chắc cho mục tiêu phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt – Trung Trong thời gian tới. Với ý chí kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam và Trung quốc đã lựa chọn, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cùng với những thành tích đã đạt được trong thời gian qua chúng ta tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khai thác lợi thế vốn có của mỗi nước để đẩy nhanh phát triển kinh tế, đồng thời có các biện pháp phối hợp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng phát sinh không thuận lợi từ mối quan hệ đó nhằm đưa quan hệ kinh tế- thương mại Việt Nam - Trung Quốc lên một tầm cao mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8396.doc
Tài liệu liên quan