Đề tài Tác động của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 4 LỜI NÓI ĐẦU 5 Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 6 I. Lý luận chung về đầu tư: 6 1. Các khái niệm: 6 1.1. Khái niệm đầu tư dưới 1 số góc độ khác nhau: 6 1.2. Khái niệm chung về đầu tư: 6 2. Phân loại đầu tư phát triển 7 2.1. Đầu tư gián tiếp 7 2.2. Đầu tư trực tiếp 7 II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8 1. Cơ cấu kinh tế: 8 1.1. Khái niệm 8 1.2 Phân loại cơ cấu kinh tế: 9 1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế: 9 1.2.2. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: 10 1.2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế: 11 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 12 2.1. Khái niệm: 12 2.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế 13 2.3. Các nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 13 2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế 14 2.4.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 14 2.4.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ 14 2.4.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế 15 III. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta: 15 1. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 15 1.1. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành: 16 1.2 Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: 17 1.3. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: 18 2.Vai trò đặc biệt của đầu tư trong điều kiện toàn cầu hoá: 18 CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2010 20 I – Thực trạng đầu tư phát triển tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010 20 II – Thực trạng đầu tư theo thành phần kinh tế 23 1. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế đã thay đổi đáng kể 23 2. Khu vực kinh tế nhà nước từng bước nâng cao hiệu quả. 28 3. Kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác ngày càng có sự đóng góp đáng kể vào GDP 29 4. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng 31 4.1 Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt. 31 4.2 Khả năng cạnh tranh thấp. 32 5. Khu vực kinh tế hợp tác chậm được củng cố và phát triển 33 III. Tác động của đầu tư phát triển tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 33 1. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 33 1.1. Đầu tư làm thay đổi cơ cấu GDP tính theo ngành: 33 1.1.1. Tác động của đầu tư đến thay đổi tỷ trọng trong GDP: 33 1.1.2. Tác động của đầu tư đến thay đổi tỷ trọng trong tăng trưởng GDP: 37 1.1.3: Đầu tư làm thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành: 38 1.1.3.1. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp: 38 1.1.3.2. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp: 40 1.1.3.3. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ: 42 1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 46 1.3. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 47 IV. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU VÙNG LÃNH THỔ 49 1.Xu hướng chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế hiện nay: 49 2.Tác động của đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế 49 2.1 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế nói chung 49 2.1.1 Đầu tư làm thay đổi cơ cấu GDP tính theo vùng lãnh thổ: 49 2.1.2. Đầu tư góp phần hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm 51 2.1.3. Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế một số vùng lãnh thổ: 52 2.1.3.1. Bước đầu phát huy lợi thế so sánh của từng vùng: 52 2.1.3.2 Thúc đẩy sự phát triển kinh tế các vùng, đặc biệt là vùng khó khăn: 54 2.2 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Hồng 54 2.3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (Đông Bắc và Tây Bắc) 56 2.4 Khu vực Duyên Hải Miền Trung: 57 2.5. Vùng Tây Nguyên: 59 2.6.Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long 59 3. Đánh giá 60 3.1. Kết quả 60 3.2. Hạn chế và nguyên nhân 61 3.2.1 Hạn chế 61 3.2.2. Nguyên nhân 62 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ GÓP PHẦN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG HỢP LÍ 63 1. Xây dựng được cơ cấu kinh tế hợp lý 64 2. Kết hợp tối ưu cơ cấu ngành với cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế 68 3. Cải thiện môi trường đầu tư. 69 4. Đầu tư thích đáng và có các chính sách ưu đãi đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn. 72 5. Đổi mới cơ cấu gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 73 6. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và dự báo 74 7. Kết hợp hài hòa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. 76 8. Đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, có mối liên kết giữa các vù ng. 78 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 LỜI NÓI ĐẦU Trải qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc. Kinh tế phát triển nhanh và Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn với thế giới. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đến nay nước ta đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới, được đánh giá cao về thành tích xoá đói giảm nghèo và phát triển con người, sắp bước sang ngưỡng của nước có thu nhập trung bình. Có được những thành tựu đó là do: Ngay từ những ngày đầu của công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế là con đường tất yếu để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ Đổi mới. Mặt khác, để chủ trương đúng đắn đó đi vào thực tiễn phải kể đến vai trò trực tiếp của đầu tư phát triển. Những tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam luôn được nhắc đến khi đánh giá các thành tựu của thời kỳ Đổi mới. Nhận thức được tính chất quan trọng của vấn đề, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tác động của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam” với mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, định tính cũng như định lượng về tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng, phát triển đất nước. Nhóm đã hết sức cố gắng nhưng vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp và kinh nghiệm cũng như kiến thức còn hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những sai sót, nhóm thực hiện mong nhận được góp ý của thầy cùng toàn thể các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.

doc82 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1775 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của Đầu tư đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Các đô thị hạt nhân của vùng này là TP Hà Nội, TP Hải Phòng và Hạ Long (Quảng Ninh) trong đó Hà Nội là thành phố trung tâm đầu não về chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Trên cơ sở đó sẽ phát triển các chuỗi đô thị theo các hành lang kinh tế tiến đến hình thành các dải siêu đô thị Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Hoà Lạc, Hải Phòng - Hạ Long. Cơ cấu kinh tế của vùng có sự dịch chuyển đáng kể. Năm 2007, khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 10,4%, công nghiệp và xây dựng chiếm 43,7%, dịch vụ chiếm 45,9% tổng GDP của vùng (năm 2005, các tỷ trọng tương ứng là 12,6%, 42,2%, 45,2%). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng đạt 26,2 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 8 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu 18,2 tỷ USD. Thu ngân sách của vùng tăng bình quân 19,2%, tăng nhanh hơn với mức bình quân của cả nước (18,3%), tổng thu ngân sách của vùng năm 2007 đạt 75.260 tỷ đồng, tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt 34,8%. Chi ngân sách hàng năm tăng bình quân 8%, chi ngân sách năm 2007 là 32.861 tỷ đồng. Hiện tại cùng như trong tương lai, Đồng bằng sông hồng là một trong những vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 2.3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (Đông Bắc và Tây Bắc) Tây Bắc là vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển nhất là phát triển về công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng, du lịch, dịch vụ... Tổng diện tích tự nhiên của vùng khoảng 109.245km2, chiếm 33% diện tích cả nước. Tính đến ngày 1/4/2009, dân số của vùng khoảng 11,496 triệu người, chiếm 13,5% dân số cả nước – là khu vực có mật độ dân số thuộc diện thấp nhất cả nước (khoảng 105 người/km2). Tăng trưởng GDP toàn vùng bình quân hàng năm giai đoạn 2005 - 2010 đạt từ 9 - 11%, riêng năm 2010 đạt trên 10%; thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 11 triệu đồng/năm. Giai đoạn 2001 – 2005 vồn đầu tư phát triển cho vùng là 7,1%, giai đoạn 2006 – 2010 là 7,5% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước. Cơ cấu kinh tế của vùng đã dịch chuyển theo hướng tích cực qua từng năm với tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân của vùng giảm và tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng. Năm 2010, nông lâm ngư nghiệp chiếm 34,09%, công nhiệp và xây dựng chiếm 28,64%, dịch vụ chiếm 36,98%. Trong 9 tháng đầu năm 2010, vùng Tây Bắc có hơn 2.100 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký trên 11.500 tỷ đồng. Vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp trong vùng đạt gần 5,4 tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Các doanh nghiệp trong vùng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực chính như khai thác mỏ, luyện kim, công nghiệp năng lượng, chế biến nông lâm thủy sản, trồng cao su… Tính đến hết tháng 10 năm 2010, Vùng có 253 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 1,53 tỷ USD, chiếm gần 0,8% tổng vốn FDI của cả nước. Vốn đầu tư bình quân một dự án 6 triệu USD, thấp hơn bình quân của cả nước (16 triệu USD/dự án). ). Hiện, Lào Cai, Phú Thọ, Lạng Sơn là những địa phương dẫn đầu về thu hút đầu tư nước ngoài của vùng Tây Bắc. Trong 10 tháng đầu năm 2010, Vùng đã thu hút được 10 dự án mới với tổng vốn đầu tư đăng ký là 38,4 triệu USD, 5 lượt dự án tăng vốn, tổng số vốn tăng thêm là 166,39 tiệu USD. Như vậy trong 10 tháng đầu năm 2010, luồng vốn FDI chảy vào Vùng (cả vốn cấp mới và tăng vốn) là 204,79 triệu USD. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 160 dự án, tổng vốn đăng ký 988,6 triệu USD, chiếm 63,2% về số dự án và 64,4% về vốn đăng ký; khai khoáng với 11 dự án, tổng vốn đăng ký 148,6 triệu USD, chiếm 4,3% về số dự án và 9,7% về vốn đăng ký. Lĩnh vực nông, lâm nghiệp thuỷ sản có 26 dự án, tổng vốn đăng ký là 109,5 triệu USD. Lĩnh vực dịch vụ có 17 dự án với tổng số vốn là 98,64 triệu USD. 2.4 Khu vực Duyên Hải Miền Trung: Theo số liệu năm 2009, Vùng KTTĐ miền Trung có diện tích tự nhiên là 27.976,7 km2, chiếm khoảng 8,4% diện tích tự nhiên của cả nước. Dân số trung bình năm 2009 là 6,1 triệu người bằng 7,1% dân số cả nước. Dân số đô thị chiếm 33,1% dân số của vùng (tỷ lệ này của cả nước là 29,6%). Bình quân các năm gần đây, đã đóng góp khoảng 36,2% GDP so với cả vùng duyên hải miền trung (tính từ Thanh Hóa đến Bình Thuận). Tốc độ tăng GDP giữa các tỉnh, thành phố trong VKTTÐMT không đều, nhưng dao động trung bình từ 10,6% đến 11,5%/năm. So cả nước, ước tính, tăng trưởng GDP bình quân của VKTTÐMT giai đoạn 2006 - 2010 tăng khoảng 1,2 lần; tỷ lệ đóng góp trong GDP khoảng 6%; giá trị xuất khẩu bình quân đầu người (tính đến đầu năm 2010) vào khoảng 374 USD; tốc độ đổi mới công nghệ bình quân đạt 20 - 22%/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo (đến cuối năm 2009) là 49%; tỷ lệ đô thị hóa giai đoạn này cũng khá cao, khoảng 42%; số lao động không có việc làm đã giảm xuống dưới 5%; số hộ nghèo (theo tiêu chí mới) còn khoảng 8,8%...   Các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) đều có những lợi thế, tiềm năng về hệ thống cảng biển nước sâu, sân bay và những di sản văn hoá thế giới nổi tiếng, những khu công nghiệp, khu kinh tế. Tính đến hết tháng 3/2010, toàn vùng KTTĐ miền Trung có 384 dự án vốn FDI đăng ký (kể cả cấp mới và tăng vốn) đạt gần 14,5 tỷ USD, chiếm 74,5% về số dự án và 61% về tổng vốn đăng kí của cả khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Chỉ tính riêng 3 năm gần đây (2007 – 2009), vốn FDI vào vùng đã đạt mức kỷ lục gần 11,3 tỷ USD, hơn gấp 4 lần của 19 năm trước đó cộng lại (giai đoạn 1988 – 2006 chỉ đạt 2,7 tỷ USD) đã chứng tỏ việc thu hút đầu tư vào miền Trung đã bắt đầu “sôi” lên. Song, ông Trịnh Minh Vân - Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Xúc tiến đầu tư miền Trung cho rằng, vì thiếu một chiến lược xúc tiến đầu tư dài hạn, có chiều sâu theo từng thời kỳ cho cả vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, lẫn tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư theo kiểu “mạnh ai nấy làm” trên mặt bằng cơ sở hạ tầng yếu… đã trở thành lực cản tăng tốc của miền Trung. . 2.5. Vùng Tây Nguyên: Với diện tích tự nhiên 5,4 triệu ha, trong đó có 1,36 triệu ha đất đỏ bazan (chiếm tới 66% diện tích đất bazan toàn quốc), vùng đất Tây Nguyên rất thuận lợi để phát triển cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung chuyên canh. Dân số toàn vùng khoảng 4,8 triệu người, trong đó khoảng 1,5 triệu người là đồng bào dân tộc thiểu số. Kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao và liên tục, mức tăng GDP bình quân năm giai đoạn 2001 - 2005 đạt 10,05%. Trong 8 năm (2001- 2008), tổng số vốn đầu tư phát triển vùng Tây Nguyên chỉ đạt 109.000 tỷ đồng, bằng 4% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước. Trong đó, vốn ODA đạt 929,11 triệu USD, FDI gần 1,2 tỷ USD đầu tư vào 128 dự án tại Tây Nguyên. Năm 2009, Tây Nguyên có 133 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với trên 726,7 triệu USD vốn đầu tư đăng ký, vốn điều lệ là trên 378,2 triệu USD; trong đó tỉnh Lâm Đồng chiếm tới 114 dự án và trên 542,4 triệu USD. 2.6.Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL bao gồm 4 tỉnh, thành phố là Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau có diện tích là 16618,4 km2 với dân số khoảng 6,2 triệu người, có mật độ dân số là 375 người/km2, tỷ lệ đô thị hóa là 33,6% (cả nước là 29,6%), ( số liệu năm 2009). Trong 5 năm 2001 – 2005, GDP tăng trưởng của vùng này đạt bình quân 10,96%/năm (trong khi cả nước 7,5%), từ năm 2006 - 2008 là 13,57%/năm. Năm 2009, theo số liệu báo cáo của các địa phương, vốn thực hiện của vùng ĐBSCL đạt hơn 2,7 tỉ USD, chiếm 35% tổng vốn đăng ký. Năm 2010, vùng ĐBSCL thu hút được 70 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 1,6 tỷ USD chiếm trên 12% tổng vốn đăng ký đầu tư của cả nước và đứng thứ 3/8 vùng chỉ sau vùng Đông Nam Bộ và vùng Đông Bắc. Ngay trong thời kỳ nước ta chưa phải là thành viên WTO, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã đi đầu trong cả nước về thu hút vốn đầu tư và phát triển thị trường xuất khẩu. Trong 5 năm (2001 - 2005), tỷ trọng vốn đầu tư của vùng này so với cả nước đã chiếm 31,4%. Nếu tính riêng nguồn vốn FDI, thì trong suốt thời kỳ 1988 - 2005, toàn Vùng đã thu hút 4.650 dự án đầu tư, với tổng vốn đăng ký gần 37 tỉ USD; chiếm 65% tổng số dự án và 56% tổng vốn đăng ký của cả nước; trong đó nổi bật là các địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng có kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người cao gấp 5,5 lần mức bình quân của cả nước (nếu không tính dầu khí thì cao gấp 3,8 lần) và đạt kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người là 1.633 USD/người (năm 2005).    Tính đến 12 tháng năm 2010, trên địa bàn vùng ĐBSCL có 8/18 ngành có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vốn FDI trên địa bàn Vùng ĐBSCL số dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 50 dự án, tổng vốn đăng ký là 327,6 triệu USD, chiếm 71,4% về số dự án và 20,2% về vốn đăng ký. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng đứng đầu về vốn đăng ký với 791,6 triệu USD. Tiếp đến là lĩnh vực vận tải kho bãi với 4 dự án đạt 451,4 triệu USD. 3. Đánh giá 3.1.Kết quả: Đầu tư đã có tác dụng trong việc giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn. Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Các vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư nên có thể phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó những vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển, làm bàn đạp thúc đẩy cho các vùng khác phát triển. Nguồn vốn đầu tư cũng thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giúp họ có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển, tạo đà cho nền kinh tế vùng, giảm bớt sự chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng của đô thị hoá. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của chính phủ sẽ chỉ là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hoá không thể gọi là thành công thậm chí còn cản trở sự phát triển nếu cơ sớ hạ tầng không đáp ứng được các nhu cầu của người dân. 3.2. Hạn chế và nguyên nhân: 3.2.1. Hạn chế: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu còn chậm và chất lượng chưa cao. Trong những năm qua cho thấy trong khuôn khổ sự tăng trưởng, phát triển kinh tế chung của cả đất nước là khá cao thì tốc độ giữa các địa phương (vùng, tỉnh) là khá chênh lệch. Tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt được ở những tỉnh, những vùng có các lợi thế và điều kiện phát triển sơ bộ (cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vốn, thị trường và tài nguyên thiên nhiên), phù hợp hơn với những đòi hỏi của cơ chế thị trường. Đó là các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh – là những địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt hơn, trình độ lao động và năng lực công nghiệp cao hơn, có lợi thế khả năng tạo vốn, về tiềm năng tự nhiên hơn xét trên quan điểm thị trường. Với những ưu thế thực tế có thể khai thác và sử dụng ngay và có hiệu quả hơn như vậy, dòng vốn đầu tư, cả trong nước lẫn ngoài nước cũng tập trung mạnh hơn vào những địa phương này. Trong khi đó, ở các địa phương – nông thôn hay địa phương – miền núi, ngoại trừ sự gia tăng nào đó ở nông thôn thì tốc độ tăng trưởng chung thấp xa hơn các đô thị đáng kể. Xét theo vùng lớn, có tình trạng là vùng nào không có những đầu tàu công nghiệp - đô thị thực sự mạnh hoặc tương đối thiếu hơn ccác điều kiện phát triển sơ bộ kể trên nói chung đạt một tốc độ phát triển chỉ bằng 1/2 đến 2/3 tốc độ của các vùng khác. Sự phát triển không cân xứng này làm gia tăng thêm khoảng cách giữa các vùng. Ở các địa phương, quy hoạch vùng kinh tế còn rập khuôn, mang nặng tính phong trào. Có thể lấy ví dụ về điều này qua việc xây dựng tràn lan nhà máy đường, nhà máy xi măng lò đứng, cảng biển, khu công nghiệp ở các tỉnh, dẫn đến hiệu quả đầu tư rất thấp. Nhiều vùng sản xuất hình thành một cách tự phát, hoặc quy hoạch phát triển thiếu khoa học, như phát triển tràn lan cây cà phê ở Tây Nguyên, xây dựng nhiều nhà máy đường ở các địa phương khác trong cả nước... 2.3.2. Nguyên nhân: Những hạn chế trên là do tác động của nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan: Nguyên nhân đầu tiên là mối liên hệ giữa các địa phương,vùng còn chưa cao, mỗi địa phương đều có chính sách riêng nhưng nhìn tổng thể thì lại mâu thuẫn,cạnh tranh nhau. Nguyên nhân thứ hai là do định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thiếu đồng bộ và hệ thống; một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển chưa sát với thực tế, chưa tính hết tiềm năng và lợi thế của từng vùng miền và địa phương. Cuối cùng là do hướng đầu tư còn dàn trải nên kém hiệu quả; cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, hệ thống giao thông xuống cấp nghiêm trọng do thiếu nguồn kinh phí cho việc duy tu, bảo dưỡng định kỳ; lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật cao còn thiếu... CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ GÓP PHẦN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG HỢP LÍ Qua những phân tích, đánh giá ở trên chúng ta nhận thấy rằng hoạt động đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ở Việt Nam đã và đang có những thành tựu đáng kể, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển và thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng đầu tư không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và nhiều bất cập, sự đầu tư dàn trải, manh mún, không đúng nơi, đúng chỗ sẽ kéo theo sự phát triển chậm chạp, dậm chân tại chỗ của các ngành, vùng, thành phần kinh tế hay thậm chí còn gây ra sự phản tác dụng. Điều này sẽ làm tổn hại đến nền kinh tế, gây thất thoát vốn đầu tư và làm giảm lòng tin của nhân dân vào các chính sách của Đảng. Từ thực trạng đó đòi hỏi phải có những bước đi mới, sáng tạo, nhằm tạo ra những bước đột phá để đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của quá trình hội nhập. Tìm giải pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước là vấn đề mà rất nhiều đề tài đã đưa ra. Bởi vậy trong phạm vi đề tài này chúng tôi sẽ chỉ đưa ra những giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhìn nhận theo giác độ của đầu tư. Nhìn chung, để chuyển dịch cơ cấu nhanh phải đầu tư hợp lý. Nhưng để đầu tư hợp lý trước hết phải xác định được sẽ đầu tư vào đâu. Đây lại là khâu yếu của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Bởi vậy những giải pháp mà đề tài đưa ra sẽ tập trung giải quyết vấn đề này. Trong đó, có thể có những vấn đề không hoàn toàn mới nhưng để tạo nên một bức tranh tổng thể những nhiệm vụ cần làm chúng vẫn được đưa vào. 1. Xây dựng được cơ cấu kinh tế hợp lý Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu có khả năng tạo ra sản xuất mở rộng đáp ứng các yêu cầu sau : - Phù hợp với các quy luật khách quan - Phản ánh khả năng khai thác và sử dụng nguồn lực trong nước hợp lý và đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực, nhằm tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững. - Phù hợp với xu thế kinh tế chính trị của khu vực và thế giới Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Chính sách chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta được xây dựng trên những căn cứ khoa học sau đây: Thứ nhất, căn cứ xu thế phát triển kinh tế quốc tế. Trong những năm tới, kinh tế quốc tế tiếp tục chuyển mạnh sang các ngành kinh tế tri thức, công nghệ cao. Xu hướng toàn cầu hoá phát triển nhanh chóng cả theo chiều rộng và chiều sâu, tạo cơ hội cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhận chuyển giao công nghệ, tiếp thu kỹ năng tổ chức sản xuất kinh doanh, kỹ năng quản lý tiên tiến, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, căn cứ thực trạng chuyển dịch CCKT nước ta. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao, kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (2001: 15,03 tỷ USD; 2002: 16,06 tỷ USD; 2003: 19,9 tỷ USD; năm 2004: 26,003 tỷ ; năm 2005: 32,447; năm 2006: 39,826; năm 2007: 48,561; năm 2008: 62,685 USD). Tăng trưởng kinh tế cùng với những thành công của chính sách dân số làm cho thu nhập bình quân đầu người tăng liên tục. Khả năng tích luỹ của dân cư tăng lên. Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế của nền kinh tế nước ta chưa đủ mạnh,. Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu là phát triển theo bề rộng, chậm chuyển biến về mặt chất lượng và phát triển theo chiều sâu. Tăng trưởng kinh tế hiện nay do yếu tố vốn đầu tư đóng góp chiếm 57,5%, do yếu tố lao động đóng góp chiếm 20%, do yếu tố năng suất và các nhân tố tổng hợp chiếm 22,5 %; hiệu quả đầu tư thấp so với những năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước (hệ số ICOR năm 1993 là 3,3; hiện nay xấp xỉ bằng 5); sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, xét trên cả 3 giác độ: tổng thể nền kinh tế, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của hàng hoá. Nước ta vẫn là nước nghèo. Thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD theo tỉ giá sức mua tương đương của Việt Nam năm 2003 theo số liệu của Ngân hàng thế giới là 2.490 USD/năm (bằng 10% của Singapore, 28% của Malaysia, 33% của Thái Lan, 54% của Philippines, 77% của Indonesia, 50% của Trung Quốc) Về cơ cấu ngành kinh tế: Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng của hàng xuất khẩu thô, chưa qua chế biến lớn, tỷ trọng hàng gia công cao, những ngành hàng có trình độ công nghệ cao, hàm lượng chất xám lớn chiếm tỷ trọng thấp. CCKT có những chuyển biến tích cực, đúng hướng nhưng chưa mạnh. Ngành Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giữ tỉ trọng lớn trong nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch đáng kể. Tuy nhiên, yếu tố hiện đại hoá chưa được quan tâm đúng mức. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Tỉ trọng ngành dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ như viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp xu hướng tích cực là tỉ trọng hàng hoá trong tổng sản phẩm tăng lên, cơ cấu sản xuất đã bước đầu hướng về xuất khẩu. Về cơ cấu thành phần kinh tế: Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần giải phóng sức sản xuất xã hội, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, bước đầu hình thành nên một nền kinh tế nhiều thành phần sôi động, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cơ cấu thành phần kinh tế còn bộc lộ những mặt hạn chế sau: - Tỉ trọng của thành phần kinh tế nhà nước còn cao, điều này là một nguyên nhân của tình trạng hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu của nền kinh tế. - Tỉ trọng của khu vực kinh tế cá thể cao phản ánh phương thức kinh doanh nhỏ lẻ, phân tán còn khá phổ biến trong nền kinh tế. - Khu vực kinh tế tư nhân còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, mặc dù đây là thành phần kinh tế hết sức quan trọng để thu hút các nguồn lực trong dân cư, để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giải quyết việc làm, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. - Tỉ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp và tăng không đáng kể trong những năm vừa qua, chứng tỏ sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của nước ta chưa được cải thiện tương xứng với mong muốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: Vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung, Vùng Tây Nguyên, Vùng Đông Nam Bộ và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm, là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước. Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch CCKT theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu. Tuy nhiên, ở các địa phương, quy hoạch vùng kinh tế còn rập khuôn, mang nặng tính phong trào. Có thể lấy ví dụ về điều này qua việc xây dựng tràn lan nhà máy đường, nhà máy xi măng lò đứng, cảng biển, khu công nghiệp ở các tỉnh, dẫn đến hiệu quả đầu tư rất thấp. Nhiều vùng sản xuất hình thành một cách tự phát, hoặc quy hoạch phát triển thiếu khoa học, như phát triển tràn lan cây cà phê ở Tây Nguyên, xây dựng nhiều nhà máy đường ở các địa phương khác trong cả nước... Trên cơ sở phân tích thực trạng chuyển dịch CCKT nước ta trong những năm vừa qua cùng xu thế phát triển tất yếu của kinh tế thế giới, hệ thống mục tiêu chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta có những nội dung cụ thể sau: - Tăng tỉ trọng của công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta trước hết chính là quá trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh tế đều phát triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP. - Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu của thị trường. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình chuyển biến căn bản về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương phải đặt mình trong một thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường quốc tế, trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát triển, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả. - Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch CCKT. - Giải quyết việc làm, giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phân công lao động xã hội, là quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để để giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Để đạt được hệ thống mục tiêu trên, phương thức tác động của các chính sách kinh tế cần phù hợp với các quy luật kinh tế thị trường, đảm bảo tính linh hoạt mềm dẻo. Cần kết hợp giữa phương thức tác động trực tiếp với phương thức tác động gián tiếp để tác động tới quá trình chuyển dịch CCKT, nhằm đạt được hiệu quả mong muốn. 2. Kết hợp tối ưu cơ cấu ngành với cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành, cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ cấu thành phần kinh tế. Xây dựng một cơ cấu tối ưu cần đáp ứng các yêu cầu sau: Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước. Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nươc, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “ cơ cấu mở ” 3. Cải thiện môi trường đầu tư. Đây là 1 điều kiện rất quan trọng nhằm thúc đẩy các cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đầu tư. Trong tình hình điều kiện ngân sách nhà nước eo hẹp, không thể đủ trang trải cho mọi lĩnh vực đầu tư thì nguồn vốn ngoài ngân sách đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Chính vì vậy việc làm thế nào để thu hút được nhiều vốn đầu tư không thể không cần đến sự hỗ trợ của nhà nước về các mặt sau: - Hoàn thiện môi trường pháp lý. + Cần nghiên cứu xây dựng văn bản pháp quy có tính pháp lý cao hơn các văn bản pháp lý hiện hành (luật hay pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài), đồng thời sớm sửa đổi các quy chế, quy định của chính phủ liên quan đến việc thực hiện các chương trình, dự án đầu tư ( các nghị định về quản lý đầu tư và xây dựng quy chế đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng …) để làm giảm bớt bất cập nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện và hiệu quả sử dụng vốn của các chương trình, các dự án đầu tư. Bên cạnh đó các cơ quan thực thi pháp luật cần phải thực thi một cách nghiêm chỉnh các luật lệ về doanh nghiệp đàu tư theo đúng nghị định, thông tư, hướng dẫn để tránh tình trạng luật lệ bị bóp méo không thể hiện được đúng mục tiêu đề ra ban đầu của Nhà nước + Xây dựng cơ chế tạo nguồn vốn dự phòng cho ngân sách nhà nước dành riêng cho dự án đầu tư nhằm đáp ứng kịp thời nguồn vốn cho chuẩn bị dự án, giảm bớt tính bị động trong điều hành vốn. + Ban hành bổ sung một số văn bản quản lý về cơ chế thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn đối với cơ quan tư vấn trong và ngoài nước, quy chế kiểm tra, kiểm toán đối với các dự án đầu tư. + Có cơ chế thực thi để tăng cường quản lý các công trình, dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, quy định bắt buộc việc đánh giá công trình dự án đầu tư hiệu quả mang lại sau khi đã hoàn thành. - Nâng cao chất lượng quy hoạch và sử dụng đồng vốn để tạo môi trường ổn định cho đầu tư. + Quy hoạch cần hướng việc huy động vốn theo từng nhà tài trợ trên cơ sở dự báo hạn mức, cơ cấu, điều kiện của mỗi nhà tài trợ. Bên cạnh đó cũng phải cân đối với các nguồn lực khác và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. + Quy hoạch sử dụng đồng vốn theo định hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và đạt được các chỉ tiêu xã hội khác, việc xây dựng quy hoạch và sử dụng đồng vốn còn phải dựa trên cơ sở xác định phát triển ngành, vùng, lãnh thổ và thành phần kinh tế trong từng giai đoạn. Tổ chức thực hiện và theo dõi quy hoạch một cách có hiệu qủa, lựa chọn các chương trình, dự án đầu tư sử dụng đồng vốn không chỉ có hiệu quả về mặt tài chính, mà còn phải xét tới tác động đối với nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai và ngân sách, danh mục trả nợ của nhà nước. - Tăng cường hiệu lực trong tổ chức quản lý và điều hành. Tổ chức quản lý và điều hành trong đầu tư rất quan trọng, nếu để cho đầu tư ồ ạt mà không quản lý thì sẽ dẫn đến việc nợ trong nước và nước ngoài ngày càng cao và đầu tư không đúng hướng vào các lĩnh vực, ngành, thành phần kinh tế làm cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ chậm hoặc là có xu hướng giảm xuống. Vì vậy phải có các tổ chức quản lý và điều hành trong các dự án đầu tư. + Công tác quản lý nợ nước ngoài nói chung và quản lý dự án đầu tư nói riêng cần được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng chính phủ. Đồng thời cần thống nhất trong công tác quản lý tài chính, nguồn vốn của chính phủ vào một đầu mối nhằm theo dõi quản lý, tổng hợp tình hình và hiệu quả sử dụng đồng vốn theo đúng quy định của luật ngân sách nhà nước. Nhà nước có thể giám sát và quản lý trên phương diện vĩ mô các hoạt động của chủ đầu tư. + Nâng cao tính tự chủ và vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư. Chủ đầu tư có quyền quyết định lĩnh vực đầu tư phù hợp với quy hoạch phát triển của ngành hay của địa phương, đồng thời chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án. + Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư là căn cứ để đàm phán, ký kết hợp đồng dự án đầu tư. Do vậy chỉ ký kết hợp đồng dự án đầu tư sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi dự án được duyệt, vừa đảm bảo việc triển khai dự án. Tuân thủ quyết định đầu tư, vừa tránh được dự án phải trả phí cam kết khống. + Thành lập các công ty tư vấn cấp quốc gia về đánh giá các chương trình, dự án và mua sắm quốc tế nhằm tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước về đầu tư, tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính. Cần rà soát và loại bỏ các thủ tục rườm rà và tổn phí thời gian trong các khâu phê duyệt dự án ký kết hợp đồng theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ và cấp trung gian xử lý. Ban hành quy chế theo dõi, kiểm tra và đánh giá dự án ( trước, trong và sau khi kết thúc dự án đầu tư ). - Nâng cao nhận thức và mở rộng quan hệ đối tác tài trợ + Việt Nam cần khẳng định và thể hiện sự quan tâm đổi mới và cải cách để tranh thủ sự đồng tình của các tổ chức tài chính Quốc tế và Chính phủ bạn. Tăng cường các hình thức vận động tài trợ khác nhau như: Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị C.G), hội nghị tư vấn tài trợ ngành, hội nghị đối tác, uỷ ban liên chính phủ. + Cần tiếp tục phát triển quan hệ đối tác giữa các bên và nâng cao quan hệ này lên một bước phát triển mới cao hơn, trên cơ sở quan tâm và lợi ích chung của tất cả các bên tham gia với việc đề cao vai trò làm chủ của bên hưởng thụ. + Tăng cường trao đổi thông tin và đối thoại giữa các nhà tài trợ với cơ quan Việt Nam để cùng phân tích đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như trên một số lĩnh vực cụ thể. Đồng thời quan tâm đến công khai hoá và minh bạch chính sách, chế độ tiến tới hài hoà các thủ tục, giảm bớt các cản trở đối với các luồng vốn đầu tư nước ngoài. Tóm lại cần ra sức cải thiện môi trường đầu tư để thu hút thương giới cho nên việc đơn giản hoá đúng mức các thủ tục hành chính như việc thành lập doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận kinh doanh, đầu tư, các thủ tục quản lý đầu tư…là vô cùng cần thiết nhưng bên cạnh đó cũng phải đáp ứng được nhu cầu và tạo được môi trường đâu tư thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư . Những điều kiện quy định cần thiết trong lĩnh vực đầu tư, quyền lợi của nhà đầu tư khi tham gia dự án …cần được các cơ quan chức năng ( Bộ kế hoạch đầu tư , các sở kế hoạch ở các địa phương…)công bố đúng mức rõ ràng và minh bạch . Cần tận dụng và khai thác triệt để điều kiện tình hình an ninh và chính trị ổn định của Việt nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới như cải thiện các thủ tục hành chính, làm thế nào để nó thuận lợi, thông thóang và minh bạch nhất cho các nhà đầu tư… tạo thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . 4. Đầu tư thích đáng và có các chính sách ưu đãi đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn. Trong điều kiện hiện tại, khu vực các thành phố lớn vẫn là trung tâm phát triển công nghiệp. Vùng này dân số chỉ chiếm khoảng 14% nhưng đã thu hút hơn 70% vốn đầu tư tư nhân. Do vậy trong thời gian tới việc huy động vốn đầu tư cần thực hiện theo hướng mở rộng liên kết với các tỉnh lân cận, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm có khả năng phát triển và có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm đó cần phải chú trọng và đầu tư đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng nghèo khó có cơ hội phát triển Đối với những ngành, lĩnh vực có khó khăn, vùng sâu xa: Như vùng núi phía bắc, Tây nguyên, miền Trung địa phuơng và Nhà nước nên có chính sách ưu đãi hơn cởi mở hơn, hoạch định chính sách kinh tế phát triển cơ sở hạ tầng cẩn thận , nghiêm túc để thu hút đầu tư của tư nhân vào những vùng đó hiệu quả hơn… bù đắp sự thua thiệt khi cạnh tranh với các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế trọng điểm khác. Trong khu vực nông nghiệp, do đặc thù của ngành là có nhiều rủi ro vì phụ thuộc vào thời tiết thời gian thu hồi vốn lâu nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Do đó phải có chính sách ưu đãi, ưu tiên cho khu vực này như giảm thuế, hỗ trợ bằng chính sách hỗ trợ giá, tăng cường đầu tư các công nghệ kĩ thuật nông nghiệp tiên tiến trên thế giới bằng ngân sách Nhà nước Để thu hút đầu tư, các tỉnh cần tiếp tục ban hành các chính sách về ưu đãi đầu tư áp dụng riêng cho địa phương mình, ngoài những ưu đãi chung của Nhà nước. Các ưu đãi thường liên quan đến cơ chế hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp như hỗ trợ tiền thuê đất, một phần tiền thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng, hỗ trợ đào tạo nhân lực, chi phí quảng cáo tiếp thị, vận động đầu tư, cải cách thủ tục hành chính…Ngoài ra, phát triển hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào các khu công nghiệp cũng được nhiều địa phương áp dụng, góp phần thúc đẩy thành công của các khu công nghiệp được thành lập. Nhà nước không cấm việc ban hành riêng các những ưu đãi này, tuy nhiên, chuẩn mực xem xét tính hợp pháp của các ưu đãi này là các quy định của Luật đầu tư, Luật ngân sách, Luật đất đai, các Luật thuế và các quy định pháp luật khác. 5. Đổi mới cơ cấu gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách để huy động tối đa mọi nguồn lực: Cần tạo niềm tin cho người dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tư sản xuất kinh doanh bằng cách nhà nước tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hỗ trợ thuế và lãi suất tín dụng cho đầu tư phát triển, đơn giản hóa các thủ tục. Hiện nay việc huy động vốn của nước ta rất phức tạp không tạo sự yên tâm cho các cá nhân, tổ chức. Chính điều đó đã làm cho việc thiếu vốn trầm trọng của các doanh nghiệp trong nước, có đến 50% doanh nghiệp là thiếu vốn. - Đổi mới và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Cần có các chính sách sử dụng vốn của toàn xã hội có hiệu quả, nâng cao cơ sở vật chất và trình độ công nghệ nhằm thực hiện có kết quả các mục tiêu kinh tế - xã hội, coi trọng việc huy động mọi khả năng, nguồn vốn để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời đẩy nhanh việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong và ngoài nước vào các ngành mũi nhọn và các khu vực trọng điểm, tạo sức bật nhanh cho toàn bộ nền kinh tế. Dành đầu tư thích đáng cho xây dựng kết cấu hạ tầng để khôi phục tình trạng thiếu thốn và lạc hậu về cơ sở hạ tầng. Tăng nhanh vốn đầu tư cho đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, mở rộng đầu tư đổi mới công nghệ để thu hẹp dần sự chênh lệch so với trung tâm kinh tế lớn và giữa các tỉnh. so với trung tâm kinh tế lớn và giữa các tỉnh. 6. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và dự báo: Các cơ quan quản lý phải làm tốt chức năng quản lý của mình. Biết dự báo các khả năng có thể xảy ra trong tương lai, các thông tin phải luôn được cập nhật để có thể ngăn ngừa hoặc giảm thiểu những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Dự báo để nhằm giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế vi mô. Để thực hiện tốt công tác quy hoạch cần: - .Nâng cao chất lượng của các đơn vị tham mưu làm công tác quy hoạch dự báo: Chất lượng của công tác quy hoạch phụ thuộc nhiều vào phẩm chất, năng lực, động cơ và mục đích của những người làm công tác quy hoạch. Trong quá trình này, vai trò của cơ quan tham mưu, giúp việc cho cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, quyết định quy hoạch là hết sức quan trọng. Cơ quan tham mưu phải có đủ năng lực và điều kiện cần thiết để theo dõi quá trình công tác của đối tượng dự nguồn, tổng hợp kết quả, nhận xét, đánh giá về mỗi nhân sự để cung cấp đầy đủ cho chủ thể có thẩm quyền quyết định quy hoạch. - Mở rộng đối tượng tham dự quy hoạch dự báo và phát hiện nguồn từ xa Công tác quy hoạch cần dự báo, dự trù xây dựng đội ngũ cán bộ liên tục theo nhiều lớp kế tiếp nhau, từ xa đến gần, bao gồm nguồn đương nhiệm, nguồn kế cận và nguồn dự bị. Chúng ta cần mạnh dạn phát huy phương châm “động” và “mở” trong quy hoạch, chống cách làm khép kín, cục bộ trong mỗi đơn vị, tăng cường giới thiệu, tiến cử những cán bộ ngoài tổ chức, đơn vị. Đồng thời, cần chống thái độ ban ơn, bè cánh trong quá trình giới thiệu và quyết định quy hoạch. - Tăng cường tính công khai, minh bạch của công tác quy hoạch dự báo, đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh công bằng trong thực hiện qui trình quy hoạch-bổ nhiệm: Hiện nay, chúng ta cần khắc phục một quan điểm khá phổ biến là coi công tác cán bộ là “công tác bí mật”, chỉ được bàn và quyết định trong phạm vi hẹp. Sự thiếu dân chủ trong công tác cán bộ có thể ẩn chứa những nguy cơ tiêu cực trong công tác xây dựng quy hoạch. Ngoài ra, nếu coi quy hoạch là một phương thức cạnh tranh, là một ‘sân chơi” thu hút, khuyến khích người có tài, có tâm thì cần phải xây dựng một luật chơi thực sự công bằng, có văn hoá và cần phải có những vị trọng tài công tâm, không thiên vị tham gia tổ chức, đánh giá, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh,  khuyến khích cho “sân chơi” này. Nắm vững đặc điểm của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để quy hoach cho hợp lý thể hiện ở: - Chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường - Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, mục tiêu năm 2020 cơ bản trở thành một nước có nền công nghiệp tiên tiến. - Chuyển từ nền kinh tế ở mức độ thấp, lạc hậu, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện của chúng ta hiện nay phải thực hiện đồng thời cả ba quá trình này. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý trước hết phải xây dựng trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước, của địa phương và phải gắn với quy hoạch vùng, lãnh thổ, các thành phần kinh tế đặc biệt là quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thống nhất giữa các khu vực và các ngành trên địa bàn, phải tính đến yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong dài hạn nên xây dựng những công trình quy hoạch, đầu tư có quy mô lớn, tập trung vào những ngành, những vùng, những khu vực có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện đại hóa sản xuất và tạo công ăn việc làm. 7. Kết hợp hài hòa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài: Phân loại đầu tư theo nguồn vốn theo phạm vi quốc gia, hoạt động đầu tư được chia thành: đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài. Cách phân loại này có tác dụng chỉ ra vai trò từng nguồn vốn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước, trong đó vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Kết hợp hợp lý hai nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng tới sự phát triển của đất nước. Tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 95 lên 85% năm 2000. Vốn đầu tư từ bên ngoài có vị trí rất quan trọng nhất là khi nguồn tích luỹ trong nước còn thấp. Thu hút đầu tư từ bên ngoài không chỉ để tạo vốn mà còn là cơ hội để đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, lao động, quản lý hiện đại và mở rộng thị trường. Vì vậy cần phải có các chính sách ưu đãi để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Một số giải pháp nhằm tăng cường vốn đầu tư nước ngoài là: Thứ nhất, nhất quán quan điểm phát triển dựa cả nguồn lực bên trong và bên ngoài: Kiên định duy trì theo đuổi cải cách mở cửa, giữ vững nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư một cách chủ động, hợp lý và hiệu quả. Cam kết chính trị gần như đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và khu vực đầu tư nước ngoài nói riêng. Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài và các lĩnh vực khác, là chúng ta cần thống nhất nhận thức khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn lực kinh tế quan trọng, là khu vực năng động và đi đầu về kỹ thuật, công nghệ, kỹ thuật quản lý. Mọi hoạt động kinh tế dù do các nguồn lực bên trong (từ Nhà nước và nhân dân) hay bên ngoài (từ đầu tư nước ngoài) hoạt động theo đúng pháp luật đều được coi là những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả các thành phần đều phải được coi trọng, đối xử như nhau. Và để thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế năng động này, chúng ta cần những chính sách nhất quán và bình đẳng trong đối xử với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Từng bước xoá một số ưu đãi không cần thiết dành cho nhà đầu tư trong nước so với nhà đầu tư nước ngoài để hướng đến sự bình đẳng trong môi trường đầu tư giữa các nhà đầu tư. Thứ hai, xoá bỏ dần những hạn chế thị về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Tiến tới xây dựng quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài theo hướng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài vào tất cả các lĩnh vực mà pháp luật khụng cấm. Thứ ba, thực hiện các chính sách và biện pháp hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài. Kết hợp chính sách ưu đãi về thuế và cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư nước ngoài. Tiến tới thu hút nguồn đầu tư nước ngoài qua lợi thế về nhân lực, hạ tầng, công nghệ, chi phí giao dịch. Thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài ở các vùng có điều kiện khó khăn. Mục tiêu phát triển giai đoạn tới Việt Nam phải sẵn sàng bước vào nền kinh tế toàn cầu với tư thế chủ động, giữ vững ổn định và bảo vệ chủ quyền độc lập. Vì vậy, ngoài chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài thoả đáng thì cần tập trung vào khai thác nguồn nội lực. Dự kiến trong 5 năm từ 2001 – 2005, nguồn vốn trong nước sẽ chiếm khoảng từ 60 – 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vồn đầu tư nước ngoài sẽ chỉ chiếm từ 30 – 40%. Với quan điểm như vậy, đầu tư trong giai đoạn tới sẽ có điểm tựa vững vàng để khai thác tối đa mọi nguồn lực, hấp thụ có hiệu quả nguồn ngoại lực và tạo sự kết dính giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. 8. Đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, có mối liên kết giữa các vùng. Giữa các vùng, khi xây dựng, chuyển dịch kinh tế phải đảm bảo sự chuyển dịch giữa chúng có sự đồng bộ, cân đối và phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, tạo điều kiện cho các vùng nghèo khó có cơ hội phát triển. Giữa các vùng vừa liên kết, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển. Thực hiện tốt chính sách dân số phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động là biện pháp quan trọng để nâng khả năng tích luỹ nhằm phát triển kinh tế. Trước hết, cần có một cơ chế quản lý chung cho các địa phương trong vùng. Giữa các tỉnh, thành phố phải có sự trao đổi nhằm giải quyết vấn đề này. Đặc biệt, về vấn đề thu hút đầu tư và cơ cấu kinh tế, phải có một mối liên kết tạo ra những chính sách chung. Như thế mới có sự phối hợp nhịp nhàng và nhà đầu tư đầu tư mới nhìn thấy ở đó cơ hội đầu tư công khai, bình đẳng. Trong sự liên kết đó các địa phương vẫn hoàn toàn phát huy lợi thế riêng của mình mà không hạn chế sự phát triển của địa phương khác. Muốn vậy, cần quan niệm chính xác vấn đề cạnh tranh thu hút đầu tư. Cạnh tranh là nhằm tăng khả năng thu hút đầu tư của mỗi tỉnh nhưng cạnh tranh phải dựa trên định hướng phát triển của cả vùng. Bởi vậy, xây dựng chủ trương về thu hút đầu tư, các tỉnh không nên chỉ dựa vào điều kiện của địa phương mình mà còn phải xem xét mối tương quan với các tỉnh khác. Về phía nhà nước, mỗi bộ nên cử một chuyên viên lập thành từng nhóm kết hợp với các địa phương với nhiệm vụ cụ thể nghiên cứu phát triển vùng. Từ đó, đưa ra những tư vấn cho việc quy hoạch phát triển cho từng tỉnh. Các tỉnh có thể dựa vào đó để xác định các ngành chính cũng như mũi nhọn thu hút đầu tư. Ngoài ra, trên phạm vi cả nước cũng cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các vùng trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam có điều kiện phát triển hơn cần giúp đỡ vùng trọng điểm miền Trung. Vùng trọng điểm miền Trung, do đặc điểm về vị trí địa lý, cần đảm nhiệm tốt vai trò đầu mối giao thương giữa hai vùng còn lại và dựa vào đó để phát triển. Giữa các vùng, khi xây dựng, chuyển dịch kinh tế phải đảm bảo sự chuyển dịch giữa chúng có sự đồng bộ, cân đối và phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, tạo điều kiện cho các vùng nghèo khó có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, để tạo thế và lực trong phát triển, cần xây dựng một số vùng kinh tế trọng điểm (không nên dàn trải làm phân tán nguồn lực). Giữa các vùng vừa liên kết, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển. Thực hiện tốt chính sách dân số phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động là biện pháp quan trọng để nâng khả năng tích luỹ nhằm phát triển kinh tế. Nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng lãnh thổ khác nhau của nước ta, các vùng KTTĐ đó sẽ tác động hỗ trợ đến sự phát triển của các vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển. Nằm trong định hướng quy hoạch chung về sự phát triển các vùng KTTĐ đó, các tiểu vùng lãnh thổ thuộc mọi địa bàn khác nhau của 3 miền Bắc, Trung, và Nam Bộ từ miền núi phía bắc, đồng bằng Sông Hồng đến duyên hải miền Trung, trung du và miền núi Tây Nguyên, cho đến vùng ĐBSCL những năm qua đều đã xây dựng và đang tích cực triển khai chiến lược và kế hoạch riêng về phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn. Trong đó, nổi bật lên thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh trong tương lai đến năm 2010 sẽ là những đầu tàu, trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, ngân hàng, công nghiệp công nghệ cao, thương mại, du lịch, hợp tác quốc tế… Trong quá trình hình thành và phát triển, tuy còn không ít vấn đề khó khăn, bất cập cần bàn tiếp, song rõ ràng là các vùng KTTĐ đang từng bước khẳng định được sự phát huy lợi thế, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, và không chỉ tạo ra động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nhanh cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo chiều hướng tích cực mà còn góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh lân cận trong vùng. Chính phủ đang tiếp tục định hướng, tạo ra nhiều cơ chế, chính sách phù hợp, khuyến khích các ngành, các cấp, các cơ quan chức năng liên quan đề ra và thực thi nhiều giải pháp thúc đẩy các vùng KTTĐ phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn. Trong đó, định hướng đã thành nguyên tắc chỉ đạo chung của Chính phủ là thống nhất quy hoạch phát triển bền vững trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước, gắn chặt phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh trong tiến trình hội nhập, phát triển ngày càng sâu, rộng hơn vào kinh tế khu vực và toàn cầu như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra. KẾT LUẬN Qua phân tích ở trên chúng ta đã thấy được phần nào những tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên tình trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và nhiều bất cập đã kéo dài nhiều năm. Khi chúng ta phân tích, rà soát lại những nguyên nhân làm kìm hãm tốc độ của sự tác động của đầu tư tới chuyển dịch thì một trong những nguyên nhân quan trọng đó là tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, không đúng nơi, đúng chỗ. Khi gia nhập WTO, chúng ta - một nước nhỏ bé - đã thực sự bước vào sân chơi toàn cầu, không riêng gì ngành nào, vùng nào, thành phần kinh tế nào, mà toàn nền kinh tế nói chung đang đứng trước những thời cơ mới rất quan trọng, đất nước có thêm nhiều cơ hội tiếp cận một cách bình đẳng vốn đầu tư từ bên ngoài. Điều đó rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế nước nhà trong việc nâng cao sức cạnh tranh, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta còn bộc lộ nhiều yếu kém nên sẽ rất khó khăn để vươn ra thị trường thế giới. Gia nhập WTO, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới để cùng hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trên một thị trường lớn toàn cầu, chúng ta cần phải nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, chủ động hơn trong mọi hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh nhưng vẫn cần đảm bảo mối liên kết giữa các vùng miền, thành phần kinh tế. Ngay từ lúc này, các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý Nhà nước nên quan tâm nhiều hơn đến việc tìm ra và thực hiện các biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả của đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có như thế, nền kinh tế mới có thể phát triển nhanh, hiệu quả hơn và bền vững hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS.Nguyễn Bạch Nguyệt, Giáo trình Kinh tế Đầu tư, Đại học Kinh tế quốc dân. 2. PGS.TS Trần Bình Trọng, Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. 3. TS. Phạm Ngọc Linh và TS. Nguyễn Thị Kim Dung, Giáo trình Kinh tế Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân. 4. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân. 5. Các Website: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bộ tài chính http:// www.mof.gov.vn Tông cục Thống kê Báo Đầu tư Thời báo Kinh tế Bách khoa toàn thư mở Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Mạng Thông tin Việt Nam ra thế giới

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctac_dong_cua_dau_tu_den_chuyen_dich_co_cau_kinh_te_sua_0706.doc
Tài liệu liên quan