Đề tài Thực hiện chương trình (hành trình hàng ngày; miêu tả một số điểm đến; những thông tin về các cơ quan quản lý, kinh doanh Du lịch tại các địa phương)

Đã từ lâu, Thừa Thiên Huế đã nổi tiếng không chỉ là một trung tâm du lịch của miền Trung mà còn là một trung tâm du lịch của cả nước. Thiên nhiên cộng với yếu tố nhân tạo cho Húê một nét đẹp hài hoà, phản ánh đầy đủ những thắng cảnh của một nước Việt Nam thu nhỏ. Con sông Hương hiền hoà chảy giữa lòng thành phố tạo cho Huế nét thơ mộng không nơi nào có được. Du khách đi thăm Hoàng Thành, thăm chùa Thiên Mụ, thăm lăng Minh Mạng hay tới chợ Đông Ba Bạn đều bắt gặp hình ảnh dòng sông Hương Giang. Và không biết bao nhiêu nhà hàng khách sạn, cửa hàng đều mang tên Hương Giang và ta hiểu vì sao Sông Hương, Núi Ngự trở thành biểu tượng niềm tự hào của miền đất Cố Đô. Cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta dường như gắn liền với xe máy, ô tô. Nhưng đến với Huế ta thấy một loại phương tiện vận chuyển đặc trưng của miền sông nước đó là thuyền, xuồng. Bạn có thể ngồi thuyền xuôi dòng Hương Giang đến các địa danh du lịch Cầu Tràng Tiền- Sông Hương vừa đi vừa ngắm cảnh vật thơ mộng ở đôi bờ.

doc63 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực hiện chương trình (hành trình hàng ngày; miêu tả một số điểm đến; những thông tin về các cơ quan quản lý, kinh doanh Du lịch tại các địa phương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiên trong lịch sử, một vị nguyên thủ Quốc gia đến thăm nước bạn mà ra tận chiến trường để động viên tinh thần chiến đấu của các chiến sỹ Việt Nam. Địa đạo vĩnh mốc Rời Thành Cổ, chúng ta đến thăm địa đạo Vĩnh Mốc - một công trình độc đáo, điển hình cho các công trình địa đạo ở Quảng Trị được hình thành từ những năm 65 - 66 trong những năm tháng chiến tranh ác liệt chống đế quốc Mỹ. Địa đảo Vĩnh Mốc Với hàng ngàn mét đường hầm và các tiểu đạo xuyên lòng đất (nay chỉ còn 1701m) cùng hàng ngàn mét giao thông chiến đấu, địa đạo Vĩnh Mốc là một hệ thống liên hoàn được kết nối với nhau bằng 13 cửa ra vào (7 cửa thông ra biển và 6 cửa thông lên đồi) cấu trúc địa đạo chia thành 3 tầng, cao 1,6m - 1,8m, rộng từ 1,2 - 1,5m. Peter - một du khách người Mỹ sau khi thăm địa đạo đã phải thốt lên: "Địa đạo Vĩnh Mốc một thực thể không thể tin được". Có tận mắt chứng kiến ta mới thấy hết cái phi thường của người dân Vĩnh Linh. Phải có lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quật cường để chiến thắng kẻ thù thì người dân nơi đây mới có thể kiến tạo được cả một làng quê thu nhỏ trong lòng đất. Địa đạo không chỉ là nơi phòng tránh bom đạn cho nhân dân mà còn là nơi đóng trụ sở của chính quyền, kho hậu cần cất giữ lương thực viện trợ cho tiền tuyến lớn miền Nam. Địa đạo còn có cả một hội trường lớn, với sức chứa 50- 80 người. Tại nơi đây đã diễn ra tất cả những hoạt động như: hội họp, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ, có trạm phẫu thuật, có nhà hộ sinh (17 cháu bé đã ra đời tại đây)... Tuy sống trong điều kiện vô cùng gian khó nhưng người dân Quảng Trị vẫn sống hiên ngang và kiên cường đấu tranh chống lại quân thù. nghĩa trang liệt sĩ trường sơn và đường 9 nam lào Nếu đến địa đạo Vĩnh Mốc, bạn sẽ hiểu được cuộc sống của con người trong thời chiến tranh loạn lạc thì đến với Nghĩa trang đường 9 bạn sẽ hiểu được những đau thương mất mát mà người dân quê tôi phải gánh chịu. Cái giá của độc lập tự do sao mà đắt quá vậy. Chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng nhưng di chứng của nó vẫn còn nguyên đó. Nghĩa trang Đường 9 Trong một địa bàn nhỏ như tỉnh Quảng Trị nhưng có tới 2 nghĩa trang lớn nhất cả nước đó là nghĩa trang Trường Sơn và nghĩa trang Đường 9. Nghĩa trang Đường 9 là nơi an nghỉ của hơn 9.500 liệt sỹ, trong số đó có rất nhiều liệt sỹ vô danh. Nghĩa Trang Trường Sơn thuộc xã Vĩnh Trường - Giơ Linh, toạ lạc trên một ngọn đồi giữa 8 ngọn đồi khác, bao quanh như một bông hoa 8 cánh. Với tổng diện tích khu nghĩa trang là 106 ha, trong đó diện tích chính đặt 10327 ngôi mộ liệt sỹ và 46 ha chia làm 5 khu: Khu trung tâm có tượng đài chính và bốn khu đặt mộ liệt sỹ theo địa chỉ từng tỉnh. Giữa khu 4 và 5 có quần thể tượng đài biểu trưng cho tinh thần chiến đấu anh dũng của đoàn 559 và tinh thần đoàn kết Việt - Lào. Nghĩa trang Trường Sơn là nơi quy tụ các liệt sỹ của 61 tỉnh thành trong cả nước với 68 ngôi mộ vô danh. Đứng ở nơi này giữa nghi ngút khói hương, đọc những tấm bia trên mộ trí của các anh ta thấy mình vô cùng nhỏ bé so với các anh. Những chiến sỹ đã hy sinh nghĩa trang trường sơn về sự nghiệp độc lập và thống nhất của nước nhà. Các anh còn rất trẻ chỉ bằng độ tuổi của chúng ta bây giờ ấy vậy mà các anh đã làm được những điều thật phi thường. "Anh chẳng để lại gì trước lúc ra đi Một tấm hình hay một dòng địa chỉ Và tôi biết khi bất thần chúng đạn Anh đã ra đi với nụ cười thanh thản Bởi biết mình có mặt ở tương lai" Các anh sống giản dị và hy sinh thầm lặng. Họ đã ra đi vào độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời," Chiến tranh đã đốt cháy đời trai trẻ, các anh ngã xuống để quốc kỳ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tung bay trong gió. Không! Các anh không chết, các anh sẽ sống mãi trong các thế hệ người Việt Nam. tổ quốc đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Nhắc tới Quảng Trị ta không thể không nhắc tới dòng sông Bến Hải và cây cầu Hiền Lương lịch sử. cầu hiền lương Cầu Hiền Lương được người Pháp xây dựng vào năm 1950 cầu dài 178m bắc qua sông Bến Hải. Theo hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam sông Bến Hải và Vĩ Tuyến 17 được chọn là giới tuyến 17 được chọn là giới tuyến quân sự tạm thời và cầu Hiền Lương bắc qua sông cũng chia làm 2 nửa, sau 2 năm việc thống nhất Việt Nam sẽ được tiến hành bằng tổng tuyển cử trong cả nước. Nhưng gianh giới trên cầu Hiền Lương và sự chia cắt đôi bờ sông bến Hải đã kéo dài hơn 20 năm, cho đến đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, giới tuyến này mới được xoá bỏ chính thức. Cầu Hiền Lương Chia tay Quảng Trị, chia tay với mảnh đất đau thương nhất mà kiên cường bất khuất nhất, chúng ta đặt chân tới xứ Huế. di sản văn hóa huế Đã từ lâu, Thừa Thiên Huế đã nổi tiếng không chỉ là một trung tâm du lịch của miền Trung mà còn là một trung tâm du lịch của cả nước. Thiên nhiên cộng với yếu tố nhân tạo cho Húê một nét đẹp hài hoà, phản ánh đầy đủ những thắng cảnh của một nước Việt Nam thu nhỏ. Con sông Hương hiền hoà chảy giữa lòng thành phố tạo cho Huế nét thơ mộng không nơi nào có được. Du khách đi thăm Hoàng Thành, thăm chùa Thiên Mụ, thăm lăng Minh Mạng hay tới chợ Đông Ba Bạn đều bắt gặp hình ảnh dòng sông Hương Giang. Và không biết bao nhiêu nhà hàng khách sạn, cửa hàng đều mang tên Hương Giang và ta hiểu vì sao Sông Hương, núi ngự trở thành biểu tượng niềm tự hào của miền đất cố đô. Cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta dường như gắn liền với xe máy, ô tô. Nhưng đến với Huế ta thấy một loại phương tiện vận chuyển đặc trưng của miền sông nước đó là thuyền, xuồng. Bạn có thể ngồi thuyền xuôi dòng Hương Giang đến các địa danh du lịch Cầu Tràng Tiền- Sông Hương vừa đi vừa ngắm cảnh vật thơ mộng ở đôi bờ. Văn hoá Huế là sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá dân gian và văn hoá cung đình. Những điệu hò, điệu lý dân gian đã được cải biên thành ca, múa cung đình. Du khách đến Huế không ai có thể bỏ qua thú vui nghe hò Huế trên sông Hương. Nếu như Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh, ngày cũng như đêm lúc nào nhịp sống cũng náo nhiệt, sôi động, nhưng khi đến với Cố Đô Huế ta sẽ có những cảm nhận khác hẳn. Cuộc sống ở đây thanh bình hơn, yên ả hơn. Và trong một đêm trăng thanh gió mát, ngồi trên thuyền rồng lắng nghe hò Huế ta cảm nhận được hết "Nét dịu dàng pha lẫn nét trầm tư" của Huế. Nếu có ai hỏi giọng nói của vùng nào hay nhất? Có lẽ người ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là Huế. Giọng nói của người Huế mới nhẹ nhàng làm sao. Và vì thế khi họ ca lên càng làm say đắm lòng người. Sông Hương đẹp là thế! Vậy mà nó còn được điểm tô bằng những cây cầu rất đẹp như cầu Phúc Xuân, Bạch Hổ Đặc biệt là cầu Tràng Tiền. Nhịp cầu nối đôi bờ sông Hương càng tôn thêm vẻ đẹp quyến rũ, mềm mại của Thành phố Huế. cầu tràng tiền Chỉ cách Sông Hương 3 km về phía Nam, với chiều cao 105m, đó là dãy núi Ngự Bình. Dáng núi bằng phẳng uy nghi, cân đối như hình con chim Đại Bàng đang vỗ cánh lên gọi Ngự Bình (Bằng Sơn). Ngự Bình như bình phong che chở cho kinh thành Huế. Cùng với Sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thuỷ hữu tình của Huế vào những ngày đẹp trời, đứng trên đỉnh núi Ngự Bình có thể ngắm nhìn toàn cảnh thành phố. Thiên nhiên đã ưu ái dành cho Huế những tặng phẩm trác tuyệt, để trên các nền đó con người với khối óc và bàn tay tài hoa của mình tạo dựng nên những công trình độc đáo, có giá trị. Vào thế kỷ 13, sau đám cưới lịch sử của Huyền Trân công chúa, vùng đất thơ mộng này chính là quà tặng của Vua Chiêm dành cho Đại Việt. Với phong cách tươi đẹp và vị trí hiểm trở, nơi đây đã được các triều đại nhà Nguyễn chọn làm kinh đô. Trong hơn 400 năm (từ 1558 - 1945) thừa thiên Huế đã là trung tâm văn hoá chính trị của Nhà nước phong kiến. Chính vì vậy nơi đây còn lưu giữ hàng trăm di tích lịch sử văn hoá mà nổi bật là hệ thống các cung điện, lăng tẩm của các vua chúa Nguyễn. Trước tiên chúng ta đến thăm kinh thành Huế! Kinh thành được xây dựng từ 1805 và hoàn thành 1832 trên khoảng diện tích 5,2km2. Kinh thành được xây dựng theo kiến trúc phương Tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách phương Đông. Kinh thành gồm ba vòng thành: Phòng Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành. Mỗi du khách thập phương khi đến với Huế, đều thấy được sự tĩnh lặng đến mê hồn của sông Hương núi Ngự. Đến với những lăng tẩm của Triều Nguyễn mà chứa đựng không chỉ công lao, bàn tay của nghệ thuật, mà cùng với trí tuệ tài hoa và sự sáng tạo tới mức rất tinh tế của con người- nơi mảnh đất kinh đô này. Huế là trung tâm văn hoá của xứ đàng Trong, rồi trở thành kinh đô khi đất nước thống nhất. Những tinh hoa văn hoá từ những thế kỷ trước đó, đã hội tụ, phát triển và được lưu giữ cho đến ngày nay. Huế biết gạn đục khơi trong, biết giữ gìn bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nền văn hoá của nền văn hoá bốn phương Với phong cách riêng, tổng thể kiến trúc nhà Nguyễn được chia làm hai quần thể: thành quách và cung điện, sự kết hợp nhuần nhuyễn hài hoà giữa kỹ thuật- mỹ thuật Đông Phương- Tây Phương Đó là những thành tựu mới lạ, thể hiện được sự phát triển liên tục trong dòng mỹ cảm của dân tộc. Phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, địa lý và tâm lý tình cảm của con người xứ Huế. Hay nói như tổng giám đốc UNESCO, M'BOW: "Giữa lòng Huế, đô thị lịch sử ấy là một mẫu mực về cấu trúc cân đối, mà sự hài hoà tự nhiên đến nỗi người ta quên bàn tay con người đã tạo ra nó". Chính vì những giá trị lịch sử và nghệ thuật đó mà Cố Đô Huế được uỷ ban di sản Thế Giới (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa Thế Giới (ngày 11.2.1993). Đại Nội (Hoàng Thành và Tử Cấm Thành) Khu vực của Đại Nội ngày nay mà Du khách nhìn thấy là nơi mà chúa Nguyễn Phúc Thái(1687-1691) đã chọn xây dựng thủ phủ của xứ đàng Trong, vào năm 1687. Khi đó thủ phủ phú xuân được rời đi nơi khác Đến thời Vua Gia Long (1802-1819). Sau khi chọn Phú Xuân làm kinh đô cho cả nước thống nhất vào năm 1802, nhà vua lại dùng đúng vị trí để xây dựng tạm thời một số cung điện đơn giản giành cho Hoàng Gia ăn, ở và triều đình làm việc. Năm 1803 mặt bằng hệ thống kiến trúc được quy hoạch tổng thể và một năm sau đó 1804 thì đích thân vua Gia Long cho xây dựng. Đại Nội bao gồm Hoàng Thành và Cung Thành. Vào năm 1882 dưới triều đại vua Minh Mạng(1820-1840) Cung Thành được gọi là Tử Cấm Thành: Đến 1833 Vua Minh Mạng đã cho quy hoạch nâng cấp và hoàn chỉnh hầu hết các công trình kiến trúc tại đây: Mặt bằng Đại Nội được xây theo hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 600m, khoảng 37,5 ha. Tường thành xung quanh xây bằng gạch (cao 4m, dày1m) phần thành ở chính giữa dày 21m và 24 pháo đài, với hơn 100 công trình kiến trúc. Bên ngoài thành có hệ thống hào gọi là kim Thuỷ Hổ để bảo vệ thành. Mỗi mặt thành trổ 1 cửa để ra vào. Có 10 cầu đá bắc qua hào để thông thương trong - ngoài . Đại Nội Qua khu vực Hoàng thành du khách bắt gặp một vòng thành phía trong nữa gọi là Tử Cấm Thành. Nơi đó chỉ có vua, các cung tần mỹ nữ và các quan thái giám mới được ăn, ở, làm việc. Tử Cấm Thành có mặt bằng cũng gần vuông, mỗi cạnh trên dưới 300m. Vòng tường chung quanh cao 3,50m, ngăn cách nơi sinh hoạt của nhà vua và hoàng gia với bên ngoài. Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc các loại, bao gồm nhiều cung điện vàng son lộng lẫy. Bố cục mặt bằng của hệ thống kiến trúc rất chặt chẽ, đăng đối. Phần lớn các công trình kiến trúc đều đối xứng từng cặp qua đường trục chính và ở vào những vị trí tiền, hậu, tả, hữu, thượng, hạ nhất quán. Các con số 9 và số 5 trong kinh dịch đã được sử dụng nhiều trong kiến trúc vì nó ứng với mạng thiên tử. Nhìn chung, trải qua 13 đời vua từ Gia Long đến Bảo Đại (1802-1945) tất cả mọi công trình kiến trúc trong Đaị Nội đều đã thêm bớt, cải biến, thay đổi vị trí và tính chất nghệ thuật 1 phần nào đó trong từng đời vua. Nhưng cái cốt cách chính của nó vẫn là của thời Gia Long và Minh Mạng. Với vật chính là gỗ, trang trí nội thất rất phong phú về hình ảnh, mầu sắc rất thanh thoát. Chạm trổ tỉ mỉ rất công phu, tinh tế dưới bàn tay tài ba của người dân áo vải. Đã tạo cho cung điện có một "thức" kiến trúc độc đáo, một thần thái đặc biệt. Ngọ Môn Trên vòm cổng là lầu Ngũ Phụng lầu được dùng làm khán đài trong các buổi đại lễ. Đây là nơi cử hành lễ xướng danh các sỹ tử trúng trong các khoa thi hội, thi đình lầu tả Ngọ Môn được thay dưới thời Thành Thái. Toàn bộ số gạch này được đưa từ Pháp về năm 1990 và vẫn còn nguyên. Có thể nói Ngọ Môn là một trong những nơi trang trọng nhất. Nơi chứng kiến mọi thăng trầm của các vị vua triều Nguyễn. Lúc lên ngôi cũng như khi thoái vị, cũng tại Ngọ Môn khi cách mạng tháng 8- 1945 thành công Bảo Đại đã thoái vị chấm dứt 143 năm cai trị của nhà Nguyễn và cũng từ đấy lá cờ đỏ vàng ở tung bay ở Kỳ Đài. Đi qua cửa Ngọ Môn, Hồ Thái dịch, sau Đại Triều Nghi, chúng ta đến điện Thái Hoà, điện được xây dựng năm 1805 mặt bằng kiến trúc của điện khoảng 13.00 m 2 . Điện Thái Hoà Phía trước điện Thái Hoà có hàng chữ " Chính trực đại bình" trích trong kinh dịch của Khổng Tử và" Chính đại quang minh" được khắc ở trên cổng vào. Bộ cột trước điện được đúc bằng đồng đặc. Những dòng chữ trên nhắc nhở các vị vua phải làm những việc chính nghĩa. Đi qua cầu Trung Đạo bắc qua hồ Thái Dịch là trên sân đại Triều Nghi. Hai bên sân có hai con nghê bằng sắt. Như chúng ta đã biết Nghê là một con vật trung thành nên nó có tác dụng răn đe mọi người, nhắc nhở mọi người hãy trung thành với vua và sống hướng thiện hơn. Trong sân có hai hàng bia ghi rõ chức vụ của các vị quan. Điện Thái Hoà gồm 7 gian 2 trái, chính điện có 5 gian 2 trái, trần làm bằng gỗ, vách ngăn cũng bằng gỗ, các cột đều sơn son thiếp bàng. Mái điện được lợp bằng ngói Hoàng lưu ly màu vàng trên nóc mái có hình ảnh "Lưỡng long Chầu Bầu Thái Cực" thể hiện quan niệm vạn vật sinh sôi nảy nở. điện Thái Hoà chỉ làm việc vào ngày mùng 1 và ngày 15 âm lịch. Trong điện có chiếc ngai vàng mà 13 vị vua đời Nguyễn đã ngự ở đó. ở chính giữa điện có đôi rùa đội bạc biểu dương cuộc sống trường thọ và cốt c ách thanh cao của các vị vua. Đây là món quà mừng ngày sinh lần thứ 40 của Tự Đức do một viên quan ở Quảng Ngãi tặng. Điện Thái Hoà là trung tâm quan trọng nhất của kinh thành, nơi tổ chức các buổi lễ thiết triều. Vòng thành trong cùng là Tử Cấm Thành có chu vi 12.25m, tường cao 3m, dày 0,70m. Trong Tử Cấm Thành có khoảng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ là những cung điện huy hoàng tráng lệ nhất. Đây là nơi ở của Vua và gia đình xung quanh thành có 7 cửa ra vào. Đại Cung Môn ở cửa chính là mặt tiền dành cho vua đi. Bước qua đại cung Môn là vào ngay điện cần Tránh - nơi làm việc hàng ngày của Vua. Hai bên điện cần Tránh là điện Văn Minh, điện Võ Hiển, đông Các Sau đó là điện Càn thành nơi ở. Cách một cái sân, cũng trên trục chính là cung khôn Thái - nơi ở của Hoàng Hậu, Cung điện Thọ dành cho mẹ vua Đáng tiếc là khu vực quan trọng này đã bị phá huỷ gần hết. hiện chỉ còn lại cung Điện Thọ và Cung Trưởng Sinh là khá nguyên dạng và đang được trùng tu. Đến thăm kinh thành Huế, ta không thể không dừng chân ở thế Miếu - Hiển Lâm Các. Thế Miếu được xây dựng năm 1921 để thờ 10 vị vua Triều Nguyễn, Thế Miếu dài 55m, rộng 28m, mỗi gian trong nội thất bày mọt sập chân quỳ Sơn Son thiếp vàng, khán thờ, bài vị một số đồ tế khí quý giá. Tại đây vào ngày mất của các vị vua đời trước, triều đình tổ chức lễ tế rất to. Phía trước Thế Miếu là sân tế, ở sân tế này chia làm các sân bậc, 3 khu chính và 2 khu phụ. Trên các bậc tam cấp làm các con sư tử bằng đá, xung quanh trồng Tùng, Bách ở đây có bày 9 đỉnh đồng hay còn gọi là Cửu đỉnh: Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Trương đỉnh, An đỉnh, Nghi đỉnh, Dụ đỉnh, Huyền đỉnh, Cẩn đỉnh, Tuyên đỉnh. Trong đó lớn nhất là Cao đỉnh nặng 2755 kg, bé nhất là Huyền đỉnh nặng 1935kg , 9 đỉnh này được đúc trong 3 năm từ 1835 đến 1837 và phải sử dụng tới trên 20 tấn đồng thau. Đây chính là những thành tựu xuất sắc về kỹ thuật và nghệ thuật đúc đồng Việt Nam thế kỷ 19. Cửu đỉnh tượng trưng cho sự bền vững của triều đại. Tiền thân mọi đỉnh có 18 hoạ tiết và các đúc tiết nổi theo các chủ đề phong cảnh, chim muông, hoa lá tổng cộng là 162 hình. Cửu Đỉnh - Hiển Lâm Các Hiển Lâm Các, Tả Từ Tự, Hữu Tùng Tự là nơi thờ các Công thần thuộc thế miếu. Hiển Lâm Các cao 15m tầng dưới gần 3 gian 2 chái, tầng trên là một gian lầu, tầng giữ 3 gian tạo thành một hình thang. Đây là công trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Trong một lần tới thăm Huế, Nguyễn Khoa Điềm đã nói: "Thời gian đã chứng minh tầm vóc một di sản văn hoá, thời gian cũng chứng minh khả năng giữ gìn của con người". Tới thăm kinh thành Huế, ta thật cảm thụ bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của con người. Thật khó có thể tưởng tượng như vậy mà con người có thể xây dựng được một kinh thành nguy nga, tráng lệ đến vậy. Chùa Thiên Mụ Nói đến Huế, ngoài những đền đài, cung điện, lăng tẩm của các ông vua nhà Nguyễn thì chùa Thiên Mụ nằm bên bờ sông Hương là một ngôi chùa tiêu biểu cho hệ thống kiến trúc chùa chiền của mảnh đất cố đô. Khi đến Huế, du khách được tận mắt chứng kiến, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa Thiên Mụ - tháp Phước Duyên. Kiến trúc ngôi chùa được lồng vào trong một ngoại cảnh thiên nhiên nên thơ, tĩnh mịch. Sự kết hợp hài hoà giữa ngọn tháp Phước Duyên uy nghi với dòng sông Hương thanh khiết uốn khúc, ôm ấp trước chùa như để rửa sạch bụi đời cho tâm hồn và thể xác những nưgời hướng đến và tìm về cõi phật. Vì lẽ đó mà chùa Thiên Mụ xứng đáng trở thành ngôi chùa cổ kính tiêu biểu nhất trong toàn bộ hệ thống chùa chiền của mảnh đất Cố Đô. Điều đó thể hiện người chọn vị trí xây dựng chùa là một phật tử có cái nhìn rất tinh tường với độ thẩm mỹ rất cao. Ngôi chùa được khởi công xây dựng vào năm 1601 do đoàn Quận công Nguyễn Hoàng xây dựng. Sau khi vào trấn hưng đất Thuận Hoá trong một lần đi ngao du qua ngọn đồi Hà Khê (huyện Hưng Trà) và nghe người dân ở đây kể lại một câu chuyện. Rằng ngày xưa ở trên ngọn đồi này vào ban đêm có bà già mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên ngọn đồi mà chùa toạ lạc ngày nay, và nói: "Rồi sẽ có vị chân chúa đến lập chùa ở đây để tụ long khí cho bền long mạch". Từ đó ngọn đồi được đặt tên là Thiên Mụ sơn (núi Bà Trời) và chùa được đổi thành Thiên Mụ tự. Mặc dù ngôi chùa này được xây dựng cách ngày nay hơn 400 năm nhưng toàn bộ tổng thể kiến trúc của chùa Thiên Mụ được hoàn chỉnh dưới 3 đời vua nhà Nguyễn là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Toàn bộ các công trình kiến trúc đều nằm trên 1 ngọn đồi có bề mặt hình chữ nhật (280m x 100m) chạy theo hướng Bắc Nam. Chùa lại được bao bọc bởi khuôn tường thành xây dựng bằng đá mang dáng hình một con rùa thò đầu xuống bến để uống nước sông Hương. Chùa Thiên Mụ ấn tượng đầu tiên thu hút cặp mắt của du khách khi đến thăm chùa Thiên Mụ là tháp có hình bát giác cao 7 tầng có tên là tháp Phước Duyên. Tháp này được xây dựng vào năm 184 dưới đời vua Thiệu Trị, cao 21m, dưới lớn, phía trên thu nhỏ lại. Con số 7 này là con số linh thiêng của Đạo Phật. Ông tổ của đạo Phật Thích ca Mu Ni tương truyền rằng: "Thiên thượng, địa hạ, duy ngã, độc tôn" nghĩa là trên trời, dưới đất ở giữa chỉ có một mình đạo Phật mà thôi. Nhưng thực chất 7 tầng còn thể hiện là 7 cấp quá đi tu hành trong đạo Phật ngày xưa. Hệ thống bậc cấp trước chùa cũng tính theo con số 7. Trong tháp có hệ thống bậc thang xây theo hình xoắn ốc, chỉ trừ giữa tầng 6 và tầng 7 là phải dùng thang di động bằng gốc và cái cửa với chìa khoá đặc biệt. Vì ngày xưa ở tầng cao nhất có thờ tượng phật bằng vàng. Hai bên ngọn tháp Phước Duyên có 2 nhà bia đều của vua Thiệu Trị. Một nhà ghi lại lịch sử xây dựng đình Hương Nguyện. Một trong những công trình kiến trúc bằng gỗ rất đặc biệt của thời vua Thiệu Trị (1841-1847). Mà hiện nay còn bảo lưu được ở chùa Thiên Mụ và bộ sườn của đình Hương Nguyện. Bị đổ bởi trận bão năm Thìn (1904) và ngôi đình được dựng lại tại nền Di lặc xưa để thờ Đức Địa Tạng. Nhà bia thứ 2 vua Thiệu Trị đã xếp cảnh đẹp của chùa là 1 trong 20 thắng cảnh ở đất thần kinh xứ Huế. Sau tấm bia của vua Thiệu Trị là hình ảnh Đại Hồng Chung: chuông cao 2,5m, đường kính 1,4m, nặng 2052kg là tác phẩm bằng đồng đầu thế kỷ 18. Mặt trên của chuông có 8 chữ "Thọ" theo lối chứ triện; ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảnh khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu, chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật, linh; ở phần dưới khắc hình bát quái và thuỷ ba. ở chính giữa chùa là Điện Đại Hùng - một công trình kiến trúc nguy nga, tráng lệ, ngôi chùa đẹp nhất trong tổng thể kiến trúc chùa Thiên Mụ gồm 3 gian 2 trái. Tiền đương 5 gian cả Chính đường và Tiền đường hợp lại thành một toà kiến trúc bề thế và uy nghi. Trong điện, ngoài những tượng phật bằng đồng sáng chói, còn treo một cái khánh đồng khá lớn chạm hình nhật nguyệt, tinh tế đúc năm 1677. Và treo 1 bức hoành phi câu đối gỗ sơn son thiếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chua ngự đề năm 1714. Có thể nói chùa Thiên Mụ là di tích không thể thiếu được trong quần thể kiến trúc của xứ Huế. Chùa Thiên Mụ bảo lưu được một số văn vật quý báu của Phật Giáo. Tách biệt với những sinh hoạt tuỵ lục của thế nhân, nhưng lại vừa gần gũi với con người. Với kiến trúc uy nghiêm cổ kính, sự kết hợp hài hoà giữa thiên nhiên và kiến trúc đã tạo nên cảnh trí rất nên thơ. Điện Hòn Chén Từ trung tâm cầu Tràng Tiền, du khách xuôi thuyền dọc sông Hương. Sau khi tham quan vãn cảnh, chiêm ngưỡng chùa Thiên Mụ. Kế theo dòng chảy của con sông Hương êm đềm đó là Điện Hòn Chén. Sở dĩ có tên là Điện Hòn Chén là có một dãy núi thấp ăn từ chân dãy Trường Sơn chạy về phía đồng bằng của Huế, bị một đoạn của sông Hương chặn đầu lại ở tả ngạn. Tạo thành một ngọn núi có vẻ biệt lập, cây cối mọc xanh um, đứng cheo leo trên bờ vực thẳm, đó là chỗ sâu nhất của sông Hương. Người xưa đã chọn hòn núi Ngọc Trản ấy để dựng đền thờ. Trên đỉnh núi có một chỗ đất trũng xuống, chung quanh có vòng đá dựng như bờ giếng, hễ gặp mưa thì nước đọng lại trông giống như cái chén đựng nước trong. Do vậy mà từ xưa hòn núi được cọi tên là Ngọc Trản Sơn (núi Chén Ngọc) và người dân xứ Huế quen gọi là Hòn Chén. Điện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chăm thờ nữ thần Po Nagar và người Việt ta thờ Thánh Mẫu Thiên Y.A.Na. Ngoài ra trong Điện còn thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần khác trong đó vua Đồng Khánh cũng được thờ ở đây. Theo sử sách triều Nguyễn ghi lại thì vào tháng 3 năm 1832 vua Minh Mạng đã cho tu sửa và mở rộng điện Hòn Chén. Sau khi tức vị năm 1886 vua Đồng Khánh lại cho xây dựng lại Điện này một cách khang trang và đổi tên ngôi đền thành Huệ Nam Điện. Hiện nay trong đền vẫn còn thờ vài bức ảnh của chính nhà vua. Trong một tờ thần sắc ban cho đền này vào năm 1886, vua Đồng Khánh đã ví toàn cảnh thiên nhiên ở đó như hình thế một con sư tử đang nằm thò đầu xuống sông uống nước. Những công trình kiến trúc của Điện Hòn Chén đều năm ở lưng chừng sườn đông nam thoai thoải của ngọn núi. ẩn mình dưới bóng râm của một khóm rừng cổ thụ cành lá sum suê. Những hệ thống bậc cấp dựng từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng như gương, được dùng cho toàn cảnh thiên nhiên và kiến trúc nghiêng mình soi bóng. Đứng từ phía bến thuyền nhìn lên du khách dễ tưởng mình đang lạc vào chốn thần tiên. Một quần thể kiến trúc cũng rất nổi tiếng ở Huế là hệ thống lăng tẩm. Lăng tẩm là nơi an nghỉ ngàn thu của các vua nhà Nguyễn. Đại đa số lăng tẩm được xây dựng chủ yếu ở 2 bên bờ sông hương, tạo sự êm đềm, yên tĩnh cho các di tích. Mộ của vua tạ ở phía tây thành phố vì quan niệm mặt trời lặn ở đằng Tây. Lăng mộ thường được xây ở các khu đồi thông. Mà cây thông biểu tượng cho người quân tử. Gợi sự cầu mong bền vững lâu dài, tạo vẻ u tịch thâm nghiêm. Các khu lăng mộ này đảm bảo tiêu chuẩn của thuyết phong thuỷ được xây dựng ở các nơi cao (đỉnh đồi) có dòng nước chảy quanh (sơn triều thuỷ tụ). Phía trước có ngọn núi cao làm tiền án, phía sau có ngọn núi thấp hơn làm hồi chẩn. Hai bên lăng có núi đồi tạo sự đăng đối vững chắc, tạo thế tay ngai. Lăng Khải Định Bố cục của lăng tẩm được chia làm 3 phần: - Lăng mộ: là nơi chôn cất thi hài nhà vua - Khu tẩm điện: là nơi thờ thi hài nhà vua - Khu vực nhà bia: ghi công trạng của các ông vua. Lăng được xây dựng từ năm 1920 đến năm 1931, trên đỉnh núi Châu Ê, cách Huế 10km. Về mặt bằng Lăng Khải Định nhỏ hẹp hơn các lăng khác, lăng được xây dựng trên một ngọn núi cao 30m. Tổng thể của lăng là một khối hình chữ nhật vươn cao tới 109 bậc. Từ ngoài bước vào ta thấy một màu xám của xi măng, tạo cho lăng vẻ thâm nghiêm, cổ kính. Khi vào lăng, du khách phải đi qua hệ thống bậc thang với thành bậc đắp rồng to nhất cả nước vượt qua 29 bậc nữa lên sân bái đình, ở giữa có nhà bia hình bát giác xây bê tông cốt thép. Hai bên sân có 2 hàng tượng, tượng trưng cho lòng trung thành của các vị quan luôn theo hầu Vua. Tới điện Khải Thành - đây là phòng chính của cung Thiên Định với trang trí nội thất độc đáo trên tường là hình tứ linh, tứ quý ghép bằng gấm màu hết sức tinh xảo độc đáo, tạo nên những cảnh sắc rực rỡ, sinh động. Trên trần vẽ tranh cửu long ẩn trong mây do hoạ sỹ Phan Văn Tánh vẽ. Phòng sau của điện là chính tẩm, ở giữa có đặt tượng Khải Định mặc long bào ngồi trên ngai vàng. Bức tượng này do nghệ nhân Pháp đúc năm 1922, 4 tượng là huyền cung để thi hài. Trên bức tường Khải Định có lọng che được làm bằng kết cấu bê tông sắt thép nhưng rất mềm mại. Sau lưng vua là hình ảnh mặt trời lặn. Lăng tẩm của các vị vua thường biểu hiện sở thích, phong cách cá nhân. Khải Định thích kiến trúc sành sứ cho nên lăng của ông được ốp sành sứ từ Nhật Bản trở về rất cầu kỳ, tinh xảo. Ông cũng là người chịu ảnh hưởng của văn minh Phương Tây nên đã xây dựng nhiều yếu tố nghệ thuật, kỹ thuật và vật liệu xây dựng của Pháp. Ngược trở lại con đường Nam Giao, qua đốc Nam Giao tới làng Dương Xuân Thượng, cách Huế chừng 8km ta sẽ thấy lăng Tự Đức nằm ở núi Dương Xuân giữa một rừng thông bát ngát. Lăng được khởi công xây dựng từ 1864 đến 1687 thì hoàn thành. Đây là lăng rộng lớn nhất trong tất cả các lăng triều Nguyễn và cũng là lăng có nhiều phong cảnh trữ tình thơ mộng nhất bởi nhà vua yêu thiên nhiên, thơ ca và nhạc hoạ. Tuy việc xây dựng lăng đã để lại cho chúng ta một cụm di tích đẹp nhưng vào thời bấy giờ việc xây dựng này đã khiến người dân phải khổ cực vô cùng. Hơn 3000 người đã phải đổ mồ hôi, nước mắt thậm chí cả xương máu. Vì thế mà có câu: "Vạn niên là vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu dân" Thậm chí nhân dân còn nổi dậy khởi nghĩa nhằm lật đổ ngai vàng của vua Tự Đức để đưa ứng Đạo lên ngôi. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa đã bị quan triều đình dập tắt khi vào Điện Thái Hoà. Mặc dù quy mô to lớn và rất đồ sộ nhưng vua Tự Đức vẫn đặt tên cho lăng là Khiêm Lăng. Lăng Tự Đức Tự Đức là một vị vua có những nỗi khổ tâm. Ông lên ngôi không danh chính ngôn thuận và từ thời Tự Đức quyền hành của vua không còn nguyên vẹn vì muốn cầu hoà với Pháp nên ông mang tiếng là người bán nước. Trong cách trị vì ông bị coi là người yếu đuối, nhu nhược. Song việc bình công luận tội nhà vua là do cách nghĩ của mọi người. Lăng Tự Đức có gần 50 công trình kiến trúc được tổ chức theo từng cụm, với những thế đất cao thấp khác nhau chứ không theo một trục đối xứng như những lăng khác. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần theo con đường chính sẽ thấy bên phải là hồ Lưu Khiêm Tạ và Dù Tịnh Khiêm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dù Khiêm Tạ là nơi nhà vua uống rượu và đọc sách, ngắm cảnh làm thơ, phía sau Xung Khiêm Tạ là đồi thông bạt ngàn. Bên trái của con đường chính là Khiêm Cung Môn. Sau đó là hệ thống các cung điện với các toà ngang dãy dọc. Trong khu vực này có điện Hoà Khiêm là nơi vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua Tự Đức và Hoàng Hậu. Phía sau điện Hoà Khiêm là điện Lương Khiêm - nơi vua nghỉ ngơi còn hiện nay thờ bà Từ Dũ - mẹ vua. Bên phải của điện là Ôn Khiêm Đường, nơi cất đồ ngự dụng, bên trái là Minh Khiêm Đường, đây là nhà hát xưa nhất của Việt Nam. Tiếp tục theo con đường chính ta đi vào khu vực mộ vua. Toàn bộ các công trình trong khu vực này đều được xây dựng bằng gạch đá. Nổi bật nhất là nhà Bi Đình với tấm bia đá lớn nhất Việt Nam. Tấm đá cao 4m, rộng 2,13m, nặng 20 tấn. Trên tấm bia có bài Khiêm Cung ký dài 4935 chữ do chính vua Tự Đức thảo ra. Lăng Minh Mạng Được khởi công xác định vào năm 1840 hoàn tất vào năm 1843. Trong 4 năm xây dựng, số nhân công làm việc thường xuyên tại công trình là gần 1 vạn người. Lăng được bao bọc bởi La Thành dài 1373m, cao 3m, trên mặt khu đồi núi ao hồ thoáng mát Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ gồm: cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí một cách cân đối trên một trục dọc từ Đại Hồng Môn đến chân đường của La Thành sau mộ Vua. Lối kiến trúc trục trung tâm này thể hiện xã hội quân chủ đạt đến độ cường thịnh dưới thời vua Minh Mạng (1820-1840). Lăng Minh Mạng Đầu tiên là Đại Hồng Môn- Cổng chính vào Lăng, cao hơn 9m, rộng 12m. Cổng này có 3 lối đi với 24 mái lô nhỏ cao thấp với cách trang trí cá chép hoá rồng, long, nên được coi là tiêu biểu cho tam quan triều Nguyễn. Cổng này chỉ được mở một lần lúc đưa thi thể vua Minh Mạng vào an táng. Sau Đại Hồng Môn là một cái sân rộng có 2 hàng voi, ngựa và quan văn, quan võ đứng chầu; tiếp đến là sân triều lễ được chia làm 4 bậc và sau đó là Hiển Đức Nhơn- mở đầu cho khu vực Tẩm Điện. Trung tâm của khu vực này là Sùng Ân Điện thờ bài vị của vua Minh Mạng và Hoàng Hậu: Kết thúc khu vực Tẩm Điện là Hoàng Thạch Môn với 17 bậc thềm đá xanh sẽ dẫn du khách xuống khoảng không gian rợp bóng cây và thơm ngát hương hoa. Rời khỏi không gian đó, chúng ta đi qua 3 cây cầu bắc song song với nhau qua hồ Trùng Minh- nơi vua ngắm cảnh vào những đêm trăng thanh gió mát. Cuối cùng là hồ Tân Nguyệt với Bửu Thành hình tròn nằm ở giữa. Qua cầu Thông Minh Chinh Trực bắc qua hồ Tân Nguyệt có 333 bậc đá là đến nơi yên nghỉ của nhà vua nằm giữa trung tâm của đồi mang tên Khai Trạch Sơn được giới hạn bởi Bửu Thành. Lăng Minh Mạng với sự kết hợp khéo léo tài tình, giữa sự bài trí, óc sáng tạo của con người với cảnh đẹp thiên nhiên đã thể hiện được tính cách nghiêm khắc, uyên bác và tâm hồn lãng mạng của vua Minh Mạng Đàn Nam Giao Đàn Nam Giao là một phần di tích Cố Đô Huế, nằm gần các lăng Tự Đức và Khải Định. Dưới triều đại các vua nhà Nguyễn, mà ngay sau khi lên ngôi (1802) Vua Gia Long cho đắp đàn ở làng An Ninh vào năm 1803 để tế trời. Nhưng sau đó3 năm, triều đình nhà Nguyễn bác bỏ vị trí này để xây đàn tế khác ở làng Dương Xuân như du khách thấy ngày nay. Đàn tế trời lộ thiên này được khởi công xây dựng vào 25-3 năm 1806 do Thống chế Phạm Văn Nhân đứng ra điều hành công việc. Thợ làm việc chủ yếu là Bộ Công và Bộ Binh. Đến đầu năm sau 1807 triều đình đã cử hành tế lễ giao lần đầu tiên tại đây. Khuôn viên đất Đàn Nam Giao là hình chữ nhật khá rộng, bề dài 390m, chiều rộng 265m, giới hạn bởi một tường thành xây bằng đá bọc xung quanh. Trong khuôn viên này ngày xưa được trồng rất nhiều thông, một loại cây tượng trưng cho người quân tử. Tại đây các hoàng thân và các quan lớn trong triều mỗi người trồng một cây. ở mỗi cây treo một tấm bia bằng đá có khắc tên họ người trồng, ngày, tháng, năm trồng và chiều cao của mỗi cây khi mới trồng. Các quan có nhiệm vụ phải tự chăm sóc cây của mình, nếu thông chết phải tự trồng cây khác để thay thế. Năm 1834 trong dịp lên tế lễ giao, chính vua Minh Mạng tự tay trồng 10 cây thông ở Trai Cung. Nhờ đó mà ngày xưa ở Đàn Nam Giao đã có được một rừng thông xanh rì. Đàn nam Giao được thiết lập ở phía nam kinh thành Huế. Mô thức kiến trức này mang ý nghĩa tôn giáo và chính trị của nền quân chủ Đông Phương. Đàn Nam Giao gắn liền với thuyết thiên mệnh của đạo Nho. Đàn tế được xây dựng thành ba tầng, dưới lớn, trên nhỏ chồng lên nhau tượng trưng cho thuyết tam tài: Thiên, Địa, Nhân. Mỗi tầng mang một hình dạng và màu sắc riêng: trời tròn, đất vuông, thiên thanh địa hoàng; ba tầng cộng lại cao 4,65m. Theo thuyết Thiên mệnh của đạo Nho xưa, vua là con trời, nhận lệnh của trời, xuống trần gian cai trị thiên hạ. Vua có thần quyền. Cho nên chỉ có vua mới có quyền cúng tế trời đất (là cha mẹ của vua) ở Đàn Nam Giao. Từ thời vua Gia Long (1802-1819) lễ tế giao được cử hành vào thượng tuần tháng hai âm lịch hàng năm. Đến thời vua Thành Thái (1889-1907) và vào 1890 vì thấy quá tốn kém nên triều đình thay đổi 3 năm mới tế lễ 1 lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Cuộc tế lễ kéo dài gần ba tiếng đồng hồ mới xong. Vua Ngự về Trai Cung để làm lễ khánh hạ, lạy mừng vua vừa hoàn thành mỹ mãn nhiệm vụ cao cả của mình. Trong những ngày diễn ra cuộc tế lễ, từ triều đình cho đến dân chúng ở kinh đô đều nô nức, người dân kéo nhau đi xem vui như chẩy hội. Đàn Nam Giao và lễ tế giao là chỗ gối đầu của chế độ quân chủ nhà Nguyễn trong một thời gian dài. Ngày nay đàn tế ngoài trời này hầu như còn nguyên vẹn và trở thành một di tích lịch sử hiếm hoi còn sót lại của vùng đáat Viễn Đông - Nằm ở vị trí trung tâm trên bản đồ di tích Huế, cho nên mọi du khách trong nước cũng như nước ngoài có thể dừng chân tham quan và nghiên cứu. Đèo Hải Vân Đèo Hải Vân nằm trải dài theo sườn núi Hải Vân ăn sát ra phía biển có chiều dài 20km. Nối giưa 2 thành phố Huế và Đà Nẵng. Du khách đứng ở chỗ cao nhất của đỉnh đèo, nhìn xuống phía dưới có thể dễ dàng quan sát được cảnh vật xung quanh và phía dưới chân đèo. Cùng toàn cảnh hai thành phố Huế và Đà Nẵng mờ mờ, ảo ảo. Tạo cho du khách có cảm giác khoan khoái và thú vị. Đèo Hải Vân Đèo Hải Vân là một đèo cao, trên đỉnh đèo nhiệt độ thấp và gió rất to. Vì vậy mà dãy núi này là một bức tường thiên nhiên quan trọng ngăn các đợt gió từ phía Bắc tràn về. Nên ở Huế mang khí hậu nhiệt đới gió mùa, còn Đà Nẵng phân làm làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Trong thời kỳ nước ta trải qua 2 cuộc chiến tranh chống Mỹ và Pháp thì đèo Hải Vân có tầm quan trọng chiến lược về lưu lượng giao thông được thông suốt. Vận chuyển vũ khí, lương thực thực phẩm, quân đội từ miền Bắc XHCN vào miền Nam ruột thịt. Còn thời bình hiện nay thì Đèo Hải Vân vẫn và sẽ mãi mãi là mạch máu lưu thông hàng hoá, xe cộ và du lịch. Qua đây chúng ta đều được chiêm ngưỡng một thắng cảnh đẹp "Thiên hạ đệ nhất hùng quan". Từ phía dưới chân của đèo Hải Vân du khách có thể cảm nhận được vẻ đẹp của "Thiên hạ đệ nhất hùng quan" với một bên là vách đá hùng vĩ, một bên là bãi biển Lăng Cô với một bãi cát trắng trải dài hàng km. Trong một khung cảnh đầy mờ ảo vị mây bao phủ du khách có cảm giác ta đang đứng ở cõi bồng lãi. Sau những phút thư giãn, chụp ảnh và mua sắm xe bắt đầu từ từ chuyển bánh xuống dốc qua những khúc cua tay áo, du khách có vẻ thích thú với độ uốn lượn của đèo. Từ lúc xe bắt đầu chuyển bánh từ phía tỉnh Thừa Thiên Huế, lên đến đỉnh đèo và tiếp tục sang thành phố Đà Nẵng. Du khách được tận mắt nhìn thấy cảnh vật của núi rừng nguyên sinh hùng vĩ, quanh năm xanh tốt. Xuống đến chân đèo, xe của đoàn đã sang tới thành phố Đà Nẵng với các khu lịch nổi tiếng như: Bãi biển Non Nước, Ngũ Hành Sơn, Thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An. Mỗi điểm du lịch đều có sự hấp dẫn riêng của nó, càng làm cho khách du lịch đến thăm và chiêm ngưỡng cảnh vật nơi đây. đã nẵng Chia tay với mảnh đất xứ Huế đầy thơ mộng, chúng ta sẽ đến với thành phố Đà Nẵng. Đà Nẵng là một trong ba thành phố trực thuộc trung ương. Với diện tích 942,46km2 và dân số là 684.131 người. Đây là trung tâm kinh tế, văn hoá, đầu mối giao thông lớn nhất của miền trung và cũng là một điểm du lịch hấp dẫn với khách du lịch với: Đèo Hải Vân, Núi Bà Nà, Non Nước Ngũ Hành Sơn đến với Đà Nẵng chúng ta sẽ có điều kiện được tham quan những cảnh đẹp, những di tích lịch sử của thành phố nằm giữa chiều dài của đất nước. bảo tàng chàm Địa điểm đầu tiên mà chúng ta sẽ đến thăm là Bảo tàng Chàm. Bảo tàng Chàm được xây dựng từ 1915 đến 1936, lúc đầu bảo tàng có tên là Hăngri- Pác- Măng- Chiê, về sau đổi thành Bảo tàng Chàm. Bảo tàng Chàm hiện nay có khoảng 300 tuyệt tác nguyên bản được trưng bày. Kiến trúc của Bảo tàng được mô phỏng theo kiểu tháp Chàm, đây là bộ sưu tập cuối cùng xây dựng và tu bổ khang trang để trưng bày các hiện vật điêu khắc. Chàm bằng đá và đất nung có niên đại từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XV, khai quật được từ đất Quảng Bình đến Bình Định. Hiện vật trong Bảo tàng chàm Từ sân trước đi vào phòng bên trái được trưng bày các công trình điêu khắc Chàm, tìm thấy ở thánh địa Mỹ Sơn, đó là các bức tượng lớn của thần SiVa, tượng nữ thần Uma (vợ của thần SiVa), và các bức tượng trạm nổi miêu tả cảnh sinh hoạt của các tầng lớp tăng lữ, quý tộc. Phòng tiếp theo là cảnh sinh hoạt của người Chàm ở kinh thành Trà Kiệu (Simhapura). Sau khu Trà Kiệu là phòng trưng bày của các tượng phật, tượng hộ pháp tương đối lớn được phát hiện ở Đông Dương. Phần bên phải của Bảo tàng (đối diện với phần hiện vật Mỹ Sơn) là những di tích tìm thấy được ở Trà Bán (Bình Định) với các tượng thần, vũ nữ nhạc công. ngũ hành sơn Sau khi thăm bảo tàng Chàm, chúng ta sẽ đến khu danh lam thắng cảnh ngũ Hành Sơn (thuộc tỉnh Quảng Nam). Từ xa xưa, Ngũ Hành Sơn được xem là một vùng núi non có cảnh đẹp thần tiên, một nơi chốn thoát tục ai ai thích du ngoại danh lam thắng cảnh cũng đều ao ướt được có dịp đặt chân tới đó. Ngũ Hành Sơn là một quần thể gồm 5 ngọn núi đá hoa cương, nằm gần kề với bãi biển, vì vậy được gọi là Hòn Non Nước. Trong quần thể này có nhiều hang động đặc biệt, không giống như các hang động ở nơi khác: Ngọn Thuỷ Sơn: Hòn Thuỷ Sơn là khối đá dựng đứng. Trên đỉnh núi có 3 ngọn nằm ở thế có 3 tầng giống như Sao Tam Tha. Nơi đây có một ngôi chùa, chùa này cũng có tên là chùa Tam Thai. Ba ngọn núi Tam Thai đó là: Thượng Thai, Trung Thai, và Hạ Thai. ở ngọn Thuỷ Sơn có nhiều hang động đẹp như động Tàng Chơn, động linh Nham, Động Vân Sơn, động Huyền Không. Trên ngọn núi Thuỷ Sơn còn có chùa Linh ứng được xây vào thời Vua Minh Mạng, trải qua năm tháng đã bị hư hỏng nhiều, vào năm 1970 được trải qua năm tháng đã bị hư hỏng nhiều, vào năm 1970 được chỉnh tu lại. Trong chùa có bộ tượng La Hán đá trắng. Sau khi thăm ngọn thuỷ Sơn với chùa Tam thai, chùa Linh ứng và các hang động trên núi, chúng ta sẽ xuống mua đồ lưu niệm về thăm làng đá mỹ nghệ Non nước. Chùa Linh ứng (Ngũ Hành Sơn) làng đá mỹ nghệ non nước Làng đá mỹ nghệ Non Nước được hình thành vào thế kỷ XVIII do một nghệ nhân người Thanh Hoá khai phá, sang thế kỷ XIX thì cả làng Quan Khải (Hoà Hải) đều sinh sống bằng nghề này. Nguyên liệu để làm ra các sản phẩm mỹ nghệ là đá Cẩm Thạch này rất có giá trị, bởi đá ở Ngũ Hành Sơn có màu sắc khác nhau. Sản phẩm bằng đá do các nghệ nhân làm ở đây rất phong phú như: Tượng Phật, Tượng Thánh, Tượng Người, Tượng Muông thú và các sản phẩm khác có vẻ đẹp rất sang trọng. Với những vẻ đẹp như vậy nên sản phẩm ở đây rất được du khách ưa chuộng. Sau khi rời quần thể thắng cảnh Ngũ Hành Sơn - Non Nước chúng ta sẽ đến với điểm du lịch Thánh địa Mỹ Sơn. Thánh Địa Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng kín đáo thuộc xã duy phú - Huyện Duy xuyên - Quảng Nam. quảng nam Diện tích Quảng Nam là tỉnh có diện tích 10.408km2, dân số 1.402.700 người đây là mảnh đất nổi tiếng nổi tiếng trong nước và thế giới với hai di sản văn hoá đồ sộ đó là Thánh Địa Mỹ Sơn và Phố Cổ Nghệ An Thánh địa mỹ sơn Mỹ Sơn là Thánh Địa ấn Độ giáo của Vương Chăm Pa. Nhữn dòng chữ ghi trên tấm bia sớm nhất ở Mỹ Sơn có niên đại khoảng thế kỷ thứ IV, cho biết Vua BhadresVara, đã xây dựng một ngôi đền lớn để dâng cúng thần SiVa - BhadresVara, hai thế kỷ sau ngôi đền này lại bị tàn phá bởi một trận hoả hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ VII, Vua SambhuVarman đã d lại bằng những vật liệu bền vững hơn. Các triều Vua sau đó đều cho tu sửa các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để dâng tế các vị thần của họ. Với hơn 70 công trình kiến trúc bằng gạch đá được xây dựng từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XIII. Mỹ Sơn đã trở thành trung tâm kiến trúc quan trọng nhất của vương Quốc Chăm Pa. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần SiVa vì thần SiVa là đấng bảo hộ của các dòng Vua Chăm Pa - Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là BhadresVara, là vị vua đã sáng lập dòng Vua đầu tiên của vùng AmatVati vào cuối thế kỷ thứ IV kết hợp với tôn thần SiVa trở thành tín ngưỡng chính thờ thần - Vua và tổ tiên hoàng tộc. Vào năm 1898 di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học giả người Pháp tên là MCparic. Năm 1902 một người tên là Pamentier đã hoàn thành việc kiểm kê các đền tháp ở Mỹ sơn ông đã chia các đền tháp ở đây thanfh nhiều nhóm: A, A', B, C, D, e, F thể hiện gần như tất cả các phong cách trong nghệ thuật Chăm Pa. Do thiên nhiên, chiến tranh quần thể di tích Mỹ Sơn đã bị tàn phá nặng nề, do vậy từ năm 1937 đến năm 1944 đã được trùng tu lại nhưng một thời Gạch Chăm (Mỹ Sơn) gian sau lại bị chiến tranh tàn phá, cho đến năm 1975 trong số 32 di tích còn lại chỉ có khoảng 20 di tích giữ lại được vẻ nguyên vẹ ban đầu. Từ năm 1981, khu di tích Thánh Địa Mỹ Sơn đã được bảo quản và tu sửa từng phần với sự giúp đỡ về chuyên môn của chuyên gia nước ngoài. Phần lớn các tác phẩm điêu khắc tuyệt tác ở Mỹ sơn đã được người Pháp đưa về đà nẵng vào những năm đầu thế kỷ XX và được trưng bày tại bảo tàng Chàm ở đầu đường Bạch Đằng - Thành Phố Đà Nẵng. Tạm biệt với thánh địa Mỹ Sơn - một trong những (di sản văn hoá của thế giới), chúng ta sẽ đến với phố Cổ Hội An - điểm đỗ cuối cùng của chuyến đi. phố cổ hội an Thị xã Hội An nằm bên bờ sông Thu bồn. Nơi đây xưa một thời nổi tiếng vì đây là một Thương Cảng lớn của Việt Nam mà các thương nhân ngươì Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Italya đã biết đến từ thế kỷ XVI, XVII. Từ thời đó, thương cảng Hội An đã thịnh Vượng, là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam á, đồng thời là một trong những trạm đỗ chính của các thương thuyền vùng Viễn Đông. Chùa Cổ Hội An Thị xã có những dãy số cổ gần như nguyên vẹn, đó là loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ đến phố kia. Trong đó có một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hội An, nhà ở đây được xây dựng bằng các loại gỗ quý, trong nhà treo Hoành Phi câu đối, cột nhà trạm trổ hao văn rất tinh vi, cầu kỳ. Hội an là một quần thể di tích được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Đến với Hội An, chúng ta có thể thăm quan một số di tích nổi tiếng đó là: Chùa Ông, Hội Quán Phước Kiến, Chùa Cầu Nhật Bản. chùa ông Chùa Ông toạ lạc tại số 24 Trần Phú - Thị xã Hội An. Đây là một trong những ngôi chùa tiêu biểu ở phố Cổ Hội An. Chùa ông được xây dựng vào năm 1953 thời Quan vũ (Quan Vân Trường - Một vị tướng của Trung Quốc thời Tam Quốc). Chùa ông được xây dựng theo kiểu chữ "quốc" do nhiều lớp nhà hợp lại, các nếp nhà lợp ngói ống, có men màu, đầu nóc được gắn hoa, tranh đắp hình Rồng, Nghè bằng các mảnh sứ màu. Trải qua năm tháng Chùa đã được trùng tu nhiều lần, hiện nay trong Chùa còn giữ được một số hiện vật quý như: Biểu Sắc Phong, 33 bức Hoành Phi, 10 bộ câu đối, tượng quan công, Quan Bình, Châu Thương. Chùa Ông là một trong những kiến trúc tôn giáo có giá trị lớn. hội quán phước tiến Hội quán Phước Kiến hay còn gọi là chùa Phước Kiến, đây là một ngôi chùa do nhóm người ở Phước Kiến (Trung Quốc). Đến Hội An buôn bán, sinh sống rồi xây dựng lên. Chùa này được xây dựng vào năm 1967 tại số 46 đường Trần Phú - trung tâm phố Cổ Hội An, Chùa Phước Kiến là nơi thờ thần, đồng thời là nơi hội họp đồng hương của người Phước Kiến. Đến Hội quán Phước Kiến ta vô cùng ngạc nhiên về bàn tay trạm trổ, lắp giáp của người xưa tạo nên một công trình kiến trúc nguy nga tràng lệ, vừa tinh xảo, vừa sâu lắng. Hội quán được xây dựng theo kiến trúc chữ "Tam", kéo dài từ đường Trần Phú sang đường Phan Chu Trinh, sâu trừng 120m theo các Hội Quán Phước kiến trật tự: Cổng - sân - hồ nước - cây cảnh và hai dãy nhà Đông và Tây - chính diện - sân sau - hậu diện. ở chính diện thờ thiên Hậu Thánh Mẫu (Nữ thần cứu người đi biển gặp nạn). quan thế Âm Bồ Tát, Thần Tài và ba bà Chúa Sinh Thai và 12 bà Mụ, Đồng, Lư Hương và 14 bức Hoành Phi cùng nhiều hiện vật khác có giá trị cao. chùa cầu nhật bản Chùa Cầu Nhật Bản chính là một cây cầu Bắc ngang một lạch chảy ra sông thu bồn giáp ranh giữa 2 đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, chùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII, do các thương nhân người Nhật Bản đến đây buôn bán và sinh sống và đã thực hiện xây dựng cây cầu này. Cây cầu này là một di tích có kiến trúc khá đặc biệt vì mái chùa lợp bằng ngói âm dương che kín cả cây cầu 12m, chùa và cầu đều được làm bằng gỗ Sơn Son trạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông, hai đầu cầu có 2 tượng thủ bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng cho và một đầu là tượng khỉ. Tương truyền rằng đó là những con vật cmà người Nhật sùng bái thờ tự từ ngày xưa. Phần gian chính giữa (gọi là chùa) thờ một tượng gỗ Bắc Đế Thần Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt đẹp. Chùa Cầu Nhật Bản C. những cơ quan quản lý và kinh doanh du lịch địa phương TT Tên cơ quan Địa chỉ liên hệ 1 Công ty du lịch khách sạn Quảng Bình 50 Quang Trung - Đồng Hới ĐT: (052).822.669 -822.160 2 2. Công ty du lịch Hương Giang 17 Lê Lợi - Huế ĐT: 84 (54) 832.221 - 832.220 3 Công ty khách sạn Lê Lợi Số 2 Lê Lợi - Huế ĐT: 054. 822.153 - 824.668 - 826.923 4 Công ty khách sạn Đà Nẵng 01 - 03 Đống Đa - Đà Nẵng ĐT: 9 85411) 834.662 - 834.652 5 Trung tâm Lữ hành Hương Giang 17 Lê Lợi - Huế ĐT: 84 ( 54) 832.221 - 832.220 6 Khách sạn Hương Giang *** 51 Lê Lợi - Huế ĐT: 84 (54) 822.122 - 823.958 7 Khách sạn Tudochina 3 Hùng Vương - Huế ĐT: 84 (54) 826.070 8 Khách sạn Nam Giao 3B Điện Biên Phủ - Huế ĐT: 054.825.736 - 822.146 9 Guet house Điện Biên 3B Điện Biên Phủ - Huế ĐT: 054.825.736 - 822.146 10 Khách sạn Contung *** 49 Lê Lợi - Huế ĐT: 84 ( 54) 23390 11 Khách sạn Hoa Sứ *** Phường Hoà Minh Liên Chiểu - ĐN ĐT: (0511) 842058 - 842046 12 Khách sạn Hà Thành 342 Phan chu Trinh - Đà Nẵng ĐT: 84 - 51 - 22800 13 Nhà nghỉ Thanh Tâm Lăng Cô - ĐT: 054. 874. 456 14 Ngân hàng ngoại Thương Labanquede Commerce Exterieare 46 Hùng Vương - Huế ĐT: 822071- 113 15 Công an - Police 15 Trần Coa Văn - Huế ĐT: 822071 - 113 16 Bệnh viện tW - Huế 16 Lê Lợi - Huế ĐT: 822325 - 822326 17 Khách sạn đồng Hới 50 Quang Trung ĐT:052 822289 -827735 18 Khách sạn Sông Hương 19 Khách sạn Thanh Long Phần IV kết luận Vậy là chuyến đi thực tập với thời gian 10 ngày, 9 đêm của chúng ta đã kếtd thúc. Điều đầu tiên mà chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là, đây là một chuyến đi rất thành công và bổ ích. Đúng như một câu nói nổi tiếng của một danh nhân: "Điều ta biế là hữu hạn, điều ta chưa biết là vô hạn". Trong thực tế, có rất nhiều didều vẫn đang còn là một bí ẩn vô cùng hấp dẫn và rất thú vị. Nếu như trước đây, khi chúng ta chưa có điều kiện trực tiếp khám phá, tham quan thì tất cả những danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở mọi miền đất nước chỉ được chúng tái hiện qua trí tưởng tượng. Giờ đây, khi chuyến đi đã kết thúc chúng ta mới thấy được rằng, từ lý luận khoa học đến thực tiễn, khao học là một khoảng cách rất xa, tất cả những gì mà chuyến đi mang lại đã góp phần nâng cao thêm sự hiểu biết của chúng ta về những danh lam thắng cảnh của đất nước. Nếu như trước đây khi chúng ta chưa được đến mảnh đất Miền Trung, đặc biệt là chúng ta chưa đến với xứ Huế thì chúng ta vẫn biết được những dnah lam thắng cảnh ở Huế như các Lăng tẩm của những ông Vua nhà Nguyễn, chúng ta vẫn biết tới chùa Thiên Mụ, Tháp Phước Duyên và dòng Sông Hương thơ mộng nhưng sự hiểu biết đó chỉ được chúng ta thông qua những hình ảnh mà chúng ta được xem trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Giờ đây, trải qua 10 ngày 9 đêm, chúng ta mới thật sự hiểu rõ về ý nghiã của những danh lam thắng cảnh, tất cả điều đó đã tạo cho chúng ta thêm tin yêu đất nước của mình. Trải qua 10 ngày 9 đêm, ngoài sự hiểu biết về những danh lam thắng cảnh thì chuyến đi thực tập này còn cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về những cách thức tổ chức xắp xếp, phục vụ cho một chuyến đi. Có thể nói, với chuyến đi vừa qua chúng ta mới thật sự hiểu biết hơn về hoạt động của nghề Du lịch. Tuy nhiên, ngoài những thành công mà chuyến đi đã mang lại thì trong chuyến đi cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, tất nhiên những hạn chế đó chỉ do khách quan mang lại. Có thể kể ra một vài hạn chế mà chuyến đi mắc phải, đó là tại một số cơ sở lưu trú, chất lượng của phòng rấtd kém (vệ sinh chưa được tốt, nguồn nước thiếu trầm trọng, mất trật tự..vv). ngoài ra tại một số điểm lưu trú, thái độ phục vụ của các nhân viên khách sạn cũng còn rất nhiều điều hạn chế như (Khách sạn Cửa Lò, Khách sạn Đồng Hới). Hơn thế nữa, Công ty CAPTOUR cần phải xem xét lại kiến thức chuyên môn của những hướng dẫn viên đi theo đoàn, hầu như toàn bộ hành trình, đoàn không được nghe một lời giới thiệu của hướng dẫn viên. Đây là một hạn chế rất lớn, vì thế chúng tôi đề nghị Công ty CAPTOUR cần xem xét lại. Tóm lại, qua toàn bộ quá trình của chuyến đi thực tập này, nói chung là tốt, chỉ có một số điều hạn chế không làm cho đoàn được hài lòng. Nhưng dù sao đi nữa thì đây vẫn là chuyến đi thực tập rất thành công và thú vị. Những vấn đề xảy ra trong chuyến đi có thể là những thử thách để cho toàn bộ sinh viên có dịp đưọc rút ra những bài học những kinh nghiệm cho công việc của mình sau này. Cuối cùng, chúng tôi xin gửi đến Ban Giám hiệu nhà trường, lãnh đạo khao du lịch, các thầy giáo, cô giáo và các anh (chị) hướng dẫn viên lời cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ mà Ban Giám hiệu nhà trường, lãnh đạo khoa du lịch, các thầy giáo cô giáo và các anh chị hướng dẫn viên đã dành cho chúng tôi qua chuyến thực tập vừa rồi. Một lần nữa chúng tôi xin chúc Ban Giám hiệu nhà trường, lãnh đạo Khoa Du lịch, các thầy giáo cô giáo và các anh chị hướng dẫn viên có một sức khoẻ tốt để phục vụ tốt hơn nữa trong công cuộc đào tạo nhân lực cho hoạt động Du lịch của nước nhà. Hà Nội, ngày tháng năm tài liệu tham khảo 1. Non Nước Việt nam (Tổng Cục Du lịch Trung tâm Công nghệ thông tin Du lịch) 2. Kể chuyện các đời Vua nhà Nguyễn (Nguyễn Viết kế) 3. Địa lý Du lịch PTS. Vũ Minh Tuệ, PGS - PTS. Vũ Tuấn Cảnh, PGS - PTS. Lê Thông, PTS. Phạm Xuân Hậu, PTS. Nguyễn Kim Hồng) 4. Nội dung 9 đời Chúa. 5. Văn hoá Huế (Nguyễn Thành Lý) 6. Việt nam đất nước con người (NXB Tiến Bộ Matxcơva do E.P. Gla- du- nốp chủ biên) 7. Sổ tay địa danh du lịch các tỉnh trung Trung Bộ (Nguyễn quang Hà, Trần Hoàng, Mai Khắc ứng, Phạm Hồng Việt, Nguyễn Đức vũ). 8. Và nhiều tài liệu tham khảo khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2990.doc
Tài liệu liên quan