Đề tài Thực trạng công tác thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT tại ngân hàng phát triển Việt Nam thời gian qua (2006 – 2008)

Doanh nghiệp vay vốn của NHPTVN với lãi suất cho vay sẽ rẻ hơn vay của các ngân hàng thương mại khác. Bởi vì Ngân hàng cho vay theo thông lệ quốc tế là lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng thêm một khoản phí nhất định (1%/năm), lãi suất này thấp hơn lãi suất ở các ngân hàng thương mại. Mặt khác, sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ thời hạn cho vay của NHPTVN dài hơn các ngân hàng khác. Hơn nữa, việc khấu hao máy móc, nhà xưởng, v.v. cũng được dài hơn nên khách hàng vay vốn có điều kiện tích lũy để tái sản xuất và mở rộng đầu tư. Thêm vào đó, điều kiện cho vay của Ngân hàng đơn giản hơn so với vay từ các ngân hàng thương mại khác như không phải thế chấp, hoặc nếu có thì tỷ lệ thế chấp ở mức tương đối thấp, bằng 30% giá trị khoản vay. Trong tương lai, ngân hàng có dự định trình Chính phủ giảm mức thế chấp xuống còn 15% giá trị khoản vay.

doc119 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT tại ngân hàng phát triển Việt Nam thời gian qua (2006 – 2008), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p dụng các phương pháp này cũng đang được các cán bộ thực hiện một cách đúng quy trình, đảm bảo hiệu quả. Về nội dung thẩm định Quy định về thẩm định các nội dung, đặc biệt là thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay trong hệ thống NHPTVN đã dần được hoàn thiện. Từ chỗ quy định những nội dung thẩm định tương đối sơ sài, không bao trùm được tất cả nội dung dự án, NHPTVN đã ban hành Quy trình thẩm định số 36/2004/QĐ-HTPT hướng dẫn khá chi tiết các nội dung và phân công, phân nhiệm vụ công tác thẩm định trong toàn hệ thống, bước đầu hoàn thiện và quy chuẩn hóa các bước trong công tác thẩm định của hệ thống. Về mô hình tổ chức bộ máy và cán bộ Trong năm 2008, NHPTVN đã tổ chức triển khai tập huấn các Quy chế, sổ tay nghiệp vụ cho toàn hệ thống tại Hội sở chính và 5 cụm: Hà Nội, Hưng Yên, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Ngoài ra, còn tổ chức các lớp đào tạo như: thị trường bất động sản, hội nghị tập huấn nâng cao năng lực tài chính dự án tái định cư Thủy điện Sơn La, cho vay theo dòng tiền, tin học cho gần 1.000 lượt cán bộ; phối hợp với Dự án SMEDF tổ chức 10 đợt tập huấn về các chuyên đề có liên quan đến nghiệp vụ của NHPTVN cho 173 lượt cán bộ tham dự. NHPTVN cũng đã tổ chức thành công một cuộc hội thảo Quốc tế với sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng, tổ chức tài chính, ngân hàng và cơ quan báo chí. Qua 3 năm hoạt động của NHPTVN, công tác tổ chức đã dần được ổn định và đảm bảo yêu cầu đặt ra đối với công tác thẩm định trong toàn hệ thống. Bên cạnh đó, mô hình phối hợp giữa các Ban nghiệp vụ trong quá trình thẩm định không có thay đổi nhiều so với Quỹ Hỗ trợ phát triển. Tuy nhiên, hiện nay, trong công tác thẩm định còn có thêm chức năng giám sát phân cấp. Việc giám sát phân cấp được thực hiện tương đối cụ thể và chặt chẽ đã khắc phục được một số các sai phạm khách quan và chủ quan khi tiến hành thực hiện phân cấp uỷ quyền cho các Chi nhánh, đồng thời nâng cao chất lượng thẩm định trong toàn hệ thống. Hiện nay, phân cấp đã được mở rộng hơn và được xác định trên cơ sở năng lực thẩm định, phân tích tín dụng của các Chi nhánh, đồng thời xác định tiêu chí cơ bản của phân cấp là yếu tố rủi ro, khả năng hoàn trả vốn vay và tính khả thi của dự án nói chung. Mặt khác, NHPTVN đã thành lập Hội đồng tín dụng tại Hội sở chính với thành phần là Lãnh đạo NHPTVN và Lãnh đạo các Ban liên quan để xem xét quyết định cho vay đối với dự án lớn, quan trọng. Sự phối hợp giữa Hội sở chính và các Chi nhánh trong việc thực hiện thẩm định đã từng bước đi vào nề nếp. Nhận thức của các đơn vị trong việc thực hiện các nội dung thẩm định liên quan đến năng lực chủ đầu tư, dự án đầu tư đã dần dần được nâng cao. Đội ngũ cán bộ thực hiện thẩm định tuy chưa hoàn toàn đồng đều nhưng đã từng bước nâng cao kiến thức và kinh nghiệm công việc. Nói chung, về cơ bản đội ngũ cán bộ hiện nay là đã đảm bảo yêu cầu đối với cán bộ thẩm định trong hệ thống các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam. Về việc cung cấp thông tin phục vụ công tác thẩm định Việc cung cấp thông tin kinh tế - kỹ thuật cho các Chi nhánh cũng được chú trọng triển khai, khi thực hiện thẩm định dự án, Chi nhánh cần dữ liệu thông tin nào về dự án cũng như về chủ đầu tư đều có thể gửi văn bản về Hội sở chính đề nghị cung cấp. Về cơ bản các yêu cầu về thông tin kinh tế - kỹ thuật của các Chi nhánh đều được đáp ứng một cách nhanh chóng. Hiện nay, NHPTVN đang hoàn thiện xây dựng trang Web và đưa vào sử dụng; triển khai dự án mua sắm bản quyền phần mềm Microsoft Office; tiếp tục hoàn thiện phần mềm kế toán online; thực hiện dự án nâng cấp hạ tầng mạng truyền thông; nâng cấp phần mềm và hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị. Hội sở chính đã thực hiện việc hướng dẫn kịp thời những khó khăn, vướng mắc để các Chi nhánh triển khai thực hiện phù hợp với thực tế và những thay đổi về cơ chế, chính sách của Nhà nước, từng bước đưa công tác thẩm định trong hệ thống vào nề nếp và chuyên nghiệp, đi sâu hơn vào các ngành nghề, chú trọng hơn đến việc thẩm định về các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án. NHPTVN đã xây dựng và đưa vào khai thác sử dụng hệ thống thông tin kinh tế kỹ thuật các dự án đầu tư, đang tiến hành triển khai hệ thống kế toán giao dịch. Đây là những công cụ quan trọng để tích lũy thông tin phục vụ cho công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng và thẩm định trong toàn hệ thống, tạo tiền đề cho hệ thống thông tin đầy đủ trong tương lai. b, Những tồn tại Tuy đạt được nhiều kết quả khả quan, NHPTVN vẫn không tránh khỏi những thiếu sót trong công tác thẩm định. Về cơ chế chính sách Hiện nay tại NHPTVN, quy chế, sổ tay, nghiệp vụ và các điều kiện khác để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng còn chưa được quan tâm đúng mức. Cụ thể: các mẫu biểu chưa được quy định chi tiết, báo cáo năng lực chủ đầu tư còn thiếu, các yêu cầu nội dung cụ thể về năng lực chủ đầu tư còn chưa rõ ràng Về phương pháp thẩm định Do chưa xây dựng được hệ thống phân loại khách hàng cũng như hệ thống thông tin kinh tế kỹ thuật nên NHPTVN chưa đưa vào quy trình thẩm định bước thẩm định sơ bộ để loại bỏ một phần đáng kể các dự án không bảo đảm điều kiện vay vốn theo quy định, hoặc đưa ra những chủ trương phù hợp đối với từng nhóm khách hàng để có thể dùng để xác định các điều kiện thẩm định như thời hạn cho vay hay đảm bảo tiền vay, tính toán trích lập dự phòng rủi ro và yêu cầu mức vốn chủ sở hữu tham gia... Trong phương pháp thẩm định, việc phân tích độ nhạy của dự án chưa được quan tâm đúng mức hoặc nếu có tính toán thì chỉ áp dụng một cách máy móc, do đó, công tác phòng ngừa rủi ro, hệ thống các giải pháp giảm thiểu và ngăn chặn rủi ro còn rất yếu. Hiện nay, việc sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy còn ít phổ biến, chủ yếu là đối với các dự án lớn, nhưng việc tính toán vẫn còn rất nhiều bất cập. Thêm vào đó, NHPTVN còn chưa áp dụng phương pháp dự báo và phương pháp triệt tiêu rủi ro làm giảm hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Về nội dung thẩm định Chất lượng thẩm định tuy về cơ bản đáp ứng được yêu cầu của công tác cho vay vốn tín dụng đầu tư, tuy nhiên còn rất hạn chế so với chất lượng thẩm định của các tổ chức tín dụng quốc tế do chưa chú trọng đến việc phân tích, đánh giá các yếu tố liên quan đến thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm đặc biệt là các kết luận về kinh tế kỹ thuật có tính chuyên ngành. Bên cạnh đó, việc sử dụng các căn cứ, cơ sở để thẩm định còn chưa đa dạng, quá trình tìm tòi, khai thác các thông tin về kinh tế kỹ thuật còn ít. Việc phân tích năng lực chủ đầu tư còn tương đối sơ sài, chưa có quy định mang tính bắt buộc về các chỉ tiêu tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc quy định thẩm định năng lực khách hàng đối với các khách hàng mới thành lập, chưa có hoạt động sản xuất kinh doanh gần như còn bỏ ngỏ; công tác thẩm định khách hàng bước đầu còn hạn chế. NHPTVN chưa hình thành hệ thống phân tích, đánh giá và xếp hạng khách hàng làm cơ sở để quyết định việc cấp tín dụng, phân cấp quyết định cho vay và tiến tới tự động hoá một phần nghiệp vụ tín dụng. Quá trình thẩm định còn nặng về hồ sơ giấy tờ, quá trình khảo sát tình hình triển khai dự án, thẩm định thực tế tại địa bàn, đánh giá tính khả thi của dự án thông qua các dự án tương tự còn hạn chế cả về mặt thời gian và phương pháp tiếp cận. Mặt khác, công tác thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay chưa được hướng dẫn cụ thể mà vẫn chủ yếu do các đơn vị tự thực hiện theo các cơ chế hiện hành. Đối với các tài sản bảo đảm tiền vay của các dự án có nợ xấu, việc thẩm định đánh giá chủ yếu dựa trên cơ sở đánh giá, thẩm định của các cơ quan chuyên môn có liên quan. Công tác thẩm định chưa được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình quản lý tín dụng. Công tác thẩm định mới chỉ dừng lại ở việc quy định thẩm định dự án đầu tư và năng lực chủ đầu tư trước khi quyết định cho vay, việc thẩm định trong và sau giải ngân còn bỏ ngỏ. Một vấn đề hạn chế của công tác thẩm định ở NHPTVN là còn tồn tại áp lực của các cấp hành chính trong quá trình thẩm định và quyết định cấp tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đặc biệt đối với một số các dự án thuộc đối tượng phân cấp. Về mô hình tổ chức bộ máy và cán bộ Trong những năm đầu từ khi chuyển đổi từ Quỹ Hỗ trợ phát triển sang NHPT, mô hình tổ chức bộ máy thực hiện công tác thẩm định tỏ ra phù hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, với việc những nhiệm vụ Chính phủ giao ngày càng nặng nề cộng với những mục tiêu, tầm nhìn chiến lược NHPTVN đã đặt ra, mô hình cũ tỏ ra còn nhiều hạn chế khi số phòng ban chưa đủ để thực hiện nhiệm vụ mới, việc thực hiện một số nội dung công việc còn chồng chéo, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với việc quản trị tín dụng đối với một ngân hàng. Mặt khác, NHPTVN chưa có hệ thống lưu trữ thông tin thẩm định. Các kết quả thẩm định đều được lưu bằng văn bản, giấy tờ hoặc trên máy tính của từng cá nhân mà không chuyển về trung tâm lưu trữ dẫn tới khó kiểm soát, mất rất nhiều thời gian khi kiếm tìm số liệu, hồ sơ. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ thẩm định còn hạn chế cả về năng lực, khả năng, số lượng và tính trách nhiệm trong công việc; chưa có cơ chế rõ ràng phân công nhiệm vụ và giám sát các cán bộ thực hiện bảo đảm chất lượng và hiệu quả công việc. NHPTVN chưa quy định cụ thể những nội dung công việc của quá trình thẩm định trên cơ sở đó quy định phân công, phân trách nhiệm rõ ràng cho các đơn vị và cá nhân thực hiện. Thêm vào đó, cơ chế phân công, phân nhiệm, trả lương, thưởng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa khuyến khích cán bộ thẩm định phấn đấu trở thành các chuyên gia thẩm định giỏi và thực hiện tốt nhất trách nhiệm của mình đối với Hệ thống. Ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, viên chức trong việc quản lý thẩm định, đồng hành cùng với chủ đầu tư, với doanh nghiệp chưa thật tốt. Về việc cung cấp thông tin phục vụ công tác thẩm định Công tác xây dựng hệ thống thông tin phục vụ thẩm định, quản lý tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng chưa được triển khai mang tính chất hệ thống nên chưa đủ khả năng cung cấp thông tin đầy đủ phục vụ công tác thẩm định trong toàn hệ thống NHPTVN. Thêm vào đó, NHPTVN chưa có cơ chế phối hợp, trao đổi, mua bán thông tin phòng ngừa rủi ro với các tổ chức trong và ngoài nước. 1.2.5.2. Nguyên nhân Những tồn tại kể trên tại NHPTVN có thể kể đến những nguyên nhân chính yếu sau: Nguyên nhân khách quan NHPTVN cùng với các cơ quan có liên quan trong quá trình thực hiện có trách nhiệm thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Chính vì vậy, nhiệm vụ của Nhà nước đặt ra cho NHPTVN là khá nặng nề. Cùng với đó, những quy định chi tiết mà Nhà nước đặt ra cho NHPTVN trong quá trình thực hiện tín dụng ĐTPT là mang tính ràng buộc khá cao, làm giảm tính chủ động trong hoạt động của Ngân hàng. Thêm vào đó, các NĐ quy định về tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường xuyên thay đổi. Từ năm 2006 đến năm 2008 đã có tới ba NĐ quy định về tín dụng ĐTPT, trong đó NĐ này lại sửa đổi lại NĐ kia. Sau mỗi lần sửa đổi, những quy định về đối tượng vay vốn, lãi suất vay, mức vốn cho vay lại thay đổi theo. Điều này tạo ra không ít khó khăn cho NHPTVN. Vì chỉ trong vòng khoảng một năm, Ngân hàng chưa kịp thích nghi NĐ này thì đã có NĐ khác ban hành. Những bất cập này sẽ làm giảm đáng kể hiệu quả hoạt động cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước nói chung và hoạt động thẩm định cho vay nói riêng. Nguyên nhân chủ quan NHPTVN mới chỉ chuyển đổi mô hình hoạt động được gần ba năm. Trong những năm đầu đi vào hoạt động, mô hình tổ chức cũ tỏ ra khá hiệu quả. Tuy nhiên, cùng với nhiệm vụ mà Nhà nước giao ngày một nặng nề, mô hình cũ tỏ ra không hiệu quả khi số phòng ban không đủ để thực hiện công việc dẫn đến mỗi cán bộ phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ cùng lúc. Thực tế hiện nay tại Hội sở chính đảm nhận công tác thẩm định có ba ban là: Ban Tín dụng đầu tư, Ban Thẩm định và Trung tâm khách hàng. Theo đó các mảng nghiệp vụ trong quy trình thẩm định đã được phân công riêng cho 3 đơn vị này thực hiện. Việc xem xét, đánh giá năng lực khách hàng, chủ đầu tư được giao cho Trung tâm khách hàng. Thành tích của Trung tâm khách hàng được ghi nhận khi kéo được nhiều khách hàng về. Muốn vậy Trung tâm phải có chính sách "ưu ái" để lôi kéo và "giữ chân" khách hàng. Do đó trong khâu thẩm định này chắc chắn sẽ có nhiều khả năng rủi ro đạo đức và rủi ro nghề nghiệp. Riêng mảng thẩm định hiệu quả kinh tế kỹ thuật của các dự án, do tính đặc thù lĩnh vực, ngành nghề đầu tư rộng, trong khi đó, số cán bộ làm việc tại Ban Thẩm định còn khá ít nên sẽ không đảm nhận một cách hiệu quả vai trò của mình. CHƯƠNG II MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TÍN DỤNG ĐTPT CỦA NHÀ NƯỚC TẠI NHPTVN 2.1. Định hướng cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong thời gian tới Xuất phát từ mục tiêu của tín dụng ĐTPT của Nhà nước, trong thời gian tới, tín dụng ĐTPT cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển năng lượng Trong thời gian tới, phát triển năng lượng phải đi trước một bước, đảm bảo an toàn năng lượng để phát triển sản xuất và tiêu dùng dân cư. Tuy nhiên, đầu tư vào lĩnh vực năng lượng thường đòi hỏi nguồn vốn lớn, khả năng thu hồi vốn chậm, nguồn vốn cho vay lại thường chỉ đáp ứng được trong ngắn hạn. Vì thế, muốn phát triển ngành năng lượng trong tương lai cần có sự hỗ trợ lớn từ nguồn vốn tín dụng ĐTPT. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển khoa học công nghệ Hiện nay, trình độ khoa học công nghệ của nước ta còn ở mức rất thấp. Vì vậy, trong thời gian tới, tín dụng ĐTPT nên tập trung hỗ trợ cho những lĩnh vực cơ bản nhằm cải thiện trình độ khoa học công nghệ nước nhà. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước nên tập trung hỗ trợ đối với các dự án nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, công nghệ tự động hóa, công nghệ vi sinh, công nghệ vật liệu mới, bảo quản sau thu hoạch và chế biến nông sản, dịch vụ khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển ngành cơ khí trọng điểm Nếu so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới, ngành cơ khí nước ta đang ở trình độ rất thấp, công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ và chưa được đầu tư thích đáng. Chính vì lẽ đó, trong thời gian tới, ĐTPT ngành cơ khí ở nước ta cần có trọng tâm, trọng điểm, cần xác định thứ tự ưu tiên, ưu đãi đối với một số bộ phận quan trọng. Do vậy, trong thời gian tới tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong lĩnh vực cơ khí nên tập trung cho các dự án đầu tư thuộc những lĩnh vực trọng điểm sau: Cơ khí phục vụ nông nghiệp; Phát triển ngành sửa chữa tàu biển và cơ khí đóng mới; Chế tạo các dây chuyền thiết bị có trình độ tiên tiến; Nội địa hóa phần lớn phụ tùng lắp ráp các loại. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển các khu công nghiệp Để khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghệ cao thì cần phải mở rộng để cơ cấu lại nền kinh tế. Vì vậy, tín dụng ĐTPT của Nhà nước ngoài việc hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, khu chế xuất, còn cần phải tham gia đầu tư vào các công trình hạ tầng kinh tế - kỹ thuật ngoài hàng rào, ví dụ như: đường giao thông, điện, nước, và các dự án cơ sở hạ tầng khác Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển nông – lâm – ngư nghiệp và kinh tế trang trại Nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành nền nông nghiệp hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái trên từng vùng, ngoài việc kêu gọi đầu tư tư nhân còn cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Trong thời gian tới, tín dụng ĐTPT của Nhà nước tập trung đầu tư đối với các dự án thuộc các ngành: - Phát triển kinh tế trang trại; - Đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ; - Trồng và chế biến các sản phẩm nông nghiệp, cây công nghiệp, cây lâu năm, cây ăn quả, trồng rừng nguyên liệu tập trung, chăn nuôi gia súc lớn; - Sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu vi sinh; - Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với định hướng phát triển đất nước, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; - Xây dựng cơ sở chế biến nông lâm thủy sản, xây dựng cơ sở làm muối, đặc biệt chú trọng chế biến hải sản, lương thực, thịt sữa, dầu thực vật. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với sản xuất, chế biến, kinh doanh xuất khẩu Nhằm nâng cao chất lượng của hàng hóa chế biến xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng nông sản, trong những năm tới, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cần hỗ trợ đối với các dự án sản xuất chế biến, kinh doanh những nhóm mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của đất nước và có thị trường tiêu thụ. Nhà nước nên chú trọng hỗ trợ đối với các dự án đầu tư chế biến, nâng cao chất lượng gạo, cao su, cà phê, thủy sản, lâm sản; các dự án sản xuất hàng dệt may, da giầy; các dự án sản xuất hàng điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính xuất khẩu. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển kinh tế - xã hội các vùng có điều kiện khó khăn và thực hiện công bằng xã hội Các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thường ít thu hút thu được nguồn vốn đầu tư từ khu vực nước ngoài và tư nhân do cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí thấp, nguồn tài nguyên nghèo nàn Vì thế, Nhà nước cần lưu ý đầu tư vào các khu vực này để đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa các vùng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Nhà nước không nhất thiết phải tập trung đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn mà trong điều kiện nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, Nhà nước nên tập trung đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực, khu vực kinh tế năng động làm “đầu tàu” lôi kéo các vùng kinh tế khác. Tóm lại, tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong thời gian tới cần tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh và những dự án mang tính “bản lề” phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Thực hiện những định hướng đó và căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ để Nhà nước có thứ tự ưu tiên, đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. 2.2. Định hướng công tác thẩm định của NHPTVN trong thời gian tới Sau 3 năm thành lập, đến nay NHPTVN đã dần ổn định tổ chức bộ máy hoạt động hướng tới tính chuyên nghiệp; điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, chất lượng đội ngũ cán bộ được tăng cường và củng cố. Định hướng hoạt động giai đoạn đến 2020 của NHPTVN được thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như sau: - Nguồn vốn trong nước hàng năm chiếm khoảng 50 - 60% tổng nguồn vốn hoạt động giai đoạn trước năm 2010; chiếm khoảng 60 - 70% tổng nguồn vốn hoạt động giai đoạn sau năm 2010; - Tổng số vốn cung ứng (vốn trong nước và vốn ODA cho vay lại) cho nền kinh tế chiếm trung bình 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm; - Số huy động mới vốn trong nước hàng năm chiếm bình quân 42% nguồn vốn trong nước. Đến cuối năm 2010, số dư nguồn vốn huy động bằng trái phiếu chiếm 80% tổng nguồn vốn trong nước. NHPTVN phấn đấu trong giai đoạn 2011- 2015, vốn huy động bằng trái phiếu chiếm khoảng 90% tổng nguồn vốn; - Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đạt dưới 5% (nợ xấu được xác định theo tiêu chuẩn phân loại nợ của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế); - Tỷ lệ an toàn vốn đến năm 2020 đạt yêu cầu theo chuẩn mức quốc (≥ 8%). Để đạt được mục tiêu đề ra, định hướng công tác thẩm định tín dụng của toàn hệ thống NHPTVN trong giai đoạn tới là: - Nâng cao chất lượng thẩm định: + Lấy chất lượng thẩm định tín dụng làm thước đo để đánh giá năng lực trình độ hiệu quả đối với cán bộ thẩm định. Giảm thiểu tối đa mọi sai sót trong khâu thẩm định, kịp thời nắm bắt những thông tin liên quan đến công tác thẩm định, đảm bảo công tác thẩm định được thực hiện một cách hiệu quả; + Không quyết định cấp tín dụng cho những đơn vị làm ăn kém hiệu quả, phương án sản xuất kinh doanh không rõ ràng, có nợ nần dây dưa đối với Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. - Thực hiện thẩm định các dự án đảm bảo rút ngắn dần về thời gian, với chất lượng cao nhằm đáp ứng kịp thời cho nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp; - Chú trọng công tác thẩm định sau cho vay, làm tốt công tác kiểm tra chuyên đề thẩm định; - Quán triệt tư tưởng đến cán bộ mở rộng công tác giới thiệu, quảng bá hình ảnh của NHPTVN, đi sâu học hỏi nghiệp vụ tránh cái nhìn chủ quan khi thẩm định tín dụng; - Đến năm 2020, các cán bộ thẩm định phải là những chuyên gia thẩm định trong từng lĩnh vực đầu tư hẹp. Hệ thống thông tin phục vụ công tác thẩm định tín dụng phải được xây dựng khai thác hiệu quả trong toàn ngành. Công tác thẩm định tín dụng phải được chuẩn hoá theo tiêu chuẩn thẩm định của các ngân hàng hiện đại. Sổ tay nghiệp vụ thẩm định phải được xây dựng bảo đảm cho công tác quản lý theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001; - NHPTVN tham mưu được cho Chính phủ về định hướng đầu tư về ngành nghề, vùng, lãnh thổ, dự án đầu tư. 2.3. Quan điểm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của NHPTVN Chất lượng, hiệu quả, an toàn trong hoạt động tín dụng là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng nói chung cũng như đối với NHPTVN. Những điều kiện đó chỉ có thể có được bắt đầu từ công tác thẩm định tín dụng và nó được quyết định bởi chất lượng thẩm định dự án. Nếu cho vay một dự án không đảm bảo hiệu quả, hậu quả đầu tiên là Ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và lãi vay. Sau đó, dự án không hiệu quả sẽ gây ra tổn hại cho nền kinh tế. Vì vậy, chất lượng của công tác thẩm định cần phải được đặt lên hàng đầu. Là một ngân hàng của Chính phủ thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, NHPTVN cần phải có những chính sách riêng biệt đặc thù của mình nhằm hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ. Việc thực hiện công tác thẩm định đảm bảo chất lượng và tiến độ sẽ giảm thiểu rủi ro trong đầu tư, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đồng thời góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHPTVN. Thời gian vừa qua NHPTVN tiếp tục đẩy mạnh và chú trọng đến chất lượng công tác thẩm định các dự án nhưng nhìn chung kết quả chưa đạt được như mong muốn. Để nâng cao chất lượng thẩm định trong thời gian tới, quan điểm của NHPTVN về công tác thẩm định được thể hiện qua các mặt sau: - Toàn hệ thống NHPTVN cần nhận thức đúng vị trí, vai trò và nội dung của công tác thẩm định dự án. Đối với hoạt động của các ngân hàng nói chung, thẩm định đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định cho vay của các ngân hàng, điều này lại càng quan trọng đặc biệt đối với NHPTVN có đối tượng vay vốn phần lớn là các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế tài chính không cao, khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao, nhưng mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội; - Với đặc thù là ngân hàng của Chính phủ, thẩm định tín dụng trong hệ thống NHPTVN phải được thực hiện theo chế độ riêng biệt. Đó là thẩm định đối với các dự án có sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước, phù hợp với các quy định của Nhà nước và thông lệ quốc tế; - Quan tâm củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức thẩm định dự án và đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thẩm định; tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ thẩm định cho cán bộ thẩm định và bồi dưỡng, trao đổi nghiệp vụ chuyên môn, nhằm tăng cường chất lượng của đội ngũ cán bộ thẩm định; - Qua công tác thẩm định, NHPTVN phải đánh giá được dự án trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia và đáp ứng các lợi ích kinh tế xã hội của đất nước trong một thời kỳ góp phần thực hiện nhiệm vụ điều tiết của Nhà nước trong đầu tư, bảo đảm sự cân đối hài hòa giữa lợi ích kinh tế xã hội của quốc gia và lợi ích của chủ đầu tư, cũng như đảm bảo an toàn tín dụng cho NHPTVN; - Hoàn thiện quy trình, phương pháp triển khai thực hiện công tác thẩm định trong toàn hệ thống, áp dụng các phương pháp tiên tiến hiện đại trong việc thẩm định dự án của các ngân hàng trong và ngoài nước; - Đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại để tăng tính hiệu quả của hoạt động tín dụng, thích ứng và phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế; - Tổ chức các cuộc kiểm tra chuyên đề về công tác thẩm định dự án, đồng thời đẩy mạnh công tác kiểm tra, thẩm định lại dự án sau cho vay. 2.4. Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của NHPTVN 2.4.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách Trong thời gian tới, NHPTVN nên sửa đổi, hoàn thiện quy chế, sổ tay nghiệp vụ và các điều kiện khác để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng; nghiên cứu xây dựng quy chế, quy trình, sổ tay nghiệp vụ thẩm định dự án phù hợp với các quy định mới, đồng thời khắc phục được những vướng mắc, khó khăn trong công tác thẩm định. Cụ thể như sau: - Mẫu biểu hoá các nội dung thẩm định để cán bộ thẩm định có các mẫu biểu cụ thể; có những kiến nghị chi tiết cụ thể hơn, kể từ khi tiếp nhận hồ sơ của Chủ đầu tư cho đến khi có ý kiến thẩm định chính thức của Ngân hàng; - Bổ sung báo cáo năng lực của chủ đầu tư bảo đảm có thể phản ánh tương đối đầy đủ các chỉ tiêu định tính và định lượng liên quan làm cơ sở dữ liệu để xem xét trong quá trình thẩm định; - Bổ sung hệ thống các yêu cầu nội dung cụ thể về năng lực chủ đầu tư, dùng làm tư liệu cho công tác thẩm định thông qua hệ thống các yêu cầu bắt buộc cán bộ thẩm định phải tìm hiểu về năng lực, kinh nghiệm, uy tín, tình hình đầu tư, đóng thuế ,tài chính... của chủ đầu tư. 2.4.2. Bổ sung, đổi mới phương pháp thẩm định Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, NHPTVN cần nghiên cứu sử dụng hiệu quả các phương pháp sau quá trình thẩm định dự án: - NHPTVN nên đưa vào quy trình thẩm định bước thẩm định sơ bộ để loại bỏ một phần đáng kể các dự án không bảo đảm điều kiện vay vốn theo quy định; - Trong thời gian tới, phương pháp phân tích độ nhạy nên được NHPTVN quan tâm đúng mức, nhằm nâng cao hiệu quả cho phương pháp; - Ngoài việc thẩm định các nội dung của khách hàng vay vốn, trong chu trình thẩm định dự án nên đề cập đến các chỉ số dự báo trước khi cho vay như: giá vàng, tỷ giá, lạm phát và các biến cố có thể dự đoán trong tương lai về kinh tế, chính trị, xã hội. Trên cơ sở đó, cán bộ thẩm định cần có kiến nghị cụ thể về sự cần thiết bổ sung những nhân tố trên trong quy trình thẩm định khách hàng. Đây chính là nội dung của phương pháp dự báo mà trong thời gian tới, NHPTVN nên áp dụng để tăng hiệu quả công tác thẩm định. - Trong thẩm định nên đưa ra nhiều tình huống rủi ro mà dự án có thể gặp phải và đưa ra biện pháp xử lý. Theo đó, trong công tác thẩm định dự án đầu tư nên xây dựng được các nhân tố rủi ro: định nghĩa, phân loại sự cố, mô phỏng các tình huống của sự cố và các hành động cụ thể để ứng phó; triển khai tiếp nhận những hỗ trợ kỹ thuật về quản trị rủi ro, trong đó bao gồm cả nâng cao trình độ quản trị rủi ro của các cán bộ trong Ngân hàng. Hay nói cách khác, NHPTVN nên áp dụng phương pháp triệt tiêu rủi ro cho công tác thẩm định trong thời gian tới. 2.4.3. Bổ sung, hoàn chỉnh nội dung thẩm định Trong thời gian tới, NHPTVN nên chú trọng đến việc phân tích, đánh giá các yếu tố liên quan đến thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm đặc biệt là các kết luận về kinh tế kỹ thuật có tính chuyên ngành. Bên cạnh đó, NHPTVN nên sử dụng đa dạng các căn cứ, cơ sở để thẩm định, tăng cường công tác tìm tòi, khai thác các thông tin về kinh tế kỹ thuật. NHPTVN chú trọng hơn vào việc phân tích năng lực chủ đầu tư, bổ sung quy định về thẩm định năng lực khách hàng mới thành lập. Khi thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định nên hướng dẫn cụ thể nội dung và trình tự của quy trình thẩm định và các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tài chính của dự án như: - Tổng số vốn đầu tư; - Thị trường đầu vào và đầu ra của dự án, khả năng cạnh tranh và các sản phẩm thay thế, phương án phân phối và tiêu thụ; - Tính khả thi của các nguồn vốn tham gia đầu tư dự án trong đó có nguồn vốn tự có; - Địa điểm xây dựng và các điều kiện hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào dự án, tiến độ thực hiện và tính đồng bộ của các cơ sở vật chất kỹ thuật ngoài hàng rào dự án; - Phân tích độ nhạy nhận biết rủi ro của dự án để đề xuất những biện pháp dự phòng và quản lý rủi ro phù hợp: rủi ro về tiến độ thực hiện, rủi ro về thị trường, rủi ro về môi trường sinh thái, lạm phát, tỷ giá, rủi ro về đạo đức... - Bổ sung một số chỉ tiêu tài chính liên quan tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh như các chỉ tiêu về ROA (tỷ suất lợi nhuận trước thuế kể cả lãi vay/tài sản), ROE (tỷ suất lợi nhuận trước thuế kể cả lãi vay/nguồn vốn)... - Nhận biết những mục tiêu đầu tư khác của chủ đầu tư đối với dự án này (chính trị, xã hội, môi trường,...). Thêm vào đó, công tác thẩm định nên được tiến hành thường xuyên, cả thẩm định trong và sau giải ngân. Tiếp nhận và thẩm định khách hàng bước đầu NHPTVN nên quy định cụ thể về việc thẩm định khách hàng bước đầu trước khi tiến hành bước thẩm định kỹ lưỡng. Việc quy định này để tránh lãng phí thời gian và công sức khi việc thẩm định sơ bộ chưa bảo đảm điều kiện vay vốn và khách hàng phải tiếp xúc với Ngân hàng nhiều lần (trong trường hợp chưa có hệ thống tư vấn tài chính đầu tư từ phía NHPTVN). Thẩm định bước đầu nên có những nội dung cơ bản khi thực hiện tìm hiểu và phỏng vấn khách hàng: - Những thông tin chung về năng lực pháp lý của khách hàng (năng lực pháp lý, quy mô, lịch sử, điều kiện địa lý, trình độ công nghệ, kỹ thuật, sản phẩm, tên tuổ, vị trí, mô hình tổ chức...); - Năng lực quản lý điều hành và uy tín của khách hàng (Ban Lãnh đạo, kinh nghiệm, mối quan hệ trong nội bộ và với bạn hàng, tổ chức tín dụng, uy tín của Ban Lãnh đạo, chủ sở hữu doanh nghiệp...). Thẩm định năng lực khách hàng và xếp hạng tín dụng NHPTVN cần sớm hình thành cho mình hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Quy trình đánh giá, xếp hạng khách hàng có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Quy trình đánh giá, xếp hạng khách hàng tại NHPTVN Ý kiến tham gia, phê chuẩn Thu thập thông tin Nhập thông tin vào hệ thống dữ liệu Đề xuất xếp hạng Hoàn chỉnh, bổ sung Lưu trữ hồ sơ và hệ thống thông tin dự phòng rủi ro Quy trình đánh giá, xếp hạng khách hàng tại NHPTVN sẽ bắt đầu từ việc thu thập thông tin về khách hàng. Các thông tin này có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, những cần đảm bảo tính xác thực của nguồn thông tin. Tiếp theo, thông tin sẽ được nhập vào hệ thống dữ liệu. Các thông tin này sau đó được đề xuất xếp hạng bởi các cán bộ của Ngân hàng. Sau đó, các thông tin này sẽ được bổ sung và hoàn chỉnh. Trong quá trình này có ý kiến tham gia, phê chuẩn của các đơn vị liên quan. Mục đích xếp hạng tín dụng của khách hàng gồm: quyết định cấp tín dụng với các điều kiện phù hợp với đặc điểm và khả năng của từng khách hàng vay vốn và giám sát, theo dõi để có biện pháp trích lập và xử lý rủi ro kịp thời và chính xác. Trước mắt, NHPTVN nên có hệ thống đánh giá và xếp hạng tín dụng tương đối đơn giản. Sau thời gian thực hiện sẽ hoàn thiện hệ thống tiêu chí, cơ cấu điểm, điều kiện cho vay... quy mô và bài bản. Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay Tài sản bảo đảm tiền vay phải là điều kiện quan trọng trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm trả nợ của các khách hàng. Quy định thẩm định bảo đảm tiền vay cần bao hàm đầy đủ các nội dung có liên quan đến quá trình thực hiện. Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay được thực hiện cùng với quá trình thẩm định dự án đầu tư. Do đó, công tác cần được quan tâm đúng mức để đảm bảo hiệu quả của công tác thẩm định cho vay. 2.4.4. Cơ cấu lại tổ chức, bộ máy Cũng như các hoạt động khác của NHPTVN, điều kiện về mô hình tổ chức đóng vai trò quan trọng trong công tác thẩm định các dự án đầu tư. Vì vậy, một trong các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định là tiếp tục đánh giá, hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện công tác thẩm định. Với đặc thù hoạt động của NHPTVN theo nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao theo từng thời kỳ nên đối tượng, lĩnh vực các ngành nghề dự án đầu tư vay vốn tại NHPTVN thường xuyên thay đổi và hầu như được bao trùm trong tất cả các ngành kinh tế của đất nước. NHPTVN phải có đủ năng lực để thẩm định có chất lượng các dự án thuộc tất cả các chuyên ngành kinh tế. Do đó công tác thẩm định dự án nên được chuyên môn hoá theo các lĩnh vực, ngành nghề, đồng thời nên tổ chức và điều hành công tác thẩm định một cách hợp lý và khoa học trong quy trình thẩm định dự án. Có như vậy thì mới hạn chế được rất nhiều những công đoạn không cần thiết, phát huy mặt tích cực của từng cá nhân và cả tập thể, giảm thiểu những chi phí hoạt động và tiết kiệm về mặt thời gian. Bên cạnh đó, NHPTVN cần lưu ý nguyên tắc "được kiểm soát" trong mọi vấn đề từ thẩm định đến quyết định và quản lý tín dụng. Theo đó, nếu để Trung tâm khách hàng thẩm định năng lực khách hàng thì sẽ không bảo đảm tính khách quan. Chính vì vậy, nên xem xét và phân công lại trách nhiệm rõ ràng hơn trong vấn đề nhạy cảm này. Riêng mảng thẩm định hiệu quả kinh tế kỹ thuật của các dự án, do tính đặc thù lĩnh vực, ngành nghề đầu tư rộng nên tại Hội sở chính nên xem xét cơ cấu lại Ban Thẩm định nhằm nâng cao tính chuyên môn hóa, đảm bảo thực hiện được vai trò của mình trong công tác thẩm định dự án. Việc phân công cán bộ thẩm định phụ trách khách hàng phải theo từng lĩnh vực kinh doanh nhất định vì các dự án đầu tư rất đa dạng thuộc mọi ngành nghề khác nhau với nhiều vấn đề phát sinh không giống nhau. Một cán bộ thẩm định nên chỉ phân công phụ trách một hoặc một số ngành nghề nhất dịnh để có điều kiện đi sâu tìm hiểu các vấn đề có liên quan thuộc lĩnh vực mình đảm nhiệm. Có như vậy, khi thẩm định dự án thuộc lĩnh vực mình phụ trách, cán bộ thẩm định sẽ dễ dàng thu thập thông tin và thẩm định có chất lưọng hơn từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn nhất trong quá trình thẩm định. Một vấn đề nữa trong công tác tổ chức là việc phân cấp thẩm định. Phân cấp thẩm định cần thực hiện dần dần trên cơ sở khả năng của người được phân cấp và mức độ rủi ro của khoản vay. Nguyên tắc phân cấp thẩm định và quyết định cho vay: - Bảo đảm phù hợp với trình độ quản lý; - Hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng; - Không tập trung toàn bộ quyền lực vào một người, một cá nhân; - Việc phân cấp thẩm định và quyết định cho vay phải được định kỳ hàng năm xem xét và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế; - Cải cách và hạn chế tối đa thủ tục hành chính, bảo đảm phục vụ tốt nhất mục tiêu của nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước; - Phân cấp thẩm định và quyết định cho vay phải đảm bảo phù hợp với mức độ tín nhiệm của từng loại khách hàng trên cơ sở phân loại và chấm điểm tín dụng cho khách hàng. 2.4.5. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Trong thẩm định dự án nói chung, con người luôn là trung tâm, quyết định chất lượng thẩm định. Do đó trình độ của cán bộ thẩm định phải đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, đó là phải có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiến, đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh vững vàng. Cụ thể là: - Về năng lực chuyên môn: cán bộ thẩm định phải có trình độ đại học trở lên, có các kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, hoạt động tài chính và pháp luật, thông thạo ngoại ngữ và công nghệ thông tin liên quan đến lĩnh vực thẩm định. Mỗi cán bộ không những phải thường xuyên nghiên cứu, học tập nắm vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác; - Về đạo đức nghề nghiệp, cán bộ thẩm định phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất, đạo đức, trung thực, có tính kỷ luật cao, tinh thần trách nhiệm trong công việc, có tâm huyết với nghề nghiệp. - NHPTVN nên tăng cường công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn về thẩm định dự án, nâng cao chất lượng cán bộ; quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, có chế độ trả lương tương xứng. 2.4.6.Tăng cường chất lượng thông tin phục vụ công tác thẩm định Ngoài những giải pháp trên, NHPTVN cũng nên chú trọng nâng cao chất lượng thông tin thu thập phục vụ cho quá trình thẩm định, đảm bảo thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời. Để giải quyết vấn đề này, cần xây dựng một hệ thống thông tin hoàn diện có chiều sâu, cụ thể như sau: - Những thông tin về chủ đầu tư, doanh nghiệp: ngoài các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp cung cấp, dự án đầu tư xây dựng công trình hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi, cán bộ thẩm định có thể lấy thông tin bằng cách điều tra nơi hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư và phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ của dự án. Điều này sẽ đảm bảo khi thẩm định có được những thông tin thực tế nhất. - Những thông tin sẵn có: một ngân hàng có thể lưu trữ hồ sơ tập trung của người vay vốn, từ đó có thể nhận được thông tin về tín dụng. Ví dụ như từ sổ sách có thể cho biết việc chi trả về những khoản cho vay trước đây, số dư tài khoản tiết kiệ và tài khoản séc và cũng có thể biết được liệu người xin vay có thói quen rút quá số dư tài khoản của họ không. - Những nguồn thông tin bên ngoài: thông tin về thị trường sản phẩm, thông tin về kỹ thuật công nghệ và môi trường, từ bạn bè của người xin vay, từ các đối thủ cạnh tranh, từ báo chí, phương tiện truyền thông, các bộ ngành liên quan... Ngoài ra, NHPTVN cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình thẩm định bằng các máy tính hiện đại và các phần mềm chuyên dụng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các quy trình ngân hàng là một yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự thành công của một ngân hàng trong giai đoạn như hiện nay. Đặc biệt trong nghiệp vụ thẩm định dự án, mà ở đó việc tính toán rất khó khăn và phức tạp mà việc tính toán thủ công sẽ tốn nhiều thời gian và công sức. Bên cạnh đó, NHPTVN cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tín dụng trong toàn hệ thống. Việc này nhằm tránh những sai phạm trong việc thực hiện các quy định liên quan đến hoạt động thẩm định. KẾT LUẬN Nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng đối với một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như ở nước ta. Để xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của kinh tế, chúng ta cần một lượng vốn đủ lớn. Hiện nay, nước ta đang huy động vốn bằng nhiều nguồn, trong đó đặc biệt quan trọng là nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước và huy động từ các tổ chức quốc tế. Ngân hàng Phát triển Việt Nam chính là một cơ quan cấp phát vốn quan trọng cho các dự án sản xuất kinh doanh, đầu tư cơ sở hạ tầng. Để đảm bảo việc sử dụng vốn có hiệu quả, tránh thất thoát và lãng phí, công tác thẩm định trong Ngân hàng lại đặc biệt phải được chú trọng. Với tình trạng sử dụng vốn còn chưa hiệu quả như hiện nay, công tác thẩm định để chọn lựa những dự án mang lại lợi ích cao cho nền kinh tế càng nên được quan tâm đúng mức. Trong thời gian tới, với sự hoàn thiện của cơ chế hàng lang pháp luật, hy vọng công tác thẩm định sẽ phát triển lên một mức cao hơn, đáng tin cậy hơn. Luận văn một lần nữa muốn khẳng định tầm quan trọng của công tác thẩm định dự án trong Ngân hàng Phát triển Việt Nam nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Mai Hương – giảng viên khoa Đầu tư cùng các cán bộ tại Hội sở chính Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Nội san Giới thiệu 2. Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2006, 2007 3. Ngân hàng Phát triển Việt Nam, website chính thức: 4. Ngân hàng Phát triển Việt Nam, báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2008, phương hướng và giải pháp triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 2009 5. Ngân hàng Phát triển Việt Nam, giải pháp tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ Phát triển 6. PGS. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007 7. TS. Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng Phát triển, NXB Lao động – xã hội 2005 8. Các văn bản hướng dẫn thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, NXB Xây dựng 2000 9. Bộ Tài chính, website chính thức: 10. Luật các tổ chức tín dụng (1998), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Website www.vietnamnet.vn, 8% - đáy lãi suất cho vay mới, ngày 31/1/2009 PHỤ LỤC Phụ lục 1: Danh mục các dự án, chương trình vay vốn đầu tư (ban hành kèm theo NĐ số 106/2004/NĐ-CP của Chính phủ) STT CÁC ĐỐI TƯỢNG VAY VỐN ĐẦU TƯ ĐỊA BÀN THỰC HIỆN DỰ ÁN   I- Các dự án cho vay đầu tư theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt: 01 Các dự án trồng rừng nguyên liệu giấy, bột giấy, ván nhân tạo tập trung gắn liền với các doanh nghiệp chế biến.   Địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn theo danh mục B, C quy định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi), sau đây gọi tắt là địa bàn B và C. 02 Các dự án sản xuất giống gốc, giống mới sử dụng công nghệ cao.  Không phân biệt địa bàn 03 Các dự án cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt.   Không phân biệt địa bàn 04 Các dự án đầu tư sản xuất và chế biến muối công nghiệp. Không phân biệt địa bàn 05 Các dự án đầu tư sản xuất kháng sinh.  Không phân biệt địa bàn 06 Các dự án đầu tư trường dạy nghề; Khu vực nông thôn 07 Các dự án đầu tư nhà máy dệt, in nhuộm hoàn tất. Không phân biệt địa bàn 08 - Các dự án sản xuất phôi thép từ quặng, thép chuyên dùng chất lượng cao. - Các dự án khai thác và sản xuất nhôm. Không phân biệt địa bàn 09 - Các dự án sản xuất ôtô chở khách loại 25 chỗ ngồi trở lên với tỷ lệ nội địa hoá tối thiểu 40%. - Các dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt tại các cơ sở sản xuất trong nước. - Các dự án sản xuất và lắp ráp đầu máy xe lửa. - Các dự án đầu tư nhà máy đóng tàu biển.              Không phân biệt địa bàn 10 Các dự án sản xuất động cơ diesel loại từ 300CV trở  lên. Không phân biệt địa bàn 11 - Các dự án sản xuất sản phẩm cơ khí nặng, mới. - Các dự án đúc với quy mô lớn. Không phân biệt địa bàn 12 Các dự án xây dựng các nhà máy thuỷ điện lớn: Phục vụ cho di dân và chế tạo thiết bị trong nước.    Địa bàn B và C. 13 Các dự án sản xuất phân đạm, DAP. Không phân biệt địa bàn 14 Vốn đối ứng các dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại. Không phân biệt địa bàn II. Chương trình, mục tiêu đặc biệt của Chính phủ thực hiện theo phương thức ủy thác: - Kiên cố hoá kênh mương. - Cho vay phần tôn nền diện tích xây dựng nhà ở cho các hộ dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.  - Các chương trình khác (kể cả cho vay lại vốn ODA).  Theo ủy quyền của Chính phủ. Phụ lục 2: Danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư (ban hành kèm theo NĐ số 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ) STT NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC I Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt và cầu đường sắt 2 Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh hoạt 3 Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề 4 Dự án xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho công nhân lao động trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất; ký túc xá cho sinh viên 5 Dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế: mở rộng, nâng cấp, đầu tư thiết bị, xây dựng mới bệnh viện 6 Dự án đầu tư mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề 7 Dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật tại làng nghề tiểu thủ công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề ở nông thôn II Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án xây dựng mới, mở rộng cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung; cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung 2 Dự án phát triển giống thuỷ, hải sản; đầu tư hạ tầng nuôi trồng thuỷ, hải sản 3 Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản: - Phôi thép, gang có công suất tối thiểu 200 nghìn tấn/năm; - Sản xuất Alumin có công suất tối thiểu 300 nghìn tấn/năm; sản xuất nhôm kim loại có công suất tối thiểu 100 nghìn tấn/năm; - Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm; - Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm; - Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn tấn/năm. 2 Dự án sản xuất động cơ Diezel từ 300CV trở lên 3 Dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa 4 Dự án đầu tư bào chế, sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc cai nghiện, vắc xin thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS 5 Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ công suất nhỏ hơn hoặc bằng 100MW; xây dựng nhà máy điện từ gió 6 Dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi ngang V Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ Phụ lục 3: Danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư (ban hành kèm theo NĐ số 106/2008/NĐ-CP ngày 19 tháng 9 năm 2008 của Chính phủ) STT NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC I Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt. 2 Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề. 3 Dự án xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho công nhân lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất; ký túc xá cho sinh viên. 4 Dự án đầu tư hạ tầng, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới và thiết bị trong lĩnh vực xã hội hóa: giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường thuộc Danh mục hưởng chính sách khuyến khích phát triển theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. II Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án xây dựng mới và mở rộng cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung. 2 Dự án phát triển giống thuỷ, hải sản. 3 Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp. III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản: - Sản xuất Alumin có công suất tối thiểu 300 nghìn tấn/năm; sản xuất nhôm kim loại có công suất tối thiểu 100 nghìn tấn/năm; - Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm; - Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm; - Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn tấn/năm. 2 Dự án sản xuất động cơ Diezel từ 300CV trở lên. 3 Dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa. 4 Dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh từ công đoạn nguyên liệu ban đầu đến thành phẩm, thuốc cai nghiện, vắc xin thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS; sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP. 5 Dự án đầu tư xây dựng nhà máy điện từ gió, Dự án đầu tư xây dựng nhà máy phát điện sử dụng các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo. 6 Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ, với công suất nhỏ hơn hoặc bằng 50 MW thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 7 Dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm. IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi ngang (không bao gồm các dự án thủy điện (trừ các dự án nêu tại điểm 6 Mục III của Danh mục này), dự án nhiệt điện, sản xuất xi măng, sắt thép; dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt và cầu đường sắt). V Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NHPTVN: Ngân hàng Phát triển Việt Nam NHPT: Ngân hàng Phát triển ĐTPT: Đầu tư phát triển NĐ: Nghị định TW: Trung ương KCN: Khu công nghiệp NM: Nhà máy SXKD: Sản xuất kinh doanh VLXD: Vật liệu xây dựng CBTP: Chế biến thực phẩm XK: Xuất khẩu DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Phân biệt giữa NHPTVN với các ngân hàng thương mại 7 Bảng 1.2: Tình hình huy động vốn tại NHPTVN giai đoạn 2006 – 2008 17 Bảng 1.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động tại NHPTVN giai đoạn 2006 – 2008 20 Bảng 1.4: Tình hình cho vay đầu tư bằng nguồn vốn trong nước của NHPTVN giai đoạn 2006 - 2008 23 Bảng 1.5 : Tình hình cho vay lại vốn ODA tại NHPTVN giai đoạn 2006 – 2008 24 Bảng 1.6: Tình hình cho vay tín dụng xuất khẩu tại NHPTVN 28 Bảng 1.7: Tình hình hỗ trợ sau đầu tư của NHPTVN 30 Bảng 1.8: Tình hình bảo lãnh đầu tư của NHPTVN 31 Bảng 1.9: Quy mô dự án vay vốn tín dụng ĐTPT tại NHPTVN 36 Bảng 1.10: So sánh sự khác nhau giữa NĐ 106/2004/NĐ-CP, NĐ 151/2006/NĐ-CP và NĐ 106/2008/NĐ-CP 37 Bảng 1.11: Tổng mức đầu tư của của dự án xây dựng hệ thống cấp nước KCN Nam Tân Uyên 55 Bảng 1.12: Cơ cấu nguồn vốn của dự án xây dựng hệ thống cấp nước KCN Nam Tân Uyên 56 Bảng 1.13: Tổng mức đầu tư dự án xây dựng hệ thống cấp nước KCN Nam Tân Uyên 62 Bảng 1.14 : Cân đối nguồn trả nợ của dự án xây dựng hệ thống cấp nước KCN Nam Tân Uyên 65 Bảng 1.15 : Tình hình thẩm định và quyết định cho vay tại NHPTVN 69 Bảng 1.16 : Tình hình cấp vốn cho dự án lọc dầu Dung Quất 76 Bảng 1.17 : Kết quả thẩm định cho vay đối với dự án xi măng và dự án thủy điện tại NHPTVN 77 Bảng 1.18: Tình hình cho vay, giải ngân, thu nợ các dự án vay vốn 78 Bảng 1.19: Bảng tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ tại NHPTVN 78 Bảng 1.20 : Tình hình dư nợ theo các nhóm nợ tại NHPTVN 79 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHPTVN 12 Sơ đồ 1.2. Các hoạt động sử dụng vốn tại NHPTVN 22 Sơ đồ 1.3: Tổ chức bộ máy thực hiện công tác thẩm định tại NHPT 42 Sơ đồ 1.4: Quy trình thẩm định dự án tại Hội sở chính NHPTVN 44 Sơ đồ 1.5: Tóm tắt nội dung thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT tại NHPTVN 52 Sơ đồ 1.6: Tổ chức thực hiện dự án xây dựng hệ thống cấp nước KCN Nam Tân Uyên 61 Sơ đồ 2.1: Quy trình đánh giá, xếp hạng khách hàng tại NHPTVN 101 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1.1: Cơ cấu nguồn vốn tại NHPTVN (2006 – 2008) 19 Biểu đồ 1.2: Số dự án quyết định cho vay tại NHPTVN (2006-2008) 69

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2653.doc
Tài liệu liên quan