Đề tài Thực trạng và giải pháp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

Kể từ ngày lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam 21/9/1973, cho đến năm 1991, Nhật Bản mới quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ thương mại Việt - Nhật đã có những bước phát triển khá tốt đẹp trong thời kỳ 1991 - 2001. Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới (vào APEC, WTO, ASEM.). Tổng số vốn ODA của Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam từ năm 1991đến 2004 là 1.108,1 tỷ yên (trong đó vốn vay: 967 tỷ yên; viện trợ không hoàn lại 81,1 tỷ yên; hợp tác kỹ thuật 60 tỷ yên). Năm 2005, vốn ODA của Nhật Bản tài trợ cho Việt Nam là 835,6 triệu USD trong tổng số vốn ODA 3,747 tỷ USD của các nhà tài trợ, nguồn hỗ trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam. Năm 2006, ODA của Nhật Bản tiếp tục tập trung vào hỗ trợ cải thiện các điều kiện hạ tầng ở Việt Nam. Chính phủ Nhật Bản và Việt Nam đã đồng ý triển khai giai đoạn hai Sáng kiến chung, trong đó chú ý đến những vấn đề liên quan đến vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và thời gian thực hiện có thể kéo dài thêm hai năm nữa. Trưởng đại diện Văn phòng Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội, ông Kenjiro Ishiwata cho biết có năm lý do để các doanh nghiệp Nhật Bản tăng đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, đó là vị trí địa lý (kết nối hai thị trường lớn Trung Quốc và ASEAN), ổn định chính trị, lương nhân công thấp (mức lương hấp dẫn), lao động cần cù, và Việt Nam rất có thiện cảm với Nhật Bản. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản vào Việt Nam đã tăng mạnh cả về các dự án cấp phép mới cũng như các dự án tăng vốn kể từ nửa cuối năm 2004. Theo JETRO, trong 10 tháng đầu năm 2005 đã có 77 dự án FDI mới của Nhật Bản được cấp phép với tổng vốn đầu tư là 259,6 triệu USD. Nhật Bản là nước đứng thứ 5 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam, chiếm hơn 9% tổng số vốn cấp phép mới. Bên cạnh đó, 73 doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt nam cũng đã mở rộng hoạt động của mình với tổng số vốn bổ sung là 409 triệu USD. Hay nói cách khác, Nhật Bản chiếm hơn 24% tổng số vốn bổ sung ở Việt Nam trong thời gian này. Đối với nghề cá Việt Nam, viện trợ của Nhật Bản sẽ được sử dụng ưu tiên cho 14 dự án trong giai đoạn 2006 – 2010.

doc35 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản lý nghề cá xa bờ... II/ Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản 1. Tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2005 của ngành thuỷ sản Năm 2005, toàn thể lao động nghề cá đã quyết tâm cao, nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước và những nhiệm vụ chủ yếu của kỳ kế hoạch 5 năm 2004-2005 theo nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV. Tốc độ tăng trưởng tổng sản lượng bình quân 8,97 %/năm. Năng lực sản xuất toàn ngành tiếp tục tăng, đời sống của cộng đồng ngư dân được cải thiện. 2. Những thuận lợi và khó khăn của ngành * Thuận lợi Trong năm 2005 chính phủ đã ban hành 6 nghị định hướng dẫn thi hành luật Thuỷ sản và các cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục thực hiện các quyết định của Thủ tướng chính phủ triển khai các chương trình phát triển ngành. Về bộ máy tổ chức, cùng với nghị định của thủ tướng chính phủ triển khai các chương trình phát triển ngành. Về bộ máy tổ chức, cùng với nghị định 43/2003/NĐ-CP. Thông tư liên tịch 01/2005/TTLT-BLV-BTS và nghị định 107/2005/NĐ-CP, các tổ chức quản lý thuỷ sản và thanh tra thuỷ sản đã dược triển khai từ trung ương đến các địa phương. Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thị trường thuỷ sản có cơ hội mở rộng và phát triển. Các sản phẩm thủy sản bảo đảm chất lượng, VSATTP và có nguồn gốc xuất xứ vẫn tiêu thụ tốt tại các thị trường quốc tế. Thị trường thuỷ sản nội địa có sức mua ngày càng tăng. Các công trình cơ sở hạ tầng được Nhà nước tập trung đầu tư trong những năm qua cùng với sự đầu tư lớn các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tư nhân, cơ sở vật chất kỹ thuật toàn ngành đã tăng đáng kể, là nền tảng đâỷ mạnh tiến trình thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nghề cá. Lực lượng lao động nghề cá ngày càng phát triển cả về lượng và chất, giàu lòng tâm huyết yêu nước yêu nghề, thi đua lao động sản xuất phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch nhà nước. * Khó khăn Diễn biến của thị trường XKTS ngày càng phức tạp. Xuất hiện nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt không có dư lượng kháng sinh, hoá chất bị cấm trong sản phẩm thuỷ sản. Thời tiết diễn biến bất thường ảnh hướng đến sản xuất thuỷ sản, gây thiệt haị nghiêm trọng cho sản xuất và đời sống của một số bộ phận ngư, nông dân. Việc chuyển dịch đất nông nghiệp kém hiệu quả sang NTTS trong những năm qua diễn ra quá nhanh, dẫn đến quy hoạch không theo kịp, tác động xấu đến môi trường, trong khi đầu hạ tầng không đáp ứng, là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bệnh tôm, cá xảy ra ở nhiều nơi. Môi trường,VSATTP, Hiệu quả sản xuất trở thành những vấn đề rất bức xúc tác động đến phát triển ngành. Năng lực quản lý nhà nước, số lượng và năng lực cán bộ công chức trong ngành còn hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển hội nhập. 3. Thực trạng nuôi trồng thuỷ sản 3.1 - Tiềm năng cho nuôi trồng thuỷ sản(NTTS) * Nuôi trồng thuỷ sản của Việt Nam Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về NTTS với diện tích mặt nước nội địa khoảng 1 triệu ha, vùng triều khoảng 0,7 triệu ha và hệ thống đầm phá ven biển có thể phát triển NTTS. Trong khi diện tích có khả năng NTTS của cả nước ước tính khoảng gần 2 triệu ha thì mới chỉ sử dụng 902.900 ha (năm 2004). Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, NTTS của Việt Nam phát triển rất nhanh. Theo số liệu thống kê, sản lượng thuỷ sản nuôi đã tăng từ 172.900 tấn (1992) lên 1.150.000 tấn (2004), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 19%/năm, cao gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng 6,3 %/năm của sản lượng thuỷ sản khai thác. (Theo Bộ Thuỷ sản và Viện Nghiên cứu thương mại, Bộ Thương mại) Bảng 1. Tổng sản lượng TS, sản lượng NTTS và diện tích NTTS giai đoạn 2000-2004 2002 2003 2004 Giỏ trị 2004 TSL (1000 T.) 2.674,4 2.854,8 3.300 33.999,2 tỷ đ. NTTS(1000 T.) 844,8 988,3 1.150 18.868,3 tỷ đ. % so với TSL 31,9 % 35,0 % 34,8% 55,4 % DT (ha) 797.743 867.613 902.900 năm 2005 1.008,255 Quá trình tăng trưởng sản lượng thuỷ sản diễn ra đồng thời với quá trình tăng trưởng diện tích NTTS. Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn do năng suất nuôi trồng tăng lên. Theo thống kê mới nhất của Vụ Nuôi trồng thuỷ sản, Bộ Thuỷ sản, nếu so sánh năm 2000 với 2005 ta có thể thấy, diện tích NTTS tăng 66 %, nhưng sản lượng tăng 168 %. Bảng 2. Tỷ lệ sản lượng và diện tích các đối tượng thuỷ sản nuôi trồng (năm 2004) Diện tích (DT) (ha) % so với tổng DT Sản lượng (SL) (1000 tấn) % so với tổng SL Tổng số 902.900 100 1.150,1 100 Tôm sú 592.805 65,63 285 24,7 Tôm chân trắng 1,6 0,153 Tôm rảo 3,4 0,295 Tôm càng xanh 3.839 0,43 3,509 0,305 Cá ba sa – cá tra 1.195 0,13 93,910 8,165 Cá rô phi 2.148 0,24 20 1,738 ốc hương 59 0,006 22,211 1,931 Tôm hùm 22.211 lồng 2,352 0,204 Rong biển 4.850 0,53 27,260 2,370 Khác 49,237 Tôm luôn là đối tượng nuôi chủ lực của VN do giá trị XK cao của chúng. Bảng 3: Thống kê của Vụ NTTS, BTS về DT và SL nuôi tôm như sau 2002 2003 2004 2005 Diện tích (ha) 489.475 555.693 592.805 604.479 Sản lượng (T.) 189.184 234.412 290.797 330.826 % so với TSL N 22 % 22 % 23,2 % 21,4 % Năm 2004, tổng diện tích nuôi tôm của cả nước đạt 596.424 ha, chiếm 59,6% diện tích NTTS. Sản lượng tôm nuôi đạt 290.797 tấn, chiếm 26% TSL NTTS. Tuy nhiên, ngành tôm tập trung chủ yếu ở khu vực ĐBSCL với 521.335 ha, sản lượng 229.564 tấn, bằng 76,7% sản lượng tôm nuôi của cả nước. So sánh tỷ lệ tăng trưởng của các loài nuôi, tỷ lệ sản lượng tôm tăng nhanh nhất, từ 14,2% (1995) lên tới 23,8% (2003).Tôm sú là đối tượng nuôi chính, Năm 2004, sản lượng tôm sú 290.501 tấn, giá trị đạt 12.859,5 tỷ đồng, chiếm trên 98% trong số tôm nước lợ. Năng suất nuôi bình quân khoảng 500 kg/ha. Ngoài ra, tôm chân trắng cũng được nhiều nơi quan tâm, năm 2004, SL đạt 1.766 tấn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều e ngại khi muốn phát triển loại tôm này. 3.2 - Cộng nghệ, kỹ thuật và lao động trong nuôi trồng thuỷ sản Trong những năm gần đây, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước và cấp bộ được thực hiện có kết quả. Một số đề tài đã đóng góp vào việc phát triển các lĩnh vực của ngành, bước đầu sản xuất thành công giống thuỷ sản góp phần nâng cao hiệu quả cho nuôi trồng với nhiều loại có giá trị kinh tế cao như các giống tôm, cá nước ngọt... Công nghệ nuôi và các vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trong sản xuất kinh doanh thuỷ sản được chú trọng hơn trong các chương trình nghiên cứu khoa học. Về lao động việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản trong những năm qua đã giải quyết việc làm cho nhiều lao động nghèo ven biển. III - Thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 1. Thị trường Thuỷ sản Nhật Bản Bảng 4: Các nhóm mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu của Nhật Bản, 2002-2005 ĐV : Q= 1000 tấn, V= triệu USD Mặt hàng 2002 2003 2004 2005 Q V Q V Q V Q V Tươi sống 55,4 484 59,3 538 64,3 685 62,9 660 Tươi ướp đỏ hoặc đụng lạnh 2664,6 10144 2310,0 9668 2379,0 10962 2273,0 9675 Muối khụ hoặc xụng khúi 37,9 348 36,9 342 38,7 371 38,0 327 Chế biến són hoặc bảo quản 369,6 2284 355,3 2170 413,4 2836 400,9 2429 Sản phẩm hải sản khỏc 693,5 823 563,9 792 589,6 931 10,4 4751 Tổng cộng 3820,9 14083 3325,3 13510 3485,0 15785 3342,6 13963 Nếu xét theo nhóm sản phẩm nhập khẩu chính, nhóm các sản phẩm tươi, ướp đá hoặc đông lạnh được xếp hàng cao nhất cả về khối lượng và giá trị; sau đó là nhóm các sản phẩm chế biến hoặc bảo quản đứng thứ 2 và nhóm các sản phẩm tưới sống đứng thứ 3. Sau cùng là nhóm các sản phẩm muối khô và xông khói. Bảng 5: Nhập khẩu tụm đụng lạnh (tất cả cỏc loại) vào Nhật Bản 2002– 2005 Đơn vị: tấn Cỏc dạng sản phẩm 2002 2003 2004 2005 Sống 406 293 383 271 Tươi ướp đỏ 36 19 33 19 Đụng lạnh, nguyờn con 248868 233195 241445 232443 Khụ/ muối/ngõm nước muối 1875 1977 2351 2008 Luộc, đụng lạnh 13936 13927 16745 17051 Luộc & xụng khúi 468 453 618 422 Chế biến sẵn/ bảo quản(bao gồm tempura & tụm đúng hộp) 27678 33361 39692 42181 Sushi (với cơm) 194 92 341 263 Tổng cộng 293461 283318 301608 294658 Cá ngừ là mặt hàng lớn thứ 2 về giá trị, chiếm khoảng 12,99% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản. Năm 2005, nhập khẩu cá ngừ tươi, ướp đá đông lạnh đạt 216,77 tỷ yên (1,8 tỷ USD). Trong mấy năm gần đây, tổng khối lượng nhập khẩu cá ngừ cũng dao động lên xuống giống như mặt hàng tôm và không có xu hướng rõ rệt. Tuy nhiên, riêng khối lượng nhập khẩu cá ngừ vây vàng đông lạnh là có xu hướng tăng rõ rệt trong 3 năm nay (2003-2005). Trong tổng khối lượng nhập khẩu, nhiều nhất là cá ngừ vây vàng, tiếp theo là cá ngừ mắt to và vây dài. Cá ngừ vây xanh hằng năm chỉ nhập khoảng trên dưới 20.000 tấn, chủ yếu từ Mỹ, Tây Ban Nha và Ôtrâylia. Cá ngừ vây vàng nhập nhiều nhất từ Inđônêxia, Đài Loan và Xingapo. Cá ngừ mắt to nhập chủ yếu là từ Đài Loan và Hàn Quốc. Năm 2005 là năm đạt khối lượng nhập khẩu cá ngừ tươi, ướp đá thấp nhất trong 5 năm qua (2001-2005), đạt 50.873 tấn, giá trị 54,27 tỷ yên(454,13 triệu USD), giảm 10% so với năm 2004 và 26% so với 2001 về khối lượng. Bảng 6: Nhập khẩu cỏ ngừ vào Nhật Bản, 2002 -2005                                                                                    Đơn vị: tấn 2002 2003 2004 2005 Cỏ ngừ võy vàng Tươi/ ướp đỏ 32 025 27 852 24 059 21389 Đụng lạnh 108 561 102 521 109 204 123477 Cỏ ngừ võy xanh Tươi/ ướp đỏ 6 102 10587 9 966 9882 Đụng lạnh 3 568 4 792 6 626 4220 Cỏ ngừ mắt to Tươi/ ướp đỏ 21 990 18 542 18 901 16835 Đụng lạnh 140 638 127 179 116 324 101916 Cỏ ngừ vằn Tươi/ ướp đỏ 314 78 87 48 Đụng lạnh 73 137 71 862 81 158 52039 Cỏ ngừ võy dài Tươi/ ướp đỏ 746 393 411 208 Đụng lạnh 1 669 2 804 6 494 6100 Cỏ ngư võy xanh phương Nam Tươi/ ướp đỏ 2 154 3 037 3 057 2511 Đụng lạnh 8 659 5 155 8 174 7216 Tổng cộng Tươi/ ướp đỏ 63 331 60 494 56 481 50873 Đụng lạnh 336 232 314 313 327 980 294968 Toàn tổng Cả hai loại 399 563 374 807 384 461 345841 Cá hồi là mặt hàng đứng thứ 3 về giá trị nhập khẩu sau tôm và cá ngừ, chiếm 6,49% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản, đạt 108,35 tỷ yên năm 2005(906,72 triệu USD), có xu hướng tăng về giá trị trong 3 năm gần đây, tăng 4,2% so với năm 2004. Năm 2005, khối lượng cá hồi tươi, ướp đá hoặc đông lạnh nhập khẩu của Nhật Bản, đạt 224.903 tấn, giảm 6,2% so với năm 2004 (239.542 tấn) và giảm 16,8% so với năm 2002 (270.157 tấn). Cua là mặt hàng nhập khẩu có giá trị đứng thứ 4 sau cá hồi, chiếm 4,12% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản. Năm 2005, nhập khẩu cua tươi, ướp đá hoặc đông lạnh của Nhật Bản đạt 68,83 tỷ yên (576.012 triệu USD), giảm 14,7% so với năm 2004 (741,7 triệu USD) và giảm 14,9% so với năm 2003. Khối lượng cua nhập khẩu của Nhật Bản năm 2005, đạt 99.332 tấn, giảm 9,7% so với năm 2004, mặc dù trong 3 năm trước có xu hướng gần như ổn định. Nhuyễn thể chân đầu là mặt hàng có giá trị nhập khẩu đứng sau mặt hàng cua. Năm 2005, nhập khẩu nhuyễn thể chân đầu tươi, ướp đá và đông lạnh chiếm 3,67% tổng nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản, đạt giá trị 61,27 tỷ yên (512.771 triệu USD), giảm 10% so với năm 2004 (569.345 triệu USD). Khối lượng nhuyễn thể nhập khẩu của Nhật Bản có xu hướng giảm trong 3 năm trở lại đây, đạt 119.812 tấn năm 2005, giảm 5% so với năm 2004, giảm 14,3% so với năm 2003. và giảm 37,6% so với năm 2001. 2.Thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản Bảng 7: Các mặt hàng TS của VN xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2005                                                                            Đơn vị: 1000 USD 2002 2003 2004 2005 Tụm ĐL 345.394 388.541 521.427 517.831 Cỏ ĐL (trừ cỏ ngừ) 33.575 43.288 50.527 53.621 Mực ĐL 46.438 35.534 46.173 50.573 Bạch tuộc ĐL 18.228 20.421 29.295 27.247 Mực khụ 17.326 10.766 20.255 17.225 Cỏ khụ 3.526 1.609 4.315 7.537 Ruốc khụ 2.389 2.005 2.582 1.865 Cỏ ngừ ĐL 21.737 10.778 8.630 13.027 Mặt hàng khỏc 48.846 69.896 88.991 111.842 Tổng cộng 537.459 582.838 772.195 785.876 Tôm là mặt hàng đạt giá trị cao nhất, chiếm 67,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản. Trong mấy năm gần đây (2001-2004), nhập khẩu tôm của Nhật Bản từ Việt Nam có xu hướng tăng. Năm 2004, nhập khẩu tôm đông lạnh của Nhật Bản từ Việt Nam đạt khối lượng 62.451 tấn, giá trị trên 521,42 triệu USD, tăng 22% về khối lượng, 34,2% về giá trị so với năm 2003 và tăng 26,9% về khối lượng, 50,9% về giá trị so với năm 2002. Nhưng năm 2005 đạt 61.963 tấn, giá trị 517,83 triệu USD, giảm nhẹ khoảng 0,8% về khối lượng và 0,7% về giá trị so với năm 2004. Cá ngừ là mặt hàng lớn thứ 2 trong tổng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản. Năm 2004, cá ngừ của Việt Nam sang thị trường này chiếm 19% tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ của VN, đạt giá trị 13,02 triệu USD, đứng thứ 2 sau Mỹ (37%) trong danh sách thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam. Xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam vào Nhật Bản chỉ chiếm được một lượng nhỏ trong tổng cá ngừ nhập khẩu của Nhật Bản (2.819,9 tấn), (trong đó chiếm 3,5% tổng nhập khẩu cá ngừ mắt to tươi của Nhật Bản và 4,8% tổng nhập khẩu cá ngừ vây vàng tươi của Nhật Bản). Mặt hàng cá ngừ của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản luôn phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Ngoài ra, việc xuất khẩu cá ngừ còn chịu ảnh hưởng của các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm, như quy định về hàm lượng thuỷ ngân trong cá ngừ nhập khẩu. 2.1-Cụ thể tình hình xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật của các doanh nghiệp miền Trung Nhật Bản là thị trường xuất khẩu thuỷ sản truyền thống lớn thứ 2 của miền Trung hiện nay với giá trị xuất khẩu khoảng 100 triệu USD/ năm ( chiếm khoảng 25% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Miền Trung). Trong cơ cấu hàng xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật, tôm đông lạnh ( chủ yếu là tôm sú) là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất và tăng liên tục qua các năm của miền Trung. Mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai là cá đông lạnh( cá ngừ, cá thu) do tăng được lượng sản phẩm chế biến từ cá biển có giá trị thấp. Về dạng chế, bên cạnh hàng đông lạnh và cá khô, hàng có giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng ngày càng cao cùng với việc mở rộng hợp tác trong chế biến với các công ty Nhật và tăng cường đầu tư đối với công nghệ của các doanh nghiệp miền Trung. Hàng thuỷ sản được các doanh nghiệp miền Trung xuất khẩu sang Nhật dưới hình thức xuất khẩu trực tiếp cho các công ty thương mại thuỷ sản Nhật. Các nhà nhập khẩu hướng dẫn kỹ thuật bao gói và yêu cầu ghi nhãn hiệu của họ lên hàng xuất khẩu. Các nhà nhập khẩu hướng kỹ thuật bao gói và yêu cầu ghi nhãn hiệu của họ lên hàng xuất khẩu dưới dạng đông lạnh sơ chế thông qua các nhà nhập khẩu Nhật để phân phối lại cho các nhà táI chế, hệ thống dịch vụ thực phẩm cộng đồng, các nhà bán lẻ trên thị trường Nhật. Phân phối sản phẩm theo kiểu kênh này giúp cho các nhà xuất khẩu miền Trung có quy mô nhỏ, năng lực tiếp cận thị trường còn hạn chế có điều kiện tăng sản lượng tiêu thụ hàng thuỷ sản nhưng, làm giảm lợi nhuận xuất khẩu và xuất khẩu khó tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng để nắm tấn trở lên. Về nuôi trồng thuỷ hải sản: Cần có chính sách khuyến khích các hộ khai thác tốt ao hồ nuôi trồng cá và các thuỷ sản khác như ba ba, ốc, trai khảm và trai cho ngọc, tôm cua. Đặc biệt là các hồ đầm có diện tích đất lớn cần chú trọng khai thác. Nuôi trồng thuỷ sản trong các ao hồ vốn là truyền thống lâu đời của dân Thái Bình, song trong những năm gần đây lại kém phát triển, đặc biệt là các ao trong các hộ hiệu quả khai thác sử dụng thấp nên mang lại lợi ích kinh tế cũng thấp. Nhất là từ khi kinh tế hộ gia đình phát triển thì những công trình thuỷ lợi nhỏ không có chủ quản lý nên đã bị lấn chiếm hoặc bị hoang hoá, hư hại không còn tác dụng. Trước đây hệ thống ao hồ của cư dân ven sông Hồng, sông Thái Bình, Trà lý, sông Luộc đều có hệ thống cống thông thoáng, dẫn nước phù sa tới ao hồ từng hộ. Ngày nay điều đó không còn, ao hồ trở nên tù hãm,các loại thuỷ sinh ở đây không phát triển được. Tỉnh cần có chủ chương khơi thông lại hệ thống này. Về mô hình tổ chức sản xuất, cần đa dạng hoá mô hình tổ chức sản xuất, cần đa dạng hoá mô hình, xoá bỏ triệt để mô hình hợp tác xã kiểu cũ và các hình thức biến tướng của mô hình này. Nghiên cứu có thể tư nhân hoá một số loại đất làm cơ sở lâu bền cho kinh tế hộ, tỉnh cần hỗ trợ đẻ phát triển mô hình trang trại ( cả chăn nuôi và trồng trọt). Mô hình hộ sản xuất đang chiếm ưu thế hiện nay. Bên cạnh kinh tế hộ, tỉnh cần hỗ trợ để phát triển mô hình trang trại ( cả chăn nuôi và trông trọt ). Mô hình Công ty và hợp tác xã cũng cần vận dụng để thực hiện. Có như vậy mới phát huy được nguồn lực xã hội. 2.2 - Những khó khăn, thách thức đối với xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản Khó khăn và thách thức từ thị trường Nhật Bản Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản rất đa dạng nhưng rất tinh tế, vừa mang đậm nét văn hoá á Đông có truyền thống lâu đời, vừa có tính đô thị hiện đại nên họ đặt ra các tiêu chuẩn cao về hình thức sản phẩm kèm theo những quy định ngặt nghèo về chất lượng về kích cỡ, cách đóng gói, hình thức bao bì. Khách hàng Nhật bản chú trọng đặc biệt đến độ tươi của sản phẩm, đây là điều cần hết sức lưu ý.Người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm đến mức độ tiện ích của sản phẩm. Xuất phát từ mức sống có thu nhập cao nên người Nhật thường đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng sản phẩm bao gồm cả vấn đề vệ sinh, hình thức và dịch vụ hậu mãi.ở Nhật Bản, thường người phụ nữ thường đảm nhận công việc nội trợ nên họ rất hay chú ý đến mẫu mã hàng hoá và sự thay đổi giá cả. Do vậy, muốn thâm nhập thị trường Nhật Bản, các sản phẩm phải đa dạng về chủng loại, phong phú về mầu sắc và có chiến lược giá cả thích hợp. Người Nhật quan tâm ngày càng nhiều đến vấn đề môi trường nguồn lợi, nguồn gốc của sản phẩm. Các cửa hàng đang liên tục cải tiến cách đóng gói thực phẩm làm sao vừa đẹp, vừa đơn giản, gói kích cỡ nhỏ vừa phù hợp với túi tiền người tiêu dùng cho bữa ăn hàng ngày của gia đình ít người, vừa tiết kiệm được chỗ trưng bày. Hàng hoá chất lượng tốt và ổn định là điều người Nhật luôn mong đợi. Tuy vậy, người Nhật cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày. Khi xuất khẩu hàng vào thị trường Nhật Bản cần phải biết rõ và tuân thủ các quy định khắt khe của thị trường về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Theo quy định của Luật thương mại Nhật Bản, nhìn chung bất kỳ loại thực phẩm nào cũng đều được phép nhập khẩu vào Nhật Bản, miễn là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không gây hại tới sức khoẻ con người. Các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng đủ các quy định và thủ tục kiểm tra nghiêm ngặt mới được phép nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu phải chứng minh được các mặt hàng này không gây hại đến các loài động, thực vật trong nước của Nhật Bản theo các quy định cụ thể của luật đối với từng mặt hàng. Một số mặt hàng nằm trong diện quản lý nhập khẩu thì phải theo quy định của Luật ngoại hối và ngoại thương yêu cầu côta nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu hoặc được sự đồng ý trước của bộ trưởng phụ trách chuyên ngành. Đối với một số trường hợp, công văn đề nghị côta nhập khẩu và giấy phép nhập khẩu được tiến hành đồng thời, nếu không được phân bổ côta thì mặt hàng đó sẽ không được phép nhập khẩu vào Nhật Bản.Kể từ ngày 3/2/2004, Nhật Bản quy định 8 mặt hàng thực phẩm hải sản và một số động thực vật sống theo mã HS trong biểu thuế nhập khẩu của Nhật nằm trong diện hạn ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng này gồm: cá đánh bắt ở vùng biển Nhật Bản (cá trích, cá tuyết, cá ngừ vây vàng, cá thu, cá xác đin, cá sòng, cá thu đao); một số loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ như sò, điệp, trai; mực ống, rong biển ăn được (kể cả các chế phẩm). Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần lưu ý về các kênh phân phối thuỷ sản nhập khẩu của Nhật Bản để đàm phán khéo léo, hợp lý với các đối tác nhập khẩu về giá cả hợp đồng, đặc biệt đối với kênh phân phối tôm cua sống/tươi/ướp đá, nếu các nhà nhập khẩu lựa chọn theo kênh phân phối không qua thị trường bán buôn mà đến thẳng các khu tiêu thụ (siêu thị, nhà hàng) theo các hợp đồng ký kết trực tiếp thì thời gian lưu thông hàng nhanh hơn và ít bị rủi ro. Tôm đông lạnh thường theo kênh phân phối này, các nhà nhập khẩu cũng không bị phí tổn vào dịch vụ giao dịch vận chuyển, thuê kho lạnh, bến bãi thông qua kênh thị trường bán buôn. Hơn nữa người Nhật rất chú trọng chữ tín, nên các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật Bản cần tuân thủ hợp đồng và thực hiện giao hàng đúng thời hẹn. Cần mua bảo hiểm để tránh rủi ro khi hàng bị kiểm tra, nếu không đủ tiêu chuẩn nhập khẩu, thì phải bị xử lý. 3. Đánh giá thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam *Ưu điểm: Kết quả xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2006 tiếp tục ghi nhận sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Theo thông báo của Bộ Thương mại, đến thời điểm hiện tại, ước tính xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 2,008 tỉ USD. Kết quả này khá sát dự báo mà Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đưa ra từ đầu năm. Do vậy có nhiều cơ sở để tin rằng mốc 3 tỷ USD xuất khẩu thủy sản năm nay như dự báo là hoàn toàn có thể đạt đựơc. Như vậy là sau liên tiếp 2 năm 2003 và 2004 không đạt được kế hoạch xuất khẩu đề ra, năm 2005 và nhiều khả năng cả năm 2006 ngành thủy sản sẽ hoàn thành vượt mức. Thậm chí những dự báo lạc quan cho rằng xuất khẩu toàn ngành sẽ vượt qua ngưỡng 3 tỉ USD chứ không phải chỉ 2,8 tỉ USD như kế hoạch của năm. Yếu tố quan trọng tham gia vào sự tăng trưởng này là sự tăng đột biến của nhóm các mặt hàng cá đông lạnh xuất khẩu sang các thị trường mới, đặc biệt tại khu vực châu Âu. Diễn biến này cho thấy 2 khía cạnh đáng chú ý: Thứ nhất là sự ghi nhận thành công của công tác xúc tiến thị trường và cho thấy thủy sản Việt Nam vẫn còn chứa nhiều yếu tố tăng trưởng tiềm năng. Thứ hai, điều này cũng đồng thời phản ánh tính tự phát cao và thiếu hụt các công cụ dẫn hướng (như khả năng dự báo) của quá trình tăng trưởng. Khắc phục tình trạng này cần được coi là một đòi hỏi cấp bách về phía các cơ quan ra chính sách. Những tín hiệu đáng mừng Trong tình trạng phải đối mặt với nhiều khó khăn, xuất khẩu tôm Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng đều đặn trong gần 10 năm trở lại đây. Cho dù vụ kiện chống bán phá giá đã thu hẹp lại thị phần tại thị trường Mỹ, các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam đã nhanh chóng chuyển hướng sang các thị trường khác. Tại thị truờng Nhật Bản, các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên, vượt qua Indonesia để trở thành nhà cung cấp tôm lớn nhất của Nhật Bản. Phản ứng nhanh chóng của các xuất khẩu tôm Việt Nam trước các biến động của thị trường tôm đã giúp cho xuất khẩu tôm của Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng ổn định suốt từ 2004 đến nay. Thông thường các năm trước giá trị xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm chiểm khoảng 40% tổng xuất khẩu tôm cả năm. Như vậy ước tính giá trị tôm xuất khẩu cả năm có thể đạt từ 1,40 tỉ cho đến 1,5 tỉ USD. Bảng 8: Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 2006 Mặc dù phải đối mặt với những biến động lớn như vụ kiện chống bán phá giá tại Mỹ, và vốn dĩ thị trường tôm thế giới luôn là một thị trường nhạy cảm, nhưng nhìn tổng thể xuất khẩu tôm Việt Nam trong nhiều năm qua đã giữ được một nhịp tăng trưởng ổn định. Bởi lẽ trong thương mại quốc tế, tính ổn định chứ không phải đột biến mới là điều được mong đợi, nên đây có thể coi là một tín hiệu đáng mừng. Quá trình mở rộng EU về phía Đông rõ ràng đã mang lại cho Việt Nam không chỉ một EU lớn hơn về địa lý và dân số, mà còn là thị trường tiêu thụ cá nước ngọt tiềm năng. Số liệu nửa đầu năm 2006 cho thấy xuất khẩu cá nước ngọt sang Ba Lan và Nga tăng hơn 20 lần về giá trị. Trong tình hình xuất khẩu cá đông lạnh tăng đột biến và sự tham gia mạnh mẽ của các thị trường mới, rất khó để đưa ra một dự báo cụ thể. Tuy nhiên thông thường lượng tiêu thụ của các loại thủy sản giá thấp sẽ không chịu nhiều tác động của các dịp lễ hội cuối năm nên giá trị xuất khẩu nửa đầu năm và nửa cuối năm thường xấp xỉ nhau. Theo đó, có thể ước tính giá trị xuất khẩu cá đông lạnh của Việt Nam cả năm 2006 sẽ đạt khoảng 1,1 tỉ USD. Những đòi hỏi trong giai đoạn mới Trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, nhân công giá rẻ và tính kinh tế của quy mô sản xuất đã là lợi thế đưa thủy sản Việt Nam thâm nhập thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, lợi thế đó đang ngày càng mất đi trong quá trình hội nhập và đặt Việt Nam vào tình trạng cạnh tranh quyết liệt từ các nước cũng có hệ thống sản xuất tương tự Việt Nam. Thực tại mới này đang đòi hỏi những mô hình tăng trưởng khác thích hợp hơn trong nỗ lực tạo dựng những lợi thế cạnh tranh mới. Nhìn về tương lai, một nghiên cứu về bức tranh toàn cảnh của kinh tế thế giới do EIU - bộ phận phân tích kinh tế của tờ “The Economist” đã đưa ra kịch bản phát triển của các nước trên thế giới cho đến 2020, trong đó có Việt Nam. Đáng chú ý là trong kịch bản này, giai đoạn 2006 – 2010 sẽ là giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam với mức tăng trưởng lên đến 7% mỗi năm, chỉ sau Trung Quốc và bỏ xa các nước khác. Như vậy 5 năm tới sẽ là giai đoạn kinh tế Việt Nam chứa nhiều thế và lực nhất, và đương nhiên, thủy sản cũng không nằm ngoài cuộc. Vấn đề là ngành thủy sản Việt Nam sẽ tận dụng thế và lực trong giai đoạn này ra sao? *Nhược điểm: Nhật Bản "báo động đỏ" về chất lượng thủy sản Việt Nam Theo báo (VietNamNet) - Nhiều lô hàng cá tươi của 3 công ty Việt Nam vừa bị phía Nhật Bản trả về do không đạt yêu cầu chất lượng. Sự việc này khiến lãnh đạo ngành và các DN xuất khẩu lo ngại, đặc biệt trước đó nước này đã kiểm tra gắt gao sản phẩm mực nhập từ nước ta. Cẩu thả về chất lượng Theo Vụ Châu á - Thái Bình Dương (Bộ Thương mại), tháng 7 vừa qua, Nhật Bản đã phát hiện mặt hàng cá tươi đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật liên tục vi phạm Luật Vệ sinh An toàn thực phẩm. Bộ Y tế và Lao động Nhật Bản cho biết đã phát hiện nhóm vi trùng đường ruột có kết quả dương tính trong sản phẩm của Công ty TNHH Chế biến thủy sản và thực phẩm Thành Hải; dư lượng chloramphenicol trong sản phẩm của Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh và nhóm vi trùng đường ruột có kết quả dương tính trong sản phẩm của Công ty TNHH thực phẩm Anh Đào. Do vậy, toàn bộ lô hàng của ba công ty trên đã bị phía Nhật yêu cầu trả lại nhà xuất khẩu. Nếu không, phía Nhật sẽ hủy tại chỗ và không dùng làm thực phẩm cho người. Tuy lần này Nhật Bản chưa thông báo về việc tăng cường kiểm tra mặt hàng trên đối với tất cả các công ty Việt Nam khi xuất khẩu vào Nhật, song, với tốc độ vi phạm này nguy cơ bị áp dụng lệnh tăng cường kiểm tra là rất lớn. Trước đó, Nhật Bản đã quyết định từ tháng 7 tất cả các lô hàng mực Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản đều bị kiểm tra 50% mỗi lô hàng. Thông báo này đưa ra sau khi phát hiện thấy dư lượng chất chloramphenicol 0,0017 ppm trong sản phẩm của Công ty TNHH Trung Vĩnh. Thương vụ Việt Nam tại Nhật cũng thông báo, từ nay đến hết 31/3/2007, Nhật Bản sẽ chính thức kiểm tra 100% đối với 3 nhóm mặt hàng của Việt Nam là lươn nuôi (kể cả sơ chế) có dư lượng AOZ; lúa miến (sorghum) và những sản phẩm đã chế biến có thành phần chủ yếu là lúa miến có dư lượng Aflatoxin cũng như các mặt hàng thực phẩm của 5 doanh nghiệp: Công ty cổ phần XNK thủy sản Bà Rịa - Vũng Tàu; Cơ sở Đại Thuận; Công ty TNHH Hưng Lợi; Công ty TNHH Hương Thanh; Công ty TNHH thương mại và chế biến thủy sản Vĩnh Lộc. Kiểm tra tận gốc chất lượng hải sản biển Theo Bộ Thủy sản, hiện Nhật Bản đã chuyển hướng tiếp cận về quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh hàng thủy sản nhập khẩu. Những diễn biến hiện nay đối với hải sản xuất khẩu vào Nhật Bản là rất nghiêm trọng và có nguy cơ ảnh hưởng tới xuất khẩu vào thị trường này trong 6 tháng cuối năm 2006. Do vậy, cần có các giải pháp cấp bách và lâu dài để tăng cường quản lý an toàn vệ sinh đối với hải sản khai thác từ biển. 4. Dự báo thương mại thuỷ sản của Việt Nam: XKTS - Trong thời gian tới, cũng như các nước nông nghiệp khác, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tăng giá trị XKTS do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các nước sản xuất và yêu cầu ngày càng cao ở các thị trường. Ngoài những biện pháp tăng giá trị XKTS như nâng cao kỹ thuật chế biến, đa dạng hoá các mặt hàng, mở rộng thị trường còn cần phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ NTTS để đảm bảo sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của các thị trường tiêu thụ như ATVSTS, có chứng nhận xuất xứ, bảo vệ môi trường ... Đồng thời, không thể không chú trọng đến việc phát triển theo quy hoạch có tính đến các tác động kinh tế xã hội đối với các cộng đồng dân cư. Theo kế hoạch của Bộ Thuỷ sản, kim ngạch XKTS của VN trong giai đoạn 2006-2010, mức tăng trưởng XKTS sẽ tăng 49,81%, trung bình tăng 10,63% /năm. Bảng 9: Chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 TT 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng 5 năm (2006-2010) Mức tăng trưởng (%) 5 năm Hằng năm 1 Tổng sản lượng (1000 tấn) 3.439 3.592 3.757 3.936 4.000 18.724 16,30 3,85 2 Sản lượng nuụi trồng (1000 tấn) 1.488 1.628 1.781 1.948 2.000 8.844 34,42 7,68 3 Giỏ trị sản xuất (Tỷ đồng) 41.785 46.694 52.227 58.468 65.512 264.686 56,8 11,9 4 Giỏ trị kim ngạch XK thuỷ sản (Triệu USD) 2.670 2.840 3.110 3.480 4.000 16.100 49,81 10,63 5 Tổng lượng hàng hoỏ xuất khẩu (Tấn) 539.315 578.655 637.430 718.615 831.210 3.305.235 54,12 11,42 - Tụm đụng (Tấn) 610.990 171.890 189.590 214.815 250.000 987.285 55,29 11,63 - Cỏ đụng (Tấn) 250.615 227.710 318.040 373.275 450.000 1.669.640 79,56 15,76 Dự báo, ngành thuỷ sản VN sẽ đạt được những chỉ tiêu trên do các nhà quản lý và sản xuất đã nhận thức được nhu cầu cấp thiết phải phát triển bền vững để tiến tới hội nhập, đáp ứng các yêu cầu của xu hướng thương mại hoá toàn cầu. Cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu của VN vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiếp tục gia tăng tỷ trọng của sản phẩm chế biến, chế tạo và các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô (ướp đông, đông lạnh, hàng khô). Theo kế hoạch của BTS, tới năm 2010, Việt Nam sẽ phát triển các nhóm sản phẩm chính như tôm sú (XK khoảng 160.000 tấn), tôm chân trắng (25.000 tấn), tôm hùm, tôm càng xanh; Cá tra-basa, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cá biển nuôi, cá rô phi... Tuy nhiên, muốn đạt được kế hoạch XKTS cần chú trọng hơn nữa tới việc phải phát triển nuôi các mặt hàng thuỷ sản đáp ứng các yêu cầu của từng loại thị trường trên thế giới. Ngoài ra, hướng đầu tư sẽ mở rộng hơn tới khu vực nuôi các loài phù hợp với môi trường sinh thái như trồng rong biển, động vật thân mềm, cá lồng biển xa bờ và nuôi kết hợp nhiều đối tượng. Việc mở rộng các thị trường, quảng bá thương hiệu kết hợp với việc tìm hiểu nhu cầu các thị trường để sản xuất các mặt hàng phù hợp có giá trị cao sẽ đóng góp phần quan trọng vào việc tạo đầu ra cho các sản phẩm nuôi. Dự báo, trong giai đoạn tới, XKTS Việt Nam sẽ có mặt ở gần 100 thị trường nhưng vẫn tập trung vào trên 20 thị trường chính. NKTS - Nhập khẩu thuỷ sản của VN cũng sẽ tăng do nhu cầu tiêu dùng trong nước đồng thời để phục vụ chế biến xuất khẩu, dự báo, nhập khẩu TS của VN sẽ tăng từ 8-10 % mỗi năm trong giai đoạn 2005-2010, phần lớn nhập từ các nước châu á. Tổng giá trị nhập khẩu sẽ vào khoảng 190 triệu USD. Mức tiêu thụ TS của thị trường trong nước cũng sẽ tăng, đặc biệt là những mặt hàng chế biến sẵn. Nếu năm 2010, mức tiêu thụ TS là 26 kg/đầu người thì lượng tiêu thụ TS trong nước năm 2010 sẽ là 2,18 triệu tấn. Theo dự báo, thị trường nội địa sẽ có những bước phát triển mới, đạt mức tăng từ 20-30%, do các nguyên nhân sau: Kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc với mức tăng GDP trên 7%, dẫn đến sức tiêu thụ hàng thuỷ sản tăng. Tình hình chính trị ở Việt Nam ổn định, thu hút khách du lịch và các hoạt động quốc tế. Đặc biệt, BTS và các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của thị trường nội địa. Đồng thời, một số mặt hàng thuỷ sản thông qua thành tích XK đã từng bước chiếm lĩnh được lòng tin của người tiêu thụ trong nước. Dự báo, trong thời gian tới (năm 2010), giá trị thưng mại của Việt Nam sẽ đạt mức đề ra trong chiến lược phát triển như sau: Duy trì tỷ lệ đóng góp của ngành thuỷ sản trong GDP khoảng 3 %, Tăng mức cung cấp cho thị trường trong nước ở mức 25 kg/đầu người, Giá trị XKTS đạt 3,5-4 tỷ USD. Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá nói chung và thuỷ sản nói riêng sang thị trường Nhật Bản I/ Những mục tiêu và định hướng chung của ngành thuỷ sản vào thị trường Nhật Bản 1.1 Những mục tiêu * Mục tiêu về chiến lược quan trọng nhất là huy động tổng hợp mọi tiềm năng để phát triển ngành thuỷ sản nhằm đóng góp có hiệu quả của nền kinh tế dân và nâng cao điều kiện kinh tế, xã hội của cư dân và nông thôn là nghề cá. Cụ thể là: không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đất nước bằng việc tăng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của đất nước trên thị trường quốc tế. Giải quyết được nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập, mức sống của cộng đồng dân cư làm nghề cá. Trên cơ sở phát triển kinh tế biển, hải đảo góp phần tích cực và thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ an ninh và chủ quyền tổ quốc. Đóng góp tích cực và đảm bảo an toàn thực phẩm quốc gia, nâng cao mức dinh dưỡng của nhân dân bằng cách góp phần tăng mức cung cấp thuỷ sản cho thị trường trong nước và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân ven biển có tiếp xúc với mọi loại thực phẩm. Đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành sản xuất sớm được công nghiệp hoá và hiện đại hoá có luận cứ khoa học chắc chắn cho phát triển, tạo ra hiệu quả kinh tế cao phát huy những lợi thế so sánh, đồng thời đóng góp phần đẩy mạnh quá trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng một ngành thuỷ sản được quản lý tốt bằng luật thuỷ sản và một bộ máy hiệu lực nhằm đạt sự phát triển ổn định, bền vững cho hôm nay và cho tương lai. 1.2 Mục tiêu phát triển XKTS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 Để đạt được giá XSTS 4 tỷ USD vào năm 2010 và nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh cho sản phẩm thuỷ sản nước ta, đưa XKTS tăng trưởng một cách hiệu quả, bền vững, thời gian tới ngành sẽ tập trung phát triển theo chiều sâu trong tất cả các khâu từ sản phẩm nguyên liệu đến dịch vụ hậu cần và chế biến xuất khẩu. Tăng cường sản xuất các sản phẩm mới với hàm lượng công nghệ cao làm tăng giá trị xuất khẩu gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững. Định hướng năm 2020, mảng chế biến XKTS tiếp tục là động lực chủ yếu để thúc đẩy nuôi trồng và khai thác phát triển, đảy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, nâng cao thu nhập và đời sống của nghề lao động nghề cá. 1.3 Mục tiêu về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu Mục tiêu cụ thể năm 2010, phấn đấu đạt tổng sản lượng nguyên liệu 4 triệu tấn, tổng sản lượng sản phẩm XK đạt 831.210 tấn. Tính theo khu vực địa lý, đến năm 2010 khu vực miền Bắc Trung Bộ 112 triệu USD, Nam Trung Bộ 550 triệu USD, Đông Nam Bộ 490 triệu USD, đồng bằng sông Cửu Long 2.580 triệu USD và khu vực thuộc khối trung ương đạt 50 triệu USD. Đối với từng nhóm sản phẩm, mục tiêu đến năm 2010 giá trị kim ngạch xuất khẩu nuôi tôm đạt 1,98 tỷ USD, cá biển 0,31 tỷ USD, mực bạch tuộc 0,24 tỷ USD, nhuyễn thể hai mảnh vỏ 0,16 tỷ USD, cá ngừ đại dương 0,15 tỷ USD, cá tra/basa 0,6 tỷ USD, cá rô phi 0,1 tỷ USD, cua/ghẹ 0,1 tỷ USD, cá cảnh 0,03 tỷ USD, các sản phẩm khác 0,33 tỷ USD. Về tôm, để đáp ứng mục tiêu chế biến xuất khẩu khoảng 390 nghìn tấn tôm nuôi và khai thác dự kiến đạt khoảng 483 nghìn tấn. Trong đó tôm sú là đối tượng xuất khẩu chính, riêng sản lượng tôm sú đến năm 2010 đảm bảo 360.000 tấn nguyên liệu. Nuôi tôm sú tập trung ở các vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Khu vực miền Bắc, miền Trung sẽ tập trung nuôi tôm chân trắng theo hướng tăng dần, dự kiến sản lượng đến năm 2010 sẽ là 60.000 tấn. Bên cạnh tôm sú và tôm chân trắng, các đối tượng tôm nuôi khác như tôm hùm, tôm càng xanh và tôm khai thác cũng được chú trọng để đảm bảo sản lượng cho xuất khẩu. Cá tra, ba sa, chỉ tiêu phát triển đến năm 2010 đạt 800 – 850.000 tấn nguyên liệu để đảm bảo sản xuất 230.000 tấn sản phẩm cho xuất khẩu. Ngoài vùng nuôi tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long, diện tích sẽ mở rộng ra các hồ chứa vùng Đồng Nam Bộ, Nam Trung Bộ và các hồ chứa miền Bắc. Cá ngừ được xác định là loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu, do đó sẽ chuyển đổi nghề nghiệp khai thác, đến năm 2010 phấn đấu sản lượng khai thác cá ngừ đạt 50.000 tấn, đồng thời tăng cường công tác bảo quản, đảm bảo đạt 45.000 tấn sản phẩm xuất khẩu... 1.4.Mục tiêu về cơ cấu thị trường Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường lớn, tăng cường thị trường xuất khẩu vào các thị trường tiềm năng, trong đó đặc biệt quan tâm đến thị trương Trung Quốc, đồng thời chủ động mở rộng ra các thị trường khác để kịp thời điều tiết khi có biến động. Dự kiến thị phần xuất đi các thị trường như sau: Nhật Bản không dưới 30%, Mỹ trên 25% trong những năm trước mắt và trên 30% những năm cuối của giai đoạn 2006-2010 cũng như những năm tiếp theo, EU ( 15 nước ) từ 10 -15%, Trung Quốc + Hồng Kông 8 -12%, Hàn Quốc khoảng 8%. Biểu đồ1 2. Giải pháp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu Để đạt được mục tiêu, thời gian tới sẽ ưu tiên tập trung xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển thị trường, gắn với xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia cho các nhóm sản phẩm chủ lực, trước mắt là tôm, cá tra, cá basa, cá ngừ. Đổi mới phương thức canh tác thị trường theo hướng chuyên nghiệp hoá, tổ chức tốt các hoạt động quảng cáo, tăng cường hiểu biết về sản phẩm Thuỷ sản Việt Nam. Tiếp tục xây dựng và phát triển năng lực dự báo nhu cầu và diễn biến thị trường, chủ động phong ngừ những đột biến. Phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành liên quan, nâng cao hiểu biết luật pháp quốc tế để chủ động đối phó với những tranh chấp và rào cản thương mại. Tiếp tục đề xuất cơ chế huy động nguồn lực tài chính, nhân lực phục vụ cho phát triển thị trường. Chủ động tìm hiểu nhu cầu và quy định của từng thị trường để sản xuất sản phẩm và tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại cho phù hợp, đặc biệt với các thị trường trọng tâm như Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc. Giải quyết về nguyên vật liệu: Ưu tiên tập trung tổ chức lại sản xuất theo liên kết sản xuất tạo ra sản lượng hàng hoá lớn; chủ yếu sản xuất các loại giống sạch bệnh, chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu; nâng cao hiệu quả, chất lượng khai thác; chống thất thoát sau khi thu hoạch và quản lý thị trường nguyên liệu. Về vấn đề thuỷ sản, tiếp tục hỗ trợ DN nâng cấp điều kiện sản xuất, áp dụng hệ thống quản lý đảm bảo ATVSTP theo HACCP, GMP...đảm bảo 100% DN chế biến xuất khẩu đạt tiêu chuẩn ngành về ATVSTP. Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh. Tăng cường nghiên cứu, đổi mới sản phẩm tại các DN tạo ra sự phong phú về sản phẩm nhằm đáp ứng kịp thời ưu cầu của khác hàng. Tăng tỷ trọng mặt hàng phối chế, ăn liền lên 60-50% trong cơ cấu giá trị XKTS. Hỗ trợ doanh nghiệp chế biến tăng cường năng lực kiểm soát và phát hiện dư lượng kháng sinh, hoá chất trong nguyên liệu, áp dụng các hệ thống truy nguyên nguồn sản phẩm. Song song với các nhóm nguồn giải pháp đó, chương trình cũng chú trọng đến các giải pháp về ATVSTP, khoa học cộng nghệ, khuyến ngư, đào tạo, giải pháp về quản lý, cơ chế chính sách. Với những đánh giá khách quan, những căn cứ dự trên cơ sở thực tiễn, khoa học, cùng với các giải pháp đồng bộ, toàn diện trên mọi lĩnh vực, Chương trình phát triển XKTS đến năm 2010 và Tầm nhìn 2020 mở ra triển vọng tăng trưởng bền vững cho XKTS, là cơ sở và động lực cho việc hoàn thành mục tiêu XKTS 4 tỷ USD vào năm 2010. 3. Nội dung các định hướng phát triển ngành thuỷ sản * Xuất phát từ thực trạng khai thác hải sản trong những năm qua có tính đến yêu cầu phát triển hiệu quả bền vững trong những năm tới của ngành Thuỷ sản Việt Nam nói chung, định hướng khai thác hải sản phải được xây dựng dựa trên các quan điểm sau: Khai thác hải sản phải gắn liền với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi, sinh thái biển. Khai thác hải sản phải đạt hiệu quả kinh tế cao nhờ đảm bảo tính đồng bộ trong chuỗi mắt xích tìm kiếm ngư trường- tàu thuyền và thuỷ thủ - dịch vụ hậu cần trên biển và cảng cá. Khai thác gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, an ninh Tổ quốc, đồng thời phải đảm bảo tính an toàn cho ngư dân trước thiên tai đchj hoạ và nạn cướp biển. Để đạt được mục tiêu trên, đối với khai thác Thuỷ sản Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Quy hoạch lại các vùng khai thác hải sản. Tiếp tục đầu tư để thực hiện chương trình đánh bắt xa bờ.Tăng hiệu quả của dịch vụ hậu cần khai thác hải sản. Xắp xếp lại các nghề cá ven bờ. Mở rộng hợp tác, liên kết với nước ngoài.Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi, liên kết nước ngoài. Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi, đảm bảo phát triển bền vững Định hướng phát triển nuôi trồng Thuỷ sản Xuất phát từ thực tế nuôi trồng thuỷ sản trong những năm qua và yêu cầu phát triển cho những năm tới, định hướng nuôi trồng thuỷ sản phải được xây dựng dựa trên những quan điểm sau: Phát triển nuôi trồng thuỷ sản gắn liền với việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, phòng chống dịch bệnh cho các đối tượng nuôi, mà động lực thúc đẩy kỹ thuật nuôi bán công nghiệp và công nghiệp. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, các địa phương, góp phần chuyển đổi kinh tế nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động, là yếu tố quan trọng để ổn định an ninh, chính trị -xã hội vùng biển vùng núi, vùng sâu vùng xa. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế hợp tác, kinh tế gia đình, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nuôi trồng thuỷ sản để nâng cao năng suất nuôi trồng, tạo ra nhiều nguồn cung cấp nguyên liệu lớn, ổn định chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Để thực hiện chiến lược phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam đến năm 2010, mục tiêu của lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản được xác định như bảng sau: Về đối tượng nuôi sẽ tập trung vào nhóm chính là tôm (sú, càng xanh, hùm, họ tôm he), cá biển ( giò, mú, hang, tráp, vược, măng...), cá nước ngọt ( ba sa, chép, rô phi, bống tượng, tra, trắm cỏ, mè...), nhuyễn thể ( nghêu, ngao, sò, trai ngọc, vẹm, điệp, ốc hương...) và rong tảo ( rong câu, rong sụn). Để đặt được các mục tiêu trên, ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam phải thực hiện một loạt các biện pháp sau đây: Đẩy mạnh công tác quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản. Giải quyết tốt khâu giống cho nuôi trồng thuỷ sản. Đảm bảo thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản. Làm tốt công tác phòng trừ dịch bệnh. Làm tốt công tác khuyến ngư. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất, đa dạng hoá các loài nuôi. Các giải pháp hỗ trợ từ phía nhà nước. Định hướng phát triển chế biến và thương mại thuỷ sản Việt Nam II. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy khả năng xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng thuỷ sản nói riêng vào Thị trường Nhật Bản 1. Một số biện pháp từ phía chính phủ * Về quy hoạch Rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với việc lập các dự án đầu tư cụ thể, gắn với qui hoạch phát triển thuỷ lợi và đê biển chung trên địa bàn, nâng cao hiệu quả đầu tư và sử dụng có hiệu quả đất đai mặt nước vào nuôi trồng thuỷ sản. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Thuỷ sản trong xây dựng quy hoạch hệ thống đê biển và phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng đê biển có liên quan đến nuôi trồng thuỷ sản. Bộ Thuỷ sản quy hoạch và xác định cụ thể số lượng các trại giống của từng vùng, từng địa phương, đặc biệt là các trại sản xuất giống tôm, cá cho nhu cầu nuôi đại trà cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu. * Về thị trường Phát triển thị trường trong nước, đáp ứng nhu cầu về sản phẩm thuỷ sản ngày càng tăng của nhân dân; đồng thời phát triển mạnh thị trường xuất khẩu, bao gồm cả việc giữ vững và mở rộng thị trường hiện có và tích cực tìm kiếm thị trường mới. Việc phát triển thị trường phải gắn với đổi mới khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành và đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản, nâng cao sức cạnh tranh bền vững của hàng thuỷ sản Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. * Về vốn Vốn đầu tư cho chương trình nuôi trồng thuỷ sản được huy động từ các nguồn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan có giải pháp cân đối các nguồn vốn và bố trí theo kế hoạch hằng năm trình Chính phủ quyết định để đầu tư theo dự án thực hiện chương trình. Về giống nuôi trồng thuỷ sản. Tổ chức lại, nâng cao khả năng nghiên cứu và sản xuất của hệ thống giống các cấp; khả năng bảo vệ các bãi giống, bãi đẻ tự nhiên của tôm, cá và lưu giữ các nguồn gen quí hiếm; đảm bảo cung cấp đủ, kịp thời giống tốt với giá hợp lý cho nuôi trồng thuỷ sản, kể cả nhập khẩu giống và công nghệ sản xuất giống cần thiết. Về thức ăn công nghiệp và vật tư nuôi trồng. Đầu tư nâng cấp và xây dựng mới một số xí nghiệp sản xuất thức ăn công nghiệp, sản xuất bột cá; nhập khẩu nguyên liệu và công nghệ cần thiết để sản xuất thức ăn công nghiệp trong nước với chất lượng tốt, giá thành hợp lý, đáp ứng 60% nhu cầu nuôi thuỷ sản vào giai đoạn 2000 - 2005, đáp ứng 80% nhu cầu nuôi thuỷ sản vào giai đoạn 2006 - 2010. Cung cấp đầy đủ và đồng bộ các vật tư, thiết bị đáp ứng yêu cầu nuôi trồng thuỷ sản. Về khoa học công nghệ. Tăng cường nghiên cứu khoa học, nhập khẩu công nghệ, trước hết tập trung vào khâu sản xuất giống để cho đẻ nhân tạo được các giống nuôi chủ yếu, tiến tới cho đẻ nhân tạo một số giống đặc sản; nghiên cứu hoàn thiện công nghệ nuôi nước ngọt, lợ và nuôi biển đối với các đối tượng nuôi chủ yếu; các biện pháp về phòng trừ dịch bệnh; công nghệ sản xuất thức ăn, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường bố trí vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học, trên cơ sở đề nghị hằng năm và các dự án cụ thể của Bộ Thuỷ sản. Về đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và lao động kỹ thuật. Tăng cường về năng lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của các Viện nghiên cứu, trường thuộc ngành thuỷ sản, phối hợp với các Viện nghiên cứu, trường của các ngành khác để đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý và kỹ thuật về công nghệ nuôi, sản xuất giống, xử lý môi trường, chẩn đoán, phòng trừ dịch bệnh, sản xuất thức ăn, bảo quản sau thu hoạch; đồng thời bằng nhiều hình thức để đào tạo bồi dưỡng kỹ thuật nuôi, phòng dịch bệnh cho nông dân, ngư dân. Về tổ chức sản xuất. Trên cơ sở quy hoạch từng vùng, lấy kinh tế hộ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu, gắn với phát triển các hình thức kinh tế hợp tác thích hợp để khai thác mọi nguồn lực trong nhân dân, giúp đỡ nhau trong sản xuất và phòng tránh thiên tai có hiệu quả, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế những tác động bất lợi của cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc hậu cần dịch vụ cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trong đó coi trọng về dịch vụ giống, kỹ thuật nuôi, cung cấp thức ăn công nghiệp, phòng trừ dịch bệnh. * Về công tác khuyến ngư. Kiện toàn và đổi mới hoạt động của hệ thống khuyến ngư từ Trung ương đến cơ sở, nâng cao năng lực hoạt động khuyến ngư; xây dựng các mô hình để chuyển giao công nghệ về các phương pháp nuôi tiên tiến cho dân phát triển nuôi trồng thuỷ sản. * Về hợp tác quốc tế. Khuyến khích việc liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất thức ăn công nghiệp, giống thuỷ sản, đổi mới công nghệ nuôi, công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Tăng cường hợp tác về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực: sinh sản nhân tạo, di truyền, chọn giống, chuyển đổi giới tính một số giống loài quý, phòng ngừa dịch bệnh và xử lý môi trường. Bộ Thuỷ sản phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ ngành có liên quan tranh thủ nguồn tài trợ của các nước và tổ chức quốc tế để có thêm nguồn vốn đầu tư trực tiếp và đào tạo cán bộ. 2. Một số biện pháp từ phía doanh nghiệp Tích cực hơn, sáng tạo hơn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp so với doanh nghiệp của các nước khác trên thị trường Nhật Bản. Đồng thời nâng cao chất lượng của nguồn nguyên liệu thuỷ sản. Không chỉ có vậy chúng ta cần chủ động tiếp cận công nghệ mới. Cần quan tâm đến việc đăng ký sở hữu công nghiệp cho mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ. Với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, để mở rộng thị trường Nhật Bản cần có sự kết hợp đồng bộ các giải pháp về sản phẩm, phân phối giá...trong xuất khẩu. Các giải pháp đó giúp cho doanh nghiệp đứng vững và gia tăng thị phần trên thị trường Nhật, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh về chủng loại, chất lượng, hệ thống phân phối giá xuất khẩu. Đó cũng chính là mục tiêu đa phương hoá thị trường xuất khẩu mà trong hiện tại và tương lai các doanh nghiệp miền Trung và Việt Nam đang hướng tới. Kết luận Với những gì đã đóng góp và những tiềm năng rất lớn có thể khai thác sau này, có thể khẳng định rằng thuỷ sản là ngành có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam. Và thuỷ sản có thể coi là ngành xuất khẩu mũi nhọn trong số những ngành giàu tiềm năng của nước ta trong những năm tới. Để thuỷ sản thực sự trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam trong thời gian tới thì việc lựa chọn cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo nhu cầu thị trường và điều kiện trong nước. Đây là ngành có nhiều tiềm năng còn đang bỏ ngỏ, chưa được khai thác triệt để cả về tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực trong nước; cả về thị trường xuất khẩu. Nhật Bản là một trong những thị trường đó. Có thể nói, đây là thị trường rất rộng lớn, có nhu cầu thuỷ sản cao, rất có điều kiện cho ta xuất khẩu theo chiều rộng cũng như chiều sâu. Muốn vậy, chúng ta cần phải xây dựng một chiến lược xuất khẩu hợp lý. Nghĩa là trên cơ sở nghiên cứu tình hình trong nước và thế giới và đặc biệt là nước Nhật để có định hướng xuất khẩu thuỷ sản về cơ cấu, số lượng, chất lượng. Dù rất cố gắng song với kiến thức còn nhiều hạn chế, cũng như nguồn tài liệu chưa đầy đủ, đề án này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như của các bạn để đề án của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4807.doc
Tài liệu liên quan