Đề tài Tiếp tục cải tiến và hoàn thiện hệ thống thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay

Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam ngày 1/1/1999 thay thế cho thuế doanh thu là một loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp thu thuế. Việc ban hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt nam. Sau hơn 2 năm thực hiện, thuế GTGT đã có những tác động tích cực đối với hoạt động của các doanh nghiệp như: khuyến khích đâù tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế; không gây biến động về giá cả và không ảnh hưởng đến kế hoạch thu ngân sách của Nhà nước; góp phần hoàn thiện công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp.

doc50 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiếp tục cải tiến và hoàn thiện hệ thống thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bán hàng không phải theo dõi thuế đã nộp ở khâu trước. - Nguồn thu ngân sách giữa các địa phương tương đối ổn định. 1.3. Nhược điểm của thuế doanh thu - Thuế doanh thu có quá nhiều mức thuế suất (11 mức thuế suất) gồm 0%, 0,5%,1%, 2%, 4%, 6%, 8%, 10%, 15%, 20%, 30% nên việc tính thuế không chính xác và áp dụng nhiều mức thuế suất vào từng loại hoạt động rất phức tạp. Việc áp dụng nhiều mức thuế suất dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng với các mức thuế suất khác nhau tìm cách dồn doanh thu vào mặt hàng có mức thuế suất thấp. Vì vậy thuế doanh thu của từng cơ sở khó chính xác tuyệt đối và gây ra tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước. - Thuế doanh thu đánh trùng nhiều lần trên một giá trị và thuế đánh trên thuế. Một hàng hoá, dịch vụ qua càng nhiều lần luân chuyển thì chịu thuế doanh thu càng nhiều, thuế ở khâu sau tính trên cả phần thuế đã nộp ở khâu trước. - Thuế doanh thu không có sự thống nhất, ràng buộc lẫn nhau do thuế được thu độc lập với nhau từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng. Vì vậy không kiểm tra thuế đã nộp ở các khâu trước. - Không khuyến khích các cơ sở sử dụng tốt chế độ hoá đơn chứng từ và thực hiện chế độ hạch toán kế toán do nộp thuế ở khâu sau không được khấu trừ thuế khâu trước. - Thuế doanh thu quy định nhiều trường hợp miễn giảm không đúng tính chất của thuế gián thu. Loại thuế này do người tiêu dùng chịu nhưng người sản xuất hoặc người bán hàng lại được hưởng chế độ miễn giảm. Đó là sự mất công bằng giữa đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế. 2.yêu cầu phải thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam vì những lý do cơ bản sau: 2.1. Thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm không còn phù hợp Với những tồn tại của thuế doanh thu, việc áp dụng luật thuế doanh thu không còn phù hợp. Mặt khác, thuế doanh thu không còn phù hợp với đường lối đổi mới nền kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đòi hỏi phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu. Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT theo định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá do cung-cầu quyết định, nếu duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo kẽ hở cho trốn lậu thuế. Thuế doanh thu nhiều mức thuế suất bảo hộ đến từng ngành hàng, mặt khác chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoạch hoá, giá cả hàng hoá dịch vụ đều do Nhà nước thống nhất quản lý. 2.2. Thuế doanh thu đứng trước yêu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực Thời đại ngày nay, mỗi quốc gia không thể tồn tại biệt lập để có thể phát triển nền kinh tế- xã hội mà cần có sự hợp tác song phương, đa phương. Đó là xu hướng hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Tất yếu dẫn đến yêu cầu đối với mỗi nước là phải cải cách cơ chế chính sách của mình. Trong đó cải cách thuế được xem là một nội dung có tầm quan trọng hàng đầu nhằm có thể phát huy tác dụng công cụ thuế điều tiết vĩ mô nền kinh tế phù hợp thông lệ trong khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong tình hình Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN và từng bước hội nhập AFTA, APEC. Biện pháp hữu hiệu là phải cải cách thuế theo xu hướng chung: Hạ thuế suất đi đôi với mở rộng diện tính thu thuế, hạn chế đối tượng miễn giảm thuế, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, vừa tạo điều kiện động viên được sự đóng góp đại đa số tầng lớp nhân dân. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, thuế cũ không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi. Nhiều nước trong khu vực và thế giới đã áp dụng thuế GTGT để khắc phục sự trùng lắp của thuế doanh thu và tăng doanh thu cho NSNN như: Thuỵ Điển áp dụng từ 1/1/1989, Inđônêxia áp dụng tháng 4/1985, Đài Loan áp dụng tháng 4/1996, Philippin áp dụng tháng 1/1998, Nhật Bản áp dụng tháng 4/1989, Thái Lan áp dụng tháng 1/1995… Để có hệ thống chính sách phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động, phát triển với thực tế của nền kinh tế là điều cần thiết và cấp bách. Quán triệt tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách, đổi mới nền kinh tế đã chú trọng đến đổi mới hệ thống thuế bao gồm cả chính sách và bộ máy hành thu để bảo đảm hệ thống pháp luật thuế luôn phù hợp và thực thi có hiệu quả. Tiếp theo cải cách thuế bước I (1990-1996) Quốc hội, Chính phủ đã tiến hành ngay cải cách thuế bước II nhằm khắc phục những bất cập, đưa hệ thống thuế bắt kịp với thực tế phát triển của nền kinh tế nước ta. Khâu đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế bước II là việc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 (từ 2/4-10/5/1997) đã thông qua hai luật thuế cơ bản đại diện cho hai loại thuế, đó là luật thuế GTGT (đại diện cho loại thuế gián thu), thuế thu nhập doanh nghiệp (đại diện cho loại thuế trực thu). Hai luật thuế này được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu và thuế lợi tức. Thuế GTGT triển khai thực hiện ở trên 120 nước trên thế giới và đã được đánh giá là tiên tiến, khoa học và công bằng, có nhiều ưu điểm và khắc phục được những tồn tại của thuế doanh thu. Việc ban hành thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu là nhằm khắc phục những nhược điểm cuả thuế doanh thu, kích thích sản xuất phát triển đồng thời từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu hội nhập với nề kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cũng như của các nhà đầu tư trong nước, thúc đẩy tăng cường công tác hạch toán kế toán, chứng từ hoá đơn của các doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác quản lí thu thuế hạn chế thất thu, đảm bảo nguồn thu ổn đinh, thường xuyên, lâu dài và ngày càng tăng cho NSNN Tuy nhiên để vận dụng thuế GTGT vào Việt Nam có hiệu quả thì cần phải lưu ý đến một số vấn đề: - Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT phải có một thời gian áp dụng thử thuế GTGT sau đó mới áp dụng rộng rãi cho mọi ngành nghề. - Không áp dụng một mức thuế suất duy nhất cho tất cả các ngành nghề để khuyến khích một số ngành nghề sản xuất phát triển cũng như hạn chế những ngành nghề không cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. - Dần dần đưa việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán đi vào nề nếp, đi đến việc chấm dứt không có hóa đơn. - Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu của chính sách thuế mới cũng như yêu cầu về mặt nghiệp vụ để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp dân cư, thúc đẩy tinh thần tự nguyện, tự giác chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật. Hoà nhập chính sách thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phần II: Thực trạng của việc thi hành thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay Thuế GTGT ở Việt nam được tiến hành thí điểm từ tháng 9/1993. Qua một thời gian thực hiện, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt nam và chọn lọc những bài học thành công, thất bại ở một số nước, dự thảo luật được xây dựng từ đầu năm 1995, được Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 11 thông qua vào giữa tháng 5/1997 đã bắt đầu áp dụng chính thức trên diện rộng từ 1/1/1999. Sau hơn hai năm thực hiện luật thuế GTGT về cơ bản đã đạt được các yêu cầu đề ra. Luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, sản xuất, kinh doanh giữ được ổn định, bước đầu đã phát huy được tác dụng. 1. Những kết quả đạt được trong hai năm đầu thực hiện 1.1. Khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản, giảm khoảng 10% so với trước đây, toàn bộ thuế GTGT của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế; Mặt khác khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện chịu thuế GTGT. Từ khi thực hiện Nghị định số 78/NĐ-CP giảm 50% mức thuế GTGT đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế GTGT các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn khoảng 1% đến 2%, thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn được hoàn thuế. Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại thì không hoàn thuế GTGT, nếu thuộc vốn ODA vay thì được hoàn thuế GTGT trong thời gian 3 ngày kể từ ngày nộp tờ khai. Thực hiện thuế GTGT còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa phát triển do thuế GTGT chỉ thu thêm giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng với 2 phương pháp tính thuế; (phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp). Đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là thuế chồng lên thuế, đã thúc đẩy công nghiệp hoá, hiệp tác sản xuất nhất là trong lĩnh vực sản xuất cơ khí như sản xuất, lắp ráp xe đạp, xe máy, ô tô, điện tử . Trong quá trình thực hiện, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ gặp khó khăn do thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu nhưng chưa chuyển đổi kịp cho phù hợp với cơ chế thuế mới và chịu sự ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực như: than, cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng), luyện cán, kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, hoá dược,vận tải, bốc xếp, xây dựng, lắp đặt, khách sạn, ăn uống, du lịch đã được Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài Chính thực hiện các biện pháp xử lý, tháo gỡ khó khăn như: giảm mức thuế nhập khẩu của 569 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước với số thuế giảm gần 1000 tỷ đồng, giảm mức thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ ấn định đối với một số mặt hàng. Bằng các nội dung chính sách và biện pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên, luật thuế GTGT đã góp phần khuyến khích đầu tư và ổn định sản xuất kinh doanh. Trong năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn do số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm khoảng 12,5% nhưng tổng vốn đầu tư vẫn tăng so với năm 1998, trong đó vốn đầu tư trong nước tăng khoảng 28,0%, vốn ODA tăng khoảng 16%. Một số sản phẩm chủ yếu đạt khá so với năm 1998 là: dầu thô tăng 19%, sữa hộp tăng 8,7%, đường mật tăng 28%, bia tăng 1,5%, giấy bìa tăng 8,8%, xi măng tăng 9,2%, thép cán tăng 12,9%, điện phát ra tăng 9,7%… Mặt khác, năm 1999 do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế so với những năm trước giảm nhưng cũng đạt 4,8%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 10,4%; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 5,2%. Sự giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được chặn lại, nhịp tăng trưởng kinh tế đã khá lên và đạt khoảng 6,7%. Sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,5%; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3%; sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4,9% so với kế hoạch, các hoạt động dịch vụ đã được đẩy mạnh, giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 6%. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng 10%, doanh thu du lịch tăng 14%, doanh thu ngành bưu điện tăng 8,5%, doanh thu hàng không tăng 14%, vận tải hàng hoá tăng 10,4%, vận tải hành khách tăng 5,5%. Nhiều sản phẩm quan trọng trong hai năm có mức tăng khá cả về sản xuất và tiêu thụ như: Dầu thô, điện, than sạch, xi măng, thép, phân đạm, giấy, hàng may mặc, vải, đường mật, dầu thực vật… Đặc biệt, nhiều loại sản phẩm cơ khí đã tăng đáng kể do chất lượng được nâng lên, thị trường tiêu thụ có cải thiện như: Động cơ điện (năm 2000 tăng 12,1%), động cơ điêzel (năm 2000 tăng 9,2%), quạt điện (năm 2000 tăng 17,6%), bơm thuốc trừ sâu (năm 2000 tăng 33,3%), máy công cụ (năm 2000 tăng 21,2%), máy biến thế (năm 2000 tăng 14,5%)… Hầu hết các mặt hàng có mức tăng trưởng khá là những mặt hàng được giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT như: than, thép, các sản phẩm cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng), giấy in báo, vận tải, du lịch….Đối với sản xuất đường mật, nhà nước gần như là giảm 100% mức thuế suất thuế GTGT. Một tác động rõ nét nhất là với thuế suất 0% việc hoàn thuế GTGT đã thiết thực hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc giảm bớt được giá thành, tạo điều kiện cạnh tranh thuận lợi hơn trên thương trường quốc tế. Thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu đã tích cực góp phần bảo vệ sản xuất nội địa và phát huy tiềm năng của nội lực kinh tế. Việc thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư và thuế TNDN có các mức miễn giảm thuế phải nộp khác nhau trong thời gian đầu cơ sở sản xuất mới được thành lập đã góp phần khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực ngành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư. Tổng mức đầu tư xã hội năm 1999 bằng 141,1% năm 1998 và năm 2000 bằng 112% năm 1999 đã góp phần bảo đảm sự tăng trưởng về kinh tế. 1.2 Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế. Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hoá xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế suất 0%. Một số loại hàng chịu thuế xuất khẩu như: gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ trồng rừng, bàn ghế, sản phẩm chế biến từ kim loại (dây đồng, dây nhôm ..) trong năm 1999 cũng được giảm thuế xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng với các biện pháp xuất khẩu như : Cho phép các doanh nghiệp sản xuất trong nước được xuất khẩu trực tiếp, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu... thì việc thực hiện luật thuế GTGT có tác dụng rõ nét nhất, trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu. Theo quy định của luật thuế GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá xuất khẩu thực chất là Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn trước do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Trong năm 1999 số tiền đã hoàn thuế, tăng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 1.800 tỷ đồng. Vì vậy trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng với sự cố gắng của các ngành, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và tác động của cơ chế chính sách nên tổng giá trị xuất khẩu của nước ta năm 1999 vẫn tăng so với năm 1998 là 23,15% và năm 2000 dự kiến là 21,4%. Việc hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu năm 1999 là 2.700 tỷ đồng và năm 2000 là 5.000 tỷ đồng trong đó những mặt hàng được hoàn thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như là: cao su 37,2%, cà phê 27,6%, gạo 21,4%, thuỷ sản 14,1%, rau quả 39,6%, giày dép 36,4%, dệt may 15,1%, thủ công mỹ nghệ 48,6%, điện tử 17,5% . Thuế GTGT đánh vào hàng hoá nhập khẩu đã cùng với thuế nhập khẩu góp phần bảo hộ có hiệu quả sản xuất trong nước, đây là biện pháp hết sức quan trọng. Thực tế trong năm 1999, Việt nam đã giảm thuế nhập khẩu 569 lần mặt hàng với số thuế giảm gần 100 tỷ đồng và giảm thuế theo chương trình cắt giảm thuế quan CEPT 3591 dòng hàng (tính đến năm 1999) trong đó riêng năm 1999 là 1872 dòng hàng.Việc hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu năm 1999 là 2.700 tỷ đồng và năm 2000 là 5.000 tỷ đồng. Trong đó hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu lớn nhất là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Những mặt hàng hoàn thuế nhiều như gạo, hạt tiêu, hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử, hàng thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ là những mặt hàng xuất khẩu lớn. Việc thực hiện luật thuế GTGT cùng với các luật thuế mới khác trong năm 1999 góp phần cơ cấu lại nền kinh tế được thể hiện rõ nét trên các mặt: hợp lý hoá và giảm số thuế suất, từ đó đòi hỏi và khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, đạt và vượt mức lợi nhuận trung bình của xã hội. Thông qua việc ưu đãi đầu tư các luật thuế mới đã khuyến khích việc đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế theo định hướng phát triển của Nhà nước, thúc đẩy việc chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Không còn đánh trùng thuế như thuế doanh thu trước đây, khuyến khích việc sản xuất kinh doanh những hàng hoá mà Việt nam có thế mạnh như: nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ do được khấu trừ vào một tỷ lệ ấn định từ 3% - 5% khi mua hàng của nông dân. Trường hợp nông sản, lâm sản, hải sản xuất khẩu nếu có thuế GTGT đầu vào cũng được hoàn thuế. 1.3 Không gây biến động về giá. Trong hai tháng đầu áp dụng luật thuế giá trị gia tăng, giá một số mặt hàng như lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm, dược phẩm… nhích lên so với tháng 12 năm 1998. Nhưng do Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp như: miễn thuế đối với hoạt động buôn chuyến lương thực, thực phẩm; tăng cường quản lý thị trường, dán tem hàng hóa, chống buôn lậu, chống hàng giả, thực hiện niêm yết giá… nên giá cả trở lại ổn định. Trong 2 năm giá cả không có biến động nhiều, cụ thể như: Năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tăng khoản 0,1% và năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng dự kiến chỉ tăng 1%. Trong đó giá hàng lương thực, thực phẩm liên tục giảm làm chỉ số giá hàng tiêu dùng giảm. Giá dầu mỏ trên thế giới tăng từ cuối năm 1999 và tăng cao hơn ở năm 2000 làm cho giá một số vật tư, nguyên liệu nhập khẩu tăng lên, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất trong nước. 1.4 Không ảnh hưởng đến kế hoạch thu NSNN. Trong 2 năm 1999-2000 cơ quan thuế đã phải hoàn trên 9000 tỷ đồng tiền thuế GTGT nhưng ngành thuế vẫn đảm bảo hoàn thành vượt mức dự toán thu được giao (năm 1999 đạt 106,8%; năm 2000 đạt 109% và tăng 102% so với năm 1999, góp phần bảo đảm tỷ lệ tích luỹ tăng lên gấp đôi sau 10 năm, từ 14% GDP năm 1991 lên 27%-28% GDP vào năm 2000, duy trì được tỷ lệ động viên về thuế, phí, lệ phí trong 10 năm qua là 19,4% GDP. Những con số đó có ý nghĩa rất lớn, vừa góp phần trực tiếp tạo ra tốc độ tăng trưởng, vừa tạo ra một cách nhìn mới về cách thức và khả năng huy động nguồn lực phát triển đất nước trong tương lai. Xét theo địa phương thì có 61/61 tỉnh, thành phố đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán năm nên khả năng các địa phương được thưởng lớn. Trong đó có 22/61 địa phương hoàn thành toàn diện cả 3 chỉ tiêu chủ yếu là thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh. Số địa phương hụt thu về thuế GTGT Ngân sách Trung Ương phải bù thêm chỉ có 14 địa phương và số phải bù cũng không lớn. Tuy nhiên tỷ lệ động viên thuế và phí trên GDP của năm 1999 thấp (17,6%) chưa đạt được mức độ động viên theo nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra là 20% - 21% GDP. 1.5. Tổ chức tốt công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp. Để từng bước thực hiện chính sách công bằng về thuế, Bộ Tài Chính đã điều chỉnh từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế GTGT, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện được các mức thuế suất mới. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã thúc đẩy các doanh nghiệp, người kinh doanh chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác mở sổ sách kế toán, ghi chép quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Trong năm 1999, số lượng hoá đơn các doanh nghiệp sử dụng tăng gần gấp đôi so với năm 1998 và mức sử dụng hoá đơn tăng thể hiện sự chuyển biến một bước tiến mới trong công tác sử dụng hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự chuyển biến này thể hiện chuyển biến một bước tiến mới trong công tác sử dụng hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự chuyển biến này thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và hộ kinh doanh cá thể. Hơn 30.000 tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hơn 200.000 hộ kinh doanh cá thể đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ chuyển từ hình thức nộp thuế khoán trước đây sang nộp thuế GTGT theo phương pháp kê khai trực tiếp. Đối với 6.000 doanh nghiệp Nhà nước và hơn 2.400 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đã được củng cố, có nhiều tiến bộ so với các năm trước đây. Do làm tốt hơn công tác kế toán, hoá đơn chứng từ, các đối tượng nộp thuế đã chủ động kê khai lập và nộp tờ khai thuế hàng tháng tương đối đầy đủ và đúng thời hạn. Hiện nay đã có thêm khoảng 200.000 hộ cá thể, doanh nghiệp loại lớn và vừa bắt đầu thực hiện chế độ hoá đơn để được nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và có căn cứ để thực hiện chế độ tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai và tự nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước, nâng dần được trách nhiệm và nghĩa vụ khai báo, nộp thuế theo quy định của pháp luật. Chính sách thuế mới đã gắn được quyền lợi và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh, từng bước khắc phục tình trạng cán bộ quản lý cơ sở ở nhiều nơi đã làm thay công việc tính thuế, kê khai nộp thuế của cơ sở kinh doanh. Qua đó cơ quan thuế có thêm điều kiện để quản lý hoạt động kinh doanh tính thuế qua hệ thống máy vi tính để tập trung được cán bộ cho công tác đôn đốc, kiểm tra, xử lý vi phạm. 2. Những mặt còn tồn tại khi thực hiện thuế GTGT Hiện nay ở nước ta, mặc du` Bộ tài chính đã có một số văn bản hướng dẫn về chế độ quản lý sử dụng, hoá đơn. Song việc mua bán, sử dụng hoá đơn như bán hàng không ghi hoá đơn, xuất khống hoá đơn đang có chiều hướng gia tăng, gây thất thu nghiêm trọng ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến môi trường sản xuất kinh doanhvà làm tha hoá biến chất một bộ phấn cán bộ trong cacs cơ quan nhà nước. Do việc kinh doanh không bị ảnh hưởng do thuế GTGT khi doanh số cao, nên nhiều doanh nghiệp đã mua hoá đơn GTGT, làm bộ hồ sơ xuất khẩu khống để xin hoàn thuế, hợp pháp hoá hàng nhập lậu. Nên đã thúc đẩy một số đối tượng thành lập doanh nghiệp chỉ để bán hoá đơn GTGT và tạo nên thị trường bán hoá đơn bất hợp pháp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhất là một số thành phố lớn, các tỉnh có cửa khẩu. Với lượng hoá đơn sai phạm là 81.400 hoá đơn GTGT ( 2000-2002) thi` tổn thất của ngân sách nhà nước là hàng ngàn tỉ đồng. Bên cạnh những kết quả đạt được khi thực hiện thuế GTGT ở Việt Nam thì vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế không chỉ về hoá đơn mà còn ở thuế suất, phương pháp tính, hoàn thuế… dẫn đến thất thu thuế. Có thể đưa ra những mặt hạn chế sau: 2.1. Về hoá đơn, chứng từ: Đối tượng mua bán hoá đơn GTGT tráI phép gồm: Công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân và một số doanh nghiệp nhà nước. Các đối tượng “cò” chuyên móc nối các Công ty trên và số đối tượng có nhu cầu để mua và bán. Thủ đoạn sử dụng hoá đơn lập hồ sơ hoàn thuế khống là: Lợi dụng chính sách hoàn thuế của nhà nước đối với các hàng hoá xuất khẩu là nông, lâm , thuỷ, hải sản, các đối tượng đã móc nối với các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, các cơ sở thu mua chế biến hàng hoá xuất khẩu, ký khống hợp đồng mua bán, vận chuyển hàng hoá và mua hoá đơn GTGt để hợp pháp hoá việc mua bán, vận chuyển hàng hoá nội địa . Sau đó móc nối một số cán bộ hảI quan ở các cửa khẩu để xuất khống . Lợi dụng các quy định về lập bảng kê thu mua hàng hoá nông, lâm, thuỷ, hải sản của những người trực tiếp sản xuất, các đối tượng đã lập khống các bảng kê này, sau đó xuất hoá đơn GTGT lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp ở nhiều địa phương khác nhau để giấu nguồn gốc, giá cả hàng hoá gây khó khăn cho công tác xác minh, điều tra của cơ quan chức năng. Hợp pháp hoá các chứng từ khống trong mua sắm vật tư thiết bị, tài sản dùng vốn ngân sách nhà nước để tham ô, đặc biệt là trong xây dưng cơ bản. Đây là lĩnh vực lớn, phải sử dụng rất nhiều vốn của Nhà nước. Song các chủ thầu mua vật liệu sai với thiết kế, chất lượng kém của tư nhân, sau đó moc’ nối với các doanh nghiệp là các công ty TNHH, DNTN để ký các hợp đồng mua bán khống, xuất hoá đơn GTGT khống nâng khối lượng, đơn giá vật tư để quyết toán nhằm tham ô tiền của nhà nước. Ngoài ra, lợi dụng sự thông thoáng trong thuế VAT, tình hình buôn lậu xảy ra rát nghiêm trọng, với các thủ doạn như xe’ lẻ hàng hoá, thuê cửu vạn mang vác qua biên giới và sử dụng nhiều loại phương tiện vận chuyển hàng lậu vào các tỉnh nội địa để tiêu thụ, các đối tượng đã nhập lậu hàng hoá để trốn thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT rồi móc nối với các doanh nghiệp tại biên giới đóng mọtt phần thuế và mua hoá đơn của các doanh nghiệp này để hoẹp pháp hoá nguồn gốc hàng lậu và vận chuyển hàng hoá vào nội địa tránh sự kiểm tra của các cơ quan chức năng. Thủ đoạn chính là chỉ ghi số lượng hàng hoá trên liên hoá đơn giao cho khách hàn và người mua hàng là tư nhân hoặc các hộ buôn bán nộp thuế khoán. GTGT để nâng phần chi phí trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã mua hoá đơn của các công ty “ma” , nâng giá trị của hàng hoá xấp xỉ với giá của thị trường, làm thủ tục bán hàng lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp khác nhau để Để trốn thuế thu nhạp doanh nghiệp, ngoài các thủ đoạn mua bán hoá đơn dấu đầu vào triệt tiêu lợi nhuận trong kinh doanh. Ví dụ : Việc ghi giá bán trên hoá đơn thấp hơn giá bán tực tế xảy ra trên nhiều lĩnh vực, mặt hàng. 2.2.Về phương pháp tính thuế GTGT . Các văn bản về thuế GTGT ở nước ta đưa ra hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước , luật đầu tư nước ngoài , luật công ty , luật hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn , chấp hành tốt chế độ kế toán hoá đơn chứng từ và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT áp dụng chủ yếu đối với những hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện tốt chế độ kế toán chứng từ . Tương ứng với hai phương pháp tính thuế là hai loại hoá đơn GTGT và hoá đơn bán hàng thông thường .Qua mấy năm thực hiện thuế GTGT cho thấy sử dụng hai phương pháp tính thuế gây ra nhiều bất cập trong việc khấu trừ thuế đầu vào .M ặt khác , để quản lý cơ sở áp dụng phương pháp tính trực tiếp phải huy động gần một nửa số cán bộ thuế với chi phí tương ứng , nhưng thu cho NSNN chiếm tỷ trọng không cao trong tổng thuế GTGT . Về thuế suất thuế GTGT. Như chúng ta đã biết thuế suất là linh hồn của luật thuế thể hiện chính sách động viên của ngân sách, khuyến khích hay hạn chế sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, thể hiện sức cạnh tranh và trình độ của doanh nghiệp. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trinh chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Hoạt động và vận hành cuả thị trường chưa thật linh hoạt, nhiều doanh nghiệp có trình độ công nghệ, kỹ thuật, cũng như trình độ quản lý thấp, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh kém , chưa thích nghi và điều chỉnh nhanh nhạy để phù hợp với chính sách thuế mới. Vì vậy việc áp dụng một mức thuế suất đối với thuế GTGT trong giai đoạn này là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, đang từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất đến áp dụng thuế GTGT có 3 mức thuế suất thì không thể tránh khỏi sự chênh lệch số thuế gián thu phải nộp giữa hai loại thuế này. Có những doanh nghiệp trước đây chịu thuế suất thấp bây giờ chịu mức thuế suất cao hơn đã gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, có doanh nghiệp đang làm ăn có lãi nếu nộp đủ thuế GTGT thì bị lỗ. Chẳng hạn, các doanh nghiệp ngành chế tạo cơ khí trước đây đang nộp thuế doanh thu từ 1% đến 2% nay áp dụng thuế suất GTGT 10% đã gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh những doanh nghiệp sau khi áp dụng thuế GTGT gặp phải nhiều khó khăn thậm chí bị lỗ thì lại có nhiều doanh nghiệp có số thuế phải nộp thấp hơn thuế doanh thu như xổ số, điện, ximăng… Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do việc sắp xếp các loại hàng hóa, dịch vụ vào các nhóm thuế suất khác nhau là chưa hợp lý nên đã dẫn tới hiện tượng một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng, ngành hàng có mức thuế GTGT nộp thấp hơn thuế doanh thu trước đây sẽ có lãi. Ngược lại, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng, ngành hành có mức thuế GTGT nộp cao hơn so với mức thuế doanh thu trước đây sẽ bị lỗ. 2.3. Về khấu trừ thuế . Hầu hết các nước áp dụng phương pháp khấu trừ thúê đều sử dụng phương pháp lấy thuế đầu ra trừ thuế đầu vào , nếu hoá đơn đầu vào không ghi số thuế GTGT thì không được khấu trừ .ở nước ta chỉ quy định khấu trừ thuế GTGT đầu vào áp dụng đối với hàng hoá là nông lâm hải sản mua trực tiếp của người sản xuất không có hoá đơn nhưng có bản kê .Nhưng sau đó chính phủ cho phép khấu trừ thuế đầu vào đối với cả phế liệu , đối với hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đầu vào và tất cả hàng hoá dịch vụ đầu vào khác có hoá đơn hàng hoá thông thường được khấu trừ .Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại tiếp tục phát sinh những vướng mắc như :có nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến khích sử dụng hoá đơn chứng từ . Đối với hàng là nông, lâm , hải sản không cần hoá đơn , chỉ cần bản kê dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến , người thu gom nhưng doanh nghiệp không lấy hóa đơn bán hàng,tạo kẽ hở cho việc trốn thuế . Các doanh nghiệp mua nông lâm hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu lại không được khấu trừ thuế đầu vào. 2.4.Vấn đề hoàn thuế GTGT. Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ hoàn thuế chậm, gây khó khăn ách tắc vốn sản xuất kinh doanh cho nhiều doang nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư mua sắm TSCĐ với khối lượng lớn. Sở dĩ công tác hoàn thuế còn chậm so với thời gian quy định xuất phát từ những lý do sau: Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại rất nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ. Hiện nay trên thị trường có nhiều loại hoá đơn bất hợp pháp đang lưu hành. Vì lẽ đó, khi tiến hành xét hồ sơ hoàn thuế, ngành thuế phải mất rất nhiều thời gian để xác minh tính trung thực của các tờ hoá đơn xin hoàn thuế. Do bản thân các doanh nghiệp chưa hiểu rõ về chính sách thuế, trình tự và thủ tục hoàn thuế nên phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất thủ tục. Do trình độ của một số cán bộ thuế còn hạn chế nên hướng dẫn các đơn vị chưa đầy đủ chính xác. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng số thuế GTGT doanh nghiệp được hoàn trả phải đúng. Nếu không sẽ làm giảm số thu của NSNN đồng thời tạo cho các doanh nghiệp tư tưởng lợi dụng việc hoàn thuế để trốn lậu thuế và moi tiền của nhà nước. 2.5. Việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý. Qua mấy năm thực hiện luật thuế GTGT, Bộ tài chính đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau chỉ điều chỉnh bổ sung hoặc sửa đổi một số nội dung của văn bản trước. Do vậy hàng trăm văn bản đều có hiệu lực thi hành. Việc làm này gây khó khăn phức tạp trong điều hành tổ chức và quản lý thu thuế, chưa nói đến giữa các văn bản lại phát sinh mâu thuẫn. 3. Nguyên nhân của những mặt hạn chế ý thức chấp hành của quản lý, sử dụng hoá đơn của doanh nghiệp, người kinh doanh không nghiêm chỉnh, thậm chí nhiều đối tượng còn lợi dụng các sơ hở trong các quy định này để mua bán, lập khống hoá đơn thu lợi bất chính. Một số văn bản luật, chính sách kinh tế của nhà nước còn thiếu chặt chẽ nên tội phạm kinh tế lợi dụng hoạt động để chiếm đoạt tài sản như: các quy định về khấu trừ, hoàn thuế trong luật thuế GTGTđối với mặt hàng nông, lâm, hải sản. Luật doanh nghiệp tạo điều kiện cho công dân được thành lập doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh, nhưng các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước hoạt động thiếu phối hợp , kém hiệu quả dẫn đến chậm phát hiện ngăn chăn xử lý những vi phạm trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Chỉ cần số tiền lệ phí dưới mười triệu đồng và một bộ hồ sơ theo quy định do người xin đăng kí lập doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của hồ sơ. Cơ quan đăng kí kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ, không bắt buộc phải kiểm tra, và trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhặn hồ sơ, phảI cấp đăng kí, đã được Sở kế hoạch đầu tư trình UBND tỉnh, thành phố cấp giấy phép cho thành lập doanh nghiệp. Sau khi thành lập, không đăng kí với cơ quan thuế vẵn không bị xử lý, hoặc có đăng kí nhưng doanh số tăng đột biến chủ yếu do mua, bán hoá đơn nhưng không bị cơ quan chức năng xử lý. Cơ quan thuế hàng tháng, căn cứ trên bảng khai của doanh nghiệp và ra thông báo nộp thuế, chỉ kiểm tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm. Bộ luật hình sự năm 1999 chưa có điều luật quy định về hành vi, hình phạt về tội mua bán hoá đơn trái phép. Chế tài xử lý hành vi mua bán, sử dụng hoá đơn trái phép mới chỉ dừng lại ở mức xử lý hành chính theo các nghị định của chính phủ và văn bản hướng dẫn của Bộ tài chính (mức phạt tiền cao nhất là hai mươi triệu đồng) Vì vậy chưa có tác dụng ngăn ngừa, răn đe tội phạm trong lĩnh vực này. Một số cán bộ trong cơ quan chức năng(Thuế, Hải quan,….) thoái hoá biến chất tiếp tay cho đối tượng hoạt động phạm tội. Một số điều kiện trong thực tiễn chưa tạo cơ sở cho việc quản lý chặt chẽ như công tác kiểm tra, quản lý hoá còn nhiều sơ hở, việc thanh toán các hợp đồng mua bán chủ yếu thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, ít thanh toán qua ngân hàng… Hiệu quả hoạt động đấu tranh của các lực lượng công an trong phát hiện, đIều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực hoá đơn thuế GTGT chưa cao. Phần III Một số giải pháp khắc phục hạn chế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế gtgt ở việt nam I. Nhà Nước 1. Quan điểm. Cần đặc biệt quân tâm tới công tác quản lý thuế, nghĩa là làm thế nào để việc quản lý thuế đơn giản nhất, có hiệu quả nhất. Sau đó khi bộ máy quản lý đã đạt được trình độ nhất định, theo kịp mức độ tiên tiến của thuế GTGT thì sẽ chú trọng hơn tới tính hiệu quả của loại thuế này (tức là loại bỏ tình trạng đánh thuế trùng của thuế doanh thu ). Thực hiện mục tiêu cơ bản đề ra trong chỉ thị số 44- CT/TW ngày 4/11/1998 của Bộ Chính Trị là: - Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ sở kinh doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định được hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, tạo thêm khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước. Bảo đảm không ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu của Ngân sách trung ương trong những năm đầu thực hiện. Bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động mạnh về giá cả, đặc biệt là giá cả vật tư, hàng hoá quan trọng cho sản xuất và tiêu dùng thiết yếu để ổn định sản xuất, không ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. 2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy. 2.1. Thuế suất: Chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế GTGT (không kể mức thuế suất 0%) được xác định là giai đoạn đầu để dần tiến tới còn một mức thuế suất theo mục tiêu, yêu cầu đơn giản, bình đẳng, công bằng mà cải cách thuế bước II đã đặt ra. Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu đơn giản, công bằng và bình đẳng thì về lâu dài cần thống nhất một mức thuế suất thuế GTGT khoảng 10% như một số nước xung quanh Việt Nam (Inđônêxia 10%, Hàn Quốc 10%, Trung Quốc 13% và 17%, Philippin 10%, Thái Lan 10%). Nhưng về lộ trình có thể chọn một trong hai phương án: Phương án 1: Đến năm 2005 vẫn còn hai mức thuế suất là 5%, 10% (không kể thuế suất 0% đối với xuất khẩu). Mức 5% chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng thiết yếu, còn đại bộ phận các loại hàng hoá, dịch vụ đều áp dụng thuế suất 10%. Đến năm 2010 thì thống nhất một mức thuế suất 10% cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ. Phương án 2: Đến năm 2005 áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện phương án này bảo đảm được mức động viên theo yêu cầu của cải cách thuế bước II đề ra và bảo hộ được sản xuất trong nước do phải giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0% - 5% vào năm 2006 theo hiệp định AFTA. Trước mắt vẫn duy trì 3 mức thuế suất 5%, 10%, 20% (không kể thuế suất 0% đối với xuất khẩu) và cần phải xử lý giảm mức thuế suất cho một số hàng hoá, dịch vụ nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc: - Giảm mức thuế suất nhưng không làm tăng số lượng thuế suất đã quy định trong luật mà phải nhằm tới đơn giản mức thuế. - Hàng hoá, dịch vụ nào cần tạm thời phải hạ mức thuế suất, phải xem xét kỹ trong mối quan hệ sản xuất trong nước với nhập khẩu, giữa các cơ sở kinh doanh và phải áp dụng thống nhất cho cả hàng hoá nhập khẩu cũng như sản xuất ở trong nước. - Không vì những loại hàng hóa, dịch vụ này được giảm mức thuế suất mà lan rộng ra những hàng hoá, dịch vụ khác gây đảo lộn biểu thuế. - Không áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của NSNN. - Việc giảm mức thuế suất phải được đặt trong mối quan hệ tương đồng với chính sách thuế của các nước và chính sách hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước. - Đối với những hàng hóa, dịch vụ xử lý cho giảm thuế tạm thời phải công bố rõ thời gian áp dụng trong vòng 3 năm, hết thời hạn sẽ trở về mức thuế quy định để các doanh nghiệp có phương án phấn đấu thực hiện. 2.2. Phương pháp tính thuế: Vận dụng kinh nghiệm của các nước khi xây dựng luật thuế GTGT dự kiến đưa ra mức doanh thu là 600 triệu đồng/ năm, những hộ kinh doanh nhỏ có doanh thu dưới mức quy định không áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà áp dụng cách thu đơn giản (tính trên doanh số) như thuế doanh thu. Nhưng do đặc điểm của nước ta số hộ kinh doanh cá thể nhiều (trên 1 triệu hộ) đóng góp vào nguồn thu ngân sách đáng kể, nếu áp dụng cách thu đơn giản sợ không bình đẳng với những doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Vì vậy, Bộ tài chính đã có chỉ đạo tại thông báo số 41 TB/TW ngày 12/2/1997 là “ những người kinh doanh có nơi sản xuất, có cửa hàng, cửa hiệu cố định đều là đối tượng áp dụng thuế GTGT (không phân biệt hộ kinh doanh lớn, hộ kinh doanh nhỏ); những người kinh doanh không có nơi cố định thì áp dụng chế độ khoán.” Căn cứ vào thực tiễn của nước ta, căn cứ vào sự chỉ đạo của Bộ tài chính, luật thuế GTGT đã đưa ra hai phương pháp tính thuế là: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp được thành lập hoạt động theo luật Doanh nghiệp Nhà nước, luật Đầu tư nước ngoài, luật Công ty, luật Hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn chấp hành tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT áp dụng chủ yếu đối với những hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ. ứng với hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn tương ứng đó là hoá đơn giá trị gia tăng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ ) và hoá đơn bán hàng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp). Để dần dần tiến tới một phương pháp tính thuế cần phải từng bước triển khai công tác kế toán hoá đơn chứng từ đối với khu vực ngoài quốc doanh. Để chuyển dần họ sang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, trước mắt: Củng cố công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để 100% hộ nộp thuế theo phương pháp kê khai, khấu trừ thuế và triển khai công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đối với 100% số hộ cá thể kinh doanh lớn để chuyển từ khoán thuế sang nộp thuế theo phương pháp kê khai. Còn những hộ kinh doanh quá nhỏ thì miễn thuế. 2.3. Thực hiện khấu trừ thuế GTGT đối với các trường hợp sai sót. Việc khấu trừ thuế GTGT được giải quyết trên các căn cứ được xác minh thông qua: - Phản ánh đầy đủ trên hoá đơn, tuỳ mức độ mà người bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ được phép ghi trên hoá đơn. - Việc xác định đối với hàng nhập. - Việc xác định là đơn vị kinh doanh đã trả do tự cung ứng. Trong thực tế xảy ra trường hợp cơ sở cấp hoá đơn hàng bán ra sai thuế suất, ví dụ cơ sở kinh doanh máy điều hoà nhiệt độ bán máy điều hoà cho công ty điện lực dùng sản xuất kinh doanh. Khi bán, do sơ xuất của cán bộ viết hoá đơn đã ghi mức thuế suất trên hoá đơn bán hàng là 10%, thực tế mặt hàng này đã được giảm thuế suất 50% tức là chỉ còn 5%. Tháng sau, cơ sở mới phát hiện ra. Theo chế độ khoản chênh lệch do cơ sở nộp sai thuế suất không được khấu trừ. Tương tự như vậy, trường hợp hàng bán bị trả lại, hàng giảm giá không thu đủ tiền hàng theo hoá đơn bán hàng cũng không được hoàn thuế. Qua thực tế hoạt động kinh doanh, do nhiều lý do khác nhau, các cơ sở có thể bị bỏ sót thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Để đảm bảo tính chính xác của thuế GTGT cũng như đảm bảo các cơ sở không bị thiệt thòi, đề nghị chế độ thuế GTGT nên quy định: - Cho phép các cơ sở viết hoá đơn sai thuế suất được làm các thủ tục hợp thức hoá để điều chỉnh lại hoá đơn đã cấp cho đúng thuế suất quy định. - Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp hoạt động giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ thực tế bị huỷ bỏ, giảm giá không thu được đủ tiền hàng hoặc tiền dịch vụ đã ghi trên hoá đơn. - Số thuế GTGT đã nộp chưa được khấu trừ đúng thời hạn quy định do bị bỏ sót có thể vẫn được tiếp tục giải quyết thông qua các tờ khai bổ sung, nhưng tờ khai phải được gửi trước ngày 31/12 của năm tiếp liền năm bỏ sót với nội dung đúng chế độ quy định . Ngoài ra trong quá trình kiểm tra mà người nộp thuế làm đầy đủ các thủ tục điều chỉnh số liệu bỏ sót cũng được giải quyết khấu trừ theo quy định. Người bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ có sai sót trong việc ghi hoá đơn có thể làm đầy đủ các thủ tục về điều chỉnh và cấp lại cho khách hàng hóa đơn điều chỉnh về số thuế GTGT đã nộp. Từ đó khách hàng được phép làm tờ khai xin điều chỉnh và làm thủ tục khấu trừ bổ sung về thuế GTGT đã nộp và phải khai nộp trước ngày 31/12 của năm tiếp theo sau năm có hoá đơn điều chỉnh. 2.4 Một số giải pháp khác Để việc thực hiện thuế VAT đạt hiệu quả cao, cần có sự phối hợp giữa các nghành chức năng, cơ quan báo đài …tuyên truyền chính sách, pháp luật để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của công dân như: Luật thuế GTGT, Nghị định của chính phủ quy định về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn… Khi đối tượng bán hoặc xuất khống hóa đơn GTGT, sẽ bị khởi tố với vai trò đồng phạm khi: - Biết rõ người mua sử dụng vào mục đích chiếm đoạt tiền hoàn thuế, khấu trừ thuế ( Theo điều 139 Bộ luật hình sự 1999 áp dụng cho tội lừa đảo ciếm đoạt tài sản). - Biết rõ người mua sử dụng vào mục đích trốn thuế (Theo điều 16, áp dụng cho tội trốn thuế). Trường hợp viết hóa đơn GTGT về hàng hóa, dịch vụ trong liên 1 (giao cho khách hàng) cao hơn liên lưu, biết rõ người mua sử dụng để rút tiền của nhà nước. Người bán là vai trò đồng phạm, người mua phạm tội tham ô (theo đIều 278, Bộ luật hình sự về tội tham ô). II. Doanh nghiệp. Khi thực hiện thuế GTGT từ 1/1/1999 sẽ có tác động đến các cơ sở kinh doanh cụ thể là tính thuế, hạch toán thuế GTGT khối lượng công việc nhiều hơn. Về mặt lý thuyết, thuế GTGT không ảnh hưởng đến giá thành chi phí của doanh nghiệp nhưng trong thực tế rất nhiều doanh nghiệp đã ảnh hưởng tới chi phí và giá thành: Doanh nghiệp nhập khẩu phải nộp thêm thuế GTGT hàng nhập khẩu, một số doanh nghiệp có lượng hàng tồn kho lớn không được khấu trừ và việc hoàn thuế không kịp thời cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp trước đây nộp thuế doanh thu ở mức thuế suất thấp nay phải nộp thuế GTGT thuế suất 10%. Điều đó dẫn đến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và dẫn đến làm ăn thua lỗ. Vì vậy các doanh nghiệp cần có các giải pháp thích hợp nhằm chủ động tính toán phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. 1. Cách lập hoá đơn chứng từ. Muốn công việc kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ, các quy định hiện hành về thuế GTGT, đảm bảo làm ăn có lãi và thực hiện nghĩa vụ tốt với NSNN. Các doanh nghiệp có thể tăng cường chế độ hoá đơn chứng từ sổ sách kế toán như sau: ã Hoá đơn bán hàng: Việc kê khai thuế GTGT chủ yếu là dựa vào sổ sách kế toán, hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ… Hoá đơn có thể do cơ quan thuế phát hành hoặc do đơn vị tự phát hành để tiện cho việc thanh toán, nhưng phải đăng ký mẫu hoá đơn với cơ quan thuế. Hoá đơn có nội dung thể hiện được các chỉ tiêu: Số tiền bán hàng chưa có thuế, số thuế GTGT, tổng số tiền thanh toán, số hoá đơn, tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua, người bán. ã Sổ sách kế toán Cách ghi sổ kế toán: - Mọi đối tượng nộp thuế GTGT đều phải lập sổ kế toán ghi rõ các căn cứ xác minh hoạt động thực tế của đơn vị thuộc hoặc không thuộc diện chịu thuế GTGT. - Trên sổ sách kế toán phải được ghi chép sạch sẽ, rõ ràng, chính xác, cập nhật hàng ngày, không để chừa khoảng trống, không gạch xoá. Sổ kế toán phải được đánh số trang liên tục và phải xuất trình cho cơ quan thuế khi có yêu cầu của cơ quan thuế. - Sổ kế toán phải phản ánh được: Hoạt động chịu thuế GTGT chia ra từng loại thuế suất, hoạt động không chịu thuế GTGT, tên và địa chỉ, mã số thuế người mua. Ngoài ra còn phải thể hiện giá trị hàng hoá mua vào, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, tên, địa chỉ, mã số thuế người bán. - Riêng đối với các hộ kinh doanh nộp thuế gtgt theo chế độ khoán được thực hiện chế độ kế toán đơn giản theo hướng dẫn của cơ quan thuế. ã Tài khoản sử dụng: Theo chế độ sử dụng tài khoản 3331- thuế GTGT phải nộp và tài khoản 133- thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ các doanh nghiệpphải thực hiện mở tài khoản theo quy định và theo dõi chi tiết hàng hoá mua vào, bán ra cũng như thuế GTGT đầu vào đầu ra. 2. Thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có nguồn hàng hoá cung ứng kịp thời. Nhiều doanh nghiệp nguồn hàng hoá trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu cả về chất lượng, chủng loại, số lượng. Do đó các doanh nghiệp phải nhập hàng hoá để đảm bảo yêu cầu kinh doanh của mình. Theo luật thuế doanh thu thì không thu thuế đối với hàng hoá nhập khẩu, nhưng theo quy định luật thuế GTGT thì doanh nghiệp nhập khẩu vật tư hàng hoá trong danh mục chịu thuế GTGT phải tiến hành nộp thuế GTGT khi nhập khẩu hàng hoá. Việc thu thuế GTGT hàng nhập khẩu là cần thiết. Tuy nhiên do các doanh nghiệp vừa phải nộp thuế nhập khẩu, vừa phải nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu, do vậy để giảm bớt khó khăn các doanh nghiệp có đề nghị như sau: - Mức thuế suất: Đề nghị mức thuế suất thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu là 5%. Với mức thuế suất này, số thu Ngân sách có thể bị ảnh hưởng nhưng tạo điều kiện cho các mặt hàng trong nước được mở rộng, đa dạng về chủng loại và chất lượng. - Thời gian nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu những: Cho phép thời gian nộp thuê GTGT là 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo chính thức của của cơ quan hải quan về số thuế GTGT hàng nhập khẩu. 3. Vấn đề hoàn thuế. Theo quy định của luật thuế GTGT và các văn bản dưới luật đối với thuế GTGT đầu vào của TSCĐ được khấu trừ như đối với vật tư hàng hoá khác. Nếu số thuế đầu vào của TSCĐ lớn được khấu trừ dần trong 3 tháng mà số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết thì doanh nghiệp lập thủ tục yêu cầu cơ quan thuế hoàn thuế. Giải pháp xử lý này đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT đối với hoạt động đầu tư, tiết kiệm chi phí quản lý, không phải theo dõi khấu trừ thuế, đồng thời giảm gánh nặng cho NSNN không phải hoàn thuế này. Nếu doanh nghiệp đầu tư TSCĐ với giá trị lớn sẽ gặp khó khăn rất lớn vì phải đi vay để nộp thuế GTGT đầu vào và trả lãi vay. Như vậy chi phí của doanh nghiệp tăng, hiệu quả kinh doanh giảm. Để giảm bớt khó khăn doanh nghiệp xin đề nghị: Xét hoàn thuế theo từng tháng đối với số thuế GTGT được hoàn lớn (từ 200 triệu đồng trở lên) và xét hoàn thuế hàng quý có số thuế GTGT được hoàn nhỏ (dưới 200 triệu đồng) Để đơn giản trong thủ tục hoàn thuế, tạo điều kiện cho các cơ sở xin hoàn thuế giảm bớt khó khăn về vốn, đề nghị cơ quan thuế làm thủ tục hoàn thuế theo số liệu của cơ sở xin hoàn thuế. Các cơ quan thuế chỉ kiểm tra định kỳ hoặc khi thấy nghi vấn. Khi kiểm tra, nếu phát hiện số liệu hoàn thuế không chính xác, cơ quan thuế xử phạt nặng hoặc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ doanh nghiệp. Kết luận Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam ngày 1/1/1999 thay thế cho thuế doanh thu là một loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp thu thuế. Việc ban hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt nam. Sau hơn 2 năm thực hiện, thuế GTGT đã có những tác động tích cực đối với hoạt động của các doanh nghiệp như: khuyến khích đâù tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế; không gây biến động về giá cả và không ảnh hưởng đến kế hoạch thu ngân sách của Nhà nước; góp phần hoàn thiện công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp. Cần phải khẳng định việc ban hành và đưa vào áp dụng thuế GTGT ở nước ta là một cố gắng lớn của Đảng, Chính phủ, đặc biệt nó thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong công tác tài chính nói chung và trong ngành thuế nói riêng. Song do đây là một vấn đề còn mới mẻ đối với cả cơ quan thuế cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh - những đối tượng nộp thuế nên việc nảy sinh những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện là điều không tránh khỏi. Do đó cần có sự xem xét, nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc đồng thời đưa ra các biện pháp cho việc xử lý, giải quyết những vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả từ đó phát huy tối đa ưu thế của loại thuế này. Tài liệu tham khảo Luật thuế GTGT – Nhà Xuất bản chính trị quốc gia. Luật thuế GTGT (sửa đổi bổ sung) – Bộ tài chính ngày 18 tháng 9 năm 2002 Thuế và cải cách thuế ở nước ta – Bộ tài chính- Hà Nội 1990. Thông tư số 89/1998/TT-BTC hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT. Nghị định số 28/1998/NĐ-BTC quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT. Nghị định số 79/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT (sửa đổi bổ sung) Báo cáo thủ tướng chính phủ về việc triển khai thực hiện các luật thuế mới. Giới thiệu về thuế GTGT của Trung Quốc 6/1997 – Wung Gengseng, cơ quan Nhà nước về thuế, CHDCND Trung Hoa. Hệ thống thuế Thuỵ điển, Inđônêxia, Hungary – Tổng cục thuế 1992. Các số báo: Tạp chí thương mại. Diễn đàn doanh nghiệp. Thời báo tài chính, thị trường tài chính, thông tin tài chính, tài chính. Thị trường giá cả. Thời báo kinh tế … trong các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. 9. Thông tin trên các Web site: vnexpress.com.vn , webketoan.com.vn….., mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33952.doc
Tài liệu liên quan