Đề tài Tìm hiểu khái quát thực tế về công tác thi công lắp đặt giàn khoan biển cố định

Dựng cẩu nõng cỏc cụm chi tiết đẫ được chế tạo lờn giỏ đỡ trước để làm cơ sở lắp rỏp cỏc ống tiếp theo. - Liờn kết tạm thời cỏc ống nhỏnh với ống biờn, ống nhỏnh với ống nhỏnh bằng cỏc bản mó hoặc bằng hàn đớnh. - Tiến hành kiểm tra cỏc kớch thước hỡnh học của cỏc panel theo cỏc điểm chuẩn được đỏnh dấu trờn thành ống. - Sau khi cú biờn bản nghiệm thu của hội đồng mới được phộp tiến hành cỏc cụng việc hàn nối cỏc phần tử với nhau.

doc30 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu khái quát thực tế về công tác thi công lắp đặt giàn khoan biển cố định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
x3300 2430 37 Kéo dịch vụ 11 Côn Đảo 1 Nauy - 79 1200 62 6 Kéo hỗ trợ 12 NEFTEGAS 56 1 Hà Lan - 87 2x3600 1329 26 Kéo dịch vụ 13 NEFTEGAS 60 1 Hà Lan - 89 2x3600 1393 24 Kéo dịch vụ 14 Ponton 2 Việt Nam - 82 2x800 Thi công 15 Tàu Hoàng Sa 1 1200 Thi công 16 Tàu Trường Sa 1 1400 Thi công 17 Tàu Côn Sơn 1 Giải ống II. Tìm hiểu trình tự thi công Các bộ phận công trình biển. 1. Thi công khối chân đế. Khối chân đế được chế tạo trên bãi lắp ráp của xí nghiệp liên doanh . 1.1. Quy trình chế tạo khối chân đế trên bãi lắp ráp và tính toán thi công cho khối chân đế: 1.1.1. Thứ tự chế tạo các phần tử của khối chân đế : a/ Tập kết vật tư, chế tạo các thanh và tổ hợp các cụm chi tiết: Trong công tác này vật tư được tiếp nhận và tiến hành cắt các đầu ống tại chỗ các ống liên kết với nhau. Chế tạo các giá đỡ theo bản vẽ thiết kế. Tổ hợp các cụm chi tiết dùng để tổ hợp các panel. b/ Chuẩn bị mặt bằng nơi lắp ráp các panel và tiến hành dải gối để lắp ráp các panel theo thứ tự lắp ráp. Căn cứ vào kích thước chân đế và các trang thiết bị thi công và điều kiện an toàn trong khi lắp ráp ta chuẩn bị mặt bằng thi công. Tiến hành đánh dấu đường tâm của các panel (nhờ vào máy kinh vĩ) và dựa theo đường tâm này ta dải các gối đỡ. c/ Lắp ráp các panel P2, P3 : Dùng cẩu nâng các cụm chi tiết đẫ được chế tạo lên giá đỡ trước để làm cơ sở lắp ráp các ống tiếp theo. - Liên kết tạm thời các ống nhánh với ống biên, ống nhánh với ống nhánh bằng các bản mã hoặc bằng hàn đính. - Tiến hành kiểm tra các kích thước hình học của các panel theo các điểm chuẩn được đánh dấu trên thành ống. - Sau khi có biên bản nghiệm thu của hội đồng mới được phép tiến hành các công việc hàn nối các phần tử với nhau. - Kiểm tra mối hàn theo quy định của Vietsovpetro. - Lắp pin chống ăn mòn. - Lắp rưm ngoắc cáp nâng chân đế. - Lắp đường ống bơm trám. - Phun phủ sơn. - Thử áp lực đường ống bơm trám. - Lắp paker. - Lắp phễu dẫn hướng cọc. - Nghiệm thu panel sau khi chế tạo xong. 1.1.2. Quay lật panel P2 về phương thẳng đứng. a/ Công tác chuẩn bị: - Vạch dấu đường tiến của cẩu theo sơ đồ đã nêu trong bản vẽ thiết kế. - Quét mỡ bôi trơn vào máng đỡ xoay đóng vai trò khớp quay của giá đỡ xoay. - Chằng buộc cột của chân đế với máng đỡ xoay bằng dây cáp. - Hàn 4 cụm liên kết của thanh chống xiên vào panel ( khi này có 2 thanh chống xiên nằm trên panel và 2 thanh nằm dưới panel). - Quét mỡ bôi trơn lên mặt ngoài ống cột của chân đế tại vị trí lắp cáp cẩu. - Lắp 2 cáp cẩu nâng panel lên móc cẩu của hai cẩu. Cẩu sẽ di chuyển theo đường đã được đánh dấu. - Người chỉ huy thi công phân công người đánh tín hiệu cho hai cẩu ở về một bên panel đối diện với hai cẩu còn bản thân người chỉ huy thi công đứng ở vị trí quan sát được hai người lái cẩu, người đánh tín hiệu và quá trình quay panel. b/ Quy trình quay panel: - Sau khi kiểm tra tình trạng cáp nâng, cách lắp cáp, vị trí thẳng đứng của cáp tời móc cẩu. Hai cẩu đồng thời nâng đều ống chính của panel lên độ cao khoảng 200mm so với mặt trên của giá đỡ và giữ nguyên tại vị trí đó khoảng 30 phút. Sau đó kiểm tra biến dạng của mối hàn, độ uốn võng của panel, tình trạng làm việc của cáp nâng, tải trọng trên móc cẩu theo thiết bị đo của móc cẩu... - Quay panel từ vị trí nằm ngang về phương thẳng đứng, mỗi cẩu phải thực hiện hai thao tác: Nâng móc cẩu và di chuyển cẩu theo sơ đồ đã nêu trên bản vẽ. Khi này góc nghiêng của cáp tời móc cẩu so với phương thẳng đứng không được vượt quá 20 và cơ cấu quay cần của cẩu được khóa hướng. - Trong quá trình quay panel, hai cẩu phụ trợ có nhiệm vụ nâng đầu tự do của hai thanh chống xiên nằm trên mặt panel. - Sau khi quay panel về phương thẳng đứng phải khẩn trương kiểm tra độ thẳng đứng của panel bằng máy kinh vĩ và điều chỉnh panel bằng cẩu kết hợp với dây căng, tăng đơ. - Khi quay panel phải đặc biệt chú ý thời điểm cuối cùng, không cho panel dời khỏi giá đỡ hoặc xê dịch trên giá đỡ. - Nâng panel P2 lên để thay gối kê vào các vị trí. - Cố định tạm thời panel P2 ở vị trí thẳng đứng bằng các thanh chống xiên tại vị trí gần vách cứng ( theo bản vẽ ). Khi chưa cố định xong các thanh chống xiên thì cẩu nhất thiết phải duy trì lực như thể hiện trên bản vẽ Ghi chú: - Tất cả các qui trình công nghệ trên được áp dụng cho tất cả các panel của chân đế. Riêng từ panel thứ 2 trở đi khi quay không sử dụng kết cấu thanh chống xiên. -Sau khi quay panel thứ 2 trở đi về phương thẳng đứng theo thiết kế. Chỉ được phép tháo móc cẩu sau khi đã nắp 4 thanh không gian. Ghi chú: Trong quá trình thi công lắp ráp KCĐ phải tiến hành kiểm tra kích thước các phần tử trước và sau khi hàn. Các sai số kích thước khi lắp ráp chân đế được thực hiện theo tiêu chuẩn. Các bề mặt lắp ghép phải được nghiệm thu trước khi hàn Đối với cáp phải tiến hành kéo thử với lực kéo P = 30% tải kéo đứt trước khi đưa vào sử dụng. Phải tiến hành kiểm tra 100% ma ní theo qui trình mà Xí nghiệp VSP đang áp dụng trước khi đưa vào sử dụng. Các chi tiết phục vụ cho việc lắp ráp cần được cắt bỏ, mài nhẵn bề mặt, sơn phủ theo yêu cầu thiết kế trước khi kéo trượt chân đế. 2.3 Qui trình lắp ráp các ống không gian: Việc lắp ráp các ống không gian trước hết phải lắp cầu thang phục vụ việc lắp ráp này. Sau khi đã quay panel thứ nhất ta tiến hành lắp các vách cứng (Diafrắc). Tiếp tục quay panel thứ 2 và lắp ráp vào khối chân đế. Cuối cùng tiến hành lắp các ống không gian Qui trình lắp ráp các thanh không gian của KCĐ được lắp ráp sao cho lắp xong thanh dưới thì lắp các thanh trên tránh bị vướng khó và không lắp được 2.4 Quy trình hoàn thiện KCĐ trên bãi lắp ráp. Lắp sàn công tác . Cắt bỏ và mài nhẵn đến thép cơ bản các chi tiết phụ phục vụ cho thi công Phun phủ các bề mặt sơn bị bong tróc. Bôi mỡ và bọc vải bạt tại vị trí ngoắc cáp ở D1. Ngoắc cáp nâng chuẩn bị cho việc di chuyển chân đế ra vị trí tập kết. 3. Tính toán lưạ chọn các thiết bị phục vụ thi công KCĐ trên bãi lắp ráp: 3.1Chuẩn bị bãi lắp ráp: - Để xây dựng KCĐ phải chuẩn bị bãi lắp ráp, khả năng chịu tải bãi lắp ráp phải phù hợp với sức nặng của KCĐ trên bãi lắp ráp. - Trên bãi lắp ráp có hệ thống đường trượt để kéo KCĐ xuống nước hoặc phương tiện nổi . - Các hệ thống kho bãi và hệ thống giao thông trên bãi lắp ráp phải thuận tiện, phù hợp với yêu cầu thi công các KCĐ, nói khác đi, bãi lắp ráp là tổng mặt bằng thi công KCĐ . - Mạng lưới giao thông bên ngoài phải thuận tiện cho việc cung cấp nguyên vật liệu…phục vụ cho việc thi công KCĐ. 3.2 Chuẩn bi các thiết bị phục vụ cho việc thi công KCĐ. - Gồm nhiều cẩu tự nâng, các phương tiện thủy phục vụ thi công (hạ từ bờ xuống tầu và từ tầu xuống vị trí công trình ) - Đối với phương án dùng ponton gồm : ponton trên (PTT), ponton dưới (PTD), phao phụ, các tầu kéo dịch vụ 3000 tấn đến 7000 tấn . Các thiết bị phục vụ thi công bao gồm : + Cần cẩu + Xe nâng + Xe chở ống + Trạm máy hàn + Thiết bị cắt hơi + Giá đỡ các loại . - Các thiết bị máy mài : + Máy siêu âm + Máy nén khí + Máy phát đện + Máy phun sơn - Số lượng và các công suất của các thiết bị trên được chọn phù hợp với quy mô của KCĐ. Sau khi lựa chọn thiết bị phải bố trí thiết bị trong hệ thống kho bãi tiện lợi cho việc sử dụng 3.3. Cấu tạo và bố trí giá đỡ: Hiện nay tại các bãi lắp ráp cho các KCĐ bằng thép người ta thường sử dụng 3 loại giá đỡ . 3.3.1. Giá đỡ ống chính: - Là giá đỡ dạng khung, kết cấu gồm 2 trụ bằng thép và các dầm đỡ bằng thép hình . 3.3.2. Giá đỡ ống nhánh: - Loại này có kết cấu dạng 2 ống lồng vào nhau, ống nhỏ lồng trong ống lớn, chiều cao giá đỡ được điều chỉnh theo kích thước tại ví trí cần đặt panel. 3.3.3. Giá đỡ xoay : - Có cấu tạo như một kích cát gồm 2 ống lồng vào nhau ,khoảng không giữa chúng có cát, phía ngoài ống có 2 cửa nhỏ để xả cát để điều chỉnh độ cao của giá đỡ, mỗi cửa nhỏ có một tấm chắn, mặt trên kích bố trí dạng lòng máng có thể xoay được 3.3.4. Bố trí các giá đỡ để thi công panel : + Số lượng và chủng loại GĐ trên cũng như những nguyên tắc sử dụng chúng được tính toán thiết kế phù hợp cho từng loại chân đế và phù hợp với áp lực của bề mặt thi công . + Khối lượng (lực tác dụng ) đặt lên giá đỡ có thể tính theo nguyên tắc phân vùng, để đơn giản ta chia đều trọng lượng panel cho các giá đỡ và kiểm tra khả năng chịu lực của nền bãi lắp ráp 4. Công tác hoàn thiện KCĐ trước khi hạ thủy. Sau khi thi công KCĐ tiến hành lắp ráp các loại cầu thang của KCĐ, lắp các cục chống ăn mòn Protectơ, lắp sàn công tác, sơn KCĐ và bố trí trên KCĐ tại các vị trí theo thiết kế như: dây chằng buộc, cáp phục vụ cho cẩu, cáp phục vụ kéo KCĐ xuống ponton hay sà lan mặt boong và có biên bản ngiệm thu cấp xí nghiệp, lúc đó sẽ tiến hành công tác hạ thủy KCĐ. 5.Công tác nghiệm thu KCĐ trước khi hạ thủy - Hội đồng nghiệm thu VSP bao gồm: Đại diện VSP, Đại diện XN XâyLắp, Đại diện của CA(nếu VSP yêu cầu). Hội đồng nghiệm thu có trách nhiệm thẩm tra sự phù hợp của các biên bản chất lượng kể trên, nếu phù hợp, các thành viên của hội đồng ký vào biên bản lắp đặt và cho phép công việc tiếp theo là chuyển khối thượng tầng ra biển - VSP chỉ định bằng văn bản tiền nghiệm thu/ nghiệm thu. Hội đồng này có trách nhiệm: + Kiểm tra sự phù hợp của hồ sơ chất lượng. + Kiểm tra các bước chuẩn bị (bãi lắp ráp, các thiết bị phục vụ thi công, vật tư, chế tạo panel) có/ không phù hợp với thiết kế. + Lập danh mục các công việc còn tồn đọng và đưa ra thời gian mà XN Xây Lắp cần hoàn thành (nếu có). + Xác nhận vào biên bản do VSP qui định + Kết thúc. Tóm lại công nghệ chế tạo chân đế gồm các công đoạn chính sau : Thép ống đ Chế tạo nút ống và các phân tố lắp ráp của chân đế đ Bố trí giá đỡ cho panel 2, panel 3 đ Lắp ráp panel 2, panel 3 trên các giá đỡ đ Lắp hệ thống bơm trám xi măng cho các cột chân đế đ Lắp thiết bị paker đ Phun cát tẩy rỉ và chống ăn mòn đ Lắp các pin chống ăn mòn protector đ Quay panel 2, panel 3 từ vị trí nằm ngang về phương thẳng đứng đ Lắp các kết cấu không gian của chân đế đã được sơn phủ chống ăn mòn và gắn sẵn pin chống ăn mòn protector đ Kiểm tra và sơn các mối nối lắp ráp kết cấu không gian chưa được sơn hoặc chỗ sơn bị trầy tróc trong quá trình thi công lắp ráp chân đế đ Lắp các phễu dẫn hướng cho cọc trên các miệng cột chân đế theo bản vẽ đ thực hiện việc hoàn tất công trình. Sau khi lắp ráp hoàn thiện xong khối chân đế tiến hành cân và kiểm tra trọng tâm của công trình đ nghiệm thu công trình đ đưa công trình vào đường trượt chuẩn bị cho quá trình vận chuyển hạ thủy. III. Các phương pháp kiểm tra đường hàn và các biện pháp an toàn trong thi công. III.1. Các phương pháp kiểm tra đường hàn. III.2. Các phương pháp an toàn trong thi công. Việc đảm bảo an toàn tính mạng cho người sản xuất và an toàn cho thiết bị là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Công việc kéo trượt chân đế liên quan đến nhiều chuyên ngành khác nhau. Vì vậy phải có sự bàn bạc thống nhất giữa người chỉ huy thi công với các đội trưởng, tổ trưởng về kế hoạch hợp đồng triển khai công việc. Công tác kéo trượt chỉ được tiến hành khi có đầy đủ tài liệu thiết kế của đơn vị thiết kế và các thiết bị vật tư theo yêu cầu của thiết kế. Tất cả những người tham gia công tác kéo trượt khối chân đế đều phải được học an toàn lao động chung, an toàn lao động theo chuyên ngành của mình. Trong quá trình kéo trượt khối chân đế cần phải quan tâm các vấn đề sau : - Quy định an toàn phòng hỏa trong công nghiệp. - Quy định an toàn trong sử dụng khí ôxy-axêtylen. - Quy định an toàn phòng hỏa khi hàn và các dạng công tác phát lửa. - Quy định an toàn và các nguyên tắc sử dụng cẩu nâng. - Quy định cho công tác hàn ngoài trời được tiến hành khi vận tốc gió nhỏ hơn 8 m/s. Cẩu hoạt động với điều kiện gió nhỏ hơn 15m/s và cấm thi công lắp ráp trên cao khi gió lớn hơn 12 m/s. Cấm cẩu làm việc trong điều kiện ánh sáng nhỏ hơn 30 lux và khi có mưa, sấm, chớp, sương mù với tầm nhìn xa nhỏ hơn 100 m. - Cấm người không có nhiệm vụ vào khu vực thi công, khu vực hoạt động của cẩu. - Trao đổi giữa người chỉ huy thi công với lái cẩu, đội trưởng bằng máy bộ đàm hoặc loa tay. - Cấm các phương tiện nổi đi vào khu vực neo buộc ponton với mép bờ cảng. - Tất cả các cáp nâng và dụng cụ treo buộc lắp ráp phải phù hợp với yêu cầu thiết kế, các cáp cẩu bị mài mòn phải được kiểm tra xác định lại mức độ mài mòn và thử tải. Cấm sử dụng các cáp có độ mài mòn vượt quá chỉ tiêu cho phép. - Cấm sử dụng các cáp cũ nát, không được bảo dưỡng kiểm tra hoặc cáp không rõ nguồn gốc mà không được thử tải. - Những việc phát sinh trong công nghệ kéo trượt khối chân đế và gia cố chân đế lên hệ ponton cần phải được thỏa thuận với bên đại diện giám sát thiết kế. - Tất cả các cán bộ công nhân viên làm việc trên hiện trường phải được trang bị đầy đủ các thiết bị bảo hộ lao động cá nhân, các thiết bị bảo hộ chuyên ngành. - Các ponton trước khi được đưa vào sử dụng phải có biên bản kiểm tra, đánh giá tình trạng làm việc của ponton. Sau khi gia cố 2 ponton với chân đế xong phải có biên bản kiểm tra lại tình trạng làm việc của ponton để quyết định đưa chân đế ra biển. - Tuyệt đối cấm những người không có trách nhiệm đi vào khu vực kéo trượt chân đế, tại những vùng nguy hiểm phải có biển báo và người cảnh giới. + Ngoài ra khi thi công trên biển cần tuân thủ các quy định về an toàn lao động sau : - Cho phép cẩu nổi hoạt động khi gió nhỏ hơn 12 m/s và chiều cao của sóng không vượt quá 2m. - Cấm các phương tiện nổi đi vào tàu cẩu đang hoạt động. - Khi sử dụng các máy áp lực như máy bơm trám xi măng, những người không có nhiệm vụ bơm trám cần rời khỏi vị trí sàn công tác. - Tất cả những người tham gia xây dựng công trình trên biển phải được làm quen với phương tiện, dụng cụ cứu sinh trên biển. - Mọi công việc dưới nước do thợ lặn thực hiện phải tuân thủ theo các quy định an toàn của công tác lặn. - Cấm tuyệt đối không được câu cá hoặc vứt các đồ vật xuống biển trong khu vực thợ lặn đang làm việc. IV. quá trình thi công vận chuyển và hạ thủy chân đế. Việc thi công chế tạo khối chân đế và kết cấu thượng tầng trên bờ chủ yếu sử dụng các loại máy sau: Máy cắt, máy hàn, máy siêu âm kiểm tra mối hàn, máy phun sơn Các loại cẩu xích, cẩu bánh lốp, máy nâng... Việc tính toán lựa chọn các thiết bị, phương tiện thi công quan trọng hơn cả là lúc hạ thủy, vận chuyển, đánh chìm khối chân đế và khối thượng tầng. Việc tính toán và lựa chọn các loại cẩu xích, cẩu lốp, cẩu nổi, phương tiện nổi, các loại tàu kéo phụ thuộc vào tải trọng bản thân công trình và phương án thi công... IV.1. Chuẩn bị các phương tiện nổi, các thiết bị phục vụ thi công trên biển. + Các phương tiện nổi phục vụ công tác thi công trên biển bao gồm: Tàu cẩu nổi Trường Sa sức nâng 600T Tàu cẩu nổi Hoàng Sa sức nâng 1200T Tàu lặn Tàu kéo trở xi măng Trạm lặn. Ponton + Các thiết bị phục vụ thi công trên biển : Thiết bị đóng cọc: Búa hơi trọn bộ MRBS_3000 Búa hơi trọn bộ MRBS_1800 Thiết bị bơm trám xi măng: Xe bơm trám xi măng: IIA_32 Xe trộn vữa xi măng : IIA_3 Các thiết bị định vị công trình: phao hiệu định vị Thiết bị kiểm tra độ thẳng đứng của công trình: Dùng máy thủy bình, ống nước Các máy móc để hàn, cắt trên biển, sơn phủ và các thiết bị khác... IV.2. Quá trình thi công vận chuyển và đánh chìm khối chân đế. ở XNLD Viêtsovpetro khi thi công vận chuyển và cho hạ thủy đánh chìm khối chân đế thường dùng 2 cách : 1. Công tác vận chuyển : 1.1. Đối với giàn chân đế loại nhỏ : dùng tàu cẩu Trường Sa a/ Vận chuyển chân đế từ bãi lắp ráp ra bờ cảng : Từ bãi lắp ráp ra tới bờ cảng, chân đế được vận chuyển bằng 3 cẩu xích DEMAG “CC-2000” hoặc dùng 1 cẩu xích DEMAG “CC-2000” và 1 cẩu xích DEMAG “CC-4000”. Chân đế được di chuyển ra tới bờ cảng để chuẩn bị cẩu lên tàu cẩu Trường Sa được đặt nằm trên bãi lắp ráp trong phạm vi trục dọc chân đế vuông góc với phương trục dọc cần cẩu nổi Trường Sa và cách tâm tháp cẩu nổi Trường Sa không vượt quá giới hạn cho phép (khoảng 30 - 38 m). Việc di chuyển các phần của khối kết cấu phần trên đến vị trí tập kết trước khi cẩu lên tàu cẩu Trường Sa phải nằm trong phạm vi cách tâm cẩu nổi Trường Sa bán kính nhỏ hơn 45 m. Công việc di chuyển này được thực hiện bằng cần cẩu xích tự hành “CC-4000”. Tại vị trí tập kết này các phần của khối kết cấu phần trên được tổ hợp lại với nhau thành một khối. b/ Xếp các cấu kiện lên phương tiện nổi : Do đặc điểm của các khối kết cấu kim loại và thiết bị phục vụ thi công đưa ra biển, đường đi xa, cho nên việc sắp xếp bố trí kết cấu và thiết bị thi công trên tàu cẩu Trường Sa là 1 trong những khâu quan trọng của cả giai đoạn chuẩn bị. Vì vậy việc bố trí trên tàu đòi hỏi phải chính xác về cự ly cũng như về gia cố, kê chèn chắc chắn để đảm bảo ổn định cho các khối kết cấu, vật tư, thiết bị trong suốt quá trình vận chuyển trên biển. 1.2. Đối với giàn khoan có trọng lượng lớn : vận chuyển bằng hệ ponton Sau khi kết thúc tất cả các công tác chuẩn bị ở trên bãi lắp ráp và trên ponton vận chuyển, ta tiến hành kéo trượt khối chân đế theo trình tự các bước sau: a/ Tổ chức nhân sự : - Chỉ huy thi công phải có đầy đủ tài liệu thiết kế thi công kéo trượt và hiểu rõ các công đoạn chính trước khi tiến hành kéo trượt khối chân đế. - Thợ lái cẩu, thợ cơ khí phụ trách kích thủy lực ở vị trí sẵn sàng làm việc. - Người được phân công đánh tín hiệu đứng ở vị trí quy định sau khi đã thỏa thuận với người chỉ huy thi công và thợ lái cẩu. - Công nhân lắp ráp, công nhân cơ khí được tập trung theo tổ đội sẵn sàng làm việc theo nhiệm vụ được phân công. b. Kéo trượt chân đế trên bãi lắp ráp : Chân đế nằm trên các gối cát được từ từ hạ xuống để cho các guốc trượt tiếp xúc đều với đường trượt bằng cách tháo cát từ từ ra khỏi gối cát. Sau khi toàn bộ chân đế đã nằm trên 4 guốc trượt thì lập tức tiến hành kéo trượt. Các cẩu xích thu cáp vào tời để kéo hệ puly di động cho đến khi cẩu đã chịu tải trên 70% tải cho phép tối đa thì kết hợp 2 kích thủy lực hỗ trợ đẩy trượt. Khi chân đế đã trượt trên đường trượt, người chỉ huy thi công và người đánh tín hiệu phải phối hợp điều khiển để cho cẩu cùng kéo đều. Người chỉ huy thi công và thợ lái cẩu thường xuyên liên lạc với nhau qua máy bộ đàm cầm tay trong suốt quá trình kéo trượt. Kết thúc hành trình 1 kéo trượt, thì lúc này phần cuối của khối chân đế đã nhô ra ngoài mép bờ cảng khoảng 14 m để chờ luồn ponton vận chuyển sau. + Luồn ponton vận chuyển sau : Theo kế hoạch kéo trượt thường chọn những ngày trong tháng có triều cường, triều kiệt lớn nhất. Trước khi đến thời điểm triều kiệt lớn nhất khoảng 1 giờ, tất cả các công việc chuẩn bị và dằn nước phải được làm xong. Vào thời điểm triều kiệt lớn nhất phải khẩn trường đưa ponton vào dưới chân đế, sau đó bơm nước dằn ponton ra kết hợp với nước triều để đưa ponton gia cố với chân đế theo bản vẽ thiết kế. Trong thời gian gia cố ponton vận chuyển sau với chân đế, ở trên bãi lắp ráp đồng thời chuẩn bị cáp kéo chịu tải và hệ thống puly kéo trượt cho hành trình thứ hai. Các công đoạn chuẩn bị lặp lại tương tự như trên. Khi nước thủy triều lên, ponton vận chuyển sau cũng nổi theo, khi đó guốc trượt sau đã được tháo các bu lông liên kết gối tỳ guốc trượt ở trên chân đế với guốc trượt chân đế. Vào thời điểm chân đế nổi lên tách khỏi guốc trượt sau ta khẩn trương dùng cẩu CC-600 kết hợp với xe nâng kéo ngang guốc trượt sau ra khỏi đường mặt đường trượt, tiếp theo tiến hành kéo trượt chân đế trên bãi lắp ráp tương tự như hành trình kéo trượt thứ nhất. Điều đặc biệt cần lưu ý của công đoạn này là việc kéo trượt phải được tiến hành liên tục, bảo đảm trước khi hết giai đoạn triều kiệt thì guốc trượt đầu phải ở vị trí sát mép bờ cảng để tránh hiện tượng cột chân đế tỳ lên bãi lắp ráp gây biến dạng kết cấu chân đế. + Quá trình luồn ponton đầu vào dưới chân đế, và gia cố được tiến hành tương tự như đối với ponton sau đã nêu trên. Trong thời gian gia cố ponton vận chuyển đầu với chân đế, ta dùng tàu lai dắt Côn Đảo nối 2 bộ xích neo ngang ponton vận chuyển dưới với bờ cảng. Nối 2 cáp neo dọc chân đế với bờ cảng (từ ponton vận chuyển đầu lên ụ neo bờ cảng). Khi triều lên, chân đế rời khỏi guốc trượt đầu (đã được tháo các bu lông liên kết) ta khẩn trương dùng tàu kéo dịch vụ kéo chân đế rời khỏi mép nước bờ cảng. Dùng cẩu CC-600 đặt cầu vượt để chuyển người từ bãi lắp ráp xuống pon ton vận chuyển đầu hoàn thiện nốt các liên kết gia cố ponton với chân đế khi vận chuyển. Đến đây kết thúc công tác kéo trượt chân đế trên bãi lắp ráp. 2. Hạ thủy đánh chìm chân đế và định vị : Tàu lặn phải tập kết tại vị trí xây dựng công trình biển trước khi khối chân đế được đưa ra tới nơi khoảng 2 ngày. Trong thời gian này tàu lặn sẽ xác định tọa độ gốc khu vực xây dựng công trình và đặt phao hiệu thứ nhất tại tọa độ này. Tiếp theo thợ lặn kiểm tra đáy biển trong phạm vi bán kính 50m với tâm là phao hiệu thứ nhất để tìm vị trí đáy biển tương đối bằng phẳng nhất có độ sâu phù hợp chọn làm nền đặt chân đế và tại vị trí này thả phao hiệu thứ 2 còn phao hiệu thứ 1 cất bỏ để tránh nhầm lẫn giữa phao hiệu thứ nhất (tọa độ gốc xác định khu vực xây dựng công trình) và phao hiệu thứ 2 (vị trí đặt công trình). Việc xác định tọa độ định vị công trình sẽ thuê công ty khảo sát địa chất công trình. Chính công ty này sẽ tiến hành khoan và khảo sát cho công trình xây dựng này.Tùy theo phương án đánh chìm khối chân đế từ hệ ponton hay từ tàu cẩu Trường Sa mà có cách đánh chìm khác nhau. 2.1. Quy trình đánh chìm khối chân đế từ hệ ponton : - Tập kết khối chân đế ra vị trí xây dựng ngoài biển. - Tiến hành neo đậu tàu cẩu Hoàng Sa tại vị trí tập kết và các loại tàu khác được neo đậu ở lân cận với bán kính hoạt động đáp ứng các thông số kỹ thuật và yêu cầu thiết kế. Yêu cầu phải có các tàu kéo giữ định vị các ponton. - Tiến hành buộc cáp cẩu vào khối chân đế tại những vị trí thiết kế. Ta cẩu phần dưới của chân đế lên từ từ, khi cáp đã đủ căng (ăn tải) thì tiến hành phá bỏ các liên kết tạm thời giữa ponton dưới và chân đế. - Dùng tàu kéo kéo ponton dưới ra. - Sau đó ta thả cáp cẩu phần dưới chân đế từ từ làm khối chân đế nghiêng dần, khối chân đế từ vị trí nằm ngang xoay dần về vị trí thẳng đứng (lúc này ponton đầu vẫn còn liên kết với khối chân đế). - Khi chân đế đã ở vị trí gần thẳng đứng, ta tiến hành tháo móc cẩu ra. Lúc này nhờ tính toán dằn nước trong ponton đầu nên chân đế còn cách đáy biển khoảng 1,5 - 2 m (xác đinh theo ngấn nước biển vạch trên chân đế). - Móc cẩu vào ponton đầu và tiến hành định vị cho chân đế đặt ở cạnh phao hiệu thứ 2 với góc phương vị sai số trong phạm vi cho phép ± 30. - Sau khi định vị xong ta dằn nước ponton đầu vào để chân đế ngồi hẳn trên đất nền. - Khi chân đế đã ổn định ta tháo bỏ liên kết giữa ponton đầu và chân đế, đồng thời dùng cẩu cẩu ponton đầu lên đưa về vị trí tập kết để kéo về. Kết thúc quá trình đánh chìm khối chân đế. 2.2. Quy trình đánh chìm khối chân đế từ tàu cẩu Trường Sa : Tàu cẩu tự hành Trường Sa ra đến địa điểm xây dựng, sau khi đã chỉnh hướng sơ bộ thì tiến hành thả neo với sự giúp đỡ của tàu kéo. Căn cứ theo điều kiện khí tượng thủy văn cụ thể của khu vực xây dựng, tàu cẩu Trường Sa sẽ tự chỉnh hướng tàu để phục vụ cho việc xây dựng cụm công trình thuận lợi nhất. - Tàu cẩu Trường Sa tự định vị sơ bộ bằng neo và động cơ của mình ở lân cận điểm đặt phao hiệu thứ hai với bán kính hoạt động của cẩu khi hạ thủy chân đế đáp ứng các thông số kỹ thuật và các yêu cầu thiết kế. - Các cáp cẩu quay và định vị chân đế nằm trên sàn boong tàu cẩu Trường Sa được lắp vào các móc cẩu. Móc cẩu được móc lên từ từ, khi cáp cẩu đã đủ căng, chịu 1 tải trọng cho phép thì dừng lại và tiến hành tháo bỏ toàn bộ các liên kết gia cố tạm thời cho chân đế dùng khi vận chuyển trên biển. - Chân đế được nhấc khỏi sàn boong tàu và cần cẩu quay theo chiều kim đồng hồ đưa chân đế ra khỏi mạn trái boong tàu, khi đó phối hợp các móc cẩu lên xuống để quay chân đế từ vị trí nằm ngang về phương thẳng đứng. - Tháo bỏ cáp cẩu móc phía dưới chân đế. - Chân đế được hạ dần vào trong nước, khi chân đế còn cách đáy biển khoảng 1,5 - 2 m (xác định theo ngấn nước biển vạch trên chân đế và tải trọng trên các móc cẩu) thì tiến hành định vị cho chân đế để đặt ở cạnh phao hiệu thứ hai với góc phương vị sai số trong phạm vi cho phép ± 30 với sự hỗ trợ của tời kéo. - Xuống móc cẩu cho chân đế ngồi hẳn lên đất nền . - Tháo cáp cẩu nâng định vị ra khỏi chân đế. Kết thúc quá trình hạ thủy và định vị chân đế . Tóm lại quá trình thi công hạ thủy đánh chìm khối chân đế gồm những công đoạn chính sau đây : Hạ thủy chân đế đ đóng cọc neo đ cắt đầu cột chân đế và chêm các tấm định tâm giữa cọc neo với cột chân đế đ bơm trám xi măng cho cọc và cột chân đế đ cắt 4 đầu cọc và hàn bản đỡ đ lắp khối kết cấu phần trên với chân đế đ hàn liên kết chân cột khung nối của khối kết cấu phần trên với chân đế đ lắp ráp cầu thang từ chân đế lên khung nối đ hàn liên kết đ hoàn thiện công trình bên trên và bàn giao cho đơn vị chủ quản. IV.3. Đóng cọc neo, kiểm tra độ chối, các sự cố có thể xảy ra và hướng khắc phục. Quy trình đóng cọc neo cho chân đế được tiến hành theo quy trình đóng cọc trên nền trầm tích hiện đang áp dụng tại LDDK Vietsovpetro kết hợp với kinh nghiệm đã có. - Sau khi công trình được đặt xuống nền đất theo đúng yêu cầu thiết kế cần khẩn trương tiến hành luồn cọc neo các vào cột chân đế. - Các cọc neo được đánh số thứ tự N1, N2, N3, N4 (đối với khối chân đế có 4 ống chính) theo chiều kim đồng hồ. - Khi đóng cọc phải tuân thủ theo thứ tự N1, N3, N2, N4 để giảm bớt hiện tượng lún lệch của chân đế, phải thường xuyên kiểm tra độ chênh cao vách cứng D1 tại vị trí 4 cột chân đế ở 4 góc. - Trong trường hợp chân đế bị lún lệch và cả ngay khi trong đóng cọc thì phải chuyển sang đóng cọc ở phần góc cao nhất trước và góc thấp nhất sau cùng. Các cọc dự kiến được đóng bằng 2 đợt búa. - Với những mét cọc đầu tiên đóng vào đất nền ta sử dụng búa hơi MRBS-1800. - Khi đóng thấy số nhát búa đạt tới giới hạn cho phép cho 1m cọc thì phải chuyển sang dùng búa MRBS-3000 để tránh sự cố cho búa. Nếu điều này không xảy ra thì vẫn dùng búa MRBS-1800 cho tới khi kết thúc. - Mỗi cọc đều được lập một biểu đồ đóng cọc xác định độ chối của cọc thông qua số nhát búa trên từng mét cọc đi vào đất. - Nếu độ chối của cọc đạt tới giới hạn cho phép trên một nhát búa thì phải dừng lại để xem xét và ban chỉ huy công trình quyết định xử lý tại hiện trường. - Sau khi kết thúc đóng cọc phải tiến hành cắt bỏ phễu dẫn hướng và cho cọc trên đầu cột chân đế và phải tiến hành đo đạc xác định độ chênh cao tại các góc của vách cứng D1 để từ đó suy ra độ nghiêng lệch của chân đế với phương thẳng đứng. - Trong trường hợp nghiêng lệch này lớn dẫn đến đổi chiều chịu lực của một số thanh chịu lực của khối chân đế thì ta phải dùng các biện pháp kỹ thuật xử lý để đưa khối chân đế về vị trí cân bằng ổn định. - Tiến hành cắt bỏ các đầu cột chân đế theo thiết kế. - Chêm các tấm nêm định tâm vào khoảng không gian thành ngoài cọc neo với thành trong cột chân đế. - Hàn các đường hàn liên kết tấm định tâm với cột chân đế và cọc neo. 3.Quy trình hạ thủy KCĐ lên các phương tiện khác. 3.1 Hạ thủy KCĐ từ BLR xuống SLMB Đối với KCĐ và đường trựot cũng như các thiết bị hệ thống tời kéo ,puly,máng trượt trạm lặn giống như công tác chuẩn bị đói phần hạ thuỷ KCĐ từ BLR xuống hệ PT. Đối với SLMB yêu cầu phải chuẩn bị đường trượt trên SLMB giống như hệ đường trượt của BLR ,phải kiểm tra hệ thống nuiước dằn của SLMB để đảm bảo hoạt động trong các điều kiện dằn được từng khoang hoặc đồng thời các khoang trong xà lan hoặc bơm dằn từ khoang nọ sang khoang kia trong SLMB nhằm điều chỉnh mớn nước cho xà lan phù hợp với từng điều kiện cụ thể khi hạ KCĐ lên SLMB sao cho mọi trường hợp không xảy ra hiện tượng xà lan bị nghiêng dọc hoặc nghiêng ngang . Trong thực tế thường xảy ra 3 phương pháp hạ thủy KCĐ lên SLMB. 3.1.1 Phương pháp cẩu KCĐ đặt lên boong xà lan Đây là phương pháp đơn giản nhất ,dùng cẩu nhấc toàn bộ KCĐ từ vọi trí nằm ngang trên bờ đặt xuống mặt sàn của SLMB .Trưòng hợp này chỉ áp dụng đối với khối chân đế có kích thước nhỏ ,đồng thời phải có cẩu lớn và tầm với xa. 3.1.2 Phương pháp hạ thủy bằng trượt lật. Dùng phổ biến cho KCĐ nặng ,kích thước lớn ,KCĐ được chế tạo sẵn trên dường tryựơt .Trên SLMB có đường trượt cùng kích thước với đường trượt trên BLR .Đường trượt nàyn đồng thời dùng làm đường trượt đánh chìm KCĐ (tại địa điểm xây dựng ) Sau khi đưa SL vào vị trí chính xác sao cho khớp đường trượt trên SLMB với dường trượt trên BLR thì SLMB được giữ cố định để cho SLMMB được ổn định khi kéo KCĐ lên SLMB. 3.1.3 Phương pháp dùng con lăn Dùng các giá chuyển hướng có bánh xe để đưa KCĐ từ BLR xuống SLMB Giữa SLMB và bến BLR phải bố trí cầu nối có khớp xoay nhằm đưa các gía chuyển hướng được từ trên bờ xuống SLMB. Khi KCĐ dã đặt hoàn toàn trên SLMB cần kích KCĐ lên và lấy các giá chuỷên hướng ra ,sau đó đưa các giá đỡ bằng thép hoặc gỗ vào để đỡ KCĐ .Cần lưa ý một điều là việc bố trí các bệ đỡ đó phải phù hợp với sơ đồ kết cấu chịu lực của SLMB .Trong trường hợp không phù hợp thì phải tạo một hệ kết cấu gia cường bằng thép để truyền lực vào kết cấu chịu lực của SLMB ,tránh ứng suất cục bộ cho SLMB. 3.2. Hạ thủy KCĐ xuống nước. Phưong án KCĐ tự nổi trong vận chuỷên là một phương án dùng khá phổ bién trên thế giới .Tuy nhiên phương án này chỉ thích hợp với các vùng biển kín ,các vịnh hoặc hồ lớn .Cũng có thể dùng trong biển hở nhưnh khu vực xây dựngphải rất gần bờ .Để đảm bảo cho việc hạ thủy KCĐ cũng như trong khâu vận chuyển và đánh chìm cần phải bố trí ccá loại phao phụ liên kết cứng với KCĐ Đối với BLR thường là có hệ thống đường trượt ,có bán kính nhất định phù với độ sâu của bãi hạ thủy. 2_ Các yêu cầu khi vận chuyển khối chân đế và thượng tầng trên biển. Khối chân đế và thượng tầng phải được liên kết chắc chắn với phương tiện nổi đảm bảo ổn định khi di chuyển. Yêu cầu quan trọng hơn cả là khi vận chuyển khối chân đế và thượng tầng chiều cao sóng biển cho phép là 1,25m, vận tốc gió cho phép là 10 m/s. 1.2.3. Quy trình bơm trám xi măng. Dung dịch xi măng được trộn trong máy trộn và chuyển qua ống cao su chịu áp lực bằng máy bơm IIA-320 truyền đi theo các đường ống trám xi măng đã được lắp đặt sẵn đến các vùng cần bơm. Có 3 vùng cần bơm xi măng: Vùng gia cố cho cọc trong đất nền Vùng trong cột ống chính và chân đế Vùng trong lòng cọc Quy trình bơm trám xi măng, các sự cố có thể xảy ra và biện pháp khắc phục. + Công tác chuẩn bị: Trước khi bơm trám, các đường ống bơm trám phải được thử ép nước bằng cách lắp ống bơm vào 1 trong 2 ống dẫn bơm trám trong lòng mỗi cọc lần lượt bơm ép cho từng ống tới khi áp lực tối đa khoảng 20-26 at. Nếu nước đi bình thường đồng hồ áp lực trên máy bơm báo chỉ số không tăng và không thấy nước trào lên miệng ống dẫn thứ 2 cũng như miệng cọc như vậy có nghĩa là nước bơm ép đã thâm nhập vào vỉa của nền đá. Ông cọc này cần phải được đánh số để bơm vữa xi măng vào. Nếu các ống này bơm vào nước không đi, áp lực đồng hồ tăng đột ngột có nghĩa là nước thâm nhập vào vỉa đá nền kém, như vậy vữa xi măng sẽ được bơm vào từ từ cho đến khi dung dịch xi măng trào ra khỏi miệnh ống thứ 2 đạt tỷ trọng 1,2 – 1,4 thì dừng lại. Sau khi thử các ống dẫn trong lòng cọc xong thì bơm thử các ống dẫn bên ngoài cột của chân đế. Nếu sau khi bơm thấy nước trào ra trên miệng ống chính thì có nghĩa là pácker kín khít, việc bơm vữa xi măng sẽ tiến hành bình thường. Nếu bơm nước vào không thấy nước trào ra miệng ống thì có nghĩa là packer bị hở cần dùng biện pháp bơm tạo nút. Cần chuẩn bị xe trộn, máy bơm dung dịch xi măng, vòi cao su chịu áp lực, đầu nối nhanh sẵn sàng hoạt động tốt. Chuẩn bị lượng dung dịch xi măng bơm trám. + Công tác bơm trám. Dung dịch xi măng được pha trổn trong máy có tỷ trọng 1,8 – 1,9 dược bơm vào trong ống dẫn đã đượ bơm ép nước trước với áp lực 2-3 at. Đầu tiên bơm trám cho vùng gia cố cọc trong nền. Dung dịch xi măng dược bơm vào trong ống f60´5 lắp sẵn trong lòng cọc f720´20 cho đến khi thợ lặn kiểm tra phát hiện thấy dung dịch xi măng từ dưới phun lên khỏi mặt nền công trình xung quanh cột chân đế của chính cọc đang được bơm trám thì phải báo ngay cho ban chỉ huy thi công để có ngay quyết định kịp thời, còn trường hợp thợ lặn không phát hiện thấy dung dịch xi măng trên mặt nền công trình mà dung dịch xi măng bơm không đi vào vỉa nữa mà đi ra khỏi miện ống bơm thứ 2 có tỷ trọng 1,2- 1,4 thì dừng việc bơm trám cho vùng gia cố cọc trong nền. Tiếp tục tiến hành bơm trám xi măng cho vùng không gian giữa cọc và ống chính đến khi xi măng trào ra khỏi miệng cột trên vách cứng D1 đạt tỷ trọng 1,3 - 1,4 thì dừng lại. Nếu packer bị hở thì dùng biện pháp bơm tạo nút. Dung dịch xi măng đã trộn phụ gia đông kết nhanh có tỷ trọng 2,1 – 2,2 bơm theo đường ống bơm trám vào cột khoảng 0,6 m3/cột. Chờ cho dung dịch xi măng vùa đủ thời gian đông kết đạt đến cường độ yêu cầu tạo nút sau khoảng 24h thì ta tiến hành bơm ép nước vào ống bơm trám thứ 2 ở ngoài ống chính để thử nếu nước trào nên miệng ống đnút xi măng làm việc tốt đ tiếp tục bơm trám. nếu nước không trào nên đ nút xi măng bị hở đ lại bơm dung dịch xi măng tạo nút tương tự. Nếu bơm lần 2 cũng không được ta tiến hành biện pháp bơm treo. Tại miệng trên của cột chân đế sau khi đã hàn các tấm định tâm giữa cọc neo và chân đế thì những chỗ nào giữa cột neo và cột chân đế còn hở thì phải được chèn thép hàn kín hoặc trám kín bằng vữa xi măng có độ đông kết nhanh nhằm tạo nút cho khoảng không gian cần bơm trám này ngay trên miệng cột. Sau đó khoét một lỗ trên thành cột ống chính tại vị tri dưới các tấm định tâm và trên các tấm vách cứng D1 vừa đủ để hàn cấy một đoạn ống f60´5 L= 30 – 40 cm một đầu được hàn săn mặt bích để nối với đầu nối nhanh của ống bơm trám và tiến hành bơm trám xi măng có tỷ trọng 2,1 - 2,2 với áp lực 3 at. Sau khi bơm khoảng 3,2 m3 dung dịch xi măng thì lập tức tháo đầu nối nhanh ống bơm trám ra và hàn kín đầu tự do của ống bơm cấy lại. Tiếp tục bơm trám xi măng cho vùng không gian trong long cọc: Thả ống bơm trám vào lòng cọc cách mặt đất khoảng 6 – 7 m thì dừng lại để bơm trám. Sau khi bơm khoảng 5 m3 dung dịch xi măng thì rút ống cao su nên 5 m và tiếp tục cứ sau khi bơm đượ 2,5 - 3 m3dung dịch xi măng thì lại rút ống lên 5 m cho đến khi dung dịch trào ra khỏi miệng ống. 1.3. Công tác nghiệm thu chạy thử và bàn giao công trình. Công tác nghiệm thu: Hiện nay viện nghiên cứu khoa học và thiết kế công trình biển thuộc công ty Vietsovpetro đã và đang triển khai thực hiện kiểm định chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9001_2000 nghĩa là việc kiểm định nghiệm thu sản phẩm phải được tiến hành trong từng công đoạn làm ra sản phẩm đó. Như vậy việc nghiệm thu một công trình biển là một công việc có khối lượng rất lớn. Việc chế tạo nó phải được tiến hành qua nhiều công đoạn. việc nghiệm thu phải luôn đi sát sau khi một công đoạn kết thúc. Trong phạm vi báo cáo thực tập em không thể nêu ra hết mà chỉ nêu 1 ví dụ về việc nghiệm thu công tác hàn các ống nối của kết cấu đế. Việc nghiệm thu công tác hàn bao gồm: Nghiệm thu về chất loại que hàn ( do đơn vị nào sản xuất ). Công nhân hàn tay nghề bậc mấy ( tuy thuộc vào vị trí đường hàn ), do đơn vị nào cấp chứng chỉ, trong khoảng thời gian nào, tình trạng sức khỏe của người công nhân đó ra sao. Dùng loại máy nào để kiểm tra chất lượng đường hàn.. .. Sau khi nghiệm thu toàn bộ công trình thì bước cuối cùng của hợp đồng là bàn giao công trình và các thủ tục cần thiết khác. C - Thi công vận chuyển : 1 Công tác chuẩn bị Chân đế sau khi kết thúc lắp ráp được nằm trên các gối đỡ đệm cát và các gối đỡ này đỡ vào các cột chân đế tại các vị trí gần vách cứng ngang. Nhiệm vụ của công tác kéo trượt là đưa chân đế đang ở vị trí nằm trên các gối đỡ đệm cát chuyển sang nằm trên 4 guốc trượt và di chuyển trên bãi lắp ráp ra tới mép cảng, sau đó hạ thủy chân đế xuống 2 ponton vận chuyển. Công tác kéo trượt khối chân đế bao gồm các công đoạn sau: 1.1Chuẩn bị mặt bằng bãi lắp ráp và đường trượt. Biển trong cảng Đường trượt Bãi lắp ráp - Để bảo đảm cho quá trình kéo trượt được thuận lợi và liên tục, tất cả các chướng ngại vật trong hành lang trượt mà chân đế, giàn đẩy, hệ thống puli kéo cáp và các cáp cẩu đi qua có thể gây ảnh hưởng hoặc cản trở tới quá trình kéo trượt đều được dọn sạch và di chuyển ra ngoài hành lang trượt. Bề mặt đường trượt có khẩu độ 16 m nằm phía dưới Panel P2, P3 của chân đế phải được dọn sạch. Các gờ nhám trên bề mặt đường trượt xuất hiện trong quá trình thi công lắp dựng khối chân đế phải được loại bỏ và làm nhẵn bề mặt bằng máy mài cầm tay. Toàn bộ bề mặt đường truợt trên suốt chiều dài guốc trượt chân đế và gối đỡ trượt của giàn đẩy sẽ đi qua phải được phun cát làm sạch đến thép cơ bản. Tại những vị trí bề mặt đường trượt bị biến dạng cục bộ gây ra lồi lõm ảnh hưởng tới quá trình kéo trượt khối chân đế, phải có biện pháp sửa chữa khắc phục ngay. Trước khi kéo trượt không quá 24 giờ toàn bộ bề mặt của đường trượt được phủ một lớp mỡ saliđon dày không nhỏ hơn 3mm. Hai bên biên của mỗi đường trượt được lắp các gỗ tà vẹt có kích thước 3000x200x150 mm theo bước 5 M và so le nhau. 1.2. Chuẩn bị giàn đẩy. - Nếu chân đế được thiết kế với cao trình ở D1 thấp hơn cao trình D1 của chân đế MSP. Vì vậy để sử dụng 2 ponton vận chuyển và hạ thủy chân đế tương tự như vận chuyển, hạ thủy chân đế MSP phải sử dụng thêm giàn đẩy phụ (giàn đẩy thứ nhất) . Giàn đẩy phụ được lắp vào kết cấu chân đế theo bản vẽ thiết kế tổ chức thi công của đơn vị thiết kế và khi kéo trượt khối chân đế trên bãi lắp ráp nó trở thành một phần kết cấu của Khối chân đế, do đó khi lắp ráp và hàn các phần tử của giàn đẩy phụ phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu sai số thiết kế về sai số lắp ráp, khe hở mối hàn, chiều cao các đường hàn, que hàn... Khi lắp giàn đẩy chính (giàn đẩy thứ 2 vẫn thường dùng đẩy các chân đế MSP) vào giàn đẩy phụ của chân đế BK, DKcũng tương tự như công tác lắp giàn đẩy này vào chân đế MSP. Ngoài ra cần phải lưu ý một số vấn đề sau: Kiểm tra lại liên kết khớp giữa giàn đẩy chính và giàn đẩy phụ. Nếu các chi tiết của liên kết khớp bị cong vênh, biến dạng không đảm bảo yêu cầu khe hở thiết kế giưa chốt ngang và lỗ tấm vành khăn (3-5 mm) thì phải gia công chế tạo lại. Các phần tử chính bị hư hỏng phải sửa chữa khắc phục theo yêu cầu thiết kế. Bề mặt trượt (của gối trượt giàn đẩy) tiếp xúc với đường trượt phải được tẩy sạch các gờ, vấu bằng máy mài cầm tay. Trong trường hợp gối trượt bị biến dạng nhiều, tiết diện ống tròn chuyển sang dạng ôvan thì phải thay thế bằng ống khác có đặc tính tương đương và bên trong ống làm gối trượt này phải hàn gia cường bằng các đĩa thép . Khi lắp chốt ngang vào khớp xoay, cần bôi mỡ vào chốt để dễ dàng tháo ra sau khi kết thúc kéo trượt. 1.3. Chuẩn bị guốc trượt. Khi chân đế trượt trên bãi lắp ráp, toàn bộ trọng lượng của khối chân đế truyền lên 4 guốc trượt và truyền xuống đường trượt. Vì vậy công tác chuẩn bị guốc trượt và lắp guốc trượt vào chân đế là một trong những khâu quan trọng trong quá trình kéo trượt. Guốc trượt gồm có 2 guốc trượt đầu và 2 guốc trượt sau. Vị trí lắp ráp chúng khi kéo trượt chân đế được bố trí theo bản vẽ thiết kế tổ chức thi công. Guốc trượt đầu có kích thước 2200x800x780 mm. Cấu tạo gồm 2 phần tạo thành khớp quay để giảm ảnh hưởng của nước triều trong cảng khi chân đế được đưa lên hệ ponton vận chuyển. Để guốc trượt đầu làm việc được tốt, phải kiểm tra loại bỏ tất cả các gờ nhám gây ảnh hưởng tới mặt trượt. Phải khắc phục, sửa chữa những hư hỏng, sai sót của kết cấu so với thiết kế. Bôi đều một lớp mỡ saliđôn dày khoảng 3mm lên khắp bề mặt tiếp xúc của khớp xoay. Guốc trượt sau có kích thước 10.000x800x780 mm được cấu tạo từ thép hình I, thép tấm, gỗ hộp, hệ bulông neo. Phần kết cấu thép của guốc trượt cũng phải được kiểm tra và khắc phục sửa chữa những hư hỏng sai sót so với thiết kế. Bề mặt trượt của guốc trượt sau bằng gỗ hộp nhóm 1 (thường sử dụng gỗ sao). Nếu bề mặt trượt lồi lõm không đảm bảo yêu cầu trượt, phải được thay thế bằng gỗ mới và liên kết chắc chắn với guốc trượt bằng bulông theo thiết kế. Trước khi kéo trượt chân đế khoảng 3 ngày, gỗ mặt trượt phải được tẩm đẫm bằng nhớt thải nhằm mục đích giảm ma sát trượt khi kéo trượt khối chân đế. Guốc trượt được lắp với kết cấu chân đế nằm trong mặt phẳng panel P2, P3 phía trên 2 dải đường trượt. Guốc trượt đầu được lắp vào giàn đẩy thứ nhất với sự hỗ trợ của cẩu và xe nâng. Guốc trượt sau được cẩu nhấc lên và thả từ trên xuống, sau đó dùng cáp nối với xe nâng để kéo guốc trượt vào vị trí lắp đặt. Guốc trượt đầu và guốc trượt sau tại vị trí thiết kế được treo lên phía trên đường trượt, với khoảng cách hở giữa mặt trượt của guốc trượt và mặt đường trượt là 30mm. Guốc trượt được hạ xuống đường trượt trước khi kéo trượt khoảng 3 giờ để tránh biến dạng cục bộ mặt đường trượt. Khoảng hở giữa guốc trượt và gối kê guốc trượt được nêm chặt bằng nêm gỗ kích thước 1200x140x40 mm 1.4. Chuẩn bị cáp lớn chịu tải kéo trượt. Cáp lớn chịu tải kéo trượt là các loại cáp có đường kính f138 mm và f114 mm hiện có ở LDDK Việt Xô với các chiều dài 35m, 25m, 18m, 15m. Các cáp chịu tải kéo trượt này có tác dụng hỗ trợ cho hệ thống puly kéo trượt khi hành trình kéo trượt của puly bị hạn chế và neo bộ puly bất động với ụ neo kéo trượt ở gần mép bờ cảng. Theo tính toán thiết kế tổ chức thi công của đơn vị thiết kế thi công, các cáp lớn chịu tải này được lắp vào từng vị trí phù hợp với hành trình kéo trượt của hệ thống puly và chân đế. Các cáp này được người sản xuất kiểm tra về chủng loại (đường kính, chiều dài) về chất lượng cáp (bị dập gẫy, mài mòn, đứt sợi trong tao cáp, mối tết cáp của quang cáp)...) về số lượng... sau đó các cáp lớn chịu tải kéo trượt được lắp vào vị trí thiết kế với sự hỗ trợ của cẩu và xe nâng. Các sợi cáp được liên kết với nhau bằng các ma ní loại 150 tấn, 120 tấn. Cáp neo hệ puli bất động vào ụ neo kéo trượt gần bờ cảng là loại cáp f114mm, L=15m/4 1.5. Chuẩn bị thiết bị cơ bản phục vụ công tác kéo trượt. Thiết bị cơ bản chính phục vụ công tác kéo trượt chân đế là 2 cẩu xích CC-2000 có cần 36m. Cẩu xích DEMAG CC-2000 được kiểm tra tình trạng làm việc của các thiết bị và các bộ phận khác liên quan đến việc phục vụ kéo trượt đều hoạt động bình thường, cẩu hạ cần xuống kê lên gối kê, sau đó tất cả cáp tời của móc được tháo ra khỏi hệ thống puly và tang tời trên cẩu được cuốn vào tang tời cuốn cáp bằng sắt được đặt sẵn trên giá kê trên bãi lắp ráp, cáp tời cẩu được tháo ra khỏi cẩu đến đâu thì cuốn vào tang tời cuốn cáp trên bãi lắp ráp đến đó. Tránh để cáp bị cong gập, xoắn cáp theo chiều ngược lại hướng tết cáp của các tao cáp. Sau khi tháo hết cáp tời của móc trong cẩu, cẩu lên cần tiến vào khu vực lắp cáp tời để khi kéo trượt cẩu có tầm với 12m và vị trí puly dẫn hướng đầu cần với puly dẫn hướng trên bãi lắp ráp nằm trên một trục thẳng đứng. Sơ đồ bố trí, lắp đặt các thiết bị cơ bản phục vụ cho công tác kéo trượt (Phương dọc cần của cẩu so với phương kéo trượt chân đế tạo thành góc khoảng 350. Để luồn cáp f31, L=1100 m cho hệ puly kéo trượt chân đế, ta dùng xe nâng hoặc cẩu đặt cụm puly di động cùng phương, ngược hướng so với cụm puly cố định sao cho khoảng cách giữa 2 cụm puly là 3,5m-4 m là hợp lý vì nếu gần quá thì cáp cứng và cong rất khó luồn cáp, nếu xa hơn thì mất thêm thời gian kéo cáp. Cuộn cáp luồn cho hệ thống puly được đặt trên giá tời và nhả cáp dần ra trong quá trình luồn cáp. theo thiết kế cần phải luồn qua 9 puly tương ứng 18 nhánh cáp thì mới đủ lực kéo trượt khối chân đế. Sau khi luồn đủ cáp theo sơ đồ trên thì ta dùng 1 sợi cáp f31 móc 1 đầu vào cẩu CC-600 và 1 đầu vào cụm puly di động. Cẩu CC-600 di chuyển kéo xa 2 cụm puly ra theo phương để sau này các cụm puly sẽ kéo trượt khối chân đế. Khi 2 cụm puly cách nhau khoảng 47m thì dừng lại. Lúc này trong tang cuốn cáp còn khoảng 150 m cáp f31, ta dùng xe nâng nhấc tang cuốn cáp cùng với số cáp còn lại chạy ra xa để tháo nốt chỗ cáp còn lại trong tang cuốn. Sau đó dùng đầu tự do này luồn qua puly chuyển hướng đầu cần và vào tang tời cuốn cáp của cẩu. Trong suốt quá trình luồn cáp phải luôn luôn chú ý tránh không để cáp bị cong gập, xoắn theo chiều ngược với chiều tết các tao cáp. Dùng cẩu CC-600 lắp cáp chịu tải kéo trượt vào cụm puly di động. Trong thời điểm ban đầu khi kéo trượt, để thắng ma sát trượt ta cần thêm 2 kích thủy lực loại 200 tấn tỳ vào guốc trượt sau để hỗ trợ cho hệ thống puly kéo trượt. Bệ tỳ của kích 450 Kích thủy lực 200T Guốc trượt sau Cột chân đế Xem hình vẽ Lắp kích thủy lực. 1.6 Chuẩn bị ponton vận chuyển chân đế. Chân đế được vận chuyển bằng 2 ponton từ cảng ra tới vị trí lắp đặt . Các pon ton là hình hộp có kích thước Ga-ba-rit (40x12x4,5 m), trong ponton được chia thành nhiều khoang bởi các vách ngăn để dằn nước phù hợp với công nghệ thi công lắp ráp. Ponton còn có hệ thống các van và ống dẫn phục vụ cho công tác dằn nước. Nhằm đảm bảo cho quá trình lắp đặt chân đế lên hệ ponton cũng như các công đoạn thi công tiếp theo được thuận lợi ta cần phải chuẩn bị: - Kiểm tra toàn bộ hệ thống tôn vỏ, nếu bị hư hỏng có khả năng gây mất an toàn cho thi công thì phải có biện pháp khắc phục. - Kiểm tra toàn bộ các ngăn dằn nước trong ponton và các van được tra dầu mỡ, đảm bảo được độ kín, khít và đóng mở thuận tiện. - Các cửa từ mặt boong vào các khoang phải đảm bảo độ kín khít. - Các ụ neo cáp trên ponton phải đảm bảo ở trạng thái làm việc tốt. - Các khóa cáp bán tự động (Glagôn-gak) được lắp đặt trên pon ton phải đúng, đủ và chất lương hoạt động tốt theo thiết kế tổ chức thi công. - Ponton đầu: Chi tiết ngàm mang cá phải được kiểm tra cẩn thận, bề mặt tiếp xúc của các ngàm mang cá phải được bôi mỡ trơn dày 03mm. Chốt hãm ngàm mang cá được chế tạo với sai số không vượt quá 3-5 mm. - Ponton sau: Sàn chuyển người từ tàu sang ponton và ngược lại phải được kiểm tra cẩn thận. Những hư hỏng của sàn phải được sửa chữa. - Các ống chống gia cố chân đế với ponton được chuẩn bị đầy đủ theo bản vẽ thiết kế với sai số chiều dài cho phép (6)5 mm. - Các xích neo ponton sau với bờ cảng và cáp neo ponton đầu với bờ phải được chuẩn bị đúng, đầy đủ. - Các cáp phục vụ cho các công đoạn thi công sau này được chuẩn bị và tập hợp trên boong đúng và đủ theo thiết kế. Đặc biệt lưu ý khi rải cáp trên ponton, các cáp nào lấy sau thì dải trước, lấy trước thì dải sau. 2. Quy trình hạ thủy KCĐ lên hệ ponton Sau khi kết thúc tất cả các công tác chuẩn bị ở trên bãi lắp ráp và trên ponton vận chuyển, phục vụ cho việc kéo trượt chân đế từ bãi lắp ráp lên ponton vận chuyển đã nêu ở phần trên, ta tiến hành kéo trượt khối chân đế theo trình tự các bước sau: 2.1. Tổ chức nhân sự : - Chỉ huy thi công phải có đầy đủ tài liệu thiết kế thi công kéo trượt và hiểu rõ các công đoạn chính trước khi tiến hành kéo trượt khối chân đế. - Thợ lái cẩu, thợ cơ khí phụ trách kích thủy lực ở vị trí sẵn sàng làm việc. - Người được phân công đánh tín hiệu đứng ở vị trí quy định sau khi đã thỏa thuận với người chỉ huy thi công và thợ lái cẩu. - Công nhân lắp ráp, công nhân cơ khí được tập trung theo tổ đội sẵn sàng làm việc theo nhiệm vụ được phân công. 2.2. Kéo trượt chân đế trên bãi lắp ráp. Chân đế nằm trên các gối cát được từ từ hạ xuống để cho các guốc trượt tiếp xúc đều với đường trượt bằng cách tháo cát từ từ ra khỏi gối cát. Sau khi toàn bộ chân đế đã nằm trên 4 guốc trượt thì lập tức tiến hành kéo trượt. Các cẩu xích thu cáp vào tời để kéo hệ puly di động cho đến khi cẩu đã chịu tải trên 70% tải cho phép tối đa thì kết hợp 2 kích thủy lực hỗ trợ đẩy trượt. Khi chân đế đã trượt trên đường trượt, người chỉ huy thi công và người đánh tín hiệu phải phối hợp điều khiển để cho 2 cẩu CC-2000 cùng kéo đều. Người chỉ huy thi công và thợ lái cẩu thường xuyên liên lạc với nhau qua máy bộ đàm cầm tay trong suốt quá trình kéo trượt. Kết thúc hành trình 1 kéo trượt, khi khoảng cách giữa cụm puly di động và cụm puly bất động giảm từ 47m xuống còn 3,5-4 m. lúc này phần cuối của khối chân đế đã nhô ra ngoài mép bờ cảng 14 m để chờ luồn ponton vận chuyển sau. 2.3. Luồn ponton vận chuyển sau : Theo kế hoạch kéo trượt thường chọn những ngày trong tháng có triều cường, triều kiệt lớn nhất. Trước khi đến thời điểm triều kiệt lớn nhất khoảng 1 giờ, tất cả các công việc chuẩn bị và dằn nước phải được làm xong. Vào thời điểm triều kiệt lớn nhất phải khẩn trường đưa ponton vào dưới chân đế, sau đó bơm nước dằn ponton ra kết hợp với nước triều để đưa ponton gia cố với chân đế theo bản vẽ thiết kế. Trong thời gian gia cố ponton vận chuyển sau với chân đế, ở trên bãi lắp ráp đồng thời chuẩn bị cáp kéo chịu tải và hệ thống puly kéo trượt cho hành trình thứ 2. 2. Các công đoạn chuẩn bị lặp lại tương tự như trên. Khi nước thủy triều lên, ponton vận chuyển sau cũng nổi theo, khi đó guốc trượt sau đã được tháo các bu lông liên kết gối tỳ guốc trượt ở trên chân đế với guốc trượt chân đế. Vào thời điểm chân đế nổi lên tách khỏi guốc trượt sau ta khẩn trương dùng cẩu CC-600 kết hợp với xe nâng kéo ngang guốc trượt sau ra khỏi đường mặt đường trượt, tiếp theo tiến hành kéo trượt chân đế trên bãi lắp ráp tương tự như hành trình kéo trượt thứ nhất. Điều đặc biệt cần lưu ý của công đoạn này là việc kéo trượt phải được tiến hành liên tục, bảo đảm trước khi vào giai đoạn triều kiệt thì guốc trượt đầu phải ở vị trí sát mép bờ cảng để tránh hiện tượng cột chân đế tỳ lên bãi lắp ráp gây biến dạng kết cấu chân đế. Quá trình luồn ponton đầu vào dưới chân đế, và gia cố được tiến hành tương tự như đối với ponton sau đã nêu trên. Trong thời gian gia cố ponton vận chuyển đầu với chân đế, ta dùng tàu lai dắt Côn Đảo nối 2 bộ xích neo ngang ponton vận chuyển dưới với bờ cảng. Nối 2 cáp neo dọc chân đế với bờ cảng (từ ponton vận chuyển đầu lên ụ neo bờ cảng). Khi triều lên, chân đế rời khỏi guốc trượt đầu (đã được tháo các bu lông liên kết) ta khẩn trương dùng tàu kéo dịch vụ Lam Sơn 01 kéo chân đế rời khỏi mép nước bờ cảng. Dùng cẩu CC-600 đặt cầu vượt để chuyển người từ bãi lắp ráp xuống pon ton vận chuyển đầu hoàn thiện nốt các liên kết gia cố ponton với chân đế khi vận chuyển. Đến đây kết thúc công tác kéo trượt chân đế trên bãi lắp ráp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXD12.DOC
Tài liệu liên quan