Đề tài Tồn tại và những nguyên nhân của những tồn tại của cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:

Xuất phát từ thực tế khó khăn của các DNVVN ở nước ta, chủ yếu là vấn đề thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường, công nghệ kỹ thuật, tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu nguyên liệu. Những khó khăn đó đã làm hạnchế nguyên liệu trong sự phát triển của các DNVVN, kìm hãm sự tăng năng suất lao động và thu nhập, kìm hãm sự cạnh tranh và tồn tại lâu dài của doanh nghiệp. Do đó việc thiết lập hệ thống tổ chức các cơ quan hỗ trợ phát triển DNVVN chính là nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Hệ thống các cơ quan hỗ trợ bao gồm: hệ thống tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng hệ thống tổ chức đào tạo, hệ thống tổ chức tư vấn - dịch vụ - cung cấp thông tin, hệ thống tổ chức hỗ trợ đổi mới công nghệ, hệ thống tổ chức nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới

doc31 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 892 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tồn tại và những nguyên nhân của những tồn tại của cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biết về luật thương mại quốc tế, giũp đỡ trong các thủ tục xuất khẩu để tiếp cận với thị trường ngoài nước. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế về trình độ trang thiết bị kĩ thuật. Việc lựa chọn và áp dụng công nghệ thích hợp vào sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăndo trình độ hạn chế đã dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, tính cạnh tranh kém. Nếu không có chương trình mục tiêu hỗ trợ, chuyển giao công nghệ thì doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể phát triển thực sự. Do vậy cần sửa đổi các cơ chế để khuyến khích và tạo dễ dàng cho doanh nghiệp tiếp cận và áp dụng công nghệ mới, kể cả trong việc nhập khẩu thiết bị có công nghệ nguồn, chuyển giao công nghệ... Như vậy tạo lập được môi trường kinh doanh thuận lợi là điều kiện tiền đề để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. + Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay đã được quan tâm nhưng còn nhiều hạn chế. Điều này xuất phát từ chỗ còn thiếu một "sân chơi" bình đẳng giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp quốc doanh, khung pháp lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa rõ ràng, sự ủng hộ của các cơ quan chức năng còn hạn chế. Bởi vậy nhiều chủ doanh nghiệp đã kiến nghị sớm được tạo điều kiện thuận lợi để được phát triển trong một sân chơi bình đẳng. Nhìn tổng thể về các hoạt động hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhiều chuyên gia đánh giá rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm lực to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhưng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa rõ ràng hiệu quả còn mờ nhạt, mức độ và phạm vi tác động còn hạn chế. Do vậy các cơ quan chức năng cần tạo ra sự bình đẳng trong sự phát triển đối với tất cả các doanh nghiệp trong cả nước. + Hệ thống quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới chậm và chưa phù hợp thể hiện ở một số mặt sau: Việc phân cấp quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng theo ngành và địa phương không phù hợp với xu thế vận độgn của nền kinh tế thị trường, dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc huy động vốn và lựa chọn lực lượng sản xuất kinh doanh . Hệ thống tổ chức quản lý, kiểm soát của nhà nước từ trung ương đến địa phương còn công kềnh phức tạp, hoạt động chưa có sự phối hợp chặt chẽ, phâncông trách nhiệm rõ ràng. Mặt khác việc quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, quản lý một số lược sản xuất kinh doanh còn buông lỏng. Các cơ quan quản lý và cán bộ quản lý chưa thực sự đổi mới kịp với quá trình phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ . Vì vậy cần thiết phải có sự kiện toàn sắp xếp, đổi mới hệ thống và phương pháp quản lý, kiểm soát trên tinh thần hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. 2. Những nguyên nhân của những tồn tại: Sự hạn chế của cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ là do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân khách quan là phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, có nguyên nhân chủ quan là về các cơ quan quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chủ yếu vẫn thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan tổ chức thực hiện. - Những nguyên nhân liên quan tập trung ở các mặt nhận thức, tổ chức thực hiện. + Chưa nhận thức đúng và đầy đủ về kinh tế thị trường ảnh hưởng tới việc thiết lập pháp luật, chính sách đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bất cứ nền kinh tế nào cũng có ưu điểm và nhược điểm của nó, sự ưu việt của nó chỉ được phát huy khi có những điều kiện kinh tế-xã hội làm tiền đề phù hợp, ngược lại nhược điểm của nó càng bộc lộ rõ khi điều kiện kinh tế-xã hội làm tiền đề không phù hợp. Kinh tế kế hoạch hoá đã tạo nên sức mạnh cho chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước vào năm 1975. Khi đất nước không còn chiến tranh, trình độ kinh tế đã phát triển..., kinh tế thị trường sẽ thay thế kinh tế kế hoạch hoá đó là một tất yếu khách quan. Nhưng các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật mà tự bản thân nó không thể khắc phục được, đòi hỏi phải có bàn tay của chính phủ, sự kết hợp đó được gọi là nền "kinh tế hỗn hợp". Nhưng mức độ hỗn hợp đến đâu là tuỳ thuộc vào mỗi nước, không có khuôn mẫu sẵn cho tất cả các nước. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, đều có quyền sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất bao nhiêu... Điều đó được xem là "tự do", là "dân chủ", nhưng doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng dễ bị các đối thủ cạnh tranh đè bẹp. Đứng trước luật của kẻ mạnh thì đâu còn là tự do, dân chủ, quyền tự chủ. Vì vậy, đòi hỏi phải có pháp luật và cách bảo vệ, hỗ trợ khuyến khích loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đã có một thời Nhà nước quản lý quá chặt, thì nay lại có xu hướng buông lỏng, thả nổi doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự vận động của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường có điều tiết, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chứ không phải là cơ chế thị trường tự do. Vì vậy, cần thiết phải có chính sách chung, đồng thời phải có chính sách riêng đối với từng loại hình quy mô doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực hỗ trợ huy động vốn, tiếp cận thị trường, chính sách thuế, chuyển giao công nghệ và kỹ thuật. Sự thực hiện đồng nhất các chính sách sẽ là những bất lợi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự nhận thức đầy đủ về kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước là cơ sở thuận lợi cho việc thiết lập chủ trương, chính sách theo quan điểm bảo vệ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Nhận thức "thiên kiến" về doanh nghiệp vừa và nhỏ ảnh hưởng tới việc xây dựng các chương trình hỗ trợ phát triển. Trong một thời gian dài nước ta cũng như các nước đang phát triển đều say sưa với mô hình quy mô lớn, hiện đại, sự say mê và hành động đó đã phải trả giá bằng hiệu quả kinh tế thấp kém kéo dài. Lịch sử phát triển kinh tế của một số nước và lãnh thổ như Nhật Bản, Đài Loan... đã chỉ ra rằng muốn phát triển với quy mô lớn, hiện đại phải bắt đầu tư quy mô nhỏ và vừa để có quá trình tích tụ vốn, tích luỹ kinh nghiệm để đi lên. Sự nógn vội, chủ quan sẽ khó đi đến thành đạt phát triển kinh tế. Doanh nghiệp nhỏ luôn được gắn với cách làm ăn nhỏ lẻ, phân tán, hiệu quả thấp, vai trò không lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Sự "thiên kiến" đó đã dẫn đến tình trạng trong khoảng thời gian khá dài chính phủ thiếu những chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vị trí doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, trong điều kiện kinh tế thị trường đã được xác định, nó có quyền bình đảng trong mọi hoạt động kinh tế, từ sản xuất kinh doanh, huy động vốn, đến xuất, nhập khẩu. Đây không phải là vấn đề sách lược tình thế mà là chiến lược cơ bản lâu dài của đất nước, điều này đòi hỏi phải có văn bản pháp luật và các chương trình hỗ trợ phát triển mang tính ổn định, lâu dài để tạo lòng tin cho các chủ doanh nghiệp. + Tổ chức thực hiện vừa "cứng" vừa "lỏng ở các địa phương. Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp tuỳ thuộc vào mỗi địa phương, từ việc phân cấp cấp giấy phép thành lập, đăng ký kinh doanh đến việc quản lý quá trình hoạt động thu thuế, giải quyết chuyển nhượng đất đai, tài sản... Xu hướng chung là quản lý doanh nghiệp bằng pháp luật. Trong lúc chưa có hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ thì sự vận dụng khác nhau là không tránh khỏi. Hiện tượng quản lý "cứng" diễn ra ở vùng đô thị, biểu hiện điển hình ở việc đăng ký lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh với thủ tục tài chính quá phức tạp, thời gian chờ đợi xét duyệt dài, bộ máy thực hiện thiếu năng lực và còn quan liêu, dẫn đến hiện tượng hoạt động ngoài pháp luật Quản lý "lỏng" thể hiện ở việc giám sát hoạt động theo đăng ký kinh doanh, chất lượng sản phẩm và thu thuế. Hiện tượng hàng giả, hàng kém chất lượng, buôn bán vòng vo trốn thuế, buôn lậu tràn lan, nhưng Nhà nước chưa thật sự kiểm soát được. Việc thất thu thuế từ 30-40%, trước hết hãy loại bỏ nguyên nhân thuế suất cao, thuế chồng thuế ở nhiều khâu, thì việc tổ chức thu thuế cũng là vấn đề phức tạp, từ việc tổ chức cho đến thu thuế nộp ngân sách. Xoay quanh vấn đề này, không ít tiêu cực đã xảy ra giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những người thực thi công việc định thuế và thu thuế. V- Phương hướng và giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay: 1. Sự cần thiết khách quan của việc đổi mới: Đổi mới cơ chế, chính sách là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế vì bản thân bất cứ một nền kinh tế nào cũng có xu hướng vận động ngày một cao hơn. Vì vậy việc đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đối với nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng là việc làm cần thiết và thướng xuyên. + Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, XH công bằng văn minh thì phải phát triển sản xuất. Nước ta là một nước đang phát triển, vốn ít, nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, công nghệ còn lạc hậu... việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phụ hợp nhất, đáp ứng mục tiêu tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đất nước. Về lâu dài sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng góp một tỉ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Bên cạnh các doanh nghiệp lớn thuộc sở hữu nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế chúg ta có một hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ rộng khắp. Vớilợi thế vốn có, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp lớn khó có thể làm được. Và trong tương lai, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phát triển rộng khắp như một yếu tố phụ trợ cho các khu công nghiệp tập trung. Doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là cầu nối giữa công nghiệp với nông thôn, nông nghiệp, sản xuất với tiêu dùng theo xu hướng xã hội hoá. Nền kinh tế cùng một lúc sẽ phát triển theo 2 hướng vi hoá và tập đoàn hoá. Hai xu hướng đó không biệt lập mà xâu chuỗi, hợp tcs thành một hệ thống mà doanh nghiệp vừa và nhỏ là hạ tầng cơ sở trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Như vậy tiềm năng và lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn, nó là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhất là trong những nắm sắp tới. + Mặt khác nền kinh tế của mỗi quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn bé tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thông qua liên kết với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy muốn phát triển kinh tế đất nước trước hết phải dựa vào doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đi lêndn lớn. Hơn nữa qui luật đi từ nhỏ đến lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa soó các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình CNH, HĐH. Xuất phát từ vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ và đặc điểm của nước ta khi bước vào nền kinh tế thị trường với xuất phát điểm thấp so với các nước trong khu vực và thế giới, đòi hỏi cần có cơ chế quản lý mới phù hợp tạo ra được hành lang pháp lý và môi trường kinh tế xã hội thuận lợi để thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Nền kinh tế thị trường với những qui luật kinh tế khách quan vốn có của nó, chính những qui luật ấy điều chỉnh nền kinh tế phát triển. Song không phải không có những hạn chế, trái ngược với mục tiêu phát triển xã hội, đó là sự độc quyền, cá lớn nuốt cá bé, sự phân hoá giàu nghèo... Trong điều kiện nước ta hiện nay, với xu hướng của nền kinh tế mở, bên cạnh sự tồn tại của hàng trăm ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ là hàng ngàn doanh nghiệp lớn của mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp lớn tư nhân, kể cả tư nhân trong nước và nước ngoài. Mà các doanh nghiệp đều có quyền tự chủ và sản xuất kinh doanh, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai là do doanh nghiệp tự định đoạt. Điều này dẫn đến bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi cùng sản xuất một loại sản phẩm với sản xuất lớn, các doanh nghiệp lớn với nguồn vốn lớn, công nghệ kĩ thuật hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm với chi phí thấp. Ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn với nguồn vốn hạn hẹp, công nghệ kĩ thuật lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu sẽ tạo ra cùng loại sản phẩm với chi phí sản xuất cao hơn rất nhiều. Trong xu hướng cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, nếu không có cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì việc khó khăn bù đắp được chi phí sản xuất và nguy cơ phá sản đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất dễ xảy ra. Trong thực tế, từ 1986 đến nay doanh nghiệp vừa và nhỏ từ khi thành lập và đi vào sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất là vốn, công nghệ kỹ thuật và thị trường, kể cả thủ tục hành chính để thành lập doanh nghiệp . Dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải chững lại, thu hẹp sản xuất hoặc phá sản. Từ 1990-1993 củng số doanh nghiệp nhà nước phải giải thể chiếm 16%, hoàn toàn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ vấn đề ban hành các thể chế pháp lý càng có yêu cầu bức bách hơn, từ việc đổi mới pháp luật, đổi mới về quản lý và giám sát hoạt động của doanh nghiệp đến việc tạo ra các giải pháp hữu hiệu nhằm giảm bớt những khó khăn của doanh nghiệp ngay từ khi mới thành lập cũng như trong quá trình hoạt động để hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa tạo được cơ cấu ngành nghề hợp lý góp phần tăng trưởng kinh tế. + Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đặc biệt coi trọng phát huy khả năng của doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy nội lực đẩy mạnh sự nghiện CNH, HĐH đất nước. Vì vậy phải tạo mọi thuận lợi, banhành hệ thống các chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vài năm trước đây hệ thống pháp luật, chính sách của nhà nước banhành đã có tác dụng tích cực đến sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung. Song bản thân nó cũng chứa đựng nhiều bất hợp lý thậm chí có sự mâu thuẫn. Đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có văn bản pháp luật riêng, nhiều mặt quản lý còn buông lỏng, chưa khuyến khích nó phát triển, đồng thời cũng chưa quản lý được nó thực sự. Đó là một yếu kém mà chúng ta phải khắc phục. Và ngày nay trong xu thế hội nhập, việc đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ là đòi hỏi tất yếu khách quan của nền kinh tế nước ta. Do vậy cần thiết phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện những qui luật kinh tế và quá trình vận động của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đồng thời phải rút ra từ những bài học kinh nghiệm của thế giới và khu vực, để có thể thiết lập được hệ thống pháp luật, chính sách và giải pháp phù hợp, hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Chính phru sẽ không làm thay nhưng tạo điều kiện và môi trường để phát huy sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp . Sự kết hợp nỗ lực từ 3 phía: Chính phủ, cộng đồng và doanh nghiệp sẽ làm bật dậy nhiều tiềm năng mới để phát triển kinh tế xã hội. Sự lựa chọn phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một con đường đúng đắn của nước ta để phát triển kinh tế xã hội, đồng thời tạo bước tiến nhanh cho quá trình CNH, HĐH đất nước. 2. Phương hướng đổi mới: a. Đổi mới về nhận thức tư tưởng và những quan điểm cơ bản trong đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phải quán triệt sâu sắc những vấn đề thuộc nhận thức và tư tưởng sau: - Xuất phát từ học thuyết của Mác về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. Vì vậy cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải được xây dựng phù hợp với mô hình kinh tế đã lựa chọn, đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong đó việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai là do thị trường quyết định. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng nảy sinh một số khuyết tật như độc quyền, các lớn nuốt cá bé, ô nhiễm môi trường... Do đó cần phải có sự quản lý của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, chính sách và các đòn bẩy kinh tế là chính. - Cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, tính tất yếu khách quan này đã khẳng định tính chất phù hợp qui luật và tính ổn định lâu dài của quá tình phát triển kinh tế. - Hơn nữa cũng phải nhận thức được rằng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, là nền tảng cho mọi quan điểm, hệ thống pháp luật, chính sách về quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thiếu nó hoặc vận dụng nó không đúng, thì cơ chế quản lý doanh nghiệp nói chung, cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng sẽ làm hãm sự phát triển của doanh nghiệp . Mặckhác cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải dựa trên nền tảng lý luận về quản lý doanh nghiệp nói chung, phải biết kế thừa tinh hoa của nhân loại. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống quan điểm đồng bộ nhất quán, có tính ổn định lâu dài. + Bên cạnh việc đổi mới nhận thức, tư tưởng chúng ta cũng phải nhất quán những quan điểm cơ bản là đổi mới cơ chế, chính sách quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Quan điểm hiệu quả KT-XH Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là hiệu quả KTXH, mặc dù doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu kiếm lợi nhuận, tức là hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Nhưng trên góc độ quản lý không chỉ coi nhẹ vấn đề xã hội. Vì vậy phải gắn hiệu quả kinh tế với xã hội làm một. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đáp ứng tốt một yêu cầu của quan điểm này. Do đó cơ chế mới cần đảm bảo yêu cầu: - Thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lợi nhuận. - Đảm bảo mức doanh thu, mức lãi trên 1 đồng vốn. - Thu hút nhiều lao động xã hội. - Quan điểm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hướng CNH, HĐN: Để hội nhậo vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế phải tập trung thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển theo hướng CNH, HĐH. Nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản, toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ lao động thủ công, lao động bằng máy móc lạc hậu sang lao động bằng máy móc thiết bị hiện đại là chủ yếu, tạo ra năng suất lao động cao. Do đó cơ chế mới phải có tác dụng, thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư, đổi mới kĩ thuật công nghệ. C- Kết luận Trong các phần trên đã trình bày vị trí, vai trò rất quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế xã hội, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp và giải quyết được, những vấn đề lớn trong nền kinh tế của một đất nước, tạo công ăn việc làm cho nhân dân lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp đã làm cho tỉ lệ người phạm tội, tệ nạn xã hội giảm, cũng đem lại nguồn thu lớn cho nhà nước. Nước ta có tiềm năng lớn cho sự thành lập và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm năng về vốn trong dân cư, lực lượng lao động dồi dào, các ngành nghề, làng nghề truyền thống đã trình bày ở các phần trên, đó thực sự là tiềm năng cho sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta. Trước vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế-xã hội của đất nước, có tiềm năng lớn nhưng cũng còn nhiều mặt yếu kém hạn chế để cho sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó được trình bày ở thực trạng và tồn tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường. Không chỉ ở nước ta mà tất cả các nước trên thế giới đều rất chú trọng tới vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước khác luôn có những đổi mới về cơ chế và chính sách để phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, để nhằm giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ khắc phục được những yếu kém để phát triển mang lại tối đa lợi nhuận. Theo xu hướng chung thấy vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ như vậy chính phủ ta đã cs những giải pháp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm hỗ trợ cho sự phát triển lớn mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã có những đổi mới về cơ chế quản lý, chính sách, nó có ý nghĩa to lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi đó doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được tạo điều kiện có môi trường tốt để phát huy xu thế của mình, mang lại lợi ích to lớn cho nhiều cá nhân và đất nước. Đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thực sự là cần thiết khách quan, nếu muốn thực hiện thành công lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vậy khi đã phân tích được về vai trò và sự cần thiết của doanh nghiệp vừa và nhỏ, thấy nó còn nhiều yếu kém, hạn chế trước thực trạng như vậy, Đảng và nhà nước đã có quan điểm là đổi mới cơ chế, chính sách với doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là quan điểm rất đúng đắn và có ý nghĩa thật là to lớn, cho lợi ích của nền kinh tế xã hội đất nước. Quan điểm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) theo hướng CNH, HĐH. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế phải tập trung thúc đẩyDNVVN phát triển theo hướng CNH - HĐH. Nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản, toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ lao động thủ công, lao động bằng máy móc lạc hậu sang lao động bằng máy móc, thiết bị hiện đại là chủ yếu, tạo ra năng suất lao động cao. Do đó cơ chế mới phải có tác động: thúc đẩy DNVVN đầu tư, đổi mới kỹ thuật công nghệ. - Quan điểm tiên tiến và hiện thực. Theo quan điểm này, quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý DNVVN trước hết phải đảm bảo yêu cầu tiên tiến và hiện đại. Điều đó đòi hỏi nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến và khinh nghiệm của các nước phát triển. Song đối với nước ta các yếu tốn vốn, công nghệ, thị trường còn yếu chỉ có nguồn nhân lực dồi dào. Do đó việc xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách phải linh hoạt, đảm bảo tính khả thi, tức là sự tiên tiến hiện đại phải phù hợp với khả năng và trình độ của nước ta. - Quan điểm kết hợp hài hào lợi ích của chủ doanh nghiệp, người lao động và Nhà nước. Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư kinh doanh mong kiếm được lợi nhuận, người lao động mong có thu nhập ổn định, phù hợp với sức lao động của mình. Nhà nước, người là ra luật, chính sách, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động, kiếm lời, người có trách nhiệm chăm lo cho đời sống người lao động, thì lợi ích của Nhà nước chính là nhằm giải quyết nhu cầu của toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân. Do vậy cơ chế mới phải đảm bảo hài hoà lợi ích của cả 3 bên. - Quan điểm kết hợp nhịp nhàng giữa phát triển DNVVN với các DNL với DNL có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong sản xuất kinh doanh. Trong những năm gần đây, các DNVVN ở nước ta hoạt động hiệu quả chưa cao cũng một phần là do không liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn. DNVVN là cơ sở ban đầu để hình thành nên các DNL về vốn, lao động và thị trường. Song nó vẫn có tính độc lập trong việc đáp ứng nhu cầu ở những vùng sâu, vùng xa, vùng nhỏ..., cũng như độc lập trong sản xuất kinh doanh với các doanh nghiệp lớn. Yêu cầu của quan điểm này là cơ chế, chính sách mới phải tạo ra môi trường cho sự liên kết hợp tác sản xuất kinh doanh giữa DNL và DNVVN nhất là trong các vấn đề về công nghệ, kỹ thuật... b. Đổi mới cơ chế quản lý DNVVN theo hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. - Cần chấm dứt cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập và thực hiện việc quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nét đặc trưng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp là Nhà nước quản lý trực tiếp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các kế hoạch và hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh, thông qua cấp phát vốn, khống chế giá thành, chỉ đạo nơi bán, nơi mua theo kế hoạch. Tóm lại là Nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Từ khi đổi mới đến nay sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước đã giảm dần nhưng hệ thống pháp luật, chính sách ra đời chưa đủ, chưa đồng bộ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: " Tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác". Như vậy Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ vai trò quan trọng của Nhà nước là quản lý bằng pháp luật, kế hoạch và các công cụ kinh tế vĩ mô chứ không can thiệp vào quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh vi mô. Thông qua sự tác động gián tiếp của Nhà nước buộc các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh theo kế hoạch định hướng của Nhà nước. - Tạo ra cơ chế mới đòi hỏi sự tự điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của DN cho phù hợp với pháp luật, chính sách trong Nhà nước và nhu cầu trong thị trường chứ không hoàn toàn chỉ có cung - cầu và giá cả trên thị trường. Vì vậy qua trình đổi mới đòi hỏi Nhà nước phải tạo ra được khuôn khổ pháp lý, chính sách hoàn chỉnh, cũng như tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động tác động của nhà nước chính là tác động vào môi trường và chỉ yếu thông qua chính sách tiền tệ, lãi suất, giá cả, tín dụng ... sự khác biệt của cơ chế mới so với cơ chế cũ là điều tiết gián tiếp thay cho điều tiết trực tiếp. Thị trường quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và Nhà nước thông qua sự can thiệp vào thị trường để điều tiết hoạt động trong doanh nghiệp . Như vậy cơ chế quản lý mới thực chất là tạo nên sự "tự điều chỉnh" hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp theo quan hệ cung - cầu và giá cả thị trường và trong khuôn khổ pháp lý của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với các doanh nghiệp bằng pháp luật, nghĩa là Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và điều tiết các hoạt động kinh tế. Đối với loại hình DNVVN, cần qui định rõ lĩnh vực ưu tiên, ngành nghề ưu tiên, cần thiết các qui định phải được thực hiện bằng pháp luật, chính sách riêng. Các DNVVN với chức năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình sẽ tự điểm chỉnh quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm huy động các yếu tố đầu vào, giải quyết các yếu tố đầu ra bằng các phương án, các chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh riêng của mình trong khuôn khổ pháp luật. Thực tiễn trong nước đã khẳng định vai trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và kinh nghiệm của thế giới cũng nhiều nhưng hoàn toàn không có mô hình chung cho tất cả các nước mà còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội chung của nước đó. Đối với nước ta, do xuất phát điểm khi chuyển sang kinh tế thị trường đang ở trình độ thấp, do đó cần có sự tác động tích cực mạnh mẽ và trực tiếp của Nhà nước bằng việc đổi mới các cơchế chính sách để thúc đẩy DNVVN phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự khác biệt so với các nước phát triển. c. Đổi mới nội dung các bộ phận cấu thành cơ chế quản lý DNVVN. - Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Xuất phát từ thực tiễn hệ thống pháp luật, chính sách chưa thật đầy đủ và đồng bộ, thậm chí có vấn đề trái ngược nhau tính hiệu lực chưa cao... do đó trong thời gian tới cần thiết phải ban hành thêm một số luật cần thiét và triển khai thực hiện các bộ luật đã ban hành. Nghiên cứu, xây dựng để ban hành luật hoặc bộ luật cơ bản về DNVVN, xác định rõ mục tiêu thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, mô hình, tổ chức quản lý, chế độ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với Nhà nước và người lao động. Đồng thời cũng phải xác định rõ ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên dành riêng cho DNVVN, việc ưu đãi về thuế, tín dụng, tự giúp đào tạo, quản lý đối với doanh nghiệp này như thế nào. Khuôn khổ pháp luật cũng như cá qui chế quản lý phải đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính ổn định lâu dài trước hết thể hiện ở quan điểm nhất quán của Nhà nước đối với các DNVVN thuộc các thành phần kinh tế, không có sự phân biệt đối xử trong các văn bản pháp luật và trong tổ chức thực hiện. Tính đồng bộ thống nhất của pháp luật và chính sách thể hiện ở sự nhất quán trong các văn bản pháp luật và chính sách cho Nhà nước ban hành, cần thống nhất trong việc ban hành và thực thi chính sách đó. Các văn bản pháp luật và các chính sách kinh tế của Nhà nước phải đảm bảo tôn trọng và mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực, không phân biệt các thành phần kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lấy mục tiêu lợi nhuận và công bằng xã hội để hướng hoạt động của DNVVN theo pháp luật, theo sự chỉ đạo, kiểm soát của các cơ quan quản lý Nhà nước. - Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy DNVVN phát triển. Hệ thống chính sách liên quan đến việc phát triển DNVVN có rất nhiều, liên quan đến nhiều bộ ngành, cần thiết phải đổi mới hoàn thiện cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Song cần tập trung vào một số chính sách cơ bản sau: + Chính sách thương mại và công nghiệp (chính sách nhập khẩu) + Chính sách tài chính tín dụng + Chính sách thuế + Chính sách đầu tư + Chính sách thị trường + Chính sách lao động, tiền lương. 3. Các giải pháp cho sự đổi mới cơ chế chính sách. a. Hình thành khung pháp lý đồng bộ cho sự phát triển và hoạt động của DNVVN. Thực hiện luật doanh nghiệp mới. - ở hầu hết các nước trên thế giới, chúng ta đều thấy mỗi nước đều có một bộ luật dành riêng cho các DNVVN. ở điều kiện nước ta hiện nay việc xây dựng hệ thống các văn bản, bộ luật dành riêng cho DNVVN là hết sức cần thiết. Trước mắt cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến loại hình doanh nghiệp này. Và giám sát thật kỹ quá trình áp dụng của các cơ quan chức năng. Về lâu dài, đổi mới việc nghiên cứu ban hành chính sách và theo dõi việc thi hành chính sách. Khắc phục khuynh hướng các bộ ngành ban hành các văn bản, các thông tư không quán triệt đường lối đổi mới, qui định những điều khoản chỉ nhằm bảo vệ cho quyền hành và lợi ích cục bộ cũng như thuận lợi cho công việc của bộ, ngành đó mà không quan tâm đến những khó khăn của doanh nghiệp khi thực hiện. Một bộ luật dành riêng cho DNVVN trong đó phải qui định rõ loại hình DNVVN cho từng ngành nghề cụ thể, về tư cách pháp nhân, về tổ chức và hoạt động, về các chính sách bảo hộ, khuyến khích.... khi tiến hành xây dựng cần tham khảo các bộ luật về DNVVN của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực. Trong quá trình xây dựng luật pháp tiến hành song song việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành để sau khi văn bản có hiệu lực thì lập tức được áp dụng ngày vào cuộc sống. Thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan ban hành chính sách với các cơ quan phi chính phủ, thông qua các tổ chức như phòng thương mại về công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội công thương, cơ quan báo chí để cùng tổ chức hội thảo, trao đổi ý kiến. Qua đó cơ quan ban hành chính sách nắm được tương đối chính xác dư luận của đối tượng sẽ thi hành chính sách, nắm được dư luận của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu để cân nhắc các điều khoản của văn bản. Nếu làm được như vậy chính sách sẽ có điều kiện thực thi hơn. - Đảm bảo quyền của người dân, của doanh nghiệp được cung cấp thông tin về các cơ chế, chính sách, văn bản pháp qui. Chính phủ phải là người cung cấp thông tin lớn nhất, quan trọng nhất, đó là những thông tin về đường lối, chủ trương các chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp, các hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, các qui hoạch liên quan đến địa điểm, mặt hàng kinh doanh... Khắc phục tình trạng độc quyền về thông tin, tiết lộ thông tin hoặc tiết lộ thông tin nhằm trục lợi cho doanh nghiệp hoặc tiết lộ thông tin nhằm thu lợi cho doanh nghiệp hoặc cá nhân. - Nhanh chóng thực hiện luật doanh nghiệp mới thay thế luật doanh nghiệp tư nhân và Công ty năm 1990 nhằm hợp lý hoá hơn nữa các thủ tục thành lập và đăng ký, qui định các khả năng huy động vốn linh hoạt cho các mục đích đầu tư sản xuất luật này phải thoả mãn các điều kiện như: hợp lý hoá và đơn giản hoá các thủ tục thành lập doanh nghiệp và Công ty, giúp cho các DNVVN một cách hiệu quả hơn trong việc huy động vốn, qui định một cơ cấu vốn mềm dẻo hơn, bảo vệ tốt hơn các cổ đông thiểu số, có qui tắc rõ ràng trách nhiệm pháp lý của giám đốc và các giao dịch quan trọng của Công ty như sát nhập và chuyển đổi hình thức Công ty. Qui định các điều khoản rõ ràng và toàn diện hơn đối với việc quản lý Công ty, DNVVN ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để tạo ra một cơ sở dữ liệu tập trung thông tin các doanh nghiệp và Công ty đã đăng ký và công khai các thông tin đó ra công chúng. Điều này cho phép các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp khác có được những thông tin cơ bản về bất kỳ DNVVN nào có trên thị trường như tên, địa chỉ, hoạt động kinh doanh và hình thức pháp lý của các doanh nghiệp. b. Tiếp tục mở rộng khả năng tiếp cận cá thị trường quốc tế cho các DNVVN. Nghị định 57/CP ngày 31/7/1998 là một bước tiến quan trọng của chính phủ mở ra thị trường xuất nhập khẩu quốc tế cho tất cả các doanh nghiệp bao gồm cả DNVVN trong phạm vi giấy phép thành lập kinh doanh mà không cần sự cho phép đặc biệt nào khác từ Bộ Thương mại. Tiếp cận thị trường quốc tế đang là khó khăn chung cho các doanh nghiệp, với các DNVVN lại càng khó khăn hơn. Do vậy cần có sự nỗ lực phối hợp từ 2 phía doanh nghiệp và các cơ quan tư vấn, xúc tiến của tổ chức xã hội của cơ quan Nhà nước. Trước hết Nhà nước cần tích cực hỗ trợ bằng biện pháp ngoại giao với các nước nhằm mở cửa thị trường hơn nữa cho các hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNVVN nói riêng có thể thâm nhập vào thị trường các nước khác nhau trên thế giới. Cung cấp thông tin miễn phí cho các DNVVN về khách hàng, thị trường nước ngoài. Thời gian gần đây việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đang có nhiều triển vọng mới (năm 1999 đạt khoảng 160 triệu USD) là một hướng cần được trợ giúp để có thể tăng nhanh kim ngạch. Vì thế Nhà nước cần thực hiện rộng rãi các chính sách để DNVVN tiếp cận và đi sâu dần vào thị trường quốc tế, tham gia các hội chợ, triển lãm ở nước ngoài, khi cần có thể hỗ trợ bằng quĩ hỗ trợ xuất khẩu nhằm khuyến khích mạnh hơn nữa việc thu hút ngoaị tệ về cho đất nước. c. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính - tín dụng và vốn. Giống như tất cả các doanh nghiệp khác, cá DNVVN cần tài chính để tồn tại và phát triển. Bên cạnh vốn tự có, có 2 nguồn tài chính cho các doanh nghiệp đó là tín dụng và vốn. Cần tạo ra một "Sân chơi bình đẳng" về tín dụng trung và dài hạn để tấtcả người đi vay phải tuân thủ những thể lệ giống nhau, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật và những qui định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diêngân hàng và hiện đại, tạo điều kiện cho người cho vay thực hiện và bắt buộc cầm cố và thế chấp, mở rộng khả năng tiếp cận của DNVVN tới vốn người các quĩ đầu tư. - Mở rộng khả năng tiếp cận của DNVVN với vốn có thể theo hướng tạo ra một cơ cấu vốn mềm dẻo hơn, cho phép các DNVVN tiếp cânạ và vay vốn nước ngoài bằng cách cho phép các Công ty bán một số cổ phiêú của họ cho các nhà đầu tư nước ngoài; khuyến khích và cho phép các DNVVN tham gia nhiều hơn vào các Công ty liên doanh; xem xét thành lập quĩ bảo lãnh tín dụng riêng biệt cho các DNVVN để trợ giúp các DNVVN đang gặp khó khăn đáp ứng được những nhu cầu về thế chấp để vay tín dụng từ các nguồn chính thức. Đơn giản hoá các thủ tục ngân hàng trong việc cho vay tín dụng, đặc biệt là các khoản vay trung và dài hạn bị qui định bởi các thủ tục rất rườm rà phức tạp, làm cho chi phí giao dịch tăng cao. d. Hoàn thiện chính sách đất đai, công nghệ, đào tạo. - Đất đai và các công trình xây dựng là các yếu tố không thể thiếu được đối với tất cả các doanh nghiệp trong đó có DNVVN. Không có được quyền sử dụng sở hữu, hoặc thuê đất đai và công trình xây dựng cần thiết một cách lâu dài, chắc chắn và rõ ràng thì không có doanh nghiệp nào có thể tiến hành sản xuất kinh doanh được. Do đó, việc xác định dễ dàng đối với đất đai và các công trình xây dựng và quyền thích đáng đối với đất đai trở thành một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp. Việc hoàn thiện có thể đi theo các hướng: thống nhất và hiện đại hoá việc đăng ký đối với đất đai và các công trình xây dựng, hợp lý hoá - các thủ tục đăng ký, làm rõ và đẩy nhanh các thủ tục cấp quyền sử dụng đấtđa và nhà cửa. Khuyến khích nhân dân đăng ký bằng cách loại bỏ những biện pháp tài chính nặng nề đối với việc đăng ký đất và các công trình xây dựng - tức là mức lệ phí và thuế vượt quá 25% giá trị tài sản. Qui định các thủ tục rõ ràng, đơn giản và hợp lý để giải quyết các tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết vấn đề quyền sở hữu và quyền sử dụng, thậm chí trong cả những trường hợp tài liệu cần thiết không có. - Về các chính sách công nghệ: Khuyến khích các hợp đồng thuê, mua hoặc bán trả góp, tạo điều kiện cho các DNVVN có được máy móc thiết bị mới hoặc cải tiến nâng cấp máy móc thiếtbị. Hiện nay vẫn tồn tại những trở ngại căn bản các DNVVN tiếp cận với công nghệ mới. Những biện pháp dưới đây có thể sẽ loại bỏ những trở ngại này và thúc đẩy cách tiếp cận với công nghệ mới của DNVVN ở Việt Nam. Cải thiện điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước gia nhập thị trường theo hướng càng đơn giản càng tốt các thủ tục đăng ký kinh doanh hiệu quả và hợp lý như đã được kiến nghị ở trên cho phép có nhiều doanh nghiệp hơn, đặc biệt là DNVVN gia nhập thị trường. Điều này sẽ tăng sức cạnh tranh và đây là khả năng lớn nhất thúc đẩy mạnh mẽ phát triển công nghệ mới ở tất cả các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm cả các DNVVN tạo điều kiện cho các DNVVN có kỹ năng đầu tư cái tiến liên tục công nghệ mới, tạo điều kiện cho quĩ hỗ trợ để cung cấp thông tin và đào tạo cho những nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên của DNVVN. Bên cạnh đó chính phủ cũng cấp tăng thời hạn được xét miễn giảm thuế cho các dự án đổi mới công nghệ. Về lâu dài cần có các chương trình trợ giúp chi phí cho các DNVVN có dự án khả thi về đổi mới công nghệ tiên tiến. Đối với hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN: cần xúc tiến, hỗ trợ liên kết các DNVVN với các viện kinh tế, các trường đại học trong và ngoài nước nhằm đào tạo những nhà quản lý giỏi và công nhân có trình độ tay nghề cao. Chính phủ cần tích cực đầu tư, mở rộng các trung tâm đào tạo đội ngũ quản lý và người lao động có sự liên kết chặt chẽ với các trường đại học và các DNVVN ở nước ta. Về lâu dài cần phải cải tổ lại hệ thống giáo dục sẵn có nhằm mục đích đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong quá trình tham gia vào thị trường thế giới. e. Đổi mới cải cách các thủ tục hành chính. Theo quan niệm của nền hành chính phát triển, các dịch vụ hành chính mà cơ quan chức năng thực hiện chính là các dịch vụ công mà người dân, các doanh nghiệp đóng thuế để nuôi các cơ quan này thực hiện, hoàn toàn không có nghĩa xin - cho. Trước mắt cần tiếp tục thực hiện những đổi mới quyết liệt trong những lĩnh vực sau: - Đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh theo đúng các qui định tại Nghị định 02/2000 ngày 3/2/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh. Người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Nhà nước công bố những ngành nghề cấm kinh doanh, những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, những ngành nghề cần có vốn pháp định, ngoài những ngành nghề đó, người dân có quyền chủ động đăng ký kinh doanh. Theo định hướng của Nhà nước, người dân lựa chọn ngành nghề kinh doanh, qui mô sản xuất, tự chịu trách nhiệm về lãi lỗ... doanh nghiệp chỉ cần đăng ký kinh doanh với thủ tục đơn giản, giảm bớt khá nhiều thời gian, công sức, kể cả tiền bạc cho việc thành lập doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh xác nhận tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký, người nhận đăng ký chịu trách nhiệm về những gì mình đã khai báo; các cơ quan chức năng sẽ kiểm tra việc tuân thủ pháp luật trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Phải làm cho mọi công chức nhận thức đầy đủ rằng họ là những người do dân, do doanh nghiệp đóng thuế để nuôi. Chức trách của họ là phục vụ cho dân, phục vụ cho doanh nghiệp chứ không phải là phục vụ cấp trên, họ thi hành công vụ chính là thực hiện những công việc được pháp luật giao coh và họ chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Những hành vi cửa quyền, hạch dịch, sách nhiễu của công chức đối với doanh nghiệp phải được trừng trị nghiêm khắc. f. Đối với các hoạt động thanh tra. Đây là lĩnh vực đang gây rất nhiều khó khăn phiền hà, làm nản lòng các doanh nhân. Doanh nghiệp cho biết đang gây phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp là 4 lực lượng: cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, cán bộ thuế và hải quan. Họ có thể đến doanh nghiệp bất kỳ vào thời gian nào, buộc giám đốc doanh nghiệp phải tiếp người hạch sát đủ điều, doanh nghiệp không thể cưỡng lại và phần sai sót, khuyết điểm bao giờ cũng thuộc về doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thể không tỏ ra biết điều với các lực lượng này; việc nhận hối lộ của các cơ quan chức năng đã làm giảm lòng tin của các doanh nghiệp đối với sự quản lý của các cơ quan này. Chính phủ đã có Nghị định số 61 ngày 15/8/1998 qui định khá chặt chẽ về công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền theo đúng chức năng, đúng thẩm quyền và tuân thủ các qui định của pháp luật. Luật doanh nghiệp cũng qui định rõ: việc thanh tra về tài chính được thực hiện không quá 1 lần trong 1 năm đối với một doanh nghiệp, thời hạn thanh tra không quá 30 ngày khi thanh tra, phải có quyết định; kết thúc phải có biên bản kết luận. Công chức lợi dụng thanh tra để hạch sách doanh nghiệp thì phải xử lý, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường cho doanh nghiệp . Khắc phục tình trạng sử hoá các quan hệ dân sự. Các cơ quan bảo vệ pháp luật khi xử lý các vụ doanh nhân vi phạm pháp luật, cần phải tính toàn diện, hiểu rõ những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành mà xử lý đúng người đúng tội, có lý có tình, không nên một chiều hình sự hoá các quan hệ dân sự. Trong lúc tình trạng lạm dụng quyền lực đang là phổ biến thì khắc phục việc hình sự hoá các quan hệ dân sự là việc cần thiết góp phần lấy lại niềm tin của doanh nhân đối với nền hành chính Nhà nước. Rất cần tổ chức lại mở rộng thẩm quyền xét xử và nâng cao năng lực của tòa án hành chính để xử lý các khẩu hiệu của doanh nghiệp đối với các quyết định không đúng pháp luật. g. Hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô khác. + Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp. Để phát huy khả năng và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển mạnh mẽ, ổn định và đúng hướng. Cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất: có chính sách ưu đãi hợp lý và công bằng đối với mọi hình thức doanh nghiệp thuộc mọi thời kỳ kinh tế. Thứ hai: có chính sách trợ giá xuất khẩu cho các DNVVN để ổn định sản xuất trong thời gian đầu tìm kiếm thâm nhập thị trường mơí. Thứ ba, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước cần đảm bảo tính hợp lý tạo điều kiện cho các DNVVN góp phần tích cực vào việc chiếm lĩnh thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu. Đặc biệt không để các doanh nghiệp Nhà nước độc quyền bóp méo thị trường trong nước như hiện nay. Kiên quyết đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, nhập lậu, chống hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu, mẫu mã. Thứ tư, chính phủ cần tích cực và hỗ trợ một phần kinh phí tài trợ trong việc hình thành và phát triển các vườn ươm doanh nghiệp chuyên ngành và kỹ thuật nhằm cung cấp cho các DNVVN cơ sở hạ tầng, quy định nhiệ vụ khi khởi sự và tăng cường khả năng kinh doanh cho các DNVVN. Trước hết cần xây dựng thí điểm ở một vài thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố HCM) và dần dần tiến hành mở rộng, dàn trải trên phạm vi cả nước. Thứ năm, khuyến khích các hình thức hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu giữa các DNVVN trong nước và các DNVVN trong các nước trong khu vực APEC, ASEAN và các khu vực khác trên thế giới, hỗ trợ chi phí trong việc tham dự các hội chợ thương mại ở nước ngoài. + Hoàn thiện chính sách thuế. Thứ nhất tranh sự trùng lập về thuế, các văn bản về thuế cần phải rõ ràng, nhất quán và ổn định giải quyết sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các loại hình doanh nghiệp. Thứ hai, những ưu đãi về thuế cần phải nhằm vào các tiêu thức như: theo qui mô doanh nghiệp, theo ngành nghề, theo vùng, theo quá trình tổ chức kinh doanh, theo sự tác động tới việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội (sử dụng nhiều lao động nữ, thu hút các đối tượng chính sách...). Như vậy sự ưu đãi về thuế hoàn toàn không được xác định theo thành phần kinh tế và theo nguồn gốc đầu tư. Thứ ba, có chính sách ưu đãi về thu nhập (có thể miễn thuế) cho các ngân hàng khi cho các DNVVN vay vốn, cho phép lập quĩ dự phòng rủi ro trích từ lợi nhuận thu được do được ưu đãi về thuế mang lại. Thứ tư, áp dụng chặt chẽ hiệu quả thuế giá trị gia tăng ở các doanh nghiệp đã đăng ký thành lập, bổ sung thêm đối tượng chịu thuế. Thứ năm, đơn giản hoá các thủ tục hành chính về thuế. Có chính sách miễn giảm thuế rõ ràng để giảm bớt phiền hà và việc nộp thuế ở những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên đối với DNVVN thống nhất một biểu thức. + Hoàn thiện chính sách đầu tư. Về khuyến khích đầu tư phát triển, Nhà nước cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu: đường, điện, cấp thoát nước... đặc biệt là hỗ trợ đầu tư vào thiết bị công nghệ xử lý chất thải bảo vệ môi trường sinh thái mà các DNVVN do hạn chế về vốn không thể đầu tư. + Hoàn thiện chính sách thị trường. Tạo cho các DNVVN một thị trường tiêu thụ vững chắc. Bên cạnh cuộc vận động "người Việt Nam dùng hàng Việt Nam", nhà nước với tư cách người tiêu dùng cần khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước phải ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam. Bên cạnh đó cần triển khai mạnh mẽ việc thâm nhập vào thị trường quốc tế bằng biện pháp ngoại giao, cung cấp thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường hàng hoá Việt Nam ra thế giới. Mặt khác Nhà nước cũng tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư bằng nguồn vốn ngân sa chs. Tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa DNL và DNVVN vừa có tác động bảo đảm thị trường, tạo công ăn việc làm vừa tạo điều kiện thuận lợi để chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý từ DNL sang các DNVVN. h. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. + Thiết lập cơ quan quản lý DNVVN. Để tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của DNVVN trước hết phải thiết lập cơ quan quản lý DNVVN. Tổ chức bộ máy quản lý vừa là sản phẩm của cơ chế quản lý vừa là công cụ để thực hiện cơ chế, do vậy nó cần được hình thành một cách đồng bộ và đáp ứng được nhu cầu phát triển của DNVVN. Trong tình hình hiện nay, nước ta đã có chủ trương định hướng phát triển DNVVN vì vậy cần thiết phải thành lập Uỷ ban Nhà nước về DNVVN, đó là cơ quan đầu mối giúp chính phủ thực hiện các chương trình phát triển DNVVN. Uỷ ban Nhà nước về DNVVN có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan chức năng khác để: Nghiên cứu hoạch định phát triển DNVVN Tham mưu cho chính phủ thiết lập hệ thống hỗ trợ DNVVN về tín dụng, tư vấn dịch vụ, cung cấp thông tin về thị trường, kỹ thuật - công nghệ và đào tạo. Tham gia vào chương trình xây dựng hệ thống pháp luật để thúc đẩy và hỗ trợ sự phát triển của DNVVN Tham gia vào hoạch định chính sách có liên quan đến DNVVN. + Thiết lập hệ thống tổ chức các cơ quan hỗ trợ phát triển. Xuất phát từ thực tế khó khăn của các DNVVN ở nước ta, chủ yếu là vấn đề thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường, công nghệ kỹ thuật, tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu nguyên liệu.... Những khó khăn đó đã làm hạnchế nguyên liệu trong sự phát triển của các DNVVN, kìm hãm sự tăng năng suất lao động và thu nhập, kìm hãm sự cạnh tranh và tồn tại lâu dài của doanh nghiệp. Do đó việc thiết lập hệ thống tổ chức các cơ quan hỗ trợ phát triển DNVVN chính là nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Hệ thống các cơ quan hỗ trợ bao gồm: hệ thống tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng hệ thống tổ chức đào tạo, hệ thống tổ chức tư vấn - dịch vụ - cung cấp thông tin, hệ thống tổ chức hỗ trợ đổi mới công nghệ, hệ thống tổ chức nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới. Bên cạnh đó, thiết lập hệ thống tổ chức đại diện cho các DNVVN. Đó là một tổ chức xã hội của người chủ, hoạt động vì mục tiêu chung của các chủ doanh nghiệp nhưng không được trái với pháp luật và chính sách của Nhà nước. Tổ chức này ra đời và hoạt động phải được Nhà nước chấp nhận và hoạt động trên tinh thần tự nguyện. Thiết lập các tổ chức theo ngành, nghề và quốc gia phù hợp với xu hướng phát triển của nước ta. Có thể từng bước thử nghiêm ở ngành dệt - may mặc, ngành sản xuất vật liệu xây dựng. Tóm lại tăng cường quản lý Nhà nước đối với sự phát triển của DNVVN trước hết là nhằm bảo vệ cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động công bằng và hiệu quả theo pháp luật. Đảm bảo các yếu tố đầu vào và đầu ra cho sản xuất nhằm thúc đẩy việc tăng năng suất lao động và thu nhập, khuyến khích đầu tư. i. Học hỏi kinh nghiệm phát triển và quản lý DNVVN của các nước trên thế giới. ở hầu hết các nước trên thế giới, dù là nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, người ta dành sự chú ý và giúp đỡ đặc biệt cho khu vực các DNVVN. Khu vực này được đánh giá là những hạt nhân của những hoạt động công nghiệp có tính chất đổi mới và đóng vai trò quan trọng trong một cơ cấu năng động. Chính vì vậy chính sách và biện pháp của Nhà nước đều nhằm vào thúc đẩy quá trình ra đời những mô hình mới năng động, thích ứng một cách nhanh nhất, tốt nhất trong môi trường cạnh tranh của thị trường trong nước và thế giới. Đồng thời hỗ trợ một cách tích cực trên các phương diện khác nhau đển DNVVN phát triển tạo nên sự phồn vinh của đất nước. Bên cạnh các giải pháp cho sự phát triển DNVVN nói trên chúng ta cần tham khảo và học hỏi kinh nghiệm phát triển và quản lý DNVVN của các nước trên thế giới và trong khu vực về khả năng tổ chức và quản lý; về việc hoạch định, xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô, hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và thực hiện các dự án phát triển kinh tế ngắn hạn... Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0253.doc
Tài liệu liên quan