Đề tài Ứng dụng và phát triển công nghê thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộ

Theo ước tính, năm 2007, Vĩnh Phúc có 132 xã, 20 phường (thị trấn). Mật độ dân số trung bình là 867 người/km2, thấp hơn mức trung bình của vùng KTTĐ Bắc Bộ (1.112,4 người/km2 ). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh dự kiến đến năm 2010 còn dưới 0,95 %. Ước tính nguồn lao động năm 2007 là 804180 người, chiếm 75,93% dân số, trong đó có 680830 người làm việc trong các ngành kinh tế. Lực lượng lao động chủ yếu vẫn tập trung trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp: 375140 người, chiếm 55,10%. Khu vực công nghiệp và xây dựng: 140920 người, chiếm 20,7% và khu vực dịch vụ: 164770 người, chiếm 24,2%. Số lao động có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chiếm tỷ lệ thấp, phần lớn tập trung trong các ngành giáo dục và y tế. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 25%, xấp xỉ tỷ lệ của cả nước (25,09% ).

doc77 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 945 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng và phát triển công nghê thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o nguồn nhân lực CNTT cho tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, quy mô của các trung tâm còn nhỏ, vốn đầu tư có hạn, loại hình và nội dung đào tạo chưa đa dạng, số lượng học viên chưa nhiều... 4. Thực trạng về công nghiệp và thị trường CNTT 4.1. Thực trạng phát triển công nghiệp CNTT Công nghiệp CNTT bao gồm: công nghiệp sản xuất và lắp ráp các sản phẩm phần cứng (phần cứng máy tính, thiết bị điện tử viễn thông, điện tử dân dụng và chuyên dụng, thiết bị phụ trợ, linh kiện, phụ kiện điện tử) sau đây gọi tắt là công nghiệp phần cứng; công nghiệp phần mềm (sản xuất phần mềm và nội dung thông tin) và dịch vụ CNTT. Quy hoạch công nghiệp CNTT trong thực tế cho thấy ngành Công nghiệp CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc đã có bước phát triển trong thời gian vừa qua, và chính sách phát triển CNTT của Đảng, Nhà nước có một vai trò rất quan trọng vào thành công trên. Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay ngành Công nghiệp CNTT ở Vĩnh Phúc đang gặp nhiều bất ổn, do cơn bão khủng hoảng tài chính thế giới xảy ra cuối năm 2008. Vĩnh Phúc đang chi hàng chục triệu USD mỗi năm để nhập thiết bị CNTT, và thu lại rất ít từ ngành công nghiệp này. Lý do là: trong ứng dụng CNTT, ngoài việc đầu tư trang thiết bị, thì việc cung cấp các dịch vụ CNTT như: tư vấn giải pháp, tích hợp hệ thống, nghiên cứu thị trường, đào tạo nhân lực, xử lý dữ liệu và cho thuê hạ tầng cũng là khu vực cho doanh thu rất lớn. Thế nhưng, hiện nay các doanh nghiệp CNTT ở Vĩnh Phúc chỉ chiếm từ 5 đến 10% thị phần dịch vụ công nghệ thông tin; phần còn lại đang “nhường sân” cho doanh nghiệp CNTT nước ngoài, mặc dù về mặt pháp lý, họ chưa chính thức được có mặt tại Việt Nam. Ngành Công nghiệp phần cứng (CNpPC) tại Vĩnh Phúc chỉ mới ở giai đoạn bắt đầu. CNpPC của VP hiện là một bức tranh mờ nhạt bởi các sản phẩm (SP) phần cứng trong nước hầu như chỉ là lắp ráp dựa trên nguồn linh kiện nhập khẩu hoặc SP nhập khẩu nguyên chiếc. Trong khi đó, các mặt hàng thiết bị tin học xuất khẩu lớn nhất là máy in, bảng mạch và linh kiện vi tính đều do các DN đầu tư trực tiếp của nước ngoài thực hiện gia công, sản xuất tại Tỉnh, rồi xuất khẩu sang thị trường các nước. Nhìn chung, công nghiệp CNTT ở tỉnh Vĩnh Phúc còn nhỏ bé, trên địa bàn tỉnh mới chỉ có một số nhà máy sản xuất và lắp ráp các sản phẩm phần cứng (Công ty liên doanh thẻ thông minh MK, Công ty sản xuất CD và DVD chất lượng cao, Công ty NAGAKAWA Việt Nam, Công ty TNHH thiết bị đo lường điện tử THK Việt Nam, Công ty TNHH cáp điện SH-VINA, Công ty TNHH Công nghiệp chính xác Việt Nam 1. Tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp này vào khoảng 40,3 triệu USD, chiếm khoảng 6,19% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh), hầu như không có doanh nghiệp công nghiệp phần mềm và rất ít đơn vị dịch vụ CNTT. Do vậy, có thể nói công nghiệp CNTT ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay chủ yếu là công nghiệp sản xuất và lắp ráp các sản phẩm phần cứng. Giá trị sản xuất công nghiệp CNTT trong những năm gần đây chỉ chiếm chưa bằng 1% giá trị toàn ngành công nghiệp của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp CNTT rất thấp so với tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Sản phẩm chủ yếu của các doanh nghiệp CNTT trên địa bàn tỉnh hiện nay là: thẻ từ, các loại thẻ dữ liệu khác, đầu đọc, thiết bị đầu cuối, các loại đĩa CD, DVD quang học trắng chưa in chất lượng cao, sản phẩm điện tử, điện lạnh, các thiết bị đo lường và kiểm nghiệm điện tử, cáp điện, điện thoại, vỏ máy vi tính, máy in, ổn áp... 4.2. Thị trường CNTT Nhìn vào quy hoạch CNTT trong thực tế ở Vĩnh Phúc, chúng ta thấy thị trường CNTT tỉnh Vĩnh Phúc những năm gần đây đã có bước phát triển rõ rệt, đặc biệt là thị trường phần mềm. Nhiều doanh nghiệp sản xuất phần mềm ra đời. Tuy vậy, nhìn chung thị trường CNTT ở Vĩnh Phúc so với Hà Nội và các nước khác còn nhỏ bé. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong giai đoạn 2006 - 2008, kinh phí đầu tư từ ngân sách TW và ngân sách cấp tỉnh cho phát triển CNTT tại các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh bình quân khoảng 5.000 - 6.000 triệu đồng/năm. Nguồn kinh phí này chủ yếu được sử dụng để trang bị máy tính và thiết bị CNTT cho các cơ quan. Vĩnh Phúc chưa hình thành rõ thị trường phần mềm. Thị trường phần cứng cũng cơ bản bị chi phối bởi các doanh nghiệp CNTT có trụ sở ở Hà Nội. Thị trường dịch vụ viễn thông và Internet tỉnh Vĩnh Phúc cũng chưa phát triển mạnh. Doanh thu VT của Vĩnh Phúc đạt khoảng 130 tỷ đồng/năm, trong đó doanh thu viễn thông chiếm trên 85%. Doanh thu bình quân của 1 máy điện thoại là 1,6 triệu đồng/năm. Do thu nhập bình quân đầu người của tỉnh chưa nên mức độ sử dụng dịch vụ thấp hơn so với mức bình quân chung của cả nước. Do thị trường dịch vụ viễn thông và Internet của tỉnh chưa phát triển mạnh nên chưa thu hút được các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Thị trường BCVT&CNTT đã bước đầu có sự cạnh tranh và khách hàng đã có sự lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chưa nhiều, có lúc nhu cầu vượt quá khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Các sản phẩm công nghiệp CNTT trên địa bàn Vĩnh Phúc chủ yếu phục vụ xuất khẩu hoặc cung cấp cho các địa phương khác trong nước; thị trường CNTT trong tỉnh chưa phát triển mạnh. III. Đánh giá thực hiện quy hoạch CNTT ở Vĩnh Phúc 1. Đánh giá thực trạng ứng dụng CNTT Qua thực trạng thực hiện ứng dụng CNTT giai đoạn 2006 – 2008 trong thực tế, chúng ta thấy ứng dụng CNTT đến nay đã đạt được những kết quả tốt, nhiều chỉ tiêu hoàn thành và vượt mức định hướng quy hoạch CNTT đã đề ra. Đầu tiên chúng ta phải kể đến ứng dụng CNTT trong các cơ quan trong hệ thống chính trị của Tỉnh. Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh đi đầu trong cả nước về ứng dụng CNTT trong cơ quan điều hành, quản lý. Vĩnh Phúc đã thực hiện chuẩn hóa các quy trình hành chính, chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ trong các cơ quan bằng CNTT hơn trước, mọi công việc trong quản lý đã được tin học hóa. Vĩnh Phúc đã từng bước hiện đại hóa công tác quản lý và ứng dụng mạnh mẽ CNTT vào các lĩnh vực hoạt động KHCN. Văn phòng điện tử ở Vĩnh Phúc đã hình thành và phát triển đảm bảo các thủ tục hành chính được thực hiện thông suốt. Hệ thống thư điện tử và các phần mềm ứng dụng cũng phát triển đem lại hiệu quả lớn trong quản lý. Hệ thống thông tin, các cơ sở dữ liệu và hệ thông website trong các cơ quan phát triển và thường xuyên được nâng cấp cập nhật đã đem lại nguồn thông tin vô cùng quý báu cho lãnh đạo và cán bộ tỉnh trong việc nghiên cứu và học tập công tác quản lý. Như vậy chúng ta thấy công tác ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính đã hoàn thành các mục tiêu mà quy hoạch CNTT đã đề ra. Tuy nhiên, trong công tác ứng dụng tại các cơ quan vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục hơn nữa. Lãnh đạo các cấp, các ngành chưa thực sự coi CNTT là phương tiện chủ lực để đi tắt, đón đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc chuẩn hóa các quy trình hành chính, quy trình nghiệp vụ trong các cơ quan bằng tin học đến nay vẫn chưa phổ cập, nhiều cơ quan ứng ụng CNTT còn nghèo nàn, nhiều công đoạn trong công việc chưa được tin học hóa, thủ tục còn rườm rà, ứng dụng tin học còn chưa chuyên nghiệp, nguyên nhân là do điều kiện vật chất về CNTT còn yếu kém, hơn nữa nguồn nhân lực CNTT tại các cơ quan còn thiếu và yếu, sử dụng chưa thành thạo CNTT. Vì vậy Vĩnh Phúc cần đẩy mạnh quy hoạch ứng dụng CNTT trong thời gian tới để giải quyết những tồn tại đó. Thứ hai, ta thấy ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp nhìn chung có nhiều tiến bộ, và đạt được những kết quả đáng khích lệ so với mục tiêu quy hoạch CNTT đề ra. Hầu hết các doanh nghiệp đều đã ứng dụng CNTT trong hoạt động của doanh nghiệp, tạo ra hiệu quả to lớn trong quản lý và sản xuất. Thương mại điện tử mới bước đầu hình thành, nói chung cũng chưa phát triển lắm, so với mục tiêu đề ra của quy hoạch thì còn chưa đạt. Nhiều doanh nghiệp còn chưa nhận thức đúng đắn về TMĐT. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa ứng dụng CNTT trong quản lý điều hành hoặc ứng dụng chưa hiệu quả. Vì vậy trong các năm tiếp theo, chúng ta cần đẩy mạnh thực hiện ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp. Các chỉ tiêu ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế và các tổ chức dân cư trong thực tế hiện nay đã có nhiều tiến bộ hơn so với giai đoạn trước khi có quy hoạch CNTT. Về cơ bản, CNTT đã có mặt và phát huy tác dụng to lớn trong công tác đào tạo ở các trường học, công tác khám chữa bệnh trong bệnh viện, và trong các hoạt động của các tổ chức dân cư. Tuy nhiên ứng dụng CNTT vẫn còn nhiều hạn chế, và chưa thật sự hiệu quả. Nói chung so với các chỉ tiêu mà quy hoạch CNTT đặt ra, ứng dụng CNTT còn chưa đạt theo yêu cầu. Trong lĩnh vực giáo dục, tin học còn chưa phổ cập tại các trường học, đặc biệt là tại các vùng nông thôn. Hệ thống thông tin điện tử và các trang tin về giáo dục của Vĩnh Phúc còn sơ sài và chưa đảm bảo đủ nhu cầu thông tin của giáo viên và học sinh, hình thức đào tạo qua mạng eLearning mới bắt đầu triển khai và thí điểm tại một số trường nhưng chưa thật sự khả thi. CNTT ứng dụng trong bệnh viện còn nhiều hạn chế, thủ tục khám chữa bệnh đã được khắc phục, nhanh gọn hơn nhưng vẫn chưa hiệu quả, đội ngũ nhân viên chuyên trách về CNTT tại các bệnh viện còn thiếu và yếuTại các xã nông thôn ở Vĩnh Phúc người dân còn chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của CNTT, và chưa kêt nối internet phục vụ nhu cầu thông tin của người dân. Thấy rõ được vai trò của CNTT trong đời sống, trong những năm tới chúng ta phải có những giải pháp đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong đời sống, có như thế Vĩnh Phúc mới trở thành Tỉnh điện tử vào năm 2010. 2. Đánh giá về thực trạng phát triển hạ tầng kĩ thuật CNTT - TT Về phát triển mạng và dịch vụ viễn thông, Internet, chúng ta thấy các chỉ tiêu đều đạt và vượt mức so với mục tiêu mà quy hoạch CNTT ở Vĩnh Phúc đề ra. Như chúng ta đã thấy, theo như mục tiêu quy hoạch đến năm 2010, mật độ điện thoại toàn tỉnh đạt 38 máy/100 dân, trong khi thực tế quy hoạch đến nay thì mật độ điện thoại của Tỉnh hiện nay đã là 73 máy/100 dân, vượt mục tiêu đề ra. Số thuê bao điện thoại bao gồm thuê bao điện thoại cố định và di động đã tăng vọt trong những năm vừa qua và vượt kế hoạch đề ra, năm 2008 thuê bao điện thoại là 877.300 thuê bao (trong khi mục tiêu quy hoạch CNTT đề ra đến năm 2010 là 473.660 thuê bao các loại), trong đó thuê bao di động đã tăng mạnh mẽ, năm 2008 thuê bao di động là 692.200 thuê bao (trong khi mục tiêu quy hoạch đề ra đến năm 2010 là 243.660 thuê bao). Doanh thu viễn thông tăng trưởng tốt. Năm 2008, phát triển thuê bao Internet Mega-VNN đạt 6950 thuê bao, tăng 72,33% so với cùng kỳ, nâng tổng số thuê bao trên mạng lên 10.111 thuê bao... Tổng doanh thu viễn thông của Vĩnh Phúc năm 2008 là 187,314 tỷ đồng, đạt 106,3% KH giao. Tuy nhiên doanh thu viễn thông năm 2008 có sụt giảm so với năm 2007, là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho nhu cầu đầu tư vào viễn thông và internet bị sụt giảm, luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào các doanh nghiệp ở Vĩnh Phúc cũng giảm mạnh, cùng với đó nhu cầu tiêu dùng thời khủng hoảng của người dân ít hơn, làm cho doanh thu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này giảm sút. Hệ thống máy tính và kết nối internet đạt được những kết quả khả quan, hoàn thành các chỉ tiêu mà quy hoạch CNTT đề ra. Đến nay hầu hết các cơ quan, trường học, bệnh viện, đều được trang bị máy tính và kết nối internet phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, đào tạo và cung cấp các dịch vụ cho người dân. Tuy nhiên mặc dù Vĩnh Phúc đã đầu tư quan tâm đến công tác ứng cứu, bảo trì bảo dưỡng các sản phẩm máy tính tại các cơ quan, nhưng các sự cố hỏng hóc máy tính, phần mềm bị virus xâm nhập vẫn còn tồn tại. Nguyên nhân là do hệ thống máy tính kém chất lượng, cũ kĩ lạc hậu, và hơn nữa là do cán bộ công chức còn chưa biết cách sử dụng máy tính, dẫn đến các sự cố xảy ra. Mặt khác các nhân viên chuyên trách về CNTT còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng máy tính của các cơ quan một cách an toàn. Chính vì vậy chúng ta cần phải đẩy mạnh quy hoạch CNTT, phát triển hạ tầng máy tính có chất lượng tốt hơn nữa. Mạng cục bộ và mạng diện rộng của Tỉnh đã được đầu tư xây dựng, góp phần phục vụ đắc lực cho công việc của các ngành, các lĩnh vực. Đến năm 2008, 100% máy tính của các cơ quan cấp Tỉnh, huyện đã được kết nối mạng cục bộ, hoàn thành mục tiêu quy hoạch đề ra. Tuy nhiên ở các xã, thị trấn mạng cục bộ mới đang được xây dựng, nhiều xã đến nay chưa có mạng cục bộ. Mạng dùng riêng của vĩnh Phúc đến nay đã đựơc xây dựng góp phần đẩy nhanh thực hiện Chính phủ điện tử tại Vính phúc. Như vậy là đến nay Vĩnh phúc đã có mạng dùng riêng, đã có bước phát triển mới so với thời kì chưa có quy hoạch CNTT. Qua đó chúng ta thấy quy hoạch CNTT ảnh hưởng rất tích cực đến phát triển hạ tầng kĩ thuật CNTT của Vĩnh Phúc. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải có các giải pháp đẩy mạnh thực hiện quy hoạch CNTT để đạt mục tiêu đến năm 2010, tất cả các cơ quan, trường học, bệnh viện đều được trang bị mạng cục bộ và mạng dùng riêng. 3. Đánh giá về thực trạng nguồn nhân lực CNTT Theo như quy hoạch nguồn nhân lực CNTT diễn ra trong thực tế, ta thấy hầu hết các chỉ tiêu về nhân lực CNTT của Vĩnh Phúc đều hoàn thành các mục tiêu mà quy hoạch CNTT đặt ra. Đến nay, nguồn nhân lực CNTT tại các cơ quan trong hệ thống chính trị của Tỉnh đã được trang bị đầy đủ kiến thức về tin học, khoảng hơn 90% cán bộ, công chức tại các cơ quan cấp Tỉnh, huyện, cán bộ chủ chốt ở các xã, thị trấn trong toàn Tỉnh được đào tạo cơ bản về tin học, đào tạo nghiệp vụ chung và đào tạo chuyên ngành ứng dụng CNTT. Như vậy phát triển nhân lực CNTT tại các cơ quan trong hệ thống chính trị của Tỉnh đã gần hoàn thành mục tiêu quy hoạch đề ra (mục tiêu là đến năm 2010, 100% cán bộ, công chức tại các cơ quan chính trị các cấp được đào tạo về tin học và CNTT). Như vậy chúng ta thấy rằng với tiến trình phổ cập tin học vào các cơ quan chính trị như hiện nay, thì nhất định đến năm 2010 chúng ta sẽ hoàn thành mục tiêu như quy hoạch đã đề ra. Bên cạnh đó chúng ta thấy rằng các chỉ tiêu về nguồn nhân lực CNTT trong các doanh nghiệp cũng đạt được các kết quả khả quan, so với các mục tiêu mà quy hoạch đặt ra. Hầu hết các doanh nghiệp đều có đội ngũ nhân viên biết sử dụng thành thạo tin học trong công việc quản lý sản xuất kinh doanh, tại các doanh nghiệp lớn và vừa đều có cán bộ chuyên trách về CNTT, phục vụ đắc lực cho công việc. Các nhân viên trong doanh nghiệp đều nhận thức được tầm quan trọng của CNTT và thương mại điện tử. Các chỉ tiêu về nguồn nhân lực trong các cơ sở giáo dục và y tế ở Vĩnh Phúc hiện nay cũng đã tiến bộ hơn nhiều so với thời điểm trước khi thực hiện quy hoạch CNTT. Tuy nhiên so với các mục tiêu trong quy hoạch đặt ra thì các chỉ tiêu này còn chưa đạt. Nguyên nhân là do nguồn nhân lực CNTT ở Vĩnh Phúc còn chưa đáp ứng được yêu cầu của các cơ quan. Nguồn nhân lực CNTT được đào tạo ra còn chưa có đủ kinh nghiệm thực tế để có thể đảm đương công việc, hơn nữa do vấn đề đào tạo có nhiều bất cập, và do ảnh hưởng của thị trường lao động trong lĩnh vực CNTT, do cung và cầu lao động CNTT còn vênh nhau nên lao động CNTT vừa yếu về chất vừa thiếu về lượng... tình trạng khủng hoảng thừa - thiếu, thiếu - thừa không chỉ khiến các nhà đầu tư băn khoăn khi đầu tư vào VP trong lĩnh vực này mà còn làm đau đầu các doanh nghiệp cũng như các cơ quan cần tuyển nhân viên chuyên trách về CNTT. Chúng ta thấy trong những năm gần đây vấn đề đào tạo nguồn nhân lực CNTT ở Vĩnh Phúc đã được triển khai mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi quy hoạch CNTT của Vĩnh Phúc ra đời. Thực tế quy hoạch đào tạo nhân lực CNTT cho thấy công tác đào tạo CNTT đã có những chuyển biến tích cực so với trước khi thực hiện quy hoạch, góp phần đem lại nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực CNTT nói riêng ở Vĩnh Phúc. Các chỉ tiêu về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, đào tạo CNTT trong trường phổ thông, dạy nghề, trung tâm tin hoc, đã đạt được những kết quả tốt đẹp, hoàn thành và vựợt mục tiêu quy hoạch đề ra. Tuy nhiên công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT trong thực tế vẫn còn nhiều hạn chế. Cở sở vật chất phục vụ cho đào tạo còn nghèo nàn, nhiều trường học và các cơ sở còn thiếu trang bị cho việc học và ứng dụng CNTT. Đội ngũ giáo viên giỏi và có kinh nghiệm còn thiếu. Hơn nữa việc đào tạo kiến thức cho người học còn nhiều bất cập. Nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học đào tạo kiến thức CNTT mới chỉ dừng lại ở lí thuyết, chưa ứng dụng vào thực tế một cách bài bản. Sinh viên ra trường thiếu kinh nghiệm và thiếu kĩ năng làm việc trong các lĩnh vực CNTT, dẫn đến tình trạng lao động CNTT vừa thừa vừa thiếu, ảnh hưởng đến hiệu quả ứng dụng và phát triển CNTT trong toàn tỉnh. Vì vậy chúng ta cần cấp thiết đề ra các giải pháp để đẩy mạnh quy hoạch đào tạo nhân lực CNTT cũng như đẩy mạnh thực hiện quy hoạch CNTT nói chung trong các năm tiếp theo, từ nay đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 4. Đánh giá về phát triển Công nghiệp và Thị trường CNTT Qua thực hiện quy hoạch CNTT trong thực tế về công nghiệp CNTT, chúng ta thấy Công nghiệp CNTT ở Vĩnh Phúc còn nhỏ bé và chưa thực sự phát triển. Các chỉ tiêu về phát triển công nghiệp CNTT của Vĩnh Phúc trong thời gian vừa qua (giai đoạn 2006 – 2008) chưa đạt mục tiêu quy hoạch CNTT đề ra. Công nghiệp phần cứng mới chỉ phát triển ở giai đoạn đầu, các sản phẩm phần cứng trong nước hầu như chỉ là lắp ráp dựa trên nguồn linh kiện nhập khẩu hoặc sản phẩm nhập khẩu nguyên chiếc. Trong khi đó, các mặt hàng thiết bị tin học xuất khẩu lớn nhất là máy in, bảng mạch và linh kiện vi tính đều do các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp của nước ngoài thực hiện gia công, sản xuất tại Tỉnh, rồi xuất khẩu sang thị trường các nước. Công nghiệp phần mềm cũng đã hình thành nhưng chưa thật sự phát triển, công nghiệp phần mềm ở Vĩnh Phúc hiện nay chỉ đóng góp một phần nhỏ trong toàn ngành công nghiệp công nghệ thông tin và là con số quá ít ỏi so với công nghiệp phần cứng. Thị trường CNTT của Vĩnh Phúc trong giai đoạn vừa qua đã có những bước khởi sắc, đặc biệt là thị trường Viễn thông, các chỉ tiêu về viễn thông đều đạt và vượt quy hoạch đề ra. Thị trường dịch vụ Internet cũng phát triển mạnh với tăng trưởng thuê bao và tỉ lệ người sử dụng rất cao. Thị trường dịch vụ viễn thông và Internet tăng mạnh cùng với cơ chế khuyến khích của tỉnh đã thu hút các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Trên địa bàn tỉnh đã có nhiều doanh nghiệp cung cấp các loại dịch vụ viễn thông và internet và cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn, khách hàng càng ngày càng có nhiều sự lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ. Như vậy chúng ta thấy bên cạnh những kết quả khả quan về thị trường viễn thông và internet, công nghiệp CNTT, đặc biệt là công nghiệp phần mềm còn bộc lộ nhiều yếu kém. Nguyên nhân là do chúng ta đầu tư cho hạ tầng kĩ thuật CNTT còn quá thấp, thị trường tiêu thụ cho sản phẩm CNTT còn gặp nhiều khó khăn, chúng ta chưa thâm nhập được vào thị trường gia công và sản phẩm phần mềm ngoài nước; chưa sản xuất theo quy trình công nghiệp, công nghệ làm phần mềm lạc hậu, chất lượng lập trình viên và quản lý dự án thấp,... Các chính sách của Vĩnh Phúc vẫn chưa theo kịp được sự phát triển và thiếu tính cạnh tranh quốc tế do đó doanh nghiệp trong nước vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi. Khủng hoảng kinh tế thế giới đang là thách thức to lớn và đe doạ trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển đến năm 2010. Một nguyên nhân lớn nữa là chúng ta còn thiếu nguồn nhân tài trong lĩnh vực công nghệ phần mềm. Về góc độ quản lý, thị trường dịch vụ CNTT ở nước ta đang phát triển nhanh nhưng mang tính tự phát, có nhiều lộn xộn vì thiếu các hành lang pháp lý để quản lý; xuất hiện tình trạng doanh nghiệp nước ngoài “núp bóng” doanh nghiệp trong nước để cung cấp dịch vụ và trốn thuế; Đặc biệt, do doanh nghiệp CNTT trong tỉnh còn chưa đủ khả năng đảm đương các dự án CNTT lớn, nên nhiều dự án công nghệ thông tin trong nước phải thuê tư vấn và dịch vụ nước ngoài, giá vừa đắt lại vừa không có tính bảo mật cao. Thậm chí, một số dự án do trong nước “tự mày mò” nên hiệu quả không cao, dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền bạc của nhà nước. Một bất cập nữa là hiện nay, phần kinh phí dành cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc lĩnh vực CNTT còn chiếm tỷ lệ quá thấp trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình, nên việc ứng dụng CNTT gặp nhiều khó khăn. Thậm chí, một qui chế quản lý đầu tư cho dự án CNTT  cũng chưa có, nên cơ quan quản lý không có “gậy” để chỉ huy hoạt động đầu tư dự án CNTT, dẫn đến mỗi nơi làm một cách, không có tính đồng bộ, không đạt hiệu quả mong muốn. Nhìn chung công nghiệp CNTT ở Vĩnh Phúc còn nhỏ bé, công nghiệp CNTT ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay chủ yếu là công nghiệp sản xuất và lắp ráp các sản phẩm phần cứng. Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng rất thấp so với toàn ngành công nghiệp. IV. Ảnh hưởng của việc thực hiện quy hoạch đến thực trạng mạng lưới CNTT của Tỉnh Quy hoạch CNTT của Vĩnh Phúc giai đoạn 2006 – 2010 đã đi vào thực tế, và được triển khai rộng rãi khắp trong toàn tỉnh, góp phần làm cho mạng lưới CNTT trong tỉnh phát triển lên một tầng mới. Từ khi Vĩnh Phúc có quy hoạch CNTT, ứng dụng CNTT trong mọi mặt kinh tế - xã hội được đẩy mạnh, hạ tầng CNTT được quan tâm đầu tư xây dựng, hệ thống máy điện thoại, máy tính và các mạng kết nối internet, mạng cục bộ được trang bị và bảo dưỡng tốt phục vụ cho công tác sản xuất, học tập, chữa bệnh, được hiệu quả. Công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT cũng đã có những kết quả tốt, góp phần tạo ra nguồn nhân lực CNTT có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng về CNTT giúp ích cho công cuộc xây dựng và phát triển của Tỉnh. Công nghiệp và thị trường CNTT của Vĩnh Phúc cũng khởi sắc trong những năm gần đây, kể từ khi có quy hoạch CNTT. Như vậy Quy hoạch CNTT có một vai trò to lớn đối với sự phát triển tổng thể của Vĩnh Phúc nói chung và đối với sự phát triển của mạng lưới CNTT của Vĩnh Phúc nói riêng. CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN QH ĐẾN 2015 I. Những nội dung tiếp tục triển khai đến năm 2010 Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT - TT đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu của công tác ứng dụng CNTT - TT trong tất cả các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Phát triển nhanh, đa dạng hoá các dịch vụ viễn thông và Internet trên cơ sở hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia tiên tiến nhằm cung cấp đối với người sử dụng các dịch vụ chất lượng cao, an toàn, bảo mật, giá cước thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực ASEAN+3. Về ứng dụng CNTT Đến năm 2009, 2010 đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào tất cả các cơ quan chính trị, các doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, các tổ chức dân cư đảm bảo đến năm 2010 Vĩnh Phúc trở thành “Tỉnh điện tử”. Về phát triển hạ tầng Mạng và dịch vụ viễn thông, internet Phấn đấu đến năm 2009, mật độ điện thoại cố định là 16.5 máy/100 dân, mật độ điện thoại di động là 15 máy, bình quân đạt 31,5 máy/100 dân. Mục tiêu là đến năm 2010 mật độ điện thoại toàn tỉnh đạt 38 máy/100 dân, trong đó mật độ điện thoại cố định là 18,5 máy và mật độ điện thoại di động là 19,5 máy; mật độ thuê bao Internet các loại đạt 10% (trong đó chủ yếu là thuê bao băng rộng), 40% dân số sử dụng Internet; Trang bị hệ thống máy tính Phấn đấu đến cuối năm 2009, 2 -3 cán bộ, công chức có 1 máy tính. Đến cuối năm 2010, bình quân mỗi trường cao đẳng, THCN và dạy nghề, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung học cơ sở được trang bị thêm 40 máy tính, mỗi trường tiểu học 20 máy tính. Kết nối mạng dùng riêng tại các bệnh viện cấp tỉnh đến mạng của ngành y tế; Xây dựng mạng cục bộ ở một số xã, phường, thị trấn trọng điểm; Kết nối Internet băng rộng đến các đơn vị trong tỉnh. Phấn đấu đến năm 2010: Kết nối Internet băng rộng đến các phường, xã, thị trấn trọng điểm (đã có mạng cục bộ); Kết nối Internet băng rộng đến các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung học phổ thông và 50% trường trung học cơ sở. Xây dựng trung tâm quản lý thông tin và mạng dùng riêng Phấn đấu đến năm 2009: Kết nối mạng dùng riêng từ các đơn vị trong thị xã Vĩnh Yên đến các điểm tập trung kết nối bằng đường truyền cáp quang. Đến năm 2010: Kết nối mạng dùng riêng từ thị xã Phúc Yên và các huyện đến trung tâm quản lý thông tin thông qua đường truyền cáp quang hoặc thuê đường truyền. Kết nối mạng dùng riêng từ một số phường, xã, thị trấn trọng điểm vào UBND các huyện, thị xã tương ứng. Kết nối mạng dùng riêng từ một số các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, THPT đến mạng của ngành giáo dục, đào tạo. Kết nối mạng dùng riêng tại các bệnh viện cấp tỉnh đến mạng của ngành y tế. c. Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT Đến năm 2010, đổi mới nguồn lực có thể có cho công tác đào tạo thời kỳ mới. d. Quy hoạch phát triển công nghiệp CNTT Đến năm 2010, Công nghiệp CNTT&TT sẽ phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng trong lĩnh vực điện tử phần cứng, phần mềm đạt trình độ nhóm nước phát triển trên thế giới. II. Các nhân tố tác động 1. Cơ hội Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc ứng dụng và phát triển CNTT, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có quan điểm chiến lược về phát triển CNTT nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 như đã được chỉ ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010). Bộ Chính trị đã xác định: “Ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển KT - XH, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước” (Chỉ thị số: 58-CT/TW). Với sự ra đời của Bộ BCVT và các Sở BCVT của các tỉnh, thành phố trong cả nước, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về BCVT&CNTT đã được hình thành và từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện cho CNTT được phát triển và ứng dụng mạnh mẽ hơn nữa, thực sự trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với quyết tâm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Bộ máy tổ chức, lãnh đạo tỉnh đoàn kết, thống nhất, năng động; cơ chế chính sách luôn được đổi mới và hoàn thiện, tạo ra những chuyển biến tích cực trong phát triển KT - XH nói chung, là cơ sở quan trọng cho việc ứng dụng và phát triển CNTT trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Trong những năm qua nền kinh tế Vĩnh Phúc đã có bước phát triển đột biến, các ngành đều đạt tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt là ngành công nghiệp. Việc Chính phủ quyết định Vĩnh Phúc trở thành một trong 8 tỉnh vùng KTTĐ Bắc Bộ (năm 2003) đã tạo ra những điều kiện mới để Vĩnh Phúc phấn đấu trở thành tỉnh phát triển nhanh hơn nữa. Đây cũng là cơ hội lớn để ngành công nghiệp CNTT có thể tạo ra những bước phát triển đột phá, đưa công nghiệp CNTT trở thành một trong những ngành công nghiệp hàng đầu của tỉnh. Vị trí địa lý thuận lợi là ưu thế lớn của Vĩnh Phúc so với nhiều tỉnh khác trong thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp; liền kề thủ đô Hà Nội và sân bay quốc tế Nội Bài, gần các trục và đầu mối giao thông chính của khu vực phía Bắc, Vĩnh Phúc trở thành điểm hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực công nghiệp, đô thị, du lịch dịch vụ. Bên cạnh đó, Vĩnh Phúc đã và đang đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, đô thị, các khu du lịch và đẩy mạnh công tác qui hoạch, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi và tăng tính hấp dẫn các nhà đầu tư. Với sự phát triển không ngừng về kinh tế, thu nhập, mức sống và trình độ dân trí của Vĩnh Phúc cũng ngày càng được nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực nhanh chóng được cải thiện,... tạo ra triển vọng rất lớn cho việc ứng dụng và phát triển CNTT - TT trên địa bàn tỉnh. Việt Nam gia nhập WTO cũng là một cơ hội lớn đối với ngành CNTT của Vĩnh Phúc. Xu hướng toàn cầu hóa đang mở ra những cơ hội lớn: đầu tư nước ngoài vào tỉnh ngày một gia tăng góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp CNTT của tỉnh phát triển, đem lại nguồn thu cho đất nước. Hội nhập kinh tế cũng đem đến cho thị trường CNTT một môi trường thông thoáng thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư tại tỉnh Vĩnh phúc, cùng với đó CNTT Vĩnh Phúc cũng học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm từ các nước có nền CNTT phát triển trên thế giới. 2. Thách thức Năm 2008, mặc dù công nghiệp đã chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của Vĩnh Phúc, nhưng 83% dân số của tỉnh vẫn sống ở nông thôn và tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 55,10% tổng lực lượng lao động. Điểm xuất phát kinh tế thấp, năm 2008 GDP bình quân đầu người giá thực tế là 21,6 triệu đồng 8,18 triệu. Đây là một trong những trở ngại đối với phát triển KT - XH nói chung và công tác ứng dụng, phát triển CNTT - TT nói riêng. Hạ tầng kỹ thuật cho ứng dụng và phát triển CNTT - TT tuy đã được đầu tư, củng cố nhưng vẫn còn nhiều bất cập; đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm nhưng mức đầu tư chưa cao, chưa tạo được nền tảng vững chắc cho các bước tiếp theo; Nguồn nhân lực CNTT còn thiếu, năng lực sử dụng các ứng dụng CNTT của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp còn chưa cao. Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng chưa thực sự sẵn sàng chuyển đổi từ phương thức hoạt động truyền thống sang phương thức hoạt động tiên tiến, phù hợp với xã hội thông tin; Nằm trong khu vực KTTĐ Bắc Bộ, Vĩnh Phúc có điều kiện tranh thủ các lợi thế phát triển chung và sự hợp tác phát triển vùng. Tuy nhiên, cũng đồng thời chịu sự cạnh tranh phát triển của các tỉnh lân cận như: Hà Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên và ngay cả Thủ đô Hà Nội. Các địa phương này đều đang có những cố gắng rất lớn trong việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút chất xám và lực lượng lao động có trình độ cao... Những tác động tiêu cực nảy sinh trong quá trình ứng dụng và phát triển CNTT cũng là những thách thức cần được tính đến để có biện pháp giải quyết kịp thời như: gia tăng khoảng cách số (hoặc còn gọi là khoảng cách kỹ thuật số), ảnh hưởng văn hóa không lành mạnh, đe doạ mất an toàn, an ninh thông tin, phụ thuộc về công nghệ, chảy máu chất xám Để có thể đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển mạnh nền kinh tế của tỉnh, Vĩnh Phúc cần phải nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phấn đấu đạt các mục tiêu ít nhất bằng mức bình quân của cả nước và có như vậy Vĩnh Phúc mới sớm trở thành một trong các tỉnh dẫn đầu cả nước về ứng dụng và phát triển CNTT, nhanh chóng đưa CNTT thực sự trở thành động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào nửa cuối năm 2008 bắt đầu ở Mỹ và lan rộng sang các nước trên thế giới đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế, trong đó ảnh hưởng không nhỏ đến ngành CNTT trên thế giới và ảnh hưởng mạnh đến thị trường CNTT ở Vĩnh Phúc, dẫn đến nguồn nhân lực CNTT bị cắt giảm, năng suất lao động thấp và doanh thu về sản phẩm CNTT bị sụt giảm. Năm 2009 được đánh giá còn nhiều khó khăn đối với ngành CNTT đặt ra những thách thức không nhỏ cho các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý và các doanh nghiệp làm sao để phục hồi suy thoái và đảm bảo phát triển CNTT một cách bền vững. III. Các giải pháp đẩy mạnh thực hiện quy hoạch cho các năm 2009, 2010 và định hướng đến năm 2020. Quy hoạch CNTT Vĩnh Phúc giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 đã đi được một chặng đường, từ năm 2006 đến năm 2008 và đã đạt được những kết quả tốt cùng với những mặt hạn chế còn tồn tại. Để hoàn thành tất cả các mục tiêu mà quy hoạch đề ra đến năm 2010, chúng ta phải có những giải pháp đẩy mạnh thực hiện quy hoạch từ nay cho đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 1. Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng CNTT Trước hết là giải pháp ứng dụng CNTT trong quản lý điều hành - tiến tới thực hiện Chính Phủ Điện Tử Ta thấy thực tế hiện nay quy hoạch CNTT tại Vĩnh Phúc có nhiều khó khăn như vấn đề mạng truyền số liệu chuyên dùng cho các cơ quan Đảng và Nhà nước triển khai chậm và không đồng bộ gây ra lãng phí, đồng thời hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ứng dụng CNTT đang đòi hỏi phải nhanh chóng bổ sung, như sớm ban hành quy chế đầu tư cho ứng dụng CNTT, định mức kinh tế - kỹ thuật cho xây dựng phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu... Để vượt qua những khó khăn trên, tiến đến thực hiện mục tiêu quy hoạch đã đặt ra về ứng dụng CNTT trong các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh, các giải pháp cơ bản cho các năm tiếp theo bao gồm: Hoàn chỉnh cơ chế chính sách về ứng dụng CNTT, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực theo nguyên tắc thực dụng như đào tạo kiểu “cầm tay chỉ việc”, có khảo sát nhu cầu của các doanh nghiệp, tập trung chỉ đạo quyết liệt để phát triển công nghiệp CNTT, quy hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật CNTT đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, xây dựng mục tiêu phấn đấu cụ thể cho từng giai đoạn, tới năm 2020, trong đó phải xác định rõ mô hình, những chủ trương xã hội hóa, phải lấy hoạt động ứng dụng CNTT của Bộ Thông tin và Truyền thông làm hình mẫu về ứng dụng CNTT trong các cơ quan quản lý Nhà nước, chuẩn bị cán bộ để tổ chức bộ máy chỉ đạo, điều hành, thực hiện và tổ chức hành động; xây dựng các chương trình hành động cụ thể và thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm. Dưới góc độ chiến lược, chúng ta thấy việc ứng dụng CNTT trong hiện đại hoá hoạt động của bộ máy nhà nước ở Vĩnh Phúc đồng nghĩa với việc xây dựng CPĐT. Lộ trình và kế hoạch thực hiện CPĐT là phân giai đoạn và lập kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn. Từ thực tiễn xây dựng CPĐT ở nhiều nước trên thế giới, có thể chia quá trình xây dựng CPĐT thành 3 giai đoạn hay 3 pha phát triển: Pha 1 - Tạo lập môi trường thông tin: Tạo ra môi trường thông tin quản lý nhà nước (QLNN) thống nhất trong toàn bộ hệ thống. Tất cả các cán bộ trong bộ máy NN đều sử dụng chung môi trường thông tin này. Đến khi môi trường thông tin này cung cấp được 70% trở lên lượng thông tin cần thiết phục vụ công việc QLNN hàng ngày ở mỗi vị trí công tác trong bộ máy NN thì pha 1 đạt đến mức phát triển cao, bắt đầu trạng thái CPĐT dưới góc độ thông tin. Pha 2 - Làm việc tương tác: Mọi người trong bộ máy NN sử dụng môi trường thông tin trên để phối hợp làm việc cùng với nhau, tương tác với nhau. Lúc đầu quá trình này diễn ra trong nội bộ đơn vị, sau mở rộng dần giữa các đơn vị, sở, ngành với nhau, và cuối cùng, trong toàn bộ bộ máy NN từ trung ương đến địa phương. Khi nào 70% trở lên kết quả hoạt động của bộ máy NN được tạo ra nhờ sự phối hợp tương tác giữa các cơ quan hữu quan thì hệ thống bắt đầu hoạt động trong trạng thái CPĐT dưới góc độ kết nối. Pha 3 - Hoàn thiện môi trường pháp lý: Mọi hoạt động của bộ máy NN đều dựa trên các căn cứ pháp lý. Hiện tại, khung pháp lý QLNN ở nước ta đang dựa chủ yếu trên các văn bản dưới luật (nghị định, thông tư, quyết định...), vì vậy quá trình hoàn thiện môi trường pháp lý QLNN ở nước ta không chỉ là quá trình luật hóa khung pháp lý mà còn bổ sung, hoàn thiện những bộ luật mới do chính quá trình ứng dụng CNTT tạo ra như luật về chữ ký điện tử, con dấu điện tử, giao dịch điện tử, chứng thực điện tử... Pha 3 được xem là đạt đến mức phát triển cao khi khung pháp lý QLNN bao gồm 70% trở lên là các bộ luật được số hóa, lúc đó trạng thái CPĐT dưới góc độ pháp lý mới bắt đầu hiện diện Giải pháp ứng dụng CNTT trong doanh nghệp -Thương mại điện tử Chúng ta nhận thấy rằng những vướng mắc trong thanh toán trực tuyến đang là rào cản lớn đối với sự phát triển TMĐT ở Vĩnh Phúc .Các hoạt động TMĐT trong năm qua đã có nhiều khởi sắc, đặc biệt là sự phát triển của các loại hình dịch vụ trực tuyến như mua bán qua mạng, game online, dịch vụ giải trí trực tuyến Tuy nhiên, phần lớn các dịch vụ này vẫn chủ yếu hướng đến người tiêu dùng đơn lẻ (B2C, C2C). Trong khi đó, cơ cấu phổ biến trong thương mại điện tử trên thế giới hiện nay là B2B (chiếm trên 90%) và chính loại hình B2B mới mang lại những giá trị giao dịch lớn (ước tính chiếm 85% giá trị giao dịch TMĐT). Thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn hiểu đơn thuần TMĐT là bán hàng/dịch vụ trên mạng. Với những doanh nghiệp lớn, quy trình sản xuất phức tạp và mạng lưới đối tác rộng thì B2B là giải pháp lý tưởng để giúp cho quá trình sản xuất vận hành một cách nhịp nhàng từ khâu nguyên liệu đầu vào đến đầu ra sản phẩm. Vì vậy, trong thời gian tới để đẩy mạnh hơn nữa các giao dịch B2B, chúng ta cần thực hiện chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). Bên cạnh các vấn đề như an toàn thông tin, đảm bảo bí mật riêng tư trong giao dịch điện tử thì chuẩn EDI là nền tảng cho TMĐT phát triển. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được quan tâm ở VP. Đối với loại hình B2C và C2C, các giao dịch trực tuyến còn vướng mắc ở khâu thanh toán trực tuyến. Cho đến nay, thanh toán điện tử vẫn chưa thực hiện được do chưa thiết lập được cổng thanh toán trực tuyến (payment gateway) kết nối các ngân hàng với nhau và với các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế. Do sự phát triển quá nhanh của TMĐT nên không tránh khỏi những quan điểm trái ngược giữa cơ quan quản lý với nhau, giữa cơ quan quản lý với cộng đồng người sử dụng Internet và làm TMĐT. Vì vây giải pháp là luật pháp cũng nên thay đổi theo để điều chỉnh các hoạt động này. Giải pháp ứng dụng CNTT trong GDDT Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề cốt tử để nâng cao chất lượng dạy học. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách giáo dục ở Vĩnh Phúc hiện nay. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong dạy học trong thời gian tới có hiệu quả, không có gì khác hơn, là Vĩnh Phúc tăng dần mức đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện và hiện đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học; đồng thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông để mọi trường học đều có thể kết nối vào mạng Internet. Bên cạnh đó, chúng ta có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn bản mang tính pháp quy để các trường có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập. Giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho phát triển CNTT. Chúng ta thấy trong thời gian qua, ứng dụng CNTT gặp khó khăn do cơ chế tài chính không còn phù hợp. Mặc dù vậy, đầu tư cho phát triển CNTT vẫn cần thêm những biện pháp khác. Nếu không, thị trường ứng dụng CNTT có nguy cơ trở thành một sân chơi mà các công ty quốc tế có ưu thế tuyệt đối. Kinh nghiệm cho thấy các quốc gia thành công đều phải sử dụng thị trường nội địa tạo lực vươn lên. Để CNTT thực sự trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn tại Vĩnh Phúc, cần trực tiếp đầu tư vào những khâu dài hơi như R&D, phát triển thị trường, đào tạo... Đây là những lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn, nhiều rủi ro, phối hợp nhiều nguồn lực mà hiện nay các doanh nghiệp trong nước chưa đủ sức. Vì thế chúng ta phải có những giải pháp huy động vốn cho phát triển CNTT. Huy động mọi nguồn vốn cho phát triển và ứng dụng CNTT. Trước hết cần dành kinh phí đáng kể cho việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, quy phạm, chuẩn hoá thông tin, chuẩn hoá các chỉ số báo cáo, thống kê, các chế độ đảm bảo dữ liệu đầy đủ và chính xác phục vụ các hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT. Chúng ta cần huy động các nguồn vốn: xây dựng cơ bản, sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn FDI, hợp tác quốc tế và huy động nguồn vốn của các doanh nghiệp, vốn trong nhân dân thông qua xã hội hóa, để thực hiện các dự án ứng dụng và phát triển CNTT. 2.1. Huy động vốn trong nước Vốn từ ngân sách Nhà nước Vốn từ ngân sách (ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương) chủ yếu dành cho đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, triển khai các ứng dụng và đào tạo nguồn nhân lực CNTT tại các các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh và một số ngành kinh tế, xã hội trọng điểm; Đề nghị Nhà nước ưu tiên vốn ODA cho các dự án phát triển và ứng dụng CNTT tại khu vực trọng điểm; vùng nông thôn và các cơ sở giáo dục và đào tạo, cơ sở y tế... Huy động vốn trong các doanh nghiệp Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tăng cường đầu tư ứng dụng và phát triển CNTT tại đơn vị mình; tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất... để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động vốn trong dân Huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của nhân dân; khuyến khích mọi cá nhân trong và ngoài nước đầu tư dưới hình thức liên doanh, cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp để phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh. Phát hành trái phiếu trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi để huy động vốn cho phát triển CNTT. Huy động vốn ngoài tỉnh Tận dụng tốt lợi thế của tỉnh để có cơ chế chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư của Hà Nội và các tỉnh thành khác cho phát triển CNTT. 2.2. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Xây dựng cơ chế thông thoáng, cải tiến các thủ tục hành chính đảm bảo thuận tiện, nhanh chóng trong giải quyết các thủ tục cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh. Thường xuyên tổ chức các buổi gặp mặt với các doanh nghiệp; tổ chức hội thảo, giới thiệu và mời chào các doanh nghiệp đầu tư vào tỉnh Vĩnh Phúc, đặc biệt là đầu tư vào phát triển công nghiệp CNTT. Xây dựng quy hoạch chi tiết, xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn đầu tư. Giải pháp đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực CNTT Chúng ta thấy CNTT của Vĩnh Phúc vừa qua đã có những bước phát triển vượt bậc và toàn diện. Nhưng mà nếu nhìn ra các nước phát triển thì thấy còn kém hơn rất nhiều. Muốn CNTT ở Vĩnh Phúc phát triển nhanh hơn thì phải tập trung cho phát triển nhân lực. Muốn phát triển được nguồn nhân lực thật tốt thì chúng ta phải tận dụng, phát huy được lợi thế sức trẻ của dân số để đẩy tốc độ phát triển nhanh hơn, phù hợp với tiềm năng cũng như phù hợp với yêu cầu của CNH - HĐH. Theo khảo sát của Ngân hàng thế giới tại VN, 80 - 90% sinh viên mới ra trường phải đào tạo lại khi làm việc tại các doanh nghiệp. Yếu về chất, thiếu về lượng... tình trạng khủng hoảng thừa - thiếu, thiếu - thừa không chỉ khiến các nhà đầu tư băn khoăn khi đầu tư vào Vĩnh Phúc trong lĩnh vực này mà còn làm đau đầu các doanh nghiệp CNTT ... Nguồn nhân lực CNTT chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng so với nhu cầu sử dụng là một thực tế khó có thể phủ nhận. Các doanh nghiệp đưa ra nhiều chế độ ưu đãi để hút nhân tài của nhau là điều đã và vẫn đang tiếp tục xảy ra. Kết quả là thiếu vẫn hoàn thiếu mà lại còn gây xáo trộn tình hình nhân sự tại nhiều doanh nghiệp. Nhìn nhận vấn đề này, giải pháp ở đây là doanh nghiệp nên bắt tay với nhà trường trong đào tạo CNTT. Bởi vì cầu tìm đến cung, cung đáp ứng cầu đã trở thành quy luật. Đối với vấn đề nhân lực CNTT cũng vậy, việc đào tạo theo nhu cầu xã hội, đào tạo theo đơn đặt hang, là phương pháp lâu dài để giải quyết cơn khát nhân lực CNTT. "Mọi đối tượng phải ngồi lại với nhau và nhìn nhận ở nhiều khía cạnh. Thứ nhất là sinh viên - vẫn được coi là đối tượng trọng tâm của vấn đề đào tạo; thứ hai là nhà trường - môi trường đào tạo, cái nơi đào tạo cái nguồn nhân lực và thứ 3 là các công ty trên thị trường mà sau này sẽ tiếp nhận người sinh viên - cái sản phẩm của các trường đào tạo cho doanh nghiệp và thứ 4 là nhà nước là nơi đưa ra chính sách, các biện pháp hỗ trợ 3 đối tượng trên". Doanh nghiệp và nhà trường cùng bắt tay đào tạo, không chỉ tạo điều kiện cho nhà trường có cơ sở vật chất cần thiết cho quá trình đào tạo, mà còn đáp ứng nhu cầu tại những đơn vị sử dụng một cách hiệu quả nhất. Không chỉ được thụ hưởng phương pháp giảng dạy mới, mà qua tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp và được thực tập trong môi trường thực tế sẽ giúp hoàn thiện kỹ năng vốn được coi là khâu yếu của các sinh viên CNTT. Cách làm này sẽ giúp xoá đi khoảng cách giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng thực tế giúp giải quyết vấn đề nhân lực CNTT cho thị trường CNTT ở Vĩnh Phúc. Sự hợp tác này, chắc chắn sẽ mang lại những kết quả bất ngờ trong tương lai gần. Như vậy chúng ta thấy doanh nghiệp và nhà trường hợp tác chặt chẽ được coi là một giải pháp hữu hiệu để đào tạo nhân lực CNTT đáp ứng được nhu cầu thực tế đặt ra. Và để đáp ứng nhu cầu của những nhà tuyển dụng khó tính nhất, bản thân mỗi sinh viên bên cạnh việc trang bị vững kỹ năng nghiệp vụ thì việc sử dụng thành thạo ngoại ngữ cũng là một yêu cầu bắt buộc khi thị trường CNTT không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ VN. 4. Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp và thị trường CNTT Về công nghiệp phần cứng, chúng ta nên khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp phần cứng để ngành công nghiệp công nghệ cao này có khả năng sản xuất các sản phẩm điện tử viễn thông, CNTT có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Mặt khác Vĩnh Phúc nên thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào phát triển sản xuất các sản phẩm điện tử phụ trợ cho các sản phẩm cơ khí vốn là thế mạnh của ngành công nghiệp trên địa bàn Vĩnh Phúc. Ngoài ra, các doanh nghiệp hướng đến phát triển sản xuất và lắp ráp các sản phẩm cơ điện tử. So với công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm là ngành tạo ra tỷ suất lợi nhuận lớn hơn. Hàm lượng lao động đóng góp của nhân công trong mỗi sản phẩm phần cứng được gia công lắp ráp và hoàn thiện trên thị trường hiện nay là không lớn so với giá trị của sản phẩm. Trong khi đó, trị giá lợi nhuận thu được từ các sản phẩm phần mềm lớn hơn hẳn. Tuy nhiên, công nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay chỉ đóng góp một phần nhỏ trong toàn ngành công nghiệp công nghệ thông tin và là con số quá ít ỏi so với công nghiệp phần cứng. Biến động từ các cuộc khủng hoảng tài chính, khủng hoảng sinh thái tác động mạnh mẽ tới sự chuyển dịch luồng vốn đầu tư vào và ra. Vì thế, xu hướng đầu tư trong ngành công nghiệp phần mềm của Vĩnh Phúc giai đoạn này cần được xác định theo các hướng như sau: Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, chủ động đón nhận làn sóng chuyển dịch đầu tư về CNTT-TT có chọn lọc và chất lượng; Tập trung phát triển công nghiệp nội dung và dịch vụ outsourcing; Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN CNTT để có thể có các giải pháp đối phó với các cuộc khủng hoảng toàn cầu về tài chính và môi trường. Như vậy chúng ta thấy để phát triển công nghiệp và thị trường CNTT trong các năm tiếp theo, chúng ta phải thực hiện các giải pháp trên một cách mạnh mẽ, bên cạnh đó sự hỗ trợ tối đa của Chính phủ và sự nỗ lực cộng thêm nhận thức đúng đắn của DN là 2 nhân tố quan trọng cho ngành CNCNTT phát triển. Sự hỗ trợ của Chính phủ có thể dưới các hình thức: Hoàn thiện môi trường pháp lý, minh bạch và ổn định; Đầu tư nghiên cứu phát triển; Hỗ trợ DN xây dựng và quảng bá thương hiệu; Hỗ trợ DN áp dụng tiêu chuẩn quản lý quy trình sản xuất tiên tiến như: ISO, CMM, CMMi...; Hỗ trợ DN đào tạo các loại hình nhân lực thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn chất lượng cao; Xây dựng các vườn ươm DN.... Còn đối với các DN, quyết sách đúng đắn của họ mới là nhân tố quyết định. Sự nỗ lực của DN được thể hiện trong các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, công nghệ, thị trường, nhân lực,... Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của Chính phủ là phải đúng lúc và có thời hạn. Thứ nhất, sự hỗ trợ của Chính phủ đúng lúc sẽ là cú hích, là đòn bẩy để ngành CNpCNTT có bước tiến vượt bậc. Thứ hai, sự hỗ trợ của Chính phủ không thể thường xuyên và liên tục vì nguồn lực là hạn chế. Chính vì thế mới phải cần thời hạn. Đồng thời xây dựng và ban hành chính sách đầu tư, hỗ trợ cho ứng dụng và phát triển CNTT; các chính sách, quy định để tạo hành lang pháp lý, thu hút các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế cho ứng dụng, phát triển công nghiệp và thị trường CNTT, nhằm làm cho Vĩnh Phúc trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn và tin cậy của các đối tác trong và ngoài nước, đặc biệt là các công ty và tập đoàn CNTT lớn. Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư nước ngoài, kể cả hình thức 100% vốn nước ngoài tham gia phát triển công nghiệp CNTT. Xây dựng và ban hành chính sách ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm CNTT xuất khẩu. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Quy hoạch CNTT giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 có vai trò cực kì quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và đối với ngành CNTT nói riêng. Quy hoạch được thực thi đã đem lại cho CNTT của Vĩnh Phúc một diện mạo mới tươi đẹp. Bên cạnh đó thực hiện quy hoạch còn bộc lộ những hạn chế làm chậm quá trình ứng dụng và phát triển CNTT của Vĩnh Phúc. Vì vậy việc đánh giá lại quy hoạch trong thời gian qua và đưa ra các giải pháp để thực hiện quy hoạch CNTT trong thời gian tới là rất cần thiết. Nó cũng giúp cho các nhà quản lý nhìn lại những gì đã thực hiện để có những nhận định hợp lý và đưa ra những điều chỉnh sáng suốt. Chuyên đề này đã làm sáng tỏ thực trạng quy hoạch trong thời gian vừa qua, đưa ra những đánh giá quan trọng có ý nghĩa trong việc bổ sung sủa chữa những sai sót trong thực hiện quy hoạch thời gian vừa qua, và đề ra những giải pháp mang tính thực tiễn, và có hiệu quả cao. Tuy vậy quá trình thu thập thông tin và tổng hợp báo cáo chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong thầy cô và các bạn đọc đóng góp ý kiến để chuyên đề này có tính khoa học và thực tiễn cao hơn nữa, góp phần vào công cuộc phát triển quy hoạch CNTT ở Vĩnh Phúc ngày một tốt đẹp. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Quy hoạch PTKTXH – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn (Viện CLPT) - Bài giảng Quy Hoạch Phát Triển (TS. Nguyễn Tiến Dũng) Web site của Bộ Xây dựng ( Web site của Bộ Kế hoạch và đầu tư Web site của Bộ Kế hoạch đầu tư tỉnh Quảng Ninh. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam ( MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1930.doc
Tài liệu liên quan