Đề tài Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,thực trạng và giải pháp trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài( Foreign Direct Investment-FDI )"

Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Theo báo cáo của Diễn đàn thương mại và Phát triển Liên hiệp quốc (UNCTAD) về chính sách đầu tư, Việt Nam đang trở thành “vệ tinh” trên bản đồ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Nguyễn Bích Đạt, Việt Nam được đánh giá là một trong sáu nền kinh tế hấp dẫn nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Riêng năm 2007, nguồn vốn FDI đã đạt mức kỷ lục so với 20 năm qua. Đầu tư nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng ở Việt Nam. Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới.

doc25 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 833 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,thực trạng và giải pháp trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài( Foreign Direct Investment-FDI )", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" Như vậy đầu tư nước ngoài chính là một hình thức xuất khẩu tư bản ra nước ngoài của một cá nhân hay tổ chức, hay của một quốc gia này vào một quốc gia khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận ở nước nhận đầu tư. Nhờ vào các điều kiện lợi thế sẵn có của quốc gia nhận đầu tư như nguồn nhân công nhiều và giá rẻ, khai thác nguồn tài nguyên, giảm chi phí sản xuất và lưu thông,để thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên đối với một quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, nền khoa học kĩ thuật còn lạc hậu thì việc phát triển kinh tế trên cơ sở những phát minh, những thành tựu khoa học trong nước là cực kì khó khăn. Để phát triển nền kinh tế thì không còn con đường nào hơn là phải mở cửa thu hút vốn đầu tư từ các nước tiên tiến. Đây là con đường nhanh nhất để đưa nền kinh tế đuổi kịp các nền kinh tế phát tiển khác trên thế giới. Về mặt lý luận thì việc tận dụng lợi thế của nước đi sau, thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các nước đi trước sẽ rút ngắn thời gian phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế Việt Nam đang trong tình trạng kém phát triển. Để đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, kĩ thuật công nghệ, vai trò của FDI trong sự phát triển của nền kinh tế có vai trò hết sức quan trọng. Nó tạo nguồn vốn bổ sung cho nước chủ nhà.Có vai trò trong chuyển giao công nghệ, hiện đại hoá và mở rộng hợp tác, phân công lao động quốc tế của Việt Nam. Thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Một số tác động khác như: khai thông thị trường sản phẩm, gia tăng kim ngạch xuất khẩu.Trong phát triển kinh tế, khai thác và sử dụng nguồn nhân lực, tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Cải thiện cán cân thanh toán trong thời gian qua. Đóng góp một nguồn thuế không nhỏ vào ngân sách quốc gia Cơ sở thực tiễn: Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có cái nhìn tích cực hơn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều đó dược thể hiện rõ trong những chính sách của Đảng và Nhà Nước ta từ Đại Hội Đảng lần thứ VI năm 1986 cho tới nay. Từ đó tới nay Nhà Nước ta đã ban hành Luật Đầu Tư và không ngừng hoàn thiện nó để cho phù hợp hơn với điều kiện nước ta cũng như luật pháp quốc tế nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Sau 21 năm thực hiện luật đầu tư nguồn vốn đầu tư, số dự án đầu tư vào nước ta không ngừng tăng. Đến cuối năm 2007 đã có hơn 9500 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phếp với tổng số vốn đăng ký là 98 tỷ USD. Giai đoạn năm 1988-1990 có 214 dự án với tổng số vốn đã đăng ký là 1,6 tỷ USD. Song song với số dự án tăng mạnh là tốc đọ tăng trưởng GDP hằng năm cũng tăng lên. Kể từ khi cải cách mở cửa từ năm 1986 tới nay Việt Nam không những đã vượt qua khủng hoảng kinh tế trong những năm 80 mà nền kinh tế tăng trưởng khá cao và khá ổn định trong những năm sau đó. Tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt 8,2%/năm giai đoạn 1991-1995 và đạt mức kỉ lục là 9,5% năm 1995. Giai đoạn 1996-2000 GDP bình quân đạt 6,9%/năm. Từ năm 2000 kinh tế Việt Nam có xu hướng tăng trưởng liên tục với nhịp độ năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000 GDP tăng 6,94%, năm 2005 là 8,4%, năm 2007 tăng trưởng GDP đạt 8,5%. Cùng với tăng trưởng kinh tế thì cơ cấu nền kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Sau 21 năm cải cách mở cửa, kinh tế cố vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có bước phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong năm thành phần kinh tế cơ bản của nước ta. Đây chính là cơ sở thực tiễn để Việt Nam thực hiện cải cách, mở cửa, tiếp tục thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. II - Thực trạng của khu vực kinh tế có vốn dầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Thực trạng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay: A - Các hình thức đâu tư: Thực hiện mở của thị trường, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng phát triển. Các hình thức đầu tư ngày càng đa dạng và hoàn thiện hơn. Tùy theo cách phân chia ta có thể chia các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay : Phân theo bản chất đầu tư Đầu tư phương tiện hoạt động Mua lại và sáp nhập Phân theo tính chất dòng vốn Vốn chứng khoán Vốn tái đầu tư Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ Phân theo động cơ của nhà đầu tư Vốn tìm kiếm tài nguyên Vốn tìm kiếm hiệu quả Vốn tìm kiếm thị trường B - Thu hút và sử dụng vốn FDI Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và trong bối cảnh quốc tế phức tạp đòi hỏi Nhà Nước ta phải có chiến lược đúng đắn trong thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đẻ thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì lẽ đó, kể từ Đại Hội VI năm 1986 đến nay kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được chính phủ quan tâm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trở thành một trong năm thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế nước ta. Đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tình hình đầu tư nước ngoài đã ngày một cải thiện. Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông). Trong mười năm 1991-2000 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triến khá nhanh. Giá trị sản lượng xuất khẩu bình quân tăng mỗi năm 22% / năm. Từ năm 1996-2000 vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện được khoảng 10 tỷ USD, chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn nghành công nghiệp, trên 22% kim nghạch xuất khẩu và đóng góp 10 % GDP chung cho cả nước. những năm gần đây FDI vào Việt Nam liên tục tăng. Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ [2], vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD2 năm ) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam. Năm 2002 nước ta thu hút 2,8 tỷ USD, năm 2004 là 4,22 tỷ USD. Năm 2005 là 5,8 tỷ USD. Đặc biệt năm 2007 nước ta thu hút dược con số kỷ lục là 20,3 tỷ USD. Hình thức đầu tư chủ yếu là doanh nghiệp liên doanh (chiếm 70 % số vốn đầu tư ). Doanh nghiệp có 100 % vốn đầu tư nước ngoài đang tăng lên ( chiếm khoảng 20 % ). Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu toàn xã hội tăng lên. Năm 2004 là 14,2 %. Năm 2005 là 14,9 %. Năm 2006 là 15,9 %. Năm 2007 là 16,0 %.( theo Thời Báo Kinh Tế Việt Nam 2007-2008 và webside của Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư). Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Theo báo cáo của Diễn đàn thương mại và Phát triển Liên hiệp quốc (UNCTAD) về chính sách đầu tư, Việt Nam đang trở thành “vệ tinh” trên bản đồ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Nguyễn Bích Đạt, Việt Nam được đánh giá là một trong sáu nền kinh tế hấp dẫn nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Riêng năm 2007, nguồn vốn FDI đã đạt mức kỷ lục so với 20 năm qua. Đầu tư nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng ở Việt Nam.  Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động  có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Bên cạnh vốn đăng ký tăng, vốn thực hiện cũng tiếp tục tăng, đạt 3,3 tỷ USD, tăng 15,7% so với năm 2004. Doanh thu của khu vực có vốn FDI đạt 21 tỷ USD, giá trị xuất khẩu đạt 11130 triệu USD (chưa kể dầu thô), chiếm 34,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Giá trị nhập khẩu là 11082 triệu USD. Nộp ngân sách nhà nước 1,129 tỷ USD tăng 41% so với năm 2004, tạo việc làm cho hơn 800 nghìn lao động. Với sự gia tăng vốn, doanh thu, xuất khẩu, nộp ngân sách và tạo việc làm, FDI với cơ cấu đầu tư của nó đã có tác động tích cực tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, làm tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005 Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 I Thu hút vốn Triệu USD 3224 2757 3064 4019 5835 1 Số dự án cấp mới Dự án 550 802 752 679 850 2 Vốn đăng ký mới Triệu USD 2592 1621 1914 2084 3900 3 Số dự án tăng vốn Dự án 241 366 393 458 458 4 Vốn đăng ký tăng thêm Triệu USD 632 1136 1150 1935 1935 II Thực hiện vốn 1 Vốn FDI thực hiện Triệu USD 2450 2591 2650 2852,4 3300 2 Doanh thu của các doanh nghiệp FDI Triệu USD 9800 12000 13000 18600 21000 3 Xuất khẩu từ FDI Triệu USD 3673 4542 5225 8600 11130 4 Nhập khẩu từ FDI Triệu USD 4984 6584 8713 8974,4 11082 5 Tạo việc làm 1000 người 450 590 665 739 800 6 Nộp ngân sách Nhà nước Triệu USD 373 459 470 800 1290 ( theo nguồn từ Bộ Công Thương) C - Tình hình tăng vốn đầu tư: Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp  đôi  so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD).  Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ  năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm  2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là  80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.   Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm  2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là  71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ;  24% và 20%. Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. D – Quy mô dự án: Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).  D – Đối tác đầu tư: Do chính sách thu hút đầu của Việt Nam ngày càng thông thoáng hơn, Bộ Luật Đầu Tư của nước ta ngày càng hoàn thiện hơn nên các đối tác đầu tư trực tiếp vào Việt Nam ngày càng đa dạng hơn. Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký. Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam . Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD. Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng thu hút ĐTNN.  E – Cơ cấu vốn đầu tư: Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tượng sử dụng, nhóm nghành kinh tế có ự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các nghành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Đây là một đấu hiệu khả quan cho nền kinh tế Việt Nam, nó hoàn toàn phù hợp với giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước hiện nay. Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử...  Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và  Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.  Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN,  phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%).Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN,  phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) . Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. 2. Những tồn tại và hạn chế: Những thành tích đạt được trong hoạt động thu hút và thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài cao là đáng ghi nhận trong khi cạnh tranh gay gắt giữa các nước về thu hút vốn FDI. Tuy nhiên, vốn thực hiện còn tăng thấp hơn nhiều so với vốn đăng ký làm cho thành tích của khu vực đầu tư nước ngoài đạt kết quả chưa cao so với tiềm năng. Trong năm qua, hoạt động đầu tư nước ngoài còn có một số hạn chế như: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế: thủ tục hành chính rườm rà, tình trạng quan liêu tham nhũng. Môi trường cạnh tranh cưa lành mạnh: tình trạng vi phạm bản quyền tràn lan, bất bình đẳng giửa các công ty trong nước và công ty của nước ngoài, công ty nhà nước và công ty có vốn nước ngoài. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, thu hút đầu tư tuy tăng mạnh nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, tình trạng giải ngân vốn chậm. Thị trường còn nhiều biến động, tình trạng lạm phát ngày càng gia tăng, giá cả leo thang. Trình độ quản lý thị trường, các chính sách vĩ mô về kinh tế còn nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực tuy nhiều nhưng chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Cơ sở hạ tầng kỷ thuật còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Trước hết là những bất cập trong cơ cấu đầu tư theo đối tác, ngành và theo vùng. Mặc dù tích cực xúc tiến đầu tư, nhưng dòng vốn FDI vẫn chủ yếu đến từ các nước châu Á. Tính đến nay, năm đối tác đứng đầu về đầu tư vào Việt Nam đều thuộc châu Á, chiếm 63,2% về số dự án, 61,5% về tổng vốn đăng ký và 67,5% tổng vốn thực hiện. Cơ cấu đầu tư theo ngành vẫn chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng (chiếm 67,5% về số dự án và 60,6% tổng vốn đầu tư đăng ký), không phù hợp với xu hướng đầu tư trên thế giới là hướng vào ngành dịch vụ. Bên cạnh đó, số vốn FDI thu hút vào nước ta tăng mạnh nhưng không đồng đều giữa các vùng và địa phương. Lượng vốn thu hút chỉ tập trung vào một số địa phương như Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh. Và đây cũng chính là các địa phương có ngành công nghiệp phát triển, chiếm tỷ trọng cao, đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp cao (hơn 14%). Rõ ràng, sự kết hợp giữa cơ cấu đầu tư FDI theo ngành và theo vùng đã góp phần làm cho các địa phương này có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp cao. Những địa phương này một phần có lợi thế về cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ cũng như lao động. Hơn nữa, chính tính minh bạch và trách nhiệm, tính năng động và tiên phong của lãnh đạo cấp tỉnh làm cho các tỉnh có điều kiện cơ sở hạ tầng, khoảng cách với thị trường như nhau dẫn tới lượng vốn đầu tư vào tỉnh đó cũng hoàn toàn khác nhau. Vậy, không chỉ chính sách đầu tư vào các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn là chưa phát huy tác dụng mà cả chính quyền địa phương cũng có tác động đến quá trình thu hút đầu tư nước ngoài. Công tác quản lý hành chính công còn nhiều bất cập. Trong kỳ họp Quốc hội cuối năm, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nêu ra ba vấn nạn lớn gồm: thủ tục hành chính rườm rà, nạn quan liêu tham nhũng và lãng phí tràn lan. Công tác xúc tiến đầu tư còn chồng chéo, chưa có tính hệ thống, mang tính cục bộ và không xuyên suốt. Các địa phương tổ chức hội nghị, hội thảo có hiện tượng chồng chéo. Các tỉnh đua nhau đưa ra các ưu đãi nhằm thu hút đầu tư như miễn giảm thuế, tiền thuê đất, thời hạn hoạt động của dự án... Chính tình trạng cạnh tranh trong thu hút đầu tư khiến các nhà đầu tư bối rối khi lựa chọn địa điểm đầu tư cũng khiến cho hiệu quả xúc tiến đầu tư không cao. Bên cạnh đó, các địa phương chỉ chú ý thu hút các nhà đầu tư mới mà chưa quan tâm đến giai đoạn thực hiện và triển khai dự án. Điều đó giải thích phần nào cho vốn đăng ký tăng thêm chỉ bằng mức của năm 2004. Ngoài ra, lĩnh vực khuyến khích đầu tư lại không đưa ra các ưu đãi kèm theo như thành phố Hồ Chí Minh, khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhưng chưa có ưu đãi nào cho nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Hơn nữa, các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, chưa cung cấp đủ nguyên nhiên liệu  (cả về số lượng và chất lượng ), chưa đáp ứng về giá cả và thời hạn giao hàng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong thời gian, số lượng các doanh nghiệp nội địa có tăng nhưng mới dừng lại ở việc sản xuất các chi tiết, linh kiện kích cỡ cồng kềnh và công nghệ đơn giản. Điều này gây cản trở việc mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp FDI cũng như thu hút vốn FDI mới. Hơn nữa, tác động tràn của hoạt động đầu tư nước ngoài chưa được phát huy. 3.nguyên nhân: Những nguyên nhân của những thành tựu Sự tăng trưởng của vốn FDI vào Việt Nam từ nửa cuối năm 2004 đến nay là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta. Sự gia tăng về lượng vốn và thay đổi về chất trong thu hút vốn FDI xuất phát từ một số nguyên nhân sau: Thứ nhất là sự tăng lên của vốn FDI vào nước ta nằm trong xu hướng tăng chung của toàn thế giới. Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, và mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài như tiếp tục quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Thứ ba, kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng, đạt tốc độ tăng trưởng 8,4%, cao nhất kể từ năm 1997 cho đến nay. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định là biểu hiện của môi trường đầu tư thuận lợi, ổn định, việc sử dụng vốn đầu tư đạt hiệu quả cao. Đó chính là nguyên nhân kéo dòng vốn FDI chảy mạnh vào Việt Nam, nơi có tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao. Đây cũng chính là động cơ của tất cả các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ tư, Môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải thiện. Điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài là sự ổn định về chính trị xã hội, sự đảm bảo về an ninh, sức lao động chất lượng cao với chi phí thấp. Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp đã tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ, rõ ràng cho nhà đầu tư nước ngoài Thứ năm, hoạt động xúc tiến đầu tư đã được tích cực triển khai ở nhiều ngành, nhiều cấp, trong nước và nước ngoài như việc tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác, đầu tư và Triển lãm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cung cấp thông tin về môi trường đầu tư Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài; cuộc đối thoại giữa cơ quan Chính phủ với các nhà đầu tư nước ngoài tổ chức vào tháng 4 năm 2005 được tổ chức nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những khó khăn mà nhà đầu tư nước ngoài gặp phải. Các địa phương cũng chủ động tổ chức các cuộc vận động và hội nghị xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước và đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Nguyên nhân của những hạn chế: - Do hệ thống hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế: Thủ tục hành chính, luật đầu tư, luật về quyền phát minh sáng chế, chính sách khuyến khích đầu tư,    Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt. - Do quá trình đào tạo nhân lực không sát với nhu cầu của thị trường, còn mang nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn, coi trọng số lượng hơn chất lượngChất lượng cán bộ quản lý nền kinh tế còn hạn chế. - Nguồn ngân sách còn hạn hẹp, chưa đầu tư đúng mức cho cơ sở hạ tầng. Phân bổ nguồn vốn chưa hợp lý nên hiệu quả sử ụng vốn chưa cao. Một số bất ổn về chính trị - xã hội, tình trạng chống phá vì mục dích chính trị. - Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam. - Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. -Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. - Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. - Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm  ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh.  III - Tác động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước ta: Tác động tích cực: Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.   Về mặt kinh tế: - ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và  tăng trưởng kinh tế: Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.  - ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp: Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và  năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.  -  ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ: ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy...  Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới. - Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế: Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.  - ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:             Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007  khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu... - ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế:             Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc   Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Về mặt xã hội: - ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực:             Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. - ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới:             ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.  Về mặt môi trường:             Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước (có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng tiêu chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp trong nước). Không có doanh nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Tác động tiêu cực: Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau: - Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ: Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. - Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời. Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp. - Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Chương 2: Các vấn đề thực tiển đặt ra trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài I- Giải pháp phát triển, tăng cường thu hút và sử dụng FDI Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực  hiện các giải pháp sau : Giải pháp về chính trị Trước hết để phát trển kinh tế cần giữ vững ổn định chính trị. Chính trị có ổn định thì kinh tế mới phát triển và ổn định, các nhà đầu tư mới có thể yên tâm đầu tư. Thứ hai là phải không ngừng cải thiện môi trường đầu tư như: Đấu tranh chống quan liêu tham nhũng. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính.Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. Tăng cường sự lãnh đạo của đảng và nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Tăng cường đào tạo nhân lực Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Xây dựng kết cấu hạ tầng, vật tư kĩ thuật. Ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.  Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo vùng và lãnh thổ Cụ thể hoá các định hướng toàn diện về thu hút FDI Đa dạng hoá hình thức, mở rộng lĩnh vực thu hút FDI phát triển thị trường trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Tạo lập và lựa chọn đối tác đầu tư phù hợp Cải thiện môi trường đầu tư, kiềm chế lạm phát, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp. II- Triển vọng của kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Do nước ta đang chủ động mở của hội nhập và phát triển. Nhận thức được vai trò to lớn của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đang tạo điều kiện hết sức cho các nhà đầu tư nước ngoài như: Nước ta vừa trở thành thành viên chính thức của WTO. Khẳng định môi trường của Việt Nam đã trở nên phù hợp hơn với sân chơi quốc tế. Trong tương lai, đầu tư trực tiếp tại Việt Nam sẽ tăng mạnh. Không chỉ về số lượng dự án mà còn tăng vế quy mô, chất lượng của mỗi dự án. Cơ cấu đầu tư cũng sẽ chuyển dịch theo hướng hiện đại. Xu hướng đầu tư có sự chuyển dịch: các ngành công nghiệp –xây dựng,dịch vụ tập trung nguồn vốn đầu tư, số dự án đầu tư cao hơn so với các ngành khác. Nguồn vốn đầu tư ngày càng tập trung vào các ngành có trình độ kĩ thuật - công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới, điện tử viển thông, Các hình thức đầu tư ngày càng đa dạng: Đầu tư 100% vốn nước ngoài, đầu tư liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư, các tạp đoàn xuyên quốc gia Các hình thức đầu tư ngày càng đa dạng: Đầu tư 100% vốn nước ngoài, đầu tư liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư, các tạp đoàn xuyên quốc gia Nguồn vốn đầu tư ngày càng gia tăng và có vai trò ngày càng quan trọng. kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách quốc gia. Việt Nam đã, đang và sẽ là điểm đến hấp dẫn của tất cả các nhà đầu tư trên thế giới. Việt Nam sẽ là nơi tụ hội của nhiều nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng cao và ổn định. Mục tiêugiai đoạn 2006-2010 đối với kinh tế có vốn đàu tư trực tiếp nước ngoài là: Vốn đầu tư thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn cấp mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi năm đạt khoảng 11 tỷ USD. Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD. Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu thô); nhập khẩu đạt 103,tỷ USD. Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD.Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ khoảng 35%. Chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo phát triển bền vững. III - Kết luận: Việt Nam hiện nay vẫn đang là một nước đang phát triển. Nền kinh tế vẫn còn yếu kém. Vì vậy việc phát triển kinh tế đối với nước ta đang là một ưu tiên hàng đầu của nước ta. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, việc xác định phương hướng, mục tiêu để phát triến kinh tế là một vấn đề hết sức quan trọng. Xuất phát từ thực trạng đó, Nhà Nước ta định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với năm thành phần chủ yếu là : Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà Nước ta ngày càng quan tâm. Vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đóng một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhà nước ta rất coi trọng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đây là một kênh bổ sung vốn cho đầu tư phát triển mà không đi kèm với nợ nần. Việc thực hiện đầu tư của nguồn vốn này không những gắn với ngoại tệ mạnh, chuyển giao công nghệ tiên tiến, chuyển giao trình độ quản lý, kỹ thuật và tay nghề cao, mà còn tăng tính cạnh tranh của thị trường, ảnh hưởng mạnh tới cán cân thương mại. Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một trong những chủ trương đúng đắn của nước ta. Thực tế trong hơn 20 năm đổi mới và phát triển đã chứng minh điều đó. Trong hơn 20 năm qua kinh tế có vốn dầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, để phát huy tối đa tiềm năng kinh tế của nước nhà và hạn chế những tiêu cực do nó gây ra. Chúng ta cần có nhiều biện pháp cụ thể để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồm vốn FDI. Trong tương lai nguồn FDI chắc chắn sẽ tăng mạnh và Việt Nam sẽ tận dụng tốt cơ hội này. Việt Nam sẽ thực hiện thành công công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra ./. Các nguồn tài liệu Wedsite của bộ kế hoạch và đầu tư về: Cơ cấu GDP của thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; Giá trị sản xuất của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; Wedsite của bộ ngoại giao Việt Nam: số liệu về thực trạng thu hút FDI; Wedsite của tổng cục thống kê Việt Nam: Số liệu về số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép; Giáo tình kinh tế chính trị Mac-Lênin ( NXB ĐH kinh tế quốc dân ): Thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam Tạp chí công nghiệp kì I 06/2006 trang 58: Kinh nghiệm của Trung Quốc trong thu hút FDI Tạp chí kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương số 18+19 ngày 01/05/2007: Giải pháp phát triển nguồn lao động ở Việt Nam; triển vọng của Việt Nam trong viêc thu hút FDI Báo kinh tế việt nam Kinh tế và dự báo số 417 ( 01/2008 ): Kết quả của sử dụng FDI. Phát triển nguồn nhân lực Và một số tài liệu tham khảo khác MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7361.doc
Tài liệu liên quan