Đề tài Việt Nam gia nhập WTO – Thời cơ và thách thức với ngành Ngân hàng

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG MÔN HỌC: Quản trị doanh nghiệp BÀI THẢO LUẬN Việt Nam gia nhập WTO – Thời cơ và thách thức với ngành Ngân hàng ¬***** Giảng viên: Bùi Thị Bích Hà Lớp tín chỉ: Ca 3 – Thứ 4 – Giảng đường C6 Hà Nội, ngày 20 – 10 – 2010 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái quát về WTO 1.1. Nguồn gốc WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 ,có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization). Tổ chức này hoạt động với mục tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch. Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan - GATT 1947 (chỉ giới hạn ở thương mại hàng hoá) và là kết quả trực tiếp của Vòng đàm phán Uruguay (bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư). 1.2. Cơ cấu tổ chức Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban đặc thù ã Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng ã Cấp thứ hai: Đại Hội đồng Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO. ã Cấp thứ ba(3): Các Hội đồng Thương mại Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mội hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO. ã Cấp thứ tư(4): Các Ủy ban và Cơ quan Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm. Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1708 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Việt Nam gia nhập WTO – Thời cơ và thách thức với ngành Ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG MÔN HỌC: Quản trị doanh nghiệp BÀI THẢO LUẬN Việt Nam gia nhập WTO – Thời cơ và thách thức với ngành Ngân hàng ***** Giảng viên: Bùi Thị Bích Hà Lớp tín chỉ: Ca 3 – Thứ 4 – Giảng đường C6 Hà Nội, ngày 20 – 10 – 2010 CƠ SỞ LÝ LUẬN Khái quát về WTO Nguồn gốc WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 ,có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization). Tổ chức này hoạt động với mục tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch. Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan - GATT 1947 (chỉ giới hạn ở thương mại hàng hoá) và là kết quả trực tiếp của Vòng đàm phán Uruguay (bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư).  Cơ cấu tổ chức Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban đặc thù Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng Cấp thứ hai: Đại Hội đồng Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO. Cấp thứ ba(3): Các Hội đồng Thương mại Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mội hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO. Cấp thứ tư(4): Các Ủy ban và Cơ quan Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm. Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Nguyên tắc họat động Tổ chức Thương mại Thế giới được xây dựng trên bốn nguyên tắc pháp lý nền tảng là : tối huệ quốc; đãi ngộ quốc gia, mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên tắc pháp lí quan trọng nhất của WTO. Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tấtcả các nước thành viên khác. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia(National Treatment - NT), Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. 3. Nguyên tắc mở cửa thị trường Nguyên tắc "mở cửa thị trường" hay còn gọi một cách hoa mĩ là "tiếp cận" thị trường (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc "tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình đẳng như nhau” Chức năng Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO Diễn đàn đàm phán về thương mại Giải quyết các tranh chấp về thương mại Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nứơc đang phát triển Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác Cam kết về dịch vụ ngân hàng của VN khi gia nhập WTO VN đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam không cho phéo doanh nghiệp nước ngoài mua quá 30% cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam Hiện diện thương mại Các tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thứcsau: Văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, ngân hàng thương mại liên doanh trong đó phần góp vốn của bên nước ngoài không vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh và kể từ ngày 1 tháng 4 năm 2007 được phép thành lập ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. Điều kiện thành lập Các điều kiện để thành lập chi nhánh của một ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam: Ngân hàng mẹ có tổng tài sản có trên 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Các điều kiện để thành lập một ngân hàng liên doanh hoặc một ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài: Ngân hàng mẹ có tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Hạn mức trần huy động Trong vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn mà ngân hàng mẹ cấp cho chi nhánh. Tham gia cổ phần Đối với việc tham gia góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần do các thể nhân và pháp nhân nước ngoài nắm giữ tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng, trừ khi luật pháp Việt Nam có qui định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt nam. THỜI CƠ Với gần 60 năm xây dựng và phát triển của ngành ngân hàng (1951-2010) và 20 năm của hệ thống NHTH VN (1990-2010) toàn hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Có thể thấy được những điểm mạnh (6 điểm mạnh) của hệ thống ngân hàng như: Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp. Am hiểu về thị trường trong nước Đội ngũ khách hàng của NHTM VN khá đông đảo. Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ. Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại. Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng. Khi Việt Nam là thành viên của WTO, môi trường kinh doanh của các ngân hàng trong nước có sự thay đổi lớn, bởi chúng ta phải thực hiện những cam kết quốc tế theo lộ trình ký kết. Sẽ có nhiều ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại thị trường Việt Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng trong nước. Sự thay đổi đó cùng với những điểm mạnh sẵn có của hệ thống ngân hàng trong nước sẽ mang đến cho ngành ngân hàng những cơ hội mới trong tương lai. Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng VN làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhất là trên thị trường tài chính khu vực, từng bước nâng cao hiệu quả điều hành và phát triển vững mạnh. Ngân hàng nhà nước: Hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính quốc tế và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế. loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ. Các tổ chức tín dụng : Hội nhập quốc tế sẽ nâng cao tính cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng: Thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Điều đó khuyến khích tạo ra những NH có qui mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả, các NH kinh doanh yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên, nếu muốn tồn tại. Hơn nữa các ngân hàng Việt Nam được tham gia vào một “sân chơi” kinh doanh bình đẳng và mang tính chuyên nghiệp cao. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là sau năm 2010. Các ngân hàng tồn tại bằng chính "đôi chân và khối óc" của mình. Chính bối cảnh đó sẽ tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam sự năng động trong hoạt động kinh doanh và có thể nói bắt buộc phải năng động để kinh doanh hiệu quả. Đồng thời đây cũng là cơ hội để các ngân hàng thể hiện năng lực và trình độ của mình. Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính. Không chỉ phải cạnh tranh với các ngân hàng trong nước mà với cả các ngân hàng nước ngoài vì thế các NHTM VN phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở VN. Hội nhập quốc tế tạo ra sự cân bằng giữa các nhóm ngân hàng: Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn, thị phần của NHTMNN có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng khác, nhất là tại các thành phố và khu đô thị lớn. Tuỳ theo thế mạnh của mỗi ngân hàng, sẽ xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội thu hút đầu tư và hỗ trợ từ bên ngoài: Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính –ngân hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. Vì thế, các ngân hàng cần tăng cường hợp tác để chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến, khai thác thị trường. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các ngân hàng trong nước sẽ tạo điều kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ. Hội nhập quốc tế góp phần đưa VN hội nhập sâu hơn vào thị trường TCQT: Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Hội nhập cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NH trong nước thâm nhập vào thị trường quốc tế, mở ra cơ hội cho ngành NH thực hiện các cuộc trao đổi, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro, lĩnh vực thanh toán và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới. Bên cạnh đó, nhờ có tiến trình hội nhập mạnh mẽ, các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội để học hỏi kinh nghiệm, trình độ công nghệ, quản lý từ các ngân hàng nước ngoài thường được đánh giá là mạnh về tài chính, công nghệ và quản trị điều hành. Sự cọ xát trong hoạt động kinh doanh cũng là cơ hội để các ngân hàng Việt Nam nâng mình lên một tầm cao mới. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội mở rộng thị trường trong và ngoài nước Hơn thế nữa, khi Việt Nam là thành viên của WTO, ngành ngân hàng cũng phát triển theo các ngành dịch vụ khác. Nhìn vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng của một quốc gia người ta có thể đánh giá được sự phát triển kinh tế của quốc gia đó. Sự phát triển kinh tế và ngân hàng luôn luôn liên quan với nhau. Ngân hàng là nhóm ngành dịch vụ được đánh giá là có tác động nhiều nhất khi Việt Nam gia nhập WTO và tất nhiên sự tác động này mang yếu tố tích cực tức là theo chiều hướng phát triển. Các giao dịch thương mại sẽ tăng lên nhanh chóng. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đến Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Nhận thức của người dân về việc sử dụng dịch vụ ngân hàng sẽ thay đổi. Tất cả những yếu tố đó tạo ra cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng sản phẩm dịch vụ cho ngành ngân hàng. Không chỉ là thị trường trong nước, sự hội nhập còn tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam cơ hội mở rộng thị trường ra nước ngoài theo quy định của các cam kết quốc tế. Sự hội nhập tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài thông qua các hình thức cung cấp dịch vụ trong khuôn khổ WTO, đặc biệt là hiện diện thương mại và cung cấp qua biên giới. THÁCH THỨC Khi nước ta trở thành thành viên đầy đủ của WTO và bắt đầu hưởng các quyền lợi và có nghĩa vụ thực hiện các cam kết gia nhập WTO, thì bên cạnh thời cơ là những thách thức và khó khăn, các ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều hoạt động phong phú đa dạng tại Việt Nam và đuợc đối xử ngang bằng theo đúng nguyên tắc tối huệ quốc của WTO. Khi đó, NHTMNN và NHTMCP sẽ gặp phải những đối thủ nặng ký (thương hiệu, vốn, công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm, sản phẩm…) ngay trên thị trường Việt Nam. Đối với Ngân hàng Nhà nước Có thể thấy, hệ thống pháp luật ngân hàng chưa thật sự đồng bộ và chưa phù hợp thông lệ quốc tế, biểu hiện rõ nhất là nhiều quy định của các luật về ngân hàng và những quy định dưới luật còn nhiều bất cập, trong đó vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, giữa các nhóm ngân hàng và giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài, gây ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Điều đó đặt ra thách thức phải sửa đổi, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Mặt khác, việc mở cửa thị trường tài chính trong nước sẽ làm tăng rủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, từ thị trường tài chính khu vực và thế giới. Trong khi đó, năng lực điều hành chính sách tiền tệ, cũng như năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN còn hạn chế. Các chính sách điều hành của NHTW còn chưa linh hoạt, thường chậm hơn so với các diễn biến của nền kinh tế và do đó chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Đối với NHTM trong nước Theo các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng, sự thay đổi về các yếu tố vĩ mô và vi mô trong nền kinh tế như giá nguyên liệu, chính sách, công nghệ, sự đóng băng của thị trường bất động sản... đang là yếu tố cản trở sự phát triển và ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của NHTM. Nhiều ngân hàng nhỏ về quy mô (cả tổ chức và vốn), yếu kém về trình độ (cả chuyên môn, nghiệp vụ), cả năng lực quản lý và kiểm soát, cả trong việc xây dựng và ban hành các quy định quản lý, kinh doanh…, do đó sẽ rất khó khăn trong cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, khi nước ta mở rộng cửa để họ mở hoạt động tại Việt Nam. Đánh giá thực trạng các tổ chức tài chính Việt Nam trước khi gia nhập WTO, nhận thấy còn nhiều yếu kém: Cấu trúc hệ thống Ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng nhưng còn quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên một mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém xa so với khu vực.   Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém, vốn nhỏ, năng lực tài chính thấp, chất lượng tài sản chưa cao. Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn bất cập so với nhu cầu của nghiệp vụ mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng làm cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ ngân hàng của Việt Nam còn khá xa so với khu vực. Hoạt động tín dụng được mở rộng nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng chưa được kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu hội nhập; Sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, chất lượng dịch vụ thấp. Qui trình quản trị trong các TCTD Việt Nam chưa phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch thấp, chưa hình thành môi trường làm việc và văn hóa kinh doanh lành mạnh do vai trò và trách nhiệm của các vị trí công tác chưa rõ ràng, hệ thống thông tin quản lý và quản lý rủi ro chưa hiệu quả; Các ngân hàng thương mại Việt Nam đầu tư quá nhiều vào doanh nghiệp nhà nước, trong khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Thiếu sự liên hệ trong hệ thống các NHTM, chưa đặt mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho khách hàng lên hàng đầu. Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các NHTM VN chưa đồng đều nên sự phối kết hợp trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ chưa thuận lợi, chưa tạo được nhiều tiện ích cho khách hàng như kết nối sử dụng thẻ giữa các ngân hàng. Hiện nay, lượng thẻ ATM phát hành tương đối lớn nhưng chưa có sự liên kết giữa hệ thống máy ATM, gây bất tiện trong thanh toán và giao dịch Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục tiêu kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Vốn tự có của các NHTMCP mặc dù có tăng trưởng nhanh song quy mô vốn vẫn còn nhỏ so với mức chung trong khu vực và trên toàn thế giới, dẫn tới việc cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác sẽ khó khăn khi mở cửa hoàn toàn về ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO. Vì thế, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế. Thói quen sử dụng tiền mặt của đại bộ phận dân cư là rào cản lớn cho việc phát triển dịch vụ và sản phẩm NH. Tại VN, khách hàng sử dụng thẻ chủ yếu để rút tiền mặt qua hệ thống ATM, còn dịch vụ thanh toán, chuyển tiền phát triển chưa mạnh. Do đó việc thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt qua nghiệp vụ thẻ còn hạn chế. Nền văn minh tiền tệ của nước ta do đó chưa thoát ra khỏi một nền kinh tế tiền mặt.  Hội nhập kinh tế, quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế. Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên. Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các NH nước ngoài có năng lực tài chính mạnh, có kinh nghiệm quản trị rủi ro tốt và đặc biệt có qui trình nghiệp vụ chuẩn mực tiên tiến, công nghệ hiện đại hơn hẳn các NHTM Việt Nam sẽ là thách thức lớn đối với các Ngân hàng Việt Nam trong việc giữ vững thị trường hoạt động trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài, phát triển nguồn vốn, chứ không phải tín dụng, mới là chính sách được ưu tiên hàng đầu của họ. Chính sách này có thể không mang lại lợi nhuận lớn như các ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng nó luôn bảo đảm sự phát triển ổn định và thoả mãn được nhu cầu vay vốn của khách hàng. Để có nguồn vốn lớn và ổn định, các ngân hàng nước ngoài đã xây dựng cho mình một chính sách phát triển hợp lý trên cơ sở cân đối giữa dư nợ và nguồn vốn theo những tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, họ xây dựng một đội ngũ nhân viên giỏi về hoạt động maketing và thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Những nhân viên này luôn chủ động liên hệ với khách hàng để biết được kế hoạch kinh doanh sắp tới của khách hàng như kế hoạch vay vốn, trả nợ, thanh toán tiền hàng, mua bán ngoại tệ; đồng thời cũng được tiếp cận nhiều nguồn thông tin, giúp họ có khả năng dự báo được xu hướng thị trường. Các Ngân hàng nước ngoài thường tiên phong trong việc áp dụng công nghệ hiện đại, giới thiệu sản phẩm dịch vụ mới. Do vậy, có thể nói các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài thường chiếm ưu thế trong các dịch vụ thanh toán và hoạt động phi tín dụng, mảng hoạt động mà các ngân hàng trong nước còn yếu kém. Trong thời gian qua, một số NH nước ngoài đã thành công khi đưa ra những sản phẩm dịch vụ tài chính cá nhân tại thị trường Việt Nam. Chẳng hạn, sản phẩm cho vay tín chấp với hạn mức 200 triệu đồng của HSBC thu hút hàng ngàn khách hàng; sản phẩm cho vay mua nhà trong 20 năm của ANZ... Ông Philip Crouch cho biết: "ANZ cũng đã có kế hoạch ra mắt một vài sản phẩm mới về tiết kiệm trong đầu năm nay. Đây sẽ là những sản phẩm hấp dẫn cho phép khách hàng thu lợi cao nhất trên số tiền họ gửi". HSBC hiện nay cũng đang chờ NH Nhà nước chấp thuận việc thành lập NH "con" tại Việt Nam. Theo ông Nick Windsor, ngay sau khi được thành lập NH "con", HSBC sẽ phát triển mạng lưới phân phối với những sản phẩm dịch vụ tài chính sẽ làm cho người tiêu dùng Việt Nam ngạc nhiên. Kết luận: Cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và hệ thống Ngân hàng nói chung có được cơ hội lớn nhưng thách thức cũng không nhỏ. Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà đến từ chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và các cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Chảy máu chất xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các NHTM Việt Nam cần có các chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.  Vậy Việt Nam đã làm được gì để tận dụng cơ hội cũng như đương đầu với những thách thức đó, chúng ta cùng xem xét các giải pháp mà Ngân hàng Việt Nam đã thực hiện. GIẢI PHÁP Hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng: Sửa đổi Luật NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm đảm bảo tính an toàn cho cả hệ thống ngân hàng và tạo niềm tin cho công chúng, nâng cao thương hiệu “hàng VN chất lượng cao và giá dịch vụ phải chăng”, tăng mực quốc tế và các quy định trong Basel I và Basel II. Xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định về cấp phép, tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng phù hợp các cam kết gia nhập WTO Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối Cải cách hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế Hoàn thiện các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt; quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng mới (quản lý tài sản tài chính, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ ủy thác, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính, cung cấp và xử lý thông tin tài chính, tư vấn về đầu tư và danh mục đầu tư, về mua lại và tái cơ cấu DN...). Nâng cao năng lực của NHNN về điều hành chính sách tiền tệ: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các công cụ gián tiếp Gắn điều hành tỷ giá với lãi suất theo cơ chế thị trường Xác định trách nhiệm của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ Nâng cao tính công khai, minh bạch trong điều hành chính sách tiền tệ. Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM: Lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính cho các NHTM, xử lý xong về căn bản nợ đọng của các NHTM nhà nước Tăng vốn tự điều lệ theo lộ trình Tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng nhà nước Phát triển nguồn nhân lực; hiện đại hóa công nghệ; nâng cao hiệu lực quản lý và tăng cường năng lực quản trị rủi ro; mở rộng và đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng. Mở rộng quy mô vốn NHTMCP phát hành thêm cổ phiếu mới trên thị trường chứng khoán để tăng vốn tự có và năng cao năng lực tài chính của mình. Việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại trong nước (tối đa 30%) cũng góp phần tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN. Xây dựng chiến lược kinh doanh Cần có một chiến lược kinh doanh trung hạn và dài hạn, đặc biệt là chiến lược nhân sự. Gắn chiến lược nhân sự với các trường đại học trọng điểm và hình thành các trung tâm đào tạo tại các ngân hàng thương mại. Nhân viên ngân hàng là những người làm việc trên lĩnh vực dịch vụ cao cấp nên phải đảm bảo tính chuyên nghiệp và lương cao. Vì vậy, cần có cơ chế tiền lương phù hợp với trình độ và năng lực của cán bộ. Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh (thế mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị. NTHM VN, cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: trong huy động vốn, tín dụng sản xuất kinh doanh, tín dụng tiêu dùng, tài trợ xuất nhập khẩu, dịch vụ thanh toán, thẻ, thu hộ chi hộ, giữ hộ, ủy thác, ngân hàng điện tử... Cần chú ý phát triển các sản phẩm gắn với thị trường chứng khoán và hoạt động bảo hiểm. Hiện đại hóa ngành ngân hàng Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ. Phát huy vai trò tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng. Tránh rủi ro thông tin bất cân xứng gây bất lợi cho cả khách hàng và ngân hàng (vd: ngân hàng ACB) Cung cấp thông tin minh bạch, kịp thời Đẩy mạnh công tác phổ biến thông tin, tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, thông qua các hình thức khác nhau, như tổ chức các buổi họp báo, thuyết trình, cung cấp thông tin cho báo chí,... và định kỳ công bố các chương trình, kế hoạch hành động của các ngành liên quan việc thực thi các cam kết song phương và đa phương. Xây dựng cơ chế giám sát rủi ro Cần một cơ chế giám sát rủi ro: Ngân hàng là một trong những ngành nhiều rủi ro, vì vậy, cần có một cơ chế giám sát rủi ro. Các sản phẩm của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất sơ khai, nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sản phẩm bày sẽ được đa dạng hóa và phát triển rất nhanh. Vì vậy, Nhà nước cần có một cơ chế giám sát theo kịp với sự biến đổi của thị trường này, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định của ngành ngân hàng. Trên thực tế, hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng trong nước chưa được chú ý một cách thích hợp, đặc biệt tại các ngân hàng mới thành lập, do áp lực của lợi nhuận và doanh số. Tình hình khả quan hơn đối với các ngân hàng lớn và có kinh nghiệm hoạt động lâu năm. KẾT QUẢ Những chuyển biến: Đối với ngân hàng nhà nước: Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, hơn 3 năm qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã: Tập trung rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng, so sánh với các cam kết WTO. Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng phù hợp với các cam kết quốc tế, đảm bảo vừa tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Nhiều văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động ngân hàng trong quá trình hội nhập như các văn bản về quản lý ngoại hối, các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động của TCTD, cấp phép thành lập và hoạt động của NHTMCP... đã được ban hành. NHNN đã xây dựng 2 dự án Luật NHNN (sửa đổi) và Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) có hiệu lục vào quý I năm 2011, đồng thời nghiên cứu xây dựng 2 dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Chủ động thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tiền tệ, ngoại hối; tăng cường năng lực xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ và tỷ giá; cải cách và phát triển hệ thống giám sát ngân hàng, cải cách hành chính và nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới đảm bảo xây dựng hệ thống ngân hàng lành mạnh và ổn định. Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế có điều kiện tương đồng nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá và quản lý hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường, áp dụng các thông lệ tốt nhất về chuẩn mực thông tin, báo cáo tài chính và các tiêu chí trong phòng ngừa rủi ro và an toàn của hệ thống ngân hàng. NHNN cũng đã có những đổi mới trong quản lý tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trong đó quan trọng nhất là thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm pháp gia tăng vừa qua do tác động của nền kinh tế Mỹ và thế giới; thực hiện điều chỉnh biên độ giao dịch ngoại tệ và điều hành tỉ giá linh hoạt nhằm ổn định giá trị đồng tiền, từng bước nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa nền kinh tế. Đối với ngân hàng thương mại Sau hơn 3 năm gia nhập WTO Việt Nam đã có 5 NHTM 100% vốn nước ngoài, 6 NHTM nhà nước, 37 NHTM cổ phần, 31 chi nhánh NHTM nước ngoài, 6 NHTM liên doanh, 6 công ty tài chính, 10 cty cho thuê tài chính 926 tổ chức tín dụng nhân dân, 45 văn phòng đại diện. Các NHTM đã có sự chuyển mình mạnh mẽ để tận dụng tốt những cơ hội trong quá trình hội nhập: Bước vào hội nhập, các NHTM trong nước đã khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh "trên sân nhà", đó là có mạng lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống và hiểu biết về khách hàng cũng như các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam, kinh nghiệm nghiệp vụ tích luỹ trong nhiều năm qua. Do vậy, các NHTM trong nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay. Hiện nay, thị phần huy động vốn của các NHTM trong nước chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 90%. Về công nghệ ngân hàng: đây là lĩnh vực được các ngân hàng rất chú trọng, coi là phương tiện chủ lực để rút ngắn khoảng cách phát triển so với ngân hàng của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Hầu hết các NHTM đã đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng cốt lõi (core banking), cho phép quản trị dữ liệu một cách tập trung tại Hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Một số ngân hàng như NHTMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, NHTMCP Hàng hải đã hoàn thiện giai đoạn 2 dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán, cho phép khai thác tối đa những tiện ích công nghệ ngân hàng, đặc biệt là các kỹ thuật quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. Về sản phẩm dịch vụ: các NHTM đã tập trung đổi mới, cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những sản phẩm truyền thống như tiền gửi và cho vay đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới tăng tiện ích cho khách hàng như: tăng tiện ích của tài khoản cá nhân, phát triển dịch vụ thẻ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như phone banking, internet banking... Dịch vụ tiền gửi được đa dạng hóa, cho phép người gửi có nhiều lựa chọn cho đồng vốn nhàn rỗi của mình. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cố định truyền thống, các ngân hàng còn đưa ra các sản phẩm tiền gửi được hưởng lãi suất biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo giá trị theo vàng, được bù chênh lệch tỷ giá... Đặc biệt, dịch vụ thanh toán thẻ đã có sự phát triển bùng nổ. Nhiều sản phẩm thẻ đa tiện ích đã được giới thiệu tới khách hàng và thanh toán bằng thẻ ATM đã trở nên khá phổ biến tại các tỉnh, thành phố lớn.(năm 2006 có 2500 máy, đến giữa năm 2010 đã có 9900 máy). Về năng lực tài chính: Quy mô vốn của các NHTM đã được tăng lên đáng kể. Theo quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng phải có vốn điều lệ ít nhất là 1.000 tỷ VND và đến năm 2010 là 3.000 tỷ VND. Nhờ có sự phát triển của thị trường chứng khoán, việc tăng vốn của các NHTM không gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các NHTM còn có thể bán cổ phần cho các đối tác nước ngoài. Nhờ vậy, các NHTM có điều kiện mở rộng mạng lưới chi nhánh, địa bàn hoạt động, tăng cường khả năng cạnh tranh. Trước năm 2006, hệ số an toàn vốn của các NHTMNN đều không đạt mức yêu cầu 8%, tuy nhiên đến nay đều đã đạt trên mức quy định. Đối với các NHTMCP, hệ thống an toàn vốn đều vượt tỷ lệ quy định, thậm chí có nhiều ngân hàng có hệ thống an toàn vốn lên đến trên 20%. Ngoài việc tăng quy mô vốn, nhiều ngân hàng còn đẩy mạnh việc thực hiện cơ cấu lại tài chính như tăng vốn tự có, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động. Việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cùng với việc tăng vốn chủ sở hữu đã giúp các NHTM giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu phát sinh từ nhiều năm trước, chất lượng tài sản được cải thiện đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của khối NHTMCP dưới 1%, của các NHTMNN dưới 5%. Những hạn chế Hạn chế của NHNN Sau hơn 3 năm gia nhập WTO, NHNN đã thể hiện được vai trò quản lý nhà nước của mình tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, nhiều nghiệp vụ chưa đạt yêu cầu như điều hành lãi suất cơ bản còn bị động, đi sau thị trường , phụ thuộc vào phản ứng của các doanh nghiệp. Xem xét thay đổi lãi suất còn dựa nhiều vào những thông tin vi mô, và chỉ thay đổi khi cảm nhận thấy sức ép.Lãi suất cơ bản thường được điều chỉnh với số lần ít và biên độ lớn có thể gây nên biến động xấu. Vẫn còn hiện tượng che dấu thông tin hoặc đưa thông tin thiếu chính xác. Chúng ta đã chứng kiến đôi khi có những phát ngôn rất chính thức là sẽ không có thay đổi trong lãi suất (hay cả tỷ giá nữa) rồi ngay sau đó không lâu sự việc lại xảy ra trái ngược. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt còn kém phát triển, nhất là các công cụ chuyển nhượng... Hạn chế của các NHTM Quản lý về rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều yếu kém, nhất là về quản lý thế chấp. Thu nhập từ hoạt động tín dụng của các ngân hàng Việt Nam còn chiếm tỷ lệ lớn, trái ngược với xu thế hiện nay. Một số NHTM cổ phần vốn điều lệ ít, dịch vụ ngân hàng chưa phong phú và chưa phải cạnh tranh với các NHTM nước ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH005.doc
Tài liệu liên quan