Đề tài Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam_Thực trạng và giải pháp phát triển

Đánh giá của Bộ Công Thương cho thấy năm 2009 sẽ là năm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ phải vượt qua những khó khăn lớn. Cụ thể, nhóm hàng khoáng sản khó có khả năng tăng trưởng trong năm 2009 do sản lượng dầu thô và than đá xuất khẩu giảm mạnh để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu thụ trong nước, giá xuất khẩu sẽ không ở mức cao như năm 2008. Ước tính kim ngạch nhóm này đạt khoảng 5,92 tỷ USD, giảm 5,97 tỷ USD tương đương với giảm 50,02% so với năm 2008.Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản cũng bị xếp vào diện khó có khả năng tăng trưởng cao do hạn chế về cơ cấu sản lượng và đặc biệt giá các mặt hàng chủ lực sẽ ở mức thấp so với năm 2008. Dự bao, kim ngạch nhóm này đạt khoảng 12,23 tỷ USD, giảm 6,28 triệu USD so với năm 2008. Một số mặt hàng có tỷ trọng lớn cần phấn đấu là thuỷ sản trên 5,1

doc64 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam_Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam gần 431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 29 nghìn tấn, Đức: 24 nghìn tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn tấn, Malaysia gần: 21 nghìn tấn, lượng xuất khẩu cao su tháng 2/2009 đạt 37 nghìn tấn, giảm 4,3% so với tháng trước, nâng tổng lượng cao su xuất khẩu 2 tháng năm 2009 lên 75,7 nghìn tấn, giảm 14,3% so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu cao su bình quân vẫn tiếp tục giảm mạnh trong 2 tháng qua, giảm 41,9% tương đương với giảm 971 USD/tấn so với 2 tháng đầu năm 2008 nên trị giá là 101,8 triệu USD giảm 50,2%. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của cao su Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2009 với 52 nghìn tấn, tiếp theo là Hàn Quốc: 4,7 nghìn tấn, Đài Loan: 2,8 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 2,7 nghìn tấn, Malaysia: 2,1 nghìn tấn, Đức: gần 2 nghìn tấn, Gỗ và sản phẩm gỗ Tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này năm 2008 lên 2,83 tỷ USD, tăng 17,7 % nhưng chỉ hoàn thành 94,3% kế hoạch năm. Tính đến hết tháng 12/2008, Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu nhóm mặt hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 1,06 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2007. Tiếp theo là thị trường EU: 795 triệu USD, tăng 24%; Nhật Bản: 379 triệu USD, tăng 23,4% ; Đức: 152 triệu USD, tăng 54,7%; Trung Quốc: 141 triệu USD, giảm 13,2%;... Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện Trong tháng xuất khẩu gần 158 triệu USD, giảm 39,1% so với tháng trước, nâng kim ngạch xuất khẩu của năm 2008 lên 2,64 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm trước nhưng hoàn thành kế hoạch năm chỉ đạt 75,4%. Các thị trường chính trong năm 2008 cho sản phẩm này là Thái Lan với 405 triệu US, Nhật Bản: 379 triệu USD, Hoa Kỳ: 305 triệu USD, Trung Quốc: 274 triệu USD, Hà Lan: 206 triệu USD, Singapore: 163 triệu USD, Hết tháng 2/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này là 315,6 triệu USD, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm trước. Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn đầu nhập khẩu mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện của Việt Nam với 54,3 triệu USD. Tiếp theo là Nhật Bản: 51 triệu USD, Thái Lan: 38,5 triệu USD, Hà Lan: 20,3 triệu USD, Trung Quốc: 18,7 triệu USD, Singapore: 16,3 triệu USD, Hồng Kông: 13,5 triệu USD, Dây điện & dây cáp điện Tính đến hết tháng 12 năm 2008, xuất khẩu hơn 1 tỷ USD, đây là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu mặt hàng dây điện & dây cáp điện trên 1 tỷ USD trong cả giai đoạn 2004- 2008. Trong đó, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu chủ yếu của nước ta, với 727 triệu USD chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. 2.3. Cơ cấu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và giá trị xuất khẩu lớn là nhóm hàng công nghiệp và chế biến như: thủy sản, dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ Nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là cà phê, hạt tiêu, sản phẩm nhựa. Tuy nhiên, nhóm hàng đặt mục tiêu giảm tốc độ tăng trưởng trong năm nay là nhóm hàng nguyên liệu và khoáng sản nhưng thực tế vẫn tăng trưởng. Tuy nhiên, hoạt động XK vẫn còn nhiều hạn chế: quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới (xuất khẩu bình quân đầu người của Xingapo là 60.600 USD/người, Malaixia 5.890 USD/người, Thái Lan 1.860 USD/người, Philipin546 USD/người và Việt Nam 473 USD/người). Mặt khác, xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả ba phương diện: Thứ nhất, là chủng loại hàng hóa còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể. Thứ hai, các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng: khoáng sản (dầu thô, than đá), nông, lâm, thủy, hải sản; trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính.. chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công. Thứ ba, quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn chậm, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh, hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Thêm nữa, thị trường xuất khẩu không đồng đều, trong khi thị trường Asean, EU, Mỹ tăng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật Bản và Ôxtrâylia. 2.4 Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực Theo nhân định của Bộ Công Thương, các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2009-2010 vẫn là thị trường Châu Á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc), Châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Châu Đại Dương (Australia). Bảng 2: MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM SANG HOA KỲ Đơn vị tính: ngàn USD STT Mặt hàng Tháng 1-09 Tháng 12-08 Tỷ lệ % T1-09/ T12-08 Tháng 1-08 Tỷ lệ % T1-09/ T1-08 Tổng cộng đến T1-09 Tỷ lệ % tháng 1-09 /tháng 1-08 1 Dệt may 477.209,00 403.719,00 18,20 410.135,00 16,35 477.209,00 16,35 2 Đồ gỗ 132.537,00 128.886,00 2,83 129.961,00 1,98 132.537,00 1,98 3 Giày dép 146.481,00 106.189,00 37,94 105.867,00 38,36 146.481,00 38,36 4 Thủy sản 59.027,00 66.491,00 -11,23 81.373,00 -27,46 59.027,00 -27,46 5 Dầu khí 86.630,00 64.343,00 34,64 72.884,00 18,86 86.630,00 18,86 6 Nông sản 59.820,00 48.822,00 22,53 59.804,00 0,03 59.820,00 0,03 7 Thiết bị, dụng cụ điện dây điện 36.768,00 31.931,00 15,15 27.875,00 31,90 36.768,00 31,9 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Bộ Thương Mại Hoa Kỳ Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất cho mặt hàng dệt may. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ năm 2008 đạt 12 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này năm 2009 sẽ tăng 5,8% và sẽ tăng lên 12% vào năm 2010. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010 đạt trên 6 tỷ USD. Mặt hàng giày dép phấn đấu năm 2010 đạt 1,25 tỷ USD; mặt hàng thuỷ sản phấn đấu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD; gỗ khoảng 1,3 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 250 triệu USD. Các mặt hàng khác như túi xách, ví, va li, ô dù... là những mặt hàng mới và có nhiều tiềm năng xuất khẩu vào Hoa Kỳ, phấn đấu đạt 420 triệu USD vào năm 2010. EU - thị trường mà Bộ Công Thương đề ra mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 12,1 tỷ USD vào năm 2010. Đối với hàng dệt may, phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu 2,1 tỷ USD. EU là thị trường nhập khẩu giày dép lớn thứ 2 sau Hoa Kỳ, nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng trên 36 tỷ USD/năm. Phấn đấu đến năm 2010 nước ta đạt được 3 tỷ USD xuất khẩu giày dép vào thị trường này. Bên cạnh đó, EU là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn trên thế giới, nhập khẩu nhiều nhất philê cá đông lạnh, chủ yếu là cá tuyết, cá tuyết vàng và cá tra, sau đó là tôm đông lạnh và cá ngừ. Hàng năm kim ngạch nhập khẩu của thị trường này vào khoảng 40 tỷ USD. Việt Nam phấn đấu kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này năm 2010 đạt 1,45 tỷ USD. EU cũng là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 45% trong xuất khẩu của nước ta. Phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 850 triệu USD. Ngoài ra, sản phẩm gỗ cũng có tiềm năng xuất khẩu vào EU do thị trường này tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới. Đồ gỗ của nước ta đã thâm nhập được vào hầu hết thị trường các nước EU trong đó những nước nhập khẩu chính là Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch. Mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này năm 2010 là đạt kim ngạch 900 triệu USD. ASEAN - thị trường quan trọng với xuất khẩu gạo. Kim ngạch xuất khẩu của ta vào ASEAN có xu hướng tăng chậm, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này đang có xu hướng tăng mạnh. Các mặt hàng xuất khẩu của ta hiện nay vẫn là dầu thô, một số mặt hàng nông sản, thủy sản, linh kiện điện tử, vi tính và hàng bách hóa trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là gạo và dầu thô. ASEAN là thị trường quan trọng đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam. Dự kiến đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đạt 1,6 tỷ USD. Trong khi đó, mục tiêu đối với mặt hàng cà phê là 180 triệu USD, với thủy sản là 320 triệu USD và hàng dệt may là 360 triệu USD. Với mặt hàng điện tử và linh kiện, chủ yếu do các công ty liên doanh tại Việt Nam xuất khẩu sagn các nước Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, và phấn đấu đạt 2,6 tỷ USD vào năm 2010. Nhật Bản - khoảng 92% hàng hóa sẽ được miễn thuế trong vòng 10 năm. Nhật Bản hiện là thị trường xuất khẩu nhiều mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam, ngoài dầu thô, khoáng sản thì các mặt hàng thủy sản, dệt may, đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ, các mặt hàng chế tạo của Việt Nam đang được người Nhật ngày càng ưa chuộng. Theo Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản về Đối tác kinh tế (VJEPA), trong vòng 10 năm, khoảng 92% hàng hóa sẽ được miễn thuế khi vào thị trường của mỗi bên. Hàng nông sản, may mặc và thủy sản của Việt Nam sẽ được miễn thuế khi vào thị trường Nhật Bản. Ngược lại hàng công nghiệp, gồm cả phụ tùng ôtô và sản phẩm điện tử của Nhật khi vào Việt Nam sẽ được miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu. Do vậy, việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Nhật Bản giai đoạn 2009-2010 sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Trung Quốc - cơ hội mới cho hàng nông sản và hải sản. Giai đoạn 2009-2010 tình hình kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, kéo theo nhu cầu nhập khẩu các nhóm hàng nguyên nhiêu liệu như cao su, than đá và đặc biệt là dầu thô. Theo nhận định của Bộ Công thương, nếu triệt để tận dụng cơ hội thì các mặt hàng nông sản và hải sản của Việt Nam có khả năng tăng khá do tác động của việc thực hiện chương trình thu hoạch sớm giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Mục tiêu xuất khẩu vào Trung Quốc đến năm 2010 đạt 6 tỷ USD. Nguồn: Tổng cục thống kê- 2008 Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo Hiệp định thuế quan có hiệu lực chung cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA) và việc Việt Nam gia nhập WTO Đã và đang tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước trên thế giới Theo thống kê, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang tăng trưởng nhanh ở các thị trường Châu Á (40%),Châu Phi và Tây Nam Á (33%), nhưng tăng chậm lại đối với Châu Mỹ (23%), Châu Âu (13%) và Châu Đại Dương (khoảng 11,6%), chủ yếu do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng thị trường nhà đất tại Mỹ và kinh tế Châu Âu đi xuống. 3. Đánh giá về việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong giai đoạn hiện nay Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đã có dấu hiệu nhích lên so với tháng 1/2009, ước đạt trên 1,6 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu từ đầu năm đến hết trung tuần tháng 2 ước đạt 5,365 tỷ USD, thấp hơn gần 5% so với cùng kỳ năm 2008, do kim ngạch xuất khẩu tháng 1 đã đạt quá thấp. Điểm đáng lưu ý nhất trong tháng 2 là xuất khẩu gạo đang đạt tiến độ rất tốt, lượng và kim ngạch xuất khẩu đều đạt mức cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2008. Riêng trong 10 ngày đầu tháng 2, lượng gạo xuất khẩu đã đạt trên 280 ngàn tấn, kim ngạch 124 triệu USD (gần bằng xuất khẩu trong cả tháng 1-2009), đưa lượng gạo xuất khẩu tính từ đầu năm đến nay đạt gần 600 ngàn tấn, kim ngạch đạt trên 220 triệu USD, tăng hơn gấp 3 lần về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2008. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giữ được tiến độ xuất khẩu tốt hơn so với cuối năm 2008. Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đang bị đe doạ thu hẹp mạnh. Vì vậy, thời gian tới, hàng hoá của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn với hàng hoá cùng chủng loại của các nước châu Á, như mặt hàng nông sản, thuỷ sản, dệt may, giầy dép, điện tử trong bối cảnh nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường chủ lực có xu hướng giảm. Thuận lợi về giá sẽ không còn, giá hàng hoá tiếp tục đứng ở mức thấp do nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường giảm, nền kinh tế thế giới suy thoái cũng sẽ làm cho giá hàng hoá khó có thể tăng trong năm tới. Hơn nữa, năng lực sản xuất nhiều mặt hàng nông sản, khoáng sản của Việt Nam đã đến ngưỡng, khó có khả năng tăng trưởng cao như những năm trước về sản lượng như lúa gạo, cà phê, cao su, dầu thô. Các mặt hàng công nghiệp có kim ngạch lớn là dệt may và da giầy sẽ gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu, do năm 2009 Mỹ sẽ bỏ hoàn toàn hạn ngạch hàng dệt may đối với Trung Quốc; trong khi đó, EU không gia hạn quy chế GSP đối với hàng da giầy xuất khẩu của Việt Nam, và thêm nhiều hàng rào phi thuế sẽ là những thách thức lớn cho xuất khẩu của Việt Nam. 4. Thuận lợi và khó khăn đối với việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 4.1 Thuận lợi Xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng cao so với kế hoạch và so với nhiều năm gần đây, mức nhập siêu có xu hướng giảm dần. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tiếp tục tăng cao và đều khắp trên các mặt hàng, các thị trường, điều đó đã phản ánh phần nào năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới từng bước được nâng lên qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được duy trì ở mức cao các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vẫn dữ được nhịp độ tăng trưởng cao, nhiều mặt hàng mới xuất hiện, cơ cấu từng hàng hoá xuất khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô. Thu hút và thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh trong những năm vừa qua sẽ là cơ sở để xuất khẩu của nước ta không chỉ tăng cao trong năm 2009 mà cả trong những năm tiếp theo. Năm 2008 thực hiện vốn FDI đạt 11,5 tỉ USD, tăng 39% so với năm 2007. Xuất khẩu của nước ta chủ yếu là các mặt hàng nguyên liệu thô, các mặt hàng nông, lâm sản và hàng thiết yếu có giá trị thấp. Cho nên khối lượng  hàng hoá xuất khẩu sẽ không bị giảm mạnh bởi tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu. 4.2 Khó khăn và thách thức Xuất khẩu suy giảm là hệ quả tất yếu khi kinh tế thế giới khó khăn, tổng cầu hàng hoá giảm dẫn đến xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với những suy giảm kép: giảm cả về khối lượng lẫn giá cả. Thị trường chủ lực bị thu hẹp. Theo bộ công thương, kim ngạch xuất khẩu thang 1/2009 ước tính chỉ đạt 3,8 tỷ USD, giảm 18,6% so với tháng 12/2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm trước. Thông thường, hoạt động xuất khẩu tháng 1 và tháng 2 của năm kém sôi động bởi đây là thời điểm các doanh nghiệp nghỉ tết nguyên đán.Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu tháng 1 năm nay giảm chủ yếu là do giảm giá của nhiều mặt hàng chủ lực, cũng như nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam của một số thị trường quan trọng như Mỹ, EU, Nhật Bản...giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng trong tháng 1/2009 đều giảm so với cùng kỳ năm 2008.Sức tiêu dùng của các thị trường lớn đều được dự báo sẽ giảm.Bản thân các ngành sản xuất hàng tiêu dùng tại các thị trường này cũng bị ảnh hưởng.kéo theo đó, khả năng hấp thụ hàng xuất khẩu của các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam, chắc chắn sẽ giảm sút. Nhóm hàng công nghiệp như dệt may, gia dầy, điện tử, đồ gỗ chế biến giảm mạnh nhất do nhu cầu nhập khẩu từ các thị trường lớn đều giảm từ 30-40%. Theo hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam vào quí đầu mọi năm, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ đạt từ 650-700 triệu USD.Tuy nhiên, năm nay con số này giảm mạnh ước đạt 200 triệu USD. Nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng trên thế giới giảm mạnh, trong khi đó các thị trường xuất khẩu chủ lực ngày càng thu hẹp và xúc tiến tìm kiếm thị trường mới không dễ dàng. Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam (VASEP), cho rằng năm2009 là năm có nhiều khó khăn đối với các doang nghiệp thuỷ sản dự báo kim ngạch xuất khẩu giảm từ 15-20%, do các nước tăng cường dùng hàng rào kỹ thuật để bảo hộ sản xuất trong nước. Xuất khẩu nhóm sản xuất nông nghiệp là đầu vào cho sản xuất công nghiệp như cao su,gỗ...giảm do tiêu thụ giảm.Tuy nhiên, xuất khẩu một số hàng thiết yếu như gạo thì lại vẫn tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu từ nhiều nước tăng. Mặc dù đã liên tiếp “cài số lùi” kề hoạch nhưng nhiều ý kiến cho rằng, tăng trưởng xuất khẩu trong năm 2009 sẽ rất khó đạt mức 13%. Trong năm 2008, giá cả các loại hàng hoá tăng mạnh, trong khi những biến động kinh tế thế giới chưa tác động nhiều đến việc xuất khẩu, song tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 64 tỷ USD.Hiện xuất khẩu của Việt Nam đang chịu tác động của suy giảm kép nên đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 13% là rất khó. Các chuyên gia thương mại chỉ ra là rất nhiều nhóm hàng hoá xuất khẩu chủ lực năm nay khó có thể đạt mức tăng trưởng mạnh. Nhóm hàng khoáng sản khó có khả năng tăng trưởng do sản lượng dầu thô và than đá xuất khẩu giảm mạnh để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu thụ trong nước và giá xuất khẩu sẽ không ở mức cao như năm 2008. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản cũng vậy, khó có khả năng tăng trưởng cao trong năm 2009 do hạn chế về cơ cấu sản lượng.Đặc biệt, giá nhiều mặt hàng chủ lực sẽ ở mức thấp so với năm 2008.Dự báo kim ngạch nhóm này đạt khoảng 12,23 tỷ USD, giảm 628 triệu USD so với năm 2008.Do kim ngạch xuất khẩu 2 nhóm hàng nông lâm thuỷ sản và khoáng sản dự kiến sẽ giảm khoảng 6,6 tỷ USD nên xuất khẩu năm 2009 được kỳ vọng nhiều vào nhóm hàng công nghiệp chế biến, chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chương 3: Giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 1. Mục tiêu và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam + Mục tiêu phát triển xuất khẩu Theo chỉ tiêu Quốc hội đề ra thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 là 13% đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của toàn ngành và cũng rất nhiều khó khăn để có thể đạt được vì: - Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính mà tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ suy giảm - Hàng hoá Việt Nam phải cạnh tranh khốc liệt hơn với hàng hoá cùng chủng loại của các nước châu Á như nông sản, thuỷ sản, dệt may, giầy dép, điện tử trong khi nhu cầu nhập khẩu của các thị trường chủ lực (Hoa Kỳ, EU) có xu hướng giảm. Các nhà nhập khẩu gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay để nhập khẩu hàng hoá. - Thuận lợi về giá như năm 2008 nhìn chung sẽ không còn, trong khi khả năng tiêu thụ tại các thị trường giảm. - Sản lượng một số mặt hàng nông sản, khoáng sản đã đến ngưỡng, khó có khả năng tăng trưởng cao, đặc biệt lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm khoảng 3,3-4 triệu tấn do làm nguyên liệu cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. - Nhiều hàng rào phi thuế và các biện pháp bảo hộ tinh vi được các nước dựng lên có ảnh hưởng đến các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam Do vậy trong hoạt động xuất khẩu, cần phải tìm ra những yếu tố mới như mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường xuất khẩu mới, đẩy nhanh các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu mới đi vào hoạt động...và tập trung chỉ đạo quyết liệt tùng nhóm hàng chủ lực như sau: Nhóm khoáng sản: Nhóm này có khả năng tăng trưởng trong năm 2009 do sản lượng dầu thô và than đá xuất khẩu giảm mạnh phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu thụ trong nước, giá xuất khẩu sẽ không ở mức cao như năm 2008. Dự báo kim ngạch nhóm này đạt khoảng 5,92 tỷ USD chiếm tỷ trọng 8,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Giá xuất khẩu dầu thô theo kế hoạch dự báo khoảng 50 USD/thùng, lượng xuất khẩu khoảng 12 triệu tấn ( khoảng 4,61 tỷ USD), như vậy xuất khẩu dầu thô năm 2009 sẽ giảm 55,9% về trị giá và 13,7% về lượng Mặt hàng than đá do chủ trương kiểm soát xuất khẩu tài nguyên nên lượng xuất khẩu dự kiến là 20 triệu tấn, thêm nữa giá xuất khẩu dự kiến sẽ không ở mức cao như năm 2008 vì vậy KNXK cũng sẽ giảm sút. Nhóm hàng nông lâm thủy sản. Nhóm này có khả năng tăng trưởng trong năm 2009 do hạn chế về cơ cấu sản lượng và đặc biệt giá nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực sẽ ở mức thấp so với năm 2008.Dự báo, kim ngạch nhóm này đạt khoảng 12,23 tỷ USD giảm 628 triệu USD,tương đương với 4,8% so với năm 2008. - Mặt hàng gạo sẽ không gặp khó khăn về thị trường do diện tích canh tác trên toàn thế giới có xu hướng ngày càng bị thu hẹp. Dự kiến, năm 2009 xuất khẩu 4,8 triệu tấn, tương đương trên 1,95 tỷ USD, tăng 1,7% so với năm 2008. Tuy nhiên giá xuất khẩu sẽ tiếp tục xu hướng giảm, vì thế trị giá sẽ giảm khoảng 32,8% so với năm 2008, tương đương 952 triệu USD. - Xuất khẩu cà phê cũng không gặp khó khăn về thị trường, nhưng cần quan tâm đến nâng cao giá trị tăng thêm trên một đơn vị sản phẩm xuất khẩu để nâng cao kim ngạch. Dự kiến, năm 2009 xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD với khối lượng xuất khẩu 1,1 triệu tấn, tăng 9,6% về lượng, nhưng giảm 4,5% về trị giá. - Đối với các mặt hàng cao su, hạt tiêu, nhân điều, chè, dự kiến số lượng xuất khẩu sẽ có mức tăng nhẹ về lượng. Nhưng do hạn chế về năng lực sản xuất, chế biến và giá xuất khẩu cũng sẽ không ở mức cao như năm 2008 nên không có tăng đột biến về kim ngạch xuất khẩu (ước tăng khoảng 10-15%). - Mặt hàng thuỷ sản vẫn gặp khó khăn do các nước đang đặt ra hàng rào kỹ thuật mới, kiểm dịch chặt chẽ và thường xuyên ban hành các tiêu chuẩn mới. Tuy nhiên, những thị trường truyền thống của Việt Nam vẫn được duy trì và năng lực sản xuất được cải thiện nên dự kiến kim ngạch ước tăng 11,8 % so năm 2008, chiếm tỷ trọng cao nhất trong nhóm hàng nông lâm, thuỷ sản. Nhóm hàng công nghiệp chế biến Đây là nhóm quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Do kim ngạch xuất khẩu 2 nhóm hàng khoáng sản và nông lâm, thuỷ sản sẽ giảm trong năm 2009 (giảm khoảng 6,6 tỷ USD). Vì vậy, tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 sẽ đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm này. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến cũng chỉ đạt khoảng 52,9 tỷ USD, tăng 38,7% so với năm 2008, tương đương 14,7 tỷ USD. Cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo 2 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn là mặt hàng dệt may (11,5 tỷ USD),da giày (5,1 tỷ USD), hàng điện tử và linh kiện máy tính (4,1 tỷ USD), sản phẩm gỗ (3,0 tỷ USD). - Năm 2009, Mỹ sẽ bỏ hoàn toàn hạn ngạch hàng dệt may đối với Trung Quốc tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với hàng Việt Nam, nhưng hàng Việt Nam cũng sẽ được quan tâm hơn do thâm hụt thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc quá lớn. Phấn đấu năm 2009 kim ngạch hàng dệt may tăng khoảng 25%. - Đối với hàng giày dép, EU vẫn là thị trường trọng điểm, nhưng năm 2009, giày của Việt Nam không được hưởng ưu đãi thuế quan của EU, nhưng mặt hàng giầy dép vẫn có nhiều khả năng để gia tăng kim ngạch xuất khẩu thông qua việc mở rộng sản xuất, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và tăng cường hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu bằng cách tập trung vào khâu thiết kế kiểu dáng, tạo mẫu sản phẩm... - Sản phẩm gỗ là mặt hàng đã khẳng định được vị trí vững chắc trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, ngoài các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, EU, đồ gỗ Việt Nam có khả năng thâm nhập thị trường Mỹ do thuế suất nhập khẩu vào Mỹ thấp. Tuy nhiên năm 2009 cũng sẽ gặp khó khăn do Đạo luật Lacey được ban hành bắt đầu có hiệu lực vào cuối năm nay trong đó sẽ thắt chặt hơn việc kiểm soát nguồn gốc sản phẩm gỗ;. Vì vậy, dự kiến kim ngạch tăng khoảng 8% so với năm 2008. - Sản phẩm nhựa là mặt hàng được đánh giá có khả năng cạnh tranh cao do tiếp cận được với công nghệ hiện đại, có thị trường rộng lớn và không quá khó để thâm nhập, đồng thời xuất khẩu mặt hàng này được hưởng mức thuế thấp hoặc được đối xử ngang bằng như các nước xuất khẩu khác ở hầu hết các thị trường. Vì vậy dự kiến kim ngạch sẽ vượt ngưỡng trên 1 tỷ USD tăng 39,8% so với năm 2008. - Dây điện và cáp điện là mặt hàng có khả năng gia tăng kim ngạch xuất khẩu lớn do xu hướng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và FĐI khá mạnh mẽ. Dự kiến kim ngạch đạt 1,4 tỷ USD, tăng 34% so năm 2008. Ngoài những mặt hàng trên còn một số mặt hàng như túi xách, va li, ô dù, sản phẩm từ cao su, sản phẩm từ gang thép hay tàu thuyền các loại đều là những mặt hàng dự kiến tăng khá trong năm 2009, ở mức trên 30%, riêng mặt hàng tàu thuyền là nhân tố mới nổi được đánh giá là mặt hàng có tốc độ tăng nhanh trong thời gian tới. 2. Phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu Tiếp tục quán triệt phương châm đa phương hóa và đa dạng hóa thị trường. Các thị trường chủ lực của ta trong năm 2009 vẫn là thị trường châu Á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông), châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa kỳ, Canada) và châu Đại dương (Australia). Tiếp tục khai thác và thâm nhập một số thị trường truyền thống như Nga, Đông Âu hoặc thị trường mới như Trung Đông, Mỹ La tinh, châu Phi. Các thị trường lớn như châu Á, châu Âu, châu Mỹ cần phấn đấu tăng trưởng cao hơn mức tăng bình quân chung là 13%. Bảng3: Cơ cấu thị trường xuất khẩu 2009, Bộ Công Thương (Đơn vị tính triệu USD) Khu vực thị trường Năm 2008 Năm 2009 Kim ngạch % so với 2007 Tỷ trọng (%) Kim ngạch % so với 2008 Tỷ trọng (%)  Tổng KN 62.906 129,5 100 71.084 113,0 100 - Châu Á: 28.000 137,8 44,5 31.640 113,0 45,5 Nhật bản 8.000 132,0 9.200 115,0 12,9 Trung Quốc 4.500 134,0 5.300 118,0 7,4 ASEAN 10.220 131,0 11.200 110,0 15,7 Hàn Quốc 1.980 158,0 2.300 121,0 3,2 Đài Loan 1.230 108,0 1.470 120,0 2,0 - Châu Âu : 11.511 118,3 18,3 13.300 115,0 18,7 EU 10.649 118,0 12.200 115,0 17,1 - Châu Mỹ 12.983 121,9 20,6 14.670 113,0 20,6 Hoa kỳ 11.600 115,0 12.760 110,0 17,9 - Châu Đại Dương 4.248 134,9 6,7 3.900 91,8 5,4 - Châu Phi 1.213 195,7 1,9 2.300 189,0 3,2 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2008- Bộ Công Thương Khu vực thị trường Châu Á và Châu Đại Dương: Dự báo xuất khẩu vào các thị trường chính như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan sẽ giảm so với năm 2008, đặc biệt là thị trường ASEAN do xuất khẩu xăng dầu sang thị trường này giảm. Kế hoạch năm 2009 xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Châu Á đạt 31,6 tỷ USD, tăng 13 % so với năm 2008; Khu vực thị trường Châu Đại Dương dự kiến giảm còn bằng 91,8% so với năm 2008 đạt 3,9 tỷ USD cũng bởi nguyên nhân trên. Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo CEPT/AFTA đã và đang tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước này, song do kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng bình quân, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này tiếp tục tăng. Khu vực thị trường Châu Âu:Năm 2009, xuất khẩu những hàng hóa chủ yếu vào thị trường EU dự báo sẽ giảm như dệt may, giầy dép vì nhu cầu tiêu dùng giảm do khủng hoảng kinh tế các mặt hàng có khả năng tăng là sản phẩm nhựa, hàng điện tử, hàng thủy sản. Tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 13,3 tỷ USD, tăng 15%. Khu vực thị trường Châu Mỹ:Do cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ nên tăng trưởng nhập khẩu của Hoa Kỳ năm 2009 dự báo sẽ giảm (trừ những nhóm hàng nhiên liệu và một số nông sản có thể vẫn tăng do vẫn có nhu cầu tiêu dùng và tăng giá) nhất là đối với các nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam như may mặc, giầy dép, vali, túi xách, đồ gỗ, đồ điện tử, cáp điện, sản phẩm nhựa, hạt điều, cà phê. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt 14,6 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2008, trong đó Hoa Kỳ đạt 12,7 tỷ USD, tăng 10%. Các mặt hàng như sản phẩm gỗ, dệt may, giầy dép, cà phê, thủy sản vẫn là những mặt hàng đóng góp lớn vào tăng trưởng. Khu vực thị trường Châu Phi:Dự báo tình hình phát triển kinh tế tại khu vực này có thuận lợi ở một số thị trường và không có đột biến trong chính sách thương mại, đòi hỏi ở thị trường này không quá khắt khe, vì vậy đây là thị trường rất tiềm năng cho Việt Nam, năm 2009 phấn đấu xuất khẩu đạt 2,3 tỷ USD, tăng 89% so với năm 2008. 3. Giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng chủ lực Theo chỉ tiêu của Quốc hội đề ra, để đảm bảo tăng trưởng GDP 2009 là 6,5% thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 phải đạt 13%, tức là tương đương với 72,3 tỷ USD. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước hiện nay để đạt được chỉ tiêu trên là vô cùng khó khăn.Vì thế Việt Nam cần có những giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra những mặt hàng, sản phẩm mũi nhọn để hàng hoá Việt Nam nhanh chóng mở rộng thị trường trong nước và quốc tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tê của nước ta. 3.1. Các giải pháp vi mô Trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế hiên nay, việc tiến hành điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, mặt hàng để có biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh là một trong những việc làm cần thiết và cấp bách. Thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu đối với các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng sản xuất do bị hạn chế về cơ cấu (diện tích, năng suất, thời tiết) không có điều kiện tăng nhiều về lượng, trong đó đặc biệt chú ý các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản. Theo dõi sát, có biện pháp tích cực để đẩy mạnh xuất khẩu trước các diễn biến của thị trường.Nâng cao hiệu quả công tác thông tin dự báo phục vụ cho hoạt động điều hành và hoạt động kinh doanh. Phối hợp với các Bộ, ngành, Hiệp hội triển khai thực hiện đề án phát triển xuất khẩu, hạn chế nhập siêu giai đoạn 2009-2010 sau khi được chính phủ phê duyệt.Đồng thời trình Chính phủ phê duyệt đề án tổ chức và triển khai hình thức bảo hiểm xuất khẩu tại Việt Nam. 3.1.1 Xúc tiến thương mại Để đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trương quốc tế thì vai trò hỗ trợ của nhà nước là không thể thiếu, đặc biệt là công tác xúc tiến thương mại. Việc này cần phải làm vì lợi ích chung của doanh nghiệp chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận cụ thể, gồm các giải pháp sau : - Đưa vào các Website những thông tin có giá trị thương mại đẻ quảng cáo cho các doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. - Tổ chức hội chợ triển lãm quốc tế nhằm quảng bá cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đồng thời qua đó sẽ tao cơ hội cho các nhà nhập khẩu nước ngoài tìm đến với các doanh nghiệp trong nước - Tổ chức các chuyến đi khảo sát thị trường và ký kết hợp đồng xuất khẩu cho các doanh nghiệp thông qua các chuyến thăm cấp cao của các quan chức các nước. - Thành lập quĩ xúc tiến thương mại do cả nhà nước và các doanh nghiệp cùng đóng góp nhằm phục vụ cho các hoạt động xúc tiến thương mại. - Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các khu vực ít bị tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế theo từng ngành hàng, từng hợp đồng XK lớn. Tăng cường tiếp xúc cấp cao để mở rộng thị trường, quan hệ buôn bán; chủ động ứng phó với chính sách bảo hộ mậu dịch; vận động dỡ bỏ các rào cản thuế và phi thuế để tăng xuất khẩu. Tập trung chương trình kêu gọi các tập đoàn lớn nước ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Về vai trò của đại diện thương mại ở nước ngoài, họ là đầu mối quan trọng tạo điều kiện cho các cơ sở xuất khẩu tiếp cận với những thông tin thương mại. Việt Nam cần tăng cường hệ thống đó. Việc bố trí đội ngũ tùy viên thương mại là một hình thức đầu tư tốn kém nhưng không thể không có và chúng ta cần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cho ban đại diện thương mại của mình ở nước ngoài. Khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa đồng tiền thanh toán, bảo hiểm tỷ giá và phòng ngừa rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu. 3.1.2 Lựa chọn kênh phân phối Để cho “dòng chảy” hàng hóa chủ lực của Việt Nam sang các thị trường luôn luôn thông suốt và có lưu lượng ngày càng lớn, càng ổn định. Thì cùng với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa và các hoạt động xúc tiến xuất khẩu các doanh nghiệp phải lựa chọn được các kênh phân phối thích hợp. Tùy theo từng loại sản phẩm và điều kiện của các doanh nghiệp khác nhau mà có thể lựa chọn một trong hai hình thức phân phối sau: Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực kinh tế hạn chế và những sản phẩm mới chưa có được chỗ đứng trên thị trường thì các doanh nghiệp nên liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài. Như vậy các sản phẩm sản xuất ra dựa trên những lợi thế về lao động, nguyên liệuvà kênh phân phối dưa trên những ưu thế về kênh của chương công ty nước ngoài. Thứ hai, đối với các doanh nghiệp lớn có tiềm lực kinh tế và những mặt hàng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Các doanh nghiệp có thể chọn phương thức phân phối trực tiếp. Tức là các doanh nghiệp vừa thực hiện sản xuất vùa phân phối hàng hóa. Tuy nhiên, khi thực hiện phương pháp này ngoài những điều kiện trên về mặt hàng và khả năng của doanh nghiệp, nó vẫn còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu thật kỹ các yếu tố khách quan, chủ quan như mức độ cạnh tranh trong hệ thống phân phối, rào cản của lĩnh vực phân phối, độ dài của các kênh phân phối và phải nói rằng ở đây là phương pháp mạo hiểm với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu thành công thì sẽ giúp doanh nghiệp đứng vững được trên thị trường và là phương pháp mang lại giá trị cao nhất cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Phối hợp với các Bộ, ngành tiếp tục cải cách thủ tục hành chính tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu; đáp ứng đầy đủ, kịp thời kinh phí hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến thương mại. Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích khai thác thông tin trực tiếp tiếp xúc với thị trường thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời năm bắt nhu cầu của thị trường. Việc tham gia các hội chợ triễn lãm nhất là ở nước ngoài có thể gặp khó khăn về kinh tế.Vì vậy doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin của Thương Vụ Việt Nam tại nước sở tại hoặc Cục Xúc Tiến Thương Mại để có được các thông tin cập nhật và cần thiết. 3.1.3 Hoàn thiện công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu Nâng cao hiệu quả thu mua tạo nguồn hàng đối với xuất khẩu là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sự thành công của công tác xuất khẩu.Việc tạo nguồn hàng tốt, chất lượng cao, giá rẻ, giao hàng nhanh sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện hợp đồng xuất khẩu thuận lợi, bảo đảm uy tín đối với khách hàng. Trong thu mua hàng, vấn đề lựa chọn nguồn hàng là rất quan trọng vì qua đây nó đáp ứng được các yêu cầu về chế biến và xuất khẩu. Do đó, đẻ lựa chọn nguồn hàng phù hợp, doanh nghiệp Việt Nam nên căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của mình, thị trường và yêu cầu của khách hàng. Cần lưu ý rằng, trong kinh doanh, người Mỹ có một đặc điểm là: đầu tiên họ đặt hàng với một khối lượng nhỏ để tham dò dung lượng thị trường, nếu dung lượng thị trường trường tiêu thụ lớn họ sẽ đặt hàng với số lượng lớn và vấn đề đặt ra là doanh nghiệp có thể tạo được nguồn hàng đáp ứng nhu cầu đó hay không?. Có 3 nguồn hàng chính nên khai thác như sau: Nguồn hàng do lien doanh liên kết; Nguồn hàng thu mua qua các đại lý; Nguồn ở các công ty các cơ sỏ sản xuất chế biến. Trong đó, nguồn hàng ở các công ty các cơ sở sản xuất chế biến là nguồn hàng cơ bản, bảo đảm về số lượng và chất lượng.Tuy nhiên, giá cả thị trường thường cao hơn các nguồn hàng đại lý và việc ký kết hợp đồng mua hàng thường gắn với nhiều điều kiện do phía nguồn hàng đua ra. Vì thế, nguồn hàng nay chỉ phủ hợp cho những hợp đồng có khối lượng lớn thời gian giao hàng dài. Nguồn hàng thu mua qua các đại lý có đặc điểm là cơ động, phù hợp với việc thực hiện các hợp đồng có lô hàng nhỏ. Nguồn hàng này thường được đảm bảo về số lượng, thời hạn giao hàng, giá cả tương đối rẻ. Tuy nhiên, thường không ổn định mang tính manh mún nhỏ lẻ. Vì vậy, đẻ đảm bảo cho việc chủ động khai thác các nguồn hàng có tỷ lệ chế biến cao, đảm bảo số lượng, chất lượng thì các doanh nghiệp cần xây dựng thêm các cơ sở sản xuất để tạo ra nguồn hàng xuất khẩu dồi dào, tập trung có chất lượng cao. Đồng thời, cũng cần có thêm nhiều chính sách đầu tư, lien doanh, lien kết với các đơn vị chế biến sản xuất một cách thỏa đáng. Để nâng cao công tác tạo nguồn hàng, các doanh nghiệp cần chú trọng một số vấn đề sau: - Lựa chọn nguồn hàng hợp lý, có khả năng về tài chính và năng lực sản xuất, đảm bảo việc thực hiện đầy đủ các hợp đồng kinh tế đã ký. - Thiết lập mạng lưới thu mua hàng cơ động, thuận tiện, đồng thời bố trí các kho một cách hợp lý khoa học. - Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác thu mua. Đặc biệt cần bổ sung them phương tiện vận chuyển, các thiết bị nhà kho, kiểm nghiệm hàng hóa. - Nâng cao hiệu quả công tác kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa. - Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ làm công tác thu mua. - Giảm tổn thất trong khâu thu hoạch. 3.1.4 Tăng cường đầu tư cho khâu chế biến Để nâng cao chất lượng hàng hóa và từ đó tạo them sức cạnh tranh, giảm giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp cần cải tiến đầu tư công nghệ chế biến cho phù hợp với nguồn nguyên liệu và yêu cầu về sản phẩm. Doanh nghiệp cần lập kế hoạch chi tiết về đổi mới công nghệ chế biến: Về thời gian thực hiện loại hình công nghệ định chọn, công suất dự kiến của máy móc, mức đầu tư và nguồn vốn đầu tư, lụa chọn công nghệ cũng phải dựa trên cơ sở đặc điểm vùng nguyên liệu. Các doanh nghiệp cần huy động tối đa nguồn vốn tự có để mua sắm, nâng cấp trang thiết bị, mặt bằng nhà xưởng và tiếp đến là có thể đề nghị vay tín dụng hoặc kêu gọi đầu tư nước ngoài. 3.1.5 Tập trung nâng cao chất lượng hàng hóa Xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường quốc tế khó tính nhất là thị trường Mỹ, Nhật Bản,EUThì chất lượng là yếu tố hàng đầu.Việc đảm bảo các chỉ tiêu về hàng hóa xuất khẩu từng khu vực thị trường là điều kiện sống còn để hàng hóa Việt Nam có thể thâm nhập sâu vào các thị trường. Vì vậy, các doanh nghiệp phải đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa theo yêu cầu của từng thị trường. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải chú ý đến các vấn đề sau: - Nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm Cần khẳng định rằng chất lượng, giá cả hàng hóa và trình độ tiếp thị là những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Trong những năm tới để đảm bảo hàng hóa đủ chất lượng xuất khẩu cần thực hiện đồng bộ các biện pháp: Nâng cao chất lượng nguyên liệu chế biến.Các doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một nguồn nguyên liệu ổn định bằng cách hợp đồng bao tiêu sản phẩm với người sản xuất hỗ trợ một phần kinh phí sản xuất cho họ. Đây là biện pháp tốt nhất để doanh nghiệp có thể chủ động được nguyên liệu, có thể kiểm soát được chất lượng của nguồn nguyên liệu bởi chất lượng nguyên liệu là cơ sở đầu tiên và không thể thiếu đẻ nâng cao chất lượng sản phẩm. Phấn đấu sản xuất nguyên liệu nội địa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên liệu trong nước, tăng tỷ lệ nội địa trong cơ cầu giá trị sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm và được hưởng ưu đãi về thuế quan. Đầu tư thiết bị máy móc công nghệ tiên tiến hiện đại, đồng bộ. Áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Song song với các thay đổi về công nghệ, trang thiết bị, cần phải nâng cao ý thức và trình độ chuyên môn của mỗi công nhân, cán bộ. Phải có chương trình giáo dục, tuyên truyền, đối với mọi cá nhân trong doanh nghiệp về yêu cầu và lợi ích của việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như về vai trò của mỗi người trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, đào tạo cho công nhân các kỹ năng cần thiết để sử dụng có hiệu quả các thiết bị, phương tiện hiện đại, tiên tiến. Đối với cán bộ quản lý chất lượng cần đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để họ thực hiện tốt các công tác quản lý chất lượng hàng hóa từ nhập nguyên liệu – quá trình chế biến- sản phẩm tiêu thụ. 3.1.6 Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế Đẻ khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ và thiếu điều kiện trang bị kiểm nghiệm đo lường đẻ kiểm tra chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tại các nhà máy đẻ kiêm tra hàng hóa trước khi xuất khẩu. Nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng hàng hóa thì từng doanh nghiệp phải chú trọng cho công tác quản lý chất lượng hàng hóa bắt đầu từ nhập nguyên liệu- qui trình sản xuất- sản phẩm nghiệm thu. Tham gia hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO, tiêu chuẩn này đề cập đến các yếu tố chính trong quản lý chất lượng như: chính sách chỉ đạo về chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm, quá trình cung ứng, bao gói, phân phối xem xét đánh giá nội bộ, dịch vụ sau khi bán hàng, kiểm soát tài liệu, đào tạo 3.1.7 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công đối với sự phát triển của một đất nước nói chung và một doanh nghiệp nói riêng. Ngày nay, nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng trong tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức quản lý kinh doanh. Con người là chủ thể của mọi hành động cho nên nó có tính quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Vì vây, các doanh nghiệp cần chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực coi đây là nhiệm vụ mang tính chất chiến lược cả về trước mắt cũng nhu lâu dài. Nhất là hiện nay, tại các thị trường phương thức kinh doanh qua mang internet rất phổ biến như hình thức thương mại điện tử, các hình thức kinh doanh rất đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, qui mô lớn thì việc nắm bắt kịp thời các công cụ, phương tiện, thành tựu công nghệ hiện đại, các kiến thức chuyên môn mới là vô cùng quan trọng. Có thể nói, tư duy kinh doanh, trình độ nghiệp vụ kinh doanh và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so với thế giới. Vì vậy, cần phải đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao năng lực của các cán bộ quản lý và của các cán bộ kinh doanh cũng như của tầng lớp công nhân sao cho đáp ứng được các đòi hỏi của việc kinh doạnh quốc tế về trình độ chuyên môn, về ngoại ngữ, về độ am hiểu pháp luật trong nước và quốc tế. 3.2 Các giải pháp vĩ mô - Tăng cường công tác điều hành hoạt động xuất nhập khẩu để bảo đảm mục tiêu giảm tỷ lệ nhập siêu thấp hơn năm 2008; chú trọng các mặt hàng chiến lược, có tỷ trọng kim ngạch xuất lớn; - Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp xuất khẩu trên tất cả các mặt: năng lực sản xuất, cơ cấu mặt hàng, giá cả, chất lượng, phương thức phân phối...Từng bước đưa doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất của các Tập đoàn đa quốc gia - Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và thúc đẩy mối quan hệ hỗ trợ liên ngành giữa các ngành công nghiệp, trước hết tập trung cho 2 nhóm hàng dệt may và giày dép. - Phối hợp các Bộ, ngành giải quyết kịp thời các vấn đề về cơ chế tài chính, tiền tệ, tỷ giá, thủ tục hải quan...để tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển sản xuất và xuất khẩu; xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và hệ thống kiểm dịch phù hợp tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, đồng thời thúc đẩy, vận động tiêu chuẩn hoá và công nhận lẫn nhau giữa Việt Nam và các đối tác thương mại nước ngoài, đặc biệt đối với những bạn hàng lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản... - Tăng cường và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu để đạt hiệu quả cao; phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu cao hơn mức tăng nhập khẩu, từng bước giảm tỷ lệ nhập siêu. - Tiếp tục chủ động mở rộng thị trường; đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác trong và ngoài khu vực; tích cực tìm hiểu, tìm cơ hội xuất khẩu vào các thị trường mới, có tiềm năng nhằm hạn chế rủi ro biến động thị trường. - Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Cần xã hội hoá công tác đào tạo, theo đó những doanh nghiệp lớn cũng được xem xét cấp kinh phí đào tạo công nhân cho mình và cung cấp cho những doanh nghiệp khác. Tổ chức nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân viên thiết kế để đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước. - Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng và tăng cường sự phối hợp với các Bộ, ngành quản lý để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành. Các Hiệp hội cần tổ chức tốt mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng hoá để cung cấp cho các hội viên và doanh nghiệp. Phối hợp với các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài trong việc thông tin về tình trạng pháp lý và khả năng thanh toán của đối tác, nhằm giảm thiểu rủi ro trong giao kết hợp đồng xuất khẩu, nhất là ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang chịu tác động ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng tài chính. - Tích cực phát huy vai trò của thương nhân Việt Nam ở nước ngoài để đẩy mạnh việc đưa hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường, nhất là những khu vực có cộng đồng người Việt sinh sống. - Thúc đẩy và tăng cường đàm phán mở cửa thị trường với những thị trường tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu như Nga, EU, Hoa Kỳ, Trung Đông, châu Phi. - Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu cũng như thủ tục hành chính: Để tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian từ nay cho đến 2010, nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý và cơ chế chính sách xuất nhập khẩu theo hướng: - Rà soát lại hệ thống pháp luật đẻ điều chỉnh qui định không còn phù hợp. Trước hết là luật Thương Mại, luật đầu tư nước ngoài, cần đua thêm các qui định về đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại, dịch vụ. - Ban hành các văn bản pháp luật mới về điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như văn bản pháp luâth về tối hệ quốc, chống bán phá giá và chống trợ cấp các văn bản đó nó định hướng cho việc xuất khẩu các mặt hàng của nước ta ra thị trường thế giới gặp nhiều thuận lợi. - Công khai hóa và luật pháp hóa là việc đầu tiên cần làm trong tiến trình đổi mới công tác quản lý. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu các thông tin về các qui định của Nhà nước có liên quan đến việc kinh doanh của họ. Vì vậy, cần phải thông báo rộng rãi các văn bản pháp luật của Nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng và cần phải có một khoảng thời gian hợp lý đẻ các doanh nghiệp áp dụng mà không bị bất ngờ, bối rối. - Xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển hệ thống dịch vụ để tạo môi trường thuận lợi đẻ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy phát triển thương mại. Để tăng lực nội sinh nền kinh tế trong những năm tới, trong điều kiện Việt Nam còn thiếu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, không thể không kể đến vai trò của đầu tư nước ngoài. Việt Nam cần tạo ra những điều kiện ưu đãi hơn so với các nước khác ở những lĩnh vực mà Việt Nam cần ưu tiên phát triển. Các ưu đãi được thể hiện trong việc miễn giảm các loại thuế, thời hạn liên doanh mức thuế đất, thủ tục cấp phép cải thiện cơ sở hạ tầng, hoàn thiện hệ thống tài chính ngân hàng mở ra khả năng chuyển nhượng vốn thông qua thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư. Cần tiếp tục có những chính sách tự mình hoặc thu hút đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu hàng hóa nói riêng. Đồng thời chú trọng công tác đào tạo để có được một đội ngũ những người lao động trẻ thích nghi với trình độ sản xuất kinh doanh ở qui mô lớn hiện đại và tiên tiến. - Tạo điều kiện thuận lới cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu sang các thị trường quốc tế. Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhà nước vẫn kiên trì chính sách nhiều thành phần kinh tế tham gia trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế dần, tiến tới xóa bỏ độc quyền mở rộng đầu mối kinh doanh xuất khẩu, khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tham gia xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đảm bảo sự bình đẳng trong việc tiếp nhận các nhân tố đầu vào. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, cần thiết phải tiến hành cải cách theo hướng hiện đại hóa, chẳng hạn thông qua cổ phần hóa một cách phù hợp, có thể áp dụng một số biện pháp hỗ trợ về vốn, tín dụng nhà nước. Tuy nhiên, cần khẳng định rõ đầu tư của nhà nước chỉ tập trung vào những xí nghiệp có thể tồn tại được sau khi không có hàng rào bảo hộ. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có thể áp dụng một số hình thức hỗ trợ như cấp tín dụng ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực phù hợp với qui mô nhỏ và dễ phát huy lợi thế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. KẾT LUẬN Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực có vai trò vô cùng quan trọng, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng đóng góp cho nền kinh tế quốc dân,Trong những năm qua xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam lien tục tăng trưởng thể hiện ở tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường truyền thống và sang các thị trường mới.Bên cạnh những mặt tích mà xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đã mang lại thì còn một số hạn chế nhất định đó là chua phát huy tối đa được lợi thế về nguồn tài nguyên của đất nước, chưa tiếp thu được trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, việc vươn ra chiếm lĩnh thị trường thế giới còn yếuVì thế, cùng với các chính sách đúng đắn hỗ trợ xuất khẩu của nhà nước thì hi vọng rằng nền xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sẽ phát triển hơn nũa ngày càng có nhiều mặt hàng được xếp vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô và đặc biệt là GS-TS Đặng Đình Đào đã tạo điều kiện thuân lợi cho em hoàn thành đề tài nay. Sinh viên thực hiện Trương Văn Đại TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế thương mại GS-TS Đặng Đình Đào, GS-TS Hoàng Đức Thân. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của ngành Công Thương. Nguyệt san thời báo kinh tế Việt Nam năm 2008. Thời báo kinh tế Sài Gòn 18/12/2008. Niên giám thống kê 2001-2008. Xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 2007-2008.Tổng cục thống kê. Tạp chí doanh nghiệp Thương Mại số 6/2008. Tạp chí kinh tế Châu Á Thái Bình Dương số 8/2008 Một số trang websitew tham khảo: www.ngoaithuong.vn (Cổng thông tin xuất nhập khẩu). www.moit.gov.vn (Bộ Công Thương) www.customs.gov.vn (Tổng cục hải quan). MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1969.doc
Tài liệu liên quan