Điều trị phẫu thuật u sọ hầu

Lựachọnđườngvàophẫuthuật Theo nghiên cứu của chúng tôi, các đường vào phẫu thuật của 103 bệnh nhân u sọ hầu là đường dưới trán 1 hoặc 2 bên, đường vào qua rãnh liên bán cầu, đường vào qua thóp bên trước (pterional), đường qua xoang bướm, đường dưới thái dương và đường trán ổ mắt cung Zygoma. Việc lựa chọn đường vào này tuỳ thuộc vào vị trí u, kích thước u, mức độ lan rộng cũng như đặc điểm cấu trúc của u (nang dịch và nhân đặc hay phần hoá vôi). Với các u trong và trên yên, chúng tôi chủ yếu lựa chọn đường vào dưới trán (1 hoặc 2 bên) hoặc đường vào thóp bên trước pterional. Trường hợp khu trú trong hố yên và làm dãn rộng hố yên, chúng tôi chọn đường vào qua xoang bướm là thích hợp nhất. Phần lớn các trường hợp trong nghiên cứu là u lớn, đã lan rộng từ vùng trên yên đến não thất ba, thậm chí đến não thất bên, do đó chúng tôi chọn đường dưới trán 2 bên xuyên qua mảnh tận (lamina terminalis) để lấy u vùng trên yên và trong não thất ba. Đối với u phát triển lớn sang bên trán hay thái dương thì đường vào trán thái dương ổ mắt cung zygoma được lựa chọn. Việc lựa chọn đường mổ của chúng tôi còn phụ thuộc vào yếu tố quan trọng nữa là kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Tuỳ vào sự thuận lợi của phẫu thuật viên mà có thể thay đổi đôi chút như từ đường dưới trán 1 bên thành đường dưới trán thái dương 1 bên. Biếnchứngphẫuthuật Nhờ có sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán trước mổ (MRI) và vi phẫu thuật giúp cải thiện kết quả phẫu thuật của chúng tôi trong vài năm gần đây. Tất cả các trường hợp u sọ hầu đều được các phẫu thuật viên có kinh nghiệm lâu năm thực hiện. Song song đó là việc theo dõi, chăm sóc và hồi sức sau mổ tốt hơn nên cũng cải thiện được tỷ lệ tử vong. Tỷ lệ tử vong trong lô nghiên cứu của chúng tôi là 2,9% (3/103 ca trong 2.5 năm): Một ca u lớn vùng trên yên lan vào não thất ba và bên kèm xuất huyết trong u, sau mổ có xuất huyết tái phát vào não thất gây dãn não thất cấp tính và tử vong. Trường hợp thứ 2 là trẻ em 6 tuổi có ứ đọng CO2 kéo dài trong quá trình gây mê, tuy phẫu thuật lấy u thuận lợi nhưng rối loạn tim mạch sau mổ không thể kiểm soát bằng thuốc nên tử vong trong 24 giờ đầu. Ca còn lại cũng là 1 bé gái 10 tuổi hôn mê sâu, sốt cao, tụt huyết áp và tử vong 1 tuần sau mổ xuất huyết tái phát kèm phù não nặng sau mổ. Nguyên nhân tử vong được cho là do tổn thương vùng hạ đồi. Các biến chứng thường gặp sau mổ như dò DNT ra mũi, máu tụ hố mổ, dãn não thất sau mổ hầu như được can thiệp kịp thời và cứu sống được bệnh nhân. Rối loạn sau mổ đặc thù của u vùng trên yên là đái nhạt cũng chiếm 63,1% trong đó rối loạn tạm thời là 46,7% và đánh giá rối loạn vĩnh viễn là 16.5%, những trường hợp này thường có chỉ định sử dụng demopressine lâu dài.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 50 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật u sọ hầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não     235  ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U SỌ HẦU  Phan Trung Đông*, Nguyễn Phong*  TÓM TẮT   Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật u sọ hầu tại khoa ngoại thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy.   Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 103 trường hợp u sọ hầu đã được phẫu thuật từ 1/2012 đến 6/2014 tại  khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. Khảo sát triệu chứng lâm sàng, hình ảnh học trước và sau phẫu thuật,  đường vào phẫu thuật, kết quả phẫu thuật và các biến chứng. Đánh giá kết quả phẫu thuật dựa trên thang điểm  GOS cùng với sự cải thiện của các triệu chứng lâm sàng và mức độ lấy u.  Kết quả: Gồm 44 nam và 59 nữ, tuổi từ 6 tháng đến 68 tuổi. U có kích thước < 3cm chiếm 66%, từ 3‐6 cm  chiếm 32%, 2 trường hợp u lớn hơn 6 cm. Đa số u nằm vùng trên yên (68%), Vùng não thất III 25,2%, lan lên  vùng não thất bên 4.9%. Phẫu thuật lấy toàn bộ u 28,2%, lấy gần toàn bộ u 69.8%, lấy bán phần u 1% và sinh  thiết u 1%. Đường vào phẫu thuật gồm đường dưới trán 2 bên chiếm 58,3%, với mức độ lấy toàn bộ u là 43,3%.  Đường vào thóp trước bên (pterional) chiếm 22,3% với mức độ lấy toàn bộ u là 8,7% và các đường vào khác như  dưới trán một bên 1.9%, qua rãnh liên bán cầu 6,8%, qua xoang bướm 8,7%, dưới thái dương 1% và trán thái  dương ổ mắt cung gò má 1%. Biến chứng phẫu thuật chung là 14,6%: máu tụ hố mổ (10,7%) và phù não nặng  (9,7%), dãn não thất (5,8%), viêm màng não (3.9%), dò dịch não tuỷ (3,9%). Đái nhạt sau mổ chiếm 63,1%. Kết  quả tốt chiếm 87,4%, khá 9,7%, tử vong 2,9%  Kết luận: Phẫu thuật u sọ hầu trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ lấy phần lớn u và toàn bộ u chiếm đa  số (98,1%) với mức độ bảo tồn cuống tuyến yên là 73,8%. Đái nhạt sau mổ 63,1%. Tỷ lệ biến chứng sau mổ là  14,6%. Tỷ lệ tử vong là 2,9%.   Từ khoá: U sọ hầu, đái nhạt.   ABSTRACT  SURGICAL TREATMENT OF CRANIOPHARYNGIOMAS  Phan Trung Dong, Nguyen Phong    * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 235 – 240  Objective:  We  describe  our  surgical  techniques  for  resection  of  craniopharyngiomas  tumors  in  Neurosurgery department of Chợ Rẫy hospital.  Methods:  A  retrospective  analysis  was  performed  of  103  surgically  treated  patients  with  craniopharyngiomas  tumors  (anapathology)  between  1/2012  and  6/2014;  patients’  files,  imaging  studies,  operative notes, complications and outcome were used for the analysis.  Results:  The  female‐to‐male  ratio was  1.3:1. Great  part  of  tumors were under  3cm  in  diameter  (66%),  beween 3 to 6cm were 32%. A giant tumor cas was over 10cm. The craniopharyngiomas classification modifined  of Sammii showed 68% series grade II (in the cistern ± intrasella). Grade III (inside of the third ventricle) was  25.2%  and  grade  IV  (septum  pellucidum  or  lateral  ventricle)  was  4.9%.  Inside  sella  (grade  I)  was  1.9%.  Hydrocephalus were found 36.9%. The subfrontals approach was most frequently used in our series (58.3%). The  pterional approach (22.3%), Transsphenoidal approach (8.7%), bifrontal interhemispheric approach (6.8%) and  some  others way were  also used  to  remove  subtotal  to  total  resection  of  tumor  (98.1%) with  pituirary  stalk  preserve were  73.8%.  The  surgical  complications  rate was  14.6%  (mortality  rate was  2.9%).  The  common  * Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Chợ Rẫy  Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Phong;  ĐT: 0903 744 085;   Email: drnguyenphong@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 236 complications of these were hematoma (10.7%), brain edema (9.7%), hydrocephalus (5.8%), meningitis (3.9%),  CSF rhinorrhea (3.9%). The post‐op diabetes insipidus were 63.1% (mean urine was 4.7± 2.04 litre/24 hours).  Conclusion: In our study, the most of cases were subtotal to total tumor resection (98.1%) with 73.8% of  cases which  the  pituitary  stalk  is  available  (the  post‐op  diabete  insipidus were  63.1%).  The  general  post‐op  complications rate were 14.6%, the morbility rate were 2.9%  Keywords: craniopharyngiomas, diabetes insipidus  ĐẶT VẤN ĐỀ  Cùng  với  sự  phát  triển  hiện  nay  của  các  phương tiện hỗ trợ như chẩn đoán hình ảnh, giải  phẫu vi phẫu(3,6,4,9,11), hocmon thay  thế(6,4,11) và xạ  phẫu(6,10) đã giúp việc điều trị u sọ hầu có nhiều  bước tiến đáng kể trong thời gian qua. Tại Bệnh  viện Chợ Rẫy hiện nay với sự trang bị tương đối  hiện  đại,  toàn diện  trên  các  lĩnh vực Hình  ảnh  học‐  xạ phẫu,  chuyên  khoa  nội  tiết   thì  việc  điều trị phẫu thuật u sọ hầu ngoài mục tiêu hàng  đầu là lấy toàn bộ u thì vấn đề còn được đặt ra là  kết quả sau phẫu thuật và chất lượng cuộc sống  của bệnh nhân. Nghiên  cứu này  của  chúng  tôi  nhằm đánh giá phương pháp phẫu thuật và kết  quả ngắn hạn trong điều trị u này tại bệnh viện  Chợ Rẫy trong thời gian qua.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Nghiên  cứu  hồi  cứu  trên  103  ca  u  sọ  hầu  (theo giải phẫu bệnh là u sọ hầu và nang Raths)  đã điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại Thần Kinh  bệnh  viện Chợ Rẫy  trong  khoảng  thời  gian  từ  tháng  1/2012  đến  hết  tháng  6/2014.  Tất  cả  các  bệnh nhân  trên đều được ghi nhận về độ  tuổi,  giới  tính,  đặc  điểm  lâm  sàng,  hình  ảnh  học  (MRI/CTscan).  Đặc  điểm quá  trình phẫu  thuật,  mức  độ  lấy u  theo quan  sát  trong  lúc mổ,  tình  trạng  cuống  tuyến  yên  cũng  như  các  tai  biến  phẫu thuật. Đánh giá tình trạng bệnh nhân xuất  viện dựa trên thang điểm GOS và tình trạng đái  nhạt sau mổ. Kết quả bệnh lý được trả lời bằng  kết quả giải phẫu bệnh của bệnh viện Chợ Rẫy.  KẾT QUẢ   Độ tuổi và giới tính  Gồm 44 nam và 59 nữ, tỷ lệ Nam:Nữ là 1:1,3   Từ 6 tháng đến 68 tuổi. Trung bình 28.1±17.9  tuổi, tập trung từ 20‐40 tuổi chiếm 33%.   Triệu chứng lâm sàng u sọ hầu   Triệu chứng khởi phát và các biểu hiện  lâm  sàng đặc trưng của u sọ hầu được thống kê theo  bảng dưới đây:  Bảng 1: Triệu chứng khởi phát và biểu hiện lâm sàng  của u sọ hầu  Triệu chứng khởi phát Biểu hiện lâm sang Đau đầu 80 77,7% Hội chứng tăng áp lực nội sọ 19 18,4% Mờ mắt 72 69,6% Đái nhiều (3 ± 1,15 lít/ngày) 7 6,8% 1 mắt 31 30,1% Sụp mi 1 1,0% 2 mắt 41 39,8% Liệt vận nhãn 1 1,0% Nôn 16 15,5% Giảm thị lực 79 76,7% Mất kinh 3 2,9% 1 bên 30 29,1% Lơ mơ 2 1,9% 2 bên 49 47,6% Chóng mặt 2 1,9% Mù hoàn toàn 2 mắt 4 3,9% yếu chi 2 1,9% Bán manh thái dương 53 51,5% Động kinh 2 1,9% 1 mắt 22 21,4% Loang choạng 2 1,9% 2 mắt 31 30,1% Rối loạn tâm thần 1 1,0% Suy chức năng yên 57 55,3% Ù tai 1 1,0% Suy yên toàn bộ 7 6,8% Suy yên 1 phần** 50 48,5% Kèm tăng Prolactin 6 5,8% ** Hầu hết các trường hợp là giảm FSH, LH hoặc/và kèm  giảm cortisol máu, suy giáp và 1 số ít có giảm ACTH. 1  trường hợp giảm GH có triệu chứng không phát triển cơ  thể và cơ quan sinh dục ngoài, vô kinh nguyên phát.   Hình ảnh học u sọ hầu   Khảo  sát hình  thái u dựa  trên CT và MRI:  Đặc  điểm, vị  trí, kích  thước,  liên quan với  cấu  trúc thần kinh mạch máu xung quanh.   Khảo sát vị trí của khối u, chúng tôi đánh giá  mức độ phát  triển của u dựa  trên phân độ của  Sammii(7,9).  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não     237  Bảng 2: Phân độ u sọ hầu theo Sammii (1991) (7,9)  Phân độ (sammii) N=102 n % Độ I Trong hố yên 2 1,9% Dưới hoành yên Độ II Vùng trên yên 70 68,0% Độ III Dưới ½ não thất III 26 25,2% Độ IV Trên ½ não thất III Độ V Não thất bên 5 4,9% Hình 1: (Hình ảnh học MRI sọ não tín hiệu T1W có  thuốc đối quang từ ở 3 bình diện chuẩn)   Bệnh  nhân Nguyễn  Trọng  P.  (nam)  2004,  nhập viện Chợ Rẫy 2014 vì  đau  đầu và mờ 2  mắt  (mắt  trái  7/10  và mắt  phải  9/10),  có  thu  hẹp  thị  trường  góc mũi  trái.  Suy  yên  1 phần  (LH‐FSH  giảm,  cortisol  máu  giảm  nặng.  Hocmon  giáp  bình  thường),  chẩn  đoán U  sọ  hầu  (độ  IV  theo  Sammii(6,9)). Bệnh nhân  được  phẫu thuật lấy u toàn bộ qua đường dưới trán  2 bên, không bảo  tồn  được  cuống  tuyến yên.  Đái  nhạt  sau mổ  và  dùng  hocmon  thay  thế  vĩnh viễn.   Kích  thước  khối  u  được  đo  theo  đường  kính lớn nhất và xếp vào 3 nhóm kích thước là  dưới 3cm (u thường nằm trọn trong vùng trên  yên),  từ  3‐6cm  (u  có  xu  hướng  vào  đến  não  thất ba‐ não  thất bên) và  trên  6cm  thường  là  những u khổng  lồ, xâm  lấn  rộng  ra  sau hoặc  sang  bên. Một  trường  hợp  u  lớn  với  đường  kính >10 cm.  Bảng 3: Kích thước u chia theo đường kính lớn nhất  Kích thước u n Tỷ lệ % Dưới 3 cm 68 66,0 3-6cm 33 32,0 Trên 6 cm 2 1,9 Sự lan rộng của khối u vào hố thái dương có  2  trường hợp chiếm 1,9%, hố sau 3  trường hợp  2,9%, xâm lấn vào xoang hang 1 trường hợp.   Hình 2: (Hình ảnh học MRI sọ não tín hiệu T1W có  thuốc tương phản trước mổ và CT scan sọ não kiểm  tra sau mổ):   Bé gái Nguyễn Phương V. 6 tuổi (2007) nhập  viện Chợ Rẫy năm 2013 vì đau đầu và mờ 2 mắt  (mắt Trái sang tối (‐) và mắt phải bóng bàn  tay  20cm)  khoảng  1  năm.  Thường  xuyên  nôn,  đi  đứng  loạng  choạng, yếu  chi.  Được phẫu  thuật  lấy gần toàn bộ u qua đường dưới trán 2 bên kết  hợp đường qua rãnh liên bán cầu, bảo tồn cuống  yên (2013).   Phẫu thuật u sọ hầu   Việc lựa chọn đường mổ thích hợp dựa vào  vị trí và sự lan rộng của u. Đường mổ qua xoang  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 238 bướm  được  thực hiện  đối với u nằm  trong hố  yên. Khi u phát triển lên trên yên và não thất III  thì  có  thể  chọn  đường  dưới  trán  2  bên  hay  đường qua  thóp bên  trước  (pterional)(8,6,4,9). Một  trường hợp u lan rộng vào hố thái dương và hố  sau nên chúng tôi chọn đường mổ qua trán ‐ thái  dương  ‐  ổ  mắt  –  cung  Zygoma  (Orbital‐ Zygomatic Approach)(6,4,9).  Bảng 4: Đường vào phẫu thuật và mức độ lấy u   Đường vào phẫu thuật và mức độ lấy u (N = 103) Gần toàn bộ u Toàn bộ u n Tỷ lệ % Đường dưới trán 1 bên 2 0 2 1,9 Đường dưới trán 2 bên 34 25 60 58,3 Rãnh liên bán cầu 7 0 7 6,8 Pterional 19 2 23 22,3 Qua xoang bướm 9 0 9 8,7 Đường dưới thái dương 0 1 1 1,0 Trán - thái dương - ổ mắt – cung Zygoma 1 0 1 1,0 Đường vào phẫu thuật được sử dụng nhiều  nhất  là đường dưới trán 2 bên (58,3%) với mức  độ lấy toàn bộ u là 43,3%, khả năng bảo tồn được  cuống yên là 58,3% và đường vào thóp trước bên  (pterional)  (22,3%) với mức độ  lấy  toàn bộ u  là  8,7%, khả năng bảo tồn cuống yên là 100%.   Mức độ lấy u  Lấy toàn bộ u chiếm 28,2% và lấy phần lớn u  chiếm  69,9%  với mức  độ  bảo  tồn  cuống  tuyến  yên là 73,8%. (76/103 trường hợp).   Giải phẫu bệnh học u sọ hầu(1,5)  Thể  hỗn  hợp  (Mixed)  đa  số  là  47,6%,  Adamantinomatous  35,9%  và  papillary  13,6%.  Bên cạnh đó, nang Raths cũng chiếm 2,9%.   Tai biến và biến chứng phẫu thuật(3,6,4,9,11,7)  Tổn thương dây khứu (CNI) có 2 ca (1,9%): 1  ca bị 1 bên và 1 ca bị cả 2 bên.   Viêm màng não sau mổ 4 ca (3,9%): 1 ca dò  DNT  ra mũi, 2 ca có EVD sau mổ, 1ca  sau mổ  mở sọ giải ép.  Dò DNT qua mũi 4 ca  (3,9%):  tất cả đều  đi  đường qua xoang bướm: 2 ca (1,9%) tự bít dò mà  không cần phẫu thuật hay dẫn  lưu thắt  lưng, 1  ca chỉ cần dẫn  lưu  thắt  lưng và 1 ca phải phẫu  thuật bít dò + dẫn lưu thắt lưng.   Máu tụ hố mổ 11 ca (10,7%) trong đó cần mổ  lấy máu tụ + giải ép là 6 ca (5,8%)  Phù  não  nặng  sau  mổ  có  10  trường  hợp  (9,7%), 2 trường hợp phải mở sọ giải ép, 1 trong  2 ca này phải tiếp tục đặt VP shunt để giải quyết  tình  trạng dãn não  thất. 1  ca  đặt EVD do kèm  theo viêm màng não + dãn não thất sau mổ.   Dãn não thất sau mổ   6  ca  (5,8%):  4  ca  giải  quyết bằng VP shunt và 2 ca chỉ đặt EVD.   Đái nhạt sau mổ có 48 ca đa niệu  tạm  thời  (46,6%)  và  vĩnh  viễn  là  17  ca  (16,5%).  (Lượng  nước tiểu trung bình là 4,7± 2,04 lít/24 giờ).   Trong 7 ca đái nhạt trước mổ thì có 2 trường  hợp cải thiện và phục hồi sau mổ. 4 trường hợp  còn lại trở thành đa niệu vĩnh viễn, 1 trường hợp  tử vong trong 24 giờ đầu sau mổ nên không thể  đánh giá được biến chứng này.   Tử vong sau mổ có 3 ca (2,9%): 1 ca trẻ em 6  tuổi có ứ đọng CO2 kéo dài trong quá trình gây  mê,  tuy  phẫu  thuật  lấy  u  thuận  lợi  nhưng  rối  loạn nhịp tim sau mổ không thể kiểm soát bằng  thuốc nên tử vong ngay trong 24 giờ đầu. 1 ca có  xuất huyết não  thất nặng sau mổ 8 giờ,  tri giác  giảm nhanh và không phục hồi sau khi đặt EVD.  Ca  thứ  3  là  trường hợp bé gái  10  tuổi  có  xuất  huyết tái phát kèm phù não nặng nên được phẫu  thuật  lấy máu  tụ và phần u  còn  lại.  Sau phẫu  thuật bé hôn mê sâu, sốt cao, tụt huyết áp và tử  vong 1 tuần sau đó.  Bảng 5: Tai biến và biến chứng phẫu thuật u sọ hầu  Tai biến – biến chứng n Tỷ lệ % Đái nhạt 65 63,1% Máu tụ hố mổ 11 10,7% Phù não nặng sau mổ 10 9,7% Dãn não thất 6 5,8% Viêm màng não 4 3,9% Dò DNT ra mũi 4 3,9% Tử vong 3 2,9% Tổn thương dây sọ I 2 1,9% Đái  nhạt  là  biến  chứng  thường  gặp  nhất  trong  phẫu  thuật  u  sọ  hầu.  Đây  là  một  biến  chứng sớm, xuất hiện ngay trong những giờ đầu  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não     239  sau mổ và có thể gây tử vong do rối loạn thăng  bằng  nước  và  điện  giải,  tuy  nhiên  lại  là  biến  chứng có thể kiểm soát tốt. Tỷ lệ máu tụ hố mổ  và  phù  não  sau mổ  còn  cao.  (10,7%  và  9,7%).  Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây  tử vong hàng  đầu  trong phẫu  thuật não. Tỷ  lệ  biến chứng chung sau mổ là 14,6%  BÀN LUẬN   Lựa chọn đường vào phẫu thuật   Theo nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  các  đường  vào phẫu  thuật của 103 bệnh nhân u sọ hầu  là  đường dưới  trán 1 hoặc 2 bên,  đường vào qua  rãnh liên bán cầu, đường vào qua thóp bên trước  (pterional),  đường  qua  xoang  bướm,  đường  dưới  thái  dương  và  đường  trán  ổ  mắt  cung  Zygoma. Việc lựa chọn đường vào này tuỳ thuộc  vào vị trí u, kích thước u, mức độ lan rộng cũng  như đặc điểm cấu trúc của u (nang dịch và nhân  đặc hay phần hoá vôi). Với các u  trong và  trên  yên, chúng tôi chủ yếu lựa chọn đường vào dưới  trán  (1  hoặc  2  bên)  hoặc  đường  vào  thóp  bên  trước  pterional.  Trường  hợp  khu  trú  trong  hố  yên  và  làm  dãn  rộng  hố  yên,  chúng  tôi  chọn  đường vào qua xoang bướm  là  thích hợp nhất.  Phần  lớn các trường hợp trong nghiên cứu  là u  lớn, đã  lan rộng  từ vùng  trên yên đến não  thất  ba, thậm chí đến não thất bên, do đó chúng tôi  chọn  đường dưới  trán  2  bên  xuyên  qua mảnh  tận (lamina terminalis) để lấy u vùng trên yên và  trong não thất ba. Đối với u phát triển lớn sang  bên trán hay thái dương thì đường vào trán thái  dương ổ mắt cung zygoma được lựa chọn.   Việc  lựa chọn đường mổ của chúng  tôi còn  phụ  thuộc  vào  yếu  tố  quan  trọng  nữa  là  kinh  nghiệm của phẫu  thuật viên. Tuỳ vào sự  thuận  lợi của phẫu  thuật viên mà có  thể  thay đổi đôi  chút như từ đường dưới trán 1 bên thành đường  dưới trán thái dương 1 bên.   Biến chứng phẫu thuật   Nhờ có sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn  đoán trước mổ (MRI) và vi phẫu thuật giúp cải  thiện kết quả phẫu thuật của chúng tôi trong vài  năm gần  đây. Tất  cả  các  trường hợp u  sọ hầu  đều  được  các phẫu  thuật viên  có kinh nghiệm  lâu năm thực hiện. Song song đó là việc theo dõi,  chăm sóc và hồi sức sau mổ tốt hơn nên cũng cải  thiện được tỷ lệ tử vong. Tỷ lệ tử vong trong lô  nghiên cứu của chúng tôi là 2,9% (3/103 ca trong  2.5 năm): Một ca u lớn vùng trên yên lan vào não  thất ba và bên kèm xuất huyết trong u, sau mổ  có xuất huyết tái phát vào não thất gây dãn não  thất cấp tính và tử vong. Trường hợp thứ 2 là trẻ  em 6 tuổi có ứ đọng CO2 kéo dài trong quá trình  gây mê, tuy phẫu thuật lấy u thuận lợi nhưng rối  loạn tim mạch sau mổ không thể kiểm soát bằng  thuốc nên  tử vong  trong 24 giờ đầu. Ca còn  lại  cũng là 1 bé gái 10 tuổi hôn mê sâu, sốt cao, tụt  huyết áp và  tử vong 1  tuần sau mổ xuất huyết  tái  phát  kèm  phù  não  nặng  sau mổ. Nguyên  nhân  tử vong được cho  là do  tổn  thương vùng  hạ đồi.  Các biến chứng thường gặp sau mổ như dò  DNT ra mũi, máu tụ hố mổ, dãn não thất sau mổ  hầu  như  được  can  thiệp  kịp  thời  và  cứu  sống  được bệnh nhân.   Rối loạn sau mổ đặc thù của u vùng trên yên  là đái nhạt cũng chiếm 63,1%  trong đó rối  loạn  tạm thời là 46,7% và đánh giá rối loạn vĩnh viễn  là 16.5%, những  trường hợp này  thường có chỉ  định sử dụng demopressine lâu dài.   Kết quả phẫu thuật  Phần lớn các bệnh nhân được phẫu thuật lấy  toàn bộ u và gần toàn bộ u (thường để lại phần  nhỏ bao u dính vào cuống yên, vùng hạ đồi hoặc  vào các động mạch não). Chỉ 1 trường hợp sinh  thiết (u chảy máu nhiều khó cầm do xâm lấn vào  xoang hang) và lấy bán phần u do phù não trong  mổ kéo dài (ứ CO2 không cải  thiện) khiến phẫu  trường bị hạn chế. Không có sự khác biệt về mức  độ lấy u giữa các đường vào phẫu thuật (p>0,05).   Phẫu  thuật  lấy  phần  lớn  đến  toàn  bộ  u  song  vẫn  bảo  tồn  được  cuống  tuyến  yên  (73,8%).  Khả  năng  bảo  tồn  cuống  yên  trong  trường hợp  lấy phần  lớn u  (88%)  cao hơn  so  với  lấy  toàn bộ u  (38%)  (p<0,001). Các  trường  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 240 hợp không bảo  tồn được cuống yên  thì 59,3%  có kích thước u dưới 3cm và 37% có kích thước  3‐6cm.  1  ca  (0,7%)  lớn  hơn  6cm.  Không  tìm  thấy  sự khác biệt về khả năng bảo  tồn cuống  yên giữa các nhóm kích thước u (p>0,05). Trên  thực  tế  phẫu  thuật,  u  phát  triển  lớn  thường  làm cuống yên bị dãn mỏng nên việc bảo  tồn  thường  khó  khăn.  Trong  trường  hợp  không  bảo tồn được cuống yên, bệnh nhân phải dung  liệu pháp niệu  tiết  lâu dài dưới  sự hỗ  trợ và  theo dõi của các bác sĩ chuyên khoa nội tiết.   KẾT LUẬN   Phẫu thuật u sọ hầu hiện nay vẫn còn nhiều  thách thức. Lựa chọn tốt nhất là lấy toàn bộ u với  các tổn thương cấu trúc mạch máu thần kinh và  cuống yên tối thiểu. Phẫu thuật u sọ hầu trong lô  nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ lấy u phần lớn  u và toàn bộ u chiếm đa số (98,1%) với mức độ  bảo tồn cuống tuyến yên là 73,8%. Đái nhạt sau  mổ 63,1%,  được  đánh giá  tạm  thời  là 46,6% và  16,5% vĩnh viễn (cùng với việc sử dụng học môn  thay  thế).  Tỷ  lệ  biến  chứng  chung  sau mổ  là  14,6%. Tỷ lệ tử vong trong 2,5 năm là 2,9%.   TÀI LIỆU THAM KHẢO   1. Adamson TE, Wiestler OD, Kleihues P, Yaşargil MG (1990).  Correlation of clinical and pathological features  in surgically  treated craniopharyngiomas. J Neurosurg 73:12‐17.  2. Baskin  DS,  Wilson  CB  (1986).  Surgical  management  of  craniopharyngiomas. A review of 74 cases. J Neurosurg 65:22‐ 27.  3. Fahlbusch  R,  Honegger  J,  Buchfelder  M  (1996).  Clinical  features and management of  craniopharyngiomas  in adults,  in Tindall GT, Cooper PR, Barrow DL  (eds): The Practice of  Neurosurgery. Baltimore: Williams & Wilkins, pp 1159‐1173.  4. Fahlbusch R, Honegger J, Paulus W, Huk W, and Buchfelder  M  (1997). Surgical  treatment of  craniopharyngiomas. Part  I.  Experience with 168 patients. Neurosurg Focus 3 (6): Article 2.  5. Harrison MJ, Morgello  S,  Post  KD  (1994).  Epithelial  cystic  lesions  of  the  sellar  and  parasellar  region:  a  continuum  of  ectodermal derivatives? J Neurosurg 80:1018‐1025.  6. Komotar  RJ,  Roguski  M,  Bruce  JN  (2009).  Surgical  management of craniopharyngiomas. J Neurooncol 92:283–296.  7. Konovalov  AN  (1993).  Craniopharyngioma:  complications  and  their  avoidance,  in  Apuzzo  MLJ  (ed):  Brain  Surgery:  Complication  Avoidance  and  Management.  New  York:  Churchill Livingstone, Vol 1, pp 362‐368.  8. Maira G, Anile C, Rossi GF, et al (1995). Surgical treatment of  craniopharyngiomas:  an  evaluation  of  the  transsphenoidal  and pterional approaches. Neurosurgery 36:715‐724.  9. Samii  M,  Bini  W  (1991).  Surgical  treatment  of  craniopharyngiomas. Zentralbl Neurochir 52:17‐23.  10. Wisoff  JH  (1994).  Surgical  management  of  recurrent  craniopharyngiomas. Pediatric Neurosurg 21 (Suppl 1):108‐113.  11. Yasargil MG, Curcic M, Kis M,  Siegenthaler G, Teddy PJ,  Roth  P  (1990):  Total  removal  of  craniopharyngiomas.  Approaches and long‐term results in 144 patients. J Neurosurg  73‐311.  Ngày nhận bài báo:       21/10/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   02/11/2014  Ngày bài báo được đăng:    5/12/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdieu_tri_phau_thuat_u_so_hau.pdf
Tài liệu liên quan