Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại ngân hành công thương Ba Đình

Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với doanh nghiệp Nhà nước nhưng trong đó Tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mại tài sản trên để thu hồi nợ. Nếu không các cơ quan này phải có trách nhiệm đền bù thay cho các doanh nghiệp. Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý ( các thủ tục hành chính để phát mại tài sản, giải quyết việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản ) tạo điều kiện cho tài sản được mua bán chuyển nhượng dễ dàng, nhanh chóng. Bên cạnh đó, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần từ nhiều năm nay song trong chính sách với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy không còn bị phân biệt đối xử nhưng vẫn chưa thực sự được bình đẳng, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng, bảo lãnh. Vấn đề này Nhà nước nên tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và nhanh chóng hoàn thành qúa trình cổ phần hoá doanh nghiệp.

doc79 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại ngân hành công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có nhiều khó khăn, từ dịch cúm gia cầm tái phát trên phạm vi rộng đến sức ép tăng giá ở nhiều loại vật tư hàng hoá khiến cho một số ngành hoạt động kém hiệu quả, không đáp ứng được các điều kiện bảo lãnh. Chi nhánh giảm dần, hạn chế mức tín dụng của một số doanh nghiệp ngành giao thông vận tải và xây dựng. - Có nhiều món bảo lãnh phát sinh hơn song giá trị bảo lãnh nhỏ, đồng thời nhiều khỏan bảo lãnh đến hạn thanh toán. 2.1.3. Về cơ cấu bảo lãnh Thứ nhất, cơ cấu bảo lãnh theo thời hạn Bảng - Cơ cấu bảo lãnh theo thời hạn (§VT: triÖu ®ång) ChØ tiªu N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007 D­ nî BL NH 483.931 92,7 535.464 92,5 623.456 92,4 D­ nî BL T & DH 38.109 7,3 43.416 7,5 51.523 7,6 Tæng d­ nî BL 522.040 100 578.880 100 674.979 100 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo lãnh của NHCT khu vực Ba Đình). Từ số liệu trên đây có thể nhận thấy: dư nợ bảo lãnh ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng dư nợ bảo lãnh, nhưng đang có xu hướng giảm dần. Điều này có nghĩa là ngân hàng đã bắt đầu quan tâm tới nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp và đáp ứng được phần nào các nhu cầu đó. Tỷ trọng bảo lãnh dài hạn tăng dần từ 7,3% (2005) đến 7,6%. Biểu đồ cơ cấu bảo lãnh theo thời hạn Thứ hai, cơ cấu bảo lãnh theo đối tượng khách hàng Tại chi nhánh, khách hàng đến giao dịch được phân chia làm ba loại: các tổ chức nước ngòai, các DNNN và các thành phần kinh tế khác (chủ yếu là các công ty TNHH, công ty cổ phần). Mỗi nhóm đối tượng này đều có những đặc điểm riêng , có những ưu thế và hạn chế nhất định. Vì thế, nhiệm vụ của cán bộ bảo lãnh tại chi nhánh là phải nắm bắt được những đặc điểm đó để có thể đưa ra những quy định, hình thức ưu đãi, loại hình bảo lãnh thích hợp nhất đối với khách hàng của mình. Bảng - cơ cấu bảo lãnh theo đối tượng khách hàng (§VT: triÖu ®ång) ChØ tiªu N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007 DNNN 431.303 71,7 372.799 64,4 389.477 61,5 TCNN 65.255 12,5 71.781 12,4 72.810 11,5 Thµnh phÇn kinh tÕ kh¸c 82.482 15,8 134.300 23,2 171.400 27 Tæng 522.040 100 578.880 100 633.687 100 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo lãnh NHCT khu vực Ba Đình) Biểu đồ cơ cấu bảo lãnh theo đối tượng khách hàng Ta có thể thấy, trị giá bảo lãnh của ngân hàng đối với DNNN chiếm tỷ trọng chủ yếu nhưng có xu hướng giảm dần từ 71,7% năm 2005 xuống còn 61,5% năm 2007. Các DNNN có được sự hỗ trợ từ phía chính phủ hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, việc duy trì những khách hàng này là nhiệm vụ tất yếu.Tuy nhiên, tỷ trọng giá trị bảo lãnh này còn quá cao, sẽ là hạn chế lớn trong nguồn thu từ bảo lãnh của chi nhánh. Giá trị bảo lãnh của chi nhánh đối với các doanh nghiệp nước ngòai (bao gồm các tổ chức tín dụng, các ngân hàng nước ngoài) chiếm một tỷ lệ không cao, trung bình khoảng 12,1%. Có thể thấy, với các cam kết bảo lãnh cho nhóm đối tượng này sẽ mang lại một khỏan thu đáng kể cho Chi nhánh, đồng thời sẽ nâng cao uy tín của Chi nhánh nói riêng và NHCT Việt Nam nói chung tên trường quốc tế. Tuy nhiên, tỷ trọng cũng như giá trị bảo lãnh của chi nhánh còn khá hạn chế. 80% khách hàng của phòng thanh toán xuất nhập khẩu ở chi nhánh là các công ty TNHH, công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhânTuy nhiên, giá trị bảo lãnh đối với nhóm khách hàng này còn tương đối, chỉ khoảng 15,8% năm 2005. Đến năm 2007, giá trị bảo lãnh vào khoảng 27%. Nguyên nhân của thực trạng này là do nhóm khách hàng này có nguồn tài chính, quy mô hoạt động còn hạn chế nên các hợp đồng kinh tế có giá trị nhỏ. Mặc dù nguồn thu từ nhóm khách hàng này không cao nhưng việc duy trì và mở rộng thêm nhóm khách hàng này sẽ góp phần giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động kinh doanh, phát triển kinh tế. Thứ ba, cơ cấu bảo lãnh theo phạm vi lãnh thổ Bảng . Cơ cấu bảo lãnh theo phạm vi lãnh thổ (ĐVT: triệu đồng) ChØ tiªu N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007 sè tiÒn % sè tiÒn % sè tiÒn % D­ nî b¶o l·nh trong n­íc 450.521 86,3 491.469 84,9 512345 851 D­ nî b¶o l·nh n­íc ngßai 71.519 13,7 87.411 15,1 89512 14,9 Tæng 522.040 100 578.880 100 601857 100 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo l•nh NHCT khu vực Ba Đình) Cơ cấu bảo lãnh theo phạm vi lãnh thổ Nhìn vào số liệu này có thể thấy nhu cầu bảo lãnh trong nước lớn hơn nhu cầu bảo lãnh nước ngòai. Ngân hàng chủ yếu tập trung vào các dự án trong nước nhỏ, do các doanh nghiệp Việt Nam tham gia đấu thầu, thực hiện hợp đồng Thứ tư, cơ cấu bảo lãnh theo mục đích Theo mục đích bảo lãnh, chi nhánh cung cấp bốn nhóm bảo lãnh chính là: bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh ứng trước và các loại bảo lãnh khác. Bảng . Cơ cấu bảo lãnh theo mục đích (ĐVT: triệu đồng) ChØ tiªu N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007 sè tiÒn % sè tiÒn % sè tiÒn % B¶o l·nh thanh to¸n 4.400 0,84 28.380 4,9 31.208 4,3 B¶o l·nh thùc hiÖn H§ 250.900 48,06 230.400 39,8 296.130 40,7 B¶o l·nh dù thÇu 65.500 12,55 45.500 7,86 44.950 6,8 B¶o l·nh øng tr­íc 142.740 27,34 220.300 38,06 298.302 41 B¶o l·nh kh¸c 58.500 11,21 54.300 4,9 56.450 7,76 Tæng 522.040 100 578.880 100 727.040 100 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo l•nh NHCT khu vực Ba Đình) Cơ cấu bảo lãnh theo mục đích Với hình trên, loại bảo lãnh thực hiện hợp đồng là loại bảo lãnh đóng vai trò chủ đạo trong các loại bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng (qua ba năm gần đây, tỷ trọng giá trị bảo lãnh của loại này trung bình đạt 42,85% trong dư nợ bảo lãnh mỗi năm). Bảo lãnh thanh toán đã bắt đầu được quan tâm hơn và giá trị bắt đầu tăng lên qua từng năm, với bước đột phá vào năm 2006 đạt 4,9%. Đến năm 2007 giảm nhẹ còn 4,3%. Nếu như giá trị bảo lãnh của bảo lãnh dự thầu giảm mạnh qua các năm (từ tỷ trọng 12,55% năm 2005 xuống còn 6,8% năm 2007) thì thay vào đó bảo lãnh ứng với đã có được sự quan tâm thích đáng. Giá trị bảo lãnh ứng trước tăng mạnh từ 27,34% năm 2005, năm 2006 đạt 38,08% và đến năm 2007 đạt 41%. Các loại bảo lãnh ngòai bốn loại bảo lãnh chủ yếu trên thỉ tỷ trọng này giảm dần. Và do đó, có thể nhận thấy chi nhánh từ việc chú trọng vào ba loại bảo lãnh là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh khác, hiện nay, chi nhánh đã có sự tập trung và hai loại chính là bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh ứng trước, với tỷ trọng của hai loại này đạt 81,7% giá tri bảo lãnh năm 2007. 2.1.4 về doanh thu từ hoạt động bảo lãnh Bảo lãnh là một trong hai dịch vụ của ngân hàng cung cấp cho khách hàng ở chi nhánh, hai loại dịch vụ đó là dịch vụ thẻ và dịch vụ bảo lãnh. Bảng . Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh trong tổng doanh thu (ĐVT: triệu đồng) ChØ tiªu N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007 sè tiÒn % sè tiÒn % sè tiÒn % Tæng DT 323.822 100 448.050 100 492.300 100 DT tõ dÞch vô 13.046 4,03 20.566 4,59 25.431 5,17 DT tõ b¶o l·nh 457 0,14 787 0,18 892 0,18 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo l•nh NHCT khu vực Ba Đình) Cơ cấu bảo lãnh theo phạm vi lãnh thổ Từ số liệu trên đây có thể nhận xét xu hướng chung hàng năm tổng doanh thu, doanh thu từ dịch vụ, doanh thu từ bảo l•nh đều tăng. Tuy nhiên, có thể thấy, doanh thu từ dịch vụ chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng doanh thu của Chi nhánh: năm 2005, doanh thu từ dịch vụ bằng 4,03% tổng doanh thu, năm 2006 là 4,59%, đến năm 2007 là 5,17%. Điều đó chứng tỏ dịch vụ của chi nhánh cung cấp chưa thực sự phát triển mạnh, đóng vai trò quan trọng như tiền năng vốn có. Tỷ trọng doanh thu từ dịch vụ trong tổng doanh thu của chi nhánh đã nhỏ như trên phân tích, song, doanh thu từ bảo lãnh còn ít nữa. Doanh thu từ bảo lãnh chỉ chiếm 0,14% so với doanh thu từ dịch vụ năm 2005, 0,18% năm 2006 và 0,18% năm 2007 mà thôi. Như vậy, có thể nói, mặc dù hàng năm, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh vẫn tăng với tốc độ trung bình khoảng 152% năm 2005, 172% năm 2006 song trên thực tế, nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chỉ đóng góp một phần rất nhỏ vào doanh thu của cả chi nhánh, với mức đóng góp trung bình chưa đạt 4%/ năm. 2.3. Đánh giá về hiệu quả hoạt động bảo lãnh của chi nhánh NHCT Ba Đình. 2.3.1. Những kết quả đạt được 2.3.1. Xây dựng được hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh Cho đến nay, nghiệp vụ bảo lãnh đã được quy định trong Luật, nghị định của chính phủ và các văn bản pháp quy khác của NHNN Việt Nam. Trên cơ sở đó, NHCT Việt Nam đã cụ thể hóa bằng quyết định số 2000/QĐ - NHCT22 ngày 17/11/2006 kèm theo việc ban hành quy trình xử lý nghiệp vụ bảo lẫnh mã số QT.22.04 để phù hợp với đặc điểm hoạt động của NHCT Việt Nam cũng như các điều kiện đổi mới của đất nước. Về cơ bản, hành lang pháp lý của hoạt động bảo lãnh ở NHCT Việt Nam nói chung và chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình nói riêng đảm bảo thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chi nhánh về hoạt động bảo l•nh. 2.3.2. Góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước trong xu thế hội nhập quốc tế. Một là, hoạt động bảo lãnh nói chung và bảo lãnh ở chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình là công cụ để các doanh nghiệp Việt Nam thu hút hàng tỷ USD thông qua việc vay vốn nước ngòai và mua hàng trả chậm để đầu tư bằng các công cụ mới vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đặc biệt, tạo điều kiện để khai thác tốt nhất lợi thế so sánh trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế của Việt Nam. Hai là, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng luân chuyển hàng hoá, tiền tệ và nâng cao chất lượng, hiệu quả của các công trình xây dựng. Đây là công cụ có hiệu quả thúc đẩy các hoạt động giao dịch kinh tế, thương mại trong nước. 2.3.3. Những kết quả cụ thể từ khi triển khai hoạt động bảo lãnh Một là, doanh thu từ nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng tăng (475 triệu đồng vào năm 2005 đã tăng lên 892 triệu đồng năm 2007, tăng 1,88 lần), đóng góp vòa tổng doanh thu hàng năm của ngân hàng, nâng cao kết quả kinh doanh của ngân hàng, đồng thời góp phần mở rộng quan hệ và nâng cao uy tín của ngân hàng đối với khách hàng cũng như đối với nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Hai là, giá trị cam kết bảo lãnh tăng mạnh hàng năm. Năm 2005 1423 món bảo lãnh thì năm 2006 đạt 1940 món (gấp 1,36 lần), đến năm 2007 là 2471 món (gấp 1,74 lần). Ba là, chất lượng dịch vụ bảo lãnh cũng ngày càng được nâng cao. Trong cả ba năm nghiên cứu, không có năm nào ngân hàng phải thực hiện việc trả thay cho khách hàng, thực hiện nghĩa vụ tài chính cho khách hàng. Do vậy không để lại những khỏan tín dụng bắt buộc và không gây ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán. Điều này có nghĩa là, đối với dư nợ bảo lãnh quá hạn, dư nợ bảo lãnh quá hạn, dư nợ bảo lãnh quá hạn khê đọng và dư nợ bảo lãnh quá hạn khó đòi: thực tế, tỏng ba năm gần đây nhất, không có một khỏan bảo l•nh nào của chi nhánh mà đến kỳ thanh toán khách hàng không trả được nợ. Do vậy, những khỏan dư nợ bảo lãnh "xấu" này không tồn tại ở chi nhánh. Điều đó chứng tỏ chi nhánh đã làm tốt công tác quản lý các khỏan sau bảo lãnh. Bốn là, khách hàng của chi nhánh chưa có sự phàn nào nào về phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng phụ trách hoạt động bảo lãnh, về biểu phí của ngân hàng, về hình thức bảo đảm mà ngân hàng áp dụng. Điều đó cho thấy chi nhánh đã có sự cạnh tranh tốt trong hoạt động bảo lãnh. Năm là, hoạt động bảo lãnh của chi nhánh đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Những hoạt động bảo lãnh của chi nhánh thực hiện đã phục vụ chủ yếu của ngành nghề, lĩnh vực được ưu tiên phát triển. 2.4. Hạn chế và nguyên nhân 2.4.1. Hạn chế Từ những phân tích về chất lượng bảo lãnh ở phần trên, chúng ta có thể thấy chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Ba Đình về cơ bản chưa thật sự tốt. Có rất nhiều biểu hiện minh chứng cho nhận xét này: Về doanh số bảo lãnh Doanh số bảo lãnh phát sinh của CN NHCT Ba Đình có nhiều biến động thất thường trong các năm. Năm 2005, doanh số bảo lãnh phát sinh tăng mạnh nhưng sang năm 2006 doanh số bảo lãnh lại giảm đáng kể. Về các nghiệp vụ bảo lãnh Hiện nay các nghiệp vụ bảo lãnh của chi nhánh chưa thực sự đa dạng và phong phú. Nhiều loại bảo lãnh chưa bao giờ được thực hiện ở CN như nghiệp vụ bảo lãnh bao tiêu hàng hóa, Nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu và thường xuyên là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh mở L/C.Thời hạn bảo lãnh thường ngắn và doanh số thực hiện từng loại bảo lãnh cũng không cao và có biến động thất thường. Về cơ cấu bảo lãnh của CN: Đối tượng khách hàng của CN còn nhiều hạn chế chỉ xoay quanh các doanh nghiệp lớn,các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ truyền thống lâu năm; không phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế, điều này đã quyết định đến cơ cấu bảo lãnh của CN. Cơ cấu bảo lãnh của CN có nhiều bất hợp lý, trong đó cơ cấu chủ yếu nghiêng về phía tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp lớn. Vì vậy cơ cấu bảo lãnh theo tỷ lệ ký quỹ đa phần vẫn là các khoản bảo lãnh ký quỹ 0% và ký quỹ 5%. Cơ cấu bảo lãnh không hợp lý chính là biểu hiện rõ nét, minh chứng cho sự chưa hoàn thiện trong chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Ba Đình. Về thu nhập từ dịch vụ bảo lãnh: Doanh thu từ dịch vụ bảo lãnh của chi nhánh khá thấp, khoảng trên 20 tỷ, chiếm một tỷ trọng nhỏ (xấp xỉ 10%) trong tổng doanh thu của CN. Dịch vụ bảo lãnh chưa thực sự được CN coi trọng và phát triển một cách đúng mức. So với các dịch vụ tín dụng khác, dịch vụ bảo lãnh thường chỉ là dịch vụ đi kèm theo, tức là các khách hàng bảo lãnh thường là các khách hàng có quan hệ tín dụng từ trước với CN. Về mức độ an toàn của chi nhánh khi thực hiện bảo lãnh: Mặc dù cho đến nay CN chưa từng phải thanh toán bảo lãnh hộ khách hàng nhưng hoạt động bảo lãnh của CN vẫn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, khi rủi ro xảy ra tổn thất sẽ rất lớn. 2.4.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân khách quan Có rất nhiều các văn bản do NHNN và các NHCT Việt Nam quy định về nghiệp vụ bảo lãnh nhưng mà vẫn không đầy đủ, đồng bộ và hay thay đổi làm cho quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nếu mà ngân hàng thực hiện đúng quy trình và quy định đó thì hầu hết các doanh nghiệp đều không có đủ điều kiện để được hưởng dịch vụ bảo lãnh, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó mà mặc dù nhu cầu của các doanh nghiệp thì nhiều mà Ngân hàng Công thương Cầu Giấy vẫn khó có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu đó. Bên cạnh đó, thì các quy định về thế chấp, cầm cố tài sản, các thủ tục giải quyết các tranh chấp, phát mại tài sản... chưa đầy đủ, còn nhiều vướng mắc gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thực hiện bảo lãnh cũng như thu lại các khoản bồi hoàn nếu rủi ro xảy ra, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước, mà đây lại đang là đối tượng chính sách của Ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng và các NHTM nói chung. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà cửa được triển khai chậm, thủ tục công chứng không rõ ràng và thống nhất cũng làm chậm lại tốc độ đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Công thương Ba Đình. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp không đủ vốn để sản xuất kinh doanh. Vốn vay ngân hàng, vốn chiếm dụng, vốn đi vay khác hiện nay là nguồn vốn chủ yếu để sản xuất kinh doanh. Thậm chí một số dự án mới được duyệt, doanh nghiệp mới được thành lập thì vốn vay và vốn bảo lãnh của ngân hàng chiếm gần như 100%. Số các doanh nghiệp muốn xin bảo lãnh thì lớn, nhưng số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thực khả thi thì ít, đó là một áp lực lớn đối với ngân hàng khi thẩm định để bảo lãnh không có hoặc không đủ các điều kiện đảm bảo an toàn bảo lãnh, không có tài sản thế chấp. Các doanh nghiệp thì hầu như có vốn tự có thấp, không đủ điều kiện để vay vốn và xin bảo lãnh, hiệu suất và năng suất không cao, khả năng hoàn vốn tín dụng thấp. Các doanh nghiệp tư nhân thì không có vốn ký quỹ hoặc không có đảm bảo cho bảo lãnh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chưa quen với bảo lãnh Năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh và tính minh bạch trong các báo cáo tài chính... của doanh nghiệp để được ngân hàng thực hiện bảo lãnh còn rất nhiều hạn chế. Trình độ và năng lực quản lý của doanh nghiệp cũng là một vấn đề bức xúc. Họ rất khó khăn trong việc xây dựng những chiến lược khả thi để được ngân hàng dựa vào đó để ra quyết định bảo lãnh Hơn nữa, việc doanh nghiệp được quyền vay vốn từ các ngân hàng khác nhau, mở các tài khoản giao dịch tại nhiều nơi khiến cho sự quản lý của ngân hàng đối với doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, khó nắm bắt được tình hình hoạt động và công nợ thực tế của doanh nghiệp để có thể ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, theo quyết định 283 NHCT không được nhận bảo lãnh cho khách hàng chưa có quan hệ giao dịch tín dụng và thanh toán với ngân hàng thêm vào nguyên nhân khách quan Hoạt động trên địa bàn có nhiều tổ chức tín dụng, đặc biệt là ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài và ngân hàng ngoại thương là những ngân hàng có nhiều điều kiện thuận lợi và kinh nghiệm cũng như uy tín cao trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Vì vậy ngân hàng luôn phải đối đầu và mất đi phần nào thị phần hoạt động bảo lãnh trên thị trường và làm hạn chế sự tăng trưởng phát triển nghiệp vụ này của ngân hàng. Do đó đã hạn chế các đối tượng khách hàng này sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng. * Nguyên nhân chủ quan - CN chưa chú trọng đến việc tìm một cơ cấu khách hàng hợp lý Khách hàng được bảo lãnh ở CN chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp quốc doanh lâu năm, có quan hệ truyền thống với CN, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông và xây dựng cơ bản. Chính vì chưa chú trọng vào việc đa dạng hóa khách hàng nên chất lượng bảo lãnh của CN phụ thuộc rất lớn vào rủi ro kinh doanh của khách hàng. Nếu có một sự cố xảy ra trong lĩnh vực giao thông làm cho các doanh nghiệp trong ngành này bị đình chỉ hoạt động thì CN sẽ gặp tổn thất rất lớn. - Do đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng chưa có đủ kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết trong phân tích, thẩm định khách hàng. Hiện nay, đội ngũ nhân viên làm việc tại chi nhánh chủ yếu là những cán bộ trẻ, có năng lực, nhiệt tình và tận tâm với công việc nhưng thiếu kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết. Vì vậy, họ còn gặp nhiều khó khăn và sai sót trong công tác thẩm định các điều kiện bảo lãnh, đặc biệt là với các khoản bảo lãnh cho các dự án có quy mô lớn. - Do chính sách ký quỹ của CN còn nhiều bất cập Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh lớn, có uy tín, vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp quen được Nhà nước ưu ái. Vì vậy, để giữ khách hàng CN thường phải áp dụng một chính sách ký quỹ nới lỏng cho họ. Các doanh nghiệp này khi yêu cầu bảo lãnh thường không phải ký quỹ hoặc chỉ ký quỹ ở mức 5%. Mức ký quỹ quá ít và tỷ trọng của các khoản bảo lãnh này lại rất lớn mặc dù sẽ đem lại nhiều phí bảo lãnh hơn cho ngân hàng nhưng làm tăng rủi ro tiềm ẩn trong các khoản bảo lãnh và làm giảm chất lượng bảo lãnh của CN. - CN chưa chú trọng đến việc thực hiện thống nhất và khoa học quy trình bảo lãnh: Tuy đã phân rõ trách nhiệm của từng cán bộ tín dụng trong quy trình bảo lãnh nhưng công tác thẩm định vẫn chưa được thực hiện một cách chặt chẽ và nghiêm túc. Nhiều khi việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, quyết định có bảo lãnh hay không chủ yếu dựa trên mối quan hệ truyền thống, lâu năm và lịch sử của khách hàng. CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH 3.1. Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình giai đoạn 2007-2010. 3.1.1. Mục tiêu kinh doanh. Chiến lược phát triển trong 10 năm tới của NHCT Ba Đình là phấn đấu trở thành một Chi nhánh Ngân hàng mạnh tại Hà Nội, tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, phát huy sức mạnh của tập thể, quyết tâm phấn đấu đạt những mục tiêu cụ thể sau: - Đẩy mạnh công tác huy động vốn bằng việc thực hiện đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đặc biệt chú trọng đến nguồn vốn trung và dài hạn. - Thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, an toàn, hiệu quả. Đẩy mạnh việc thu hồi nợ gia hạn, nợ quá hạn, nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng quan hệ với các khách hàng tiềm năng. Không những thế, Ngân hàng còn mở rộng quan hệ với tất cả khách hàng bao gồm khách hàng truyền thống và khách hàng mới để tạo dựng một cơ sở khách hàng rộng lớn và đa dạng làm nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng. Phát triển dịch vụ ngân hàng đến tất cả các đối tượng từ doanh nghiệp cho đến cá thể, từ doanh nghiệp quốc doanh đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Đẩy mạnh phát triển mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nhằm nâng cao tỷ trọng thu phí dịch vụ trên tổng các nguồn thu của Chi nhánh. Phát triển và mở rộng các kênh phân phối sản phẩm dịch vụ thông qua thiết lập các phòng giao dịch để đáp ứng kịp thời và hiệu quả việc sử dụng dịch vụ của khách hàng. - Vận dụng các mô hình quản lý hiện đại và khoa học trên thế giới nhằm điều hành tốt hoạt động của Ngân hàng. Củng cố công nghệ và khai thác các sản phẩm ngân hàng nhằm cung ứng các sản phẩm đa dạng và chuyên nghiệp theo yêu cầu khác nhau của các đối tượng khách hàng khác nhau. - Tăng cường công tác kiểm tra,kiểm soát nội bộ nhằm đảm bảo tính an toàn cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt chú trọng đến chất lượng của cán bộ kiểm tra để đảm bảo tính công minh và thống nhất. 3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình. Không nằm ngoài chiến lược phát triển chung của Ngân hàng, hoạt động bảo lãnh cũng được xác định phương hướng phát triển cụ thể phù hợp với xu thế phát triển chung. NHCT Ba Đình chủ trương thúc đẩy hoạt động bảo lãnh theo cả chiều rộng và chiều sâu thể hiện ở những điểm sau: * Đa dạng hoá sản phẩm bảo lãnh: Trong đó, vừa tiếp tục thực hiện những sản phẩm truyền thống vừa phát triển những loại hình bảo lãnh mới và dịch vụ đi kèm. Để phục vụ nhu cầu của một nền kinh tế thị trường năng động, NHCT Ba Đình tiếp tục nghiên cứu để cung cấp cho thị trường những sản phẩm bảo lanlhx mới có tính chất hỗn hợp nhưng thuận tiện và đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng. Ngân hàng sẽ phấn đấu thực hiện dịch vụ tư vấn cho thuê két để hỗ trợ cho các loại hình bảo lãnh đồng thời thu hút khách hàng và tăng thu cho ngân hàng. * Nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh đặc biệt là chất lượng của khâu thẩm định. Thẩm định một cách bài bản và chuyên nghiệp nhằm hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động bảo lãnh do tìm hiểu chưa kỹ, đánh gía sai lệch thông tin từ phía khách hàng đồng thời làm tốt công tác thẩm định để tránh và giảm thiểu tối đa các khoản nợ quá hạn. Ngoài ra, để góp phần đảm bảo chất lượng cho hoạt động bảo lãnh, Ngân hàng đang tiến hành đầu tư công nghệ hiện đại cùng những sản phẩm phần mềm tiên tiến đã được sử dụng tại các ngân hàng ưu việt trên thế giới. * Hoàn thiện quy trình bảo lãnh cũng là một mục tiêu phấn đấu của Ngân hàng nhằm đơn giản hoá quy trình, thời gian thực hiện các bước trong quy trình được rút ngắn nhưng vẫn đạt hiệu quả cao. * Ngoài các mục tiêu chiến lược trên, Chi nhánh sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nghiệp vụ bảo lãnh. Xuất phát từ ý nghĩa kinh tế, hoạt động bảo lãnh đòi hỏi phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ tác nghiệp có trình độ nghiệp vụ thành thạo, hiểu biết mốt cách sâu sắc không những về phương diện lý luận mà còn về công tác cụ thể để thực hiện tốt một công tác quan trọng như bảo lãnh. Yếu tố con người luôn luôn chi phối tất cả các hoạt động vì vậy, sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. 3.2. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình. 3.2.1. Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh trong từng giai đoạn. Trong nền kinh tế thị trường theo xu hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, không chỉ trong riêng ngành ngân hàng mà trong tất cả mọi thành phần kinh tế thì ở mỗi thời kỳ khác nhau nền kinh tế có những đặc điểm và những thay đổi khác nhau, chúng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động bảo lãnh ở ngân hàng. Do đó, trên cơ sở đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, NHCT Việt Nam nói chung và NHCT Ba Đình nói riêng phải xây dựng cho mình một kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh hàng năm vừa mang tính chất dài hạn phù hợp với chiến lược phát triển chung vừa mang tính khả thi. Các kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh phải quán triệt được tư tưởng đã được đề ra, xác định được hệ thống các mục tiêu, chỉ ra được hướng đi, phương thức và giải pháp thực hiện các mục tiêu đó. Trong quá trình xây dựng kế hoạch, công việc xác định quan điểm về sự phát triển hoạt động bảo lãnh có một vai trò trọng yếu vì mỗi kế hoạch phải chỉ ra được vị trí, tầm quan trọng cũng như cơ cấu của từng loại hình bảo lãnh. Quan điểm phát triển ở đây có thể hiểu là việc tiếp tục tăng trưởng hay tạm thời thu hẹp hoạt động bảo lãnh, tập trung phát triển loại hình bảo lãnh nào và phương châm phát triển như thế nàoCác kế hoạch phải chỉ ra được những mục tiêu rõ ràng cần đạt được trong giới hạn thời gian. Các mục tiêu phải sát với tình hình thực tế và nằm trong khả năng thực hiện của Ngân hàng. Có như vậy, tư tưởng về sự phát triển hoạt động bảo lãnh mới có thể được thực thi một cách có hiệu quả và huy động được mọi nguồn lực trong Ngân hàng. Sau khi xác định được mục tiêu, kế hoạch phát triển phải có những biện pháp, những bước đi cụ thể để đạt được các mục tiêu đó. Giải pháp phải đáp ứng được nhu cầu về cân đối nguồn lực, phát huy thế mạnh của hoạt động bảo lãnh trong ngân hàng. Không những đưa ra hướng giải quyết cho những hạn chế, các giải pháp trong thực tế phải hợp lý và thực hiện được. Tuy không biện pháp nào là tuyệt đối hoàn hảo nhưng phải mang tính chất toàn diện, không được mang tính chất cục bộ vì như vậy, có thể sẽ không thích hợp với chiến lược chung. 3.2.2. Các giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh. tập thể ban giám đốc và cán bộ công nhân viên chi nhánh đã xác định tập chung vào các nghiệp vụ chủ yếu sau : * Đa dạng hoá các sản phẩm bảo lãnh. Khi các mối quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp, nhu cầu bảo lãnh của doanh nghiệp ngày càng tăng về số lượng, phong phú về hình thức và loại hình. NHCT Ba Đình sớm nắm bắt được nhu cầu đó đã cung ứng rất nhiều loại hình bảo lãnh. Tuy nhiên, vẫn còn một số loại hình bảo lãnh Ngân hàng chưa đưa vào thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng doanh số không cao như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh phát hành chứng khoán và một số loại hình dịch vụ kèm theo Do vây, để phát triển hoạt động bảo lãnh, thu hút thêm khách hàng mới và củng cố quan hệ với khách hàng truyền thống, ngân hàng cần chú trọng đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh. Chúng ta đã biết nhu cầu về bảo lãnh là yếu tố khách quan tác động tới sự phát triển của hoạt động bảo lãnh. Các loại hình bảo lãnh trên chưa thực hiện hoặc doanh số không cao thực chất không phải là khách hàng không có nhu cầu mà do ngân hàng chưa có biện pháp kích thích khách hàng hoặc chưa đủ khả năng để đáp ứng. Trong thực tế, NHCT Ba Đình chỉ thực hiện bảo lãnh vay vốn dưới hình thức tín dụng thương mại L/C trả chậm mặc dù các doanh nghiệp có nhu cầu rất lớn về vay vốn. Để vay vốn, doanh nghiệp chủ yếu dùng biện pháp cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh bằng uy tín của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sở dĩ như vậy là vì NHCT Ba Đình còn e ngại về rủi ro gặp phải trong bảo lãnh vay vốn. Bảo lãnh có hiệu lực rất mạnh do đó nếu quá trình thẩm định không đạt tiêu chuẩn sẽ có thể gây ra những tổn thất không nhỏ cho Ngân hàng. Để tạo sự thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng cũng nên phát triển các sản phẩm mới có tính hỗn hợp. Trong thực tế, một quan hệ kinh tế có thể phát sinh nhiều quan hệ bảo lãnh. Vì vậy, Ngân hàng thực hiện cùng lúc nhiều hoạt động bảo lãnh cho một quan hệ kinh tế sẽ dẫn đến chồng chéo, khó có khả năng kiểm soát. Ngân hàng cần nghiên cứu để đưa ra một loại hình bảo lãnh hỗn hợp quy định cho một hoạt động kinh tế nhất định, trong đó các điều khoản quy định trách nhiệm của cả ba bên liên quan. * Mở rộng thị trường cho hoạt động bảo lãnh. Cho đến nay, khách hàng là doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, khách hàng cũng chỉ xin bảo lãnh những món nhỏ lẻ. Chính vì vậy, Ngân hàng cần phải tăng cường mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn bởi vì họ là những khách hàng thường yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh cho những dự án lớn nhưng đồng thời cũng không được bỏ qua thành phần kinh tế khác do tiềm năng của thành phần này đang được khơi dậy. Mặt khác, vi phạm bảo lãnh của Ngân hàng chủ yếu vẫn chỉ là lĩnh vực thương mại khi lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp còn nhiều triển vọng. mở rộng phát triển thị trường mới không có nghĩa là bỏ quên thị trường truyền thống và phát triển một cách lan man không có trọng điểm mà ngược lại ngân hàng cần có một kế hoạch ưu đãi cho từng đối tượng khách hàng trong từng giai đoạn thích hợp. Đặc biệt, khi thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Ngân hàng nên linh hoạt trong khâu thẩm định và tài sản thế chấp, không nhất thiết yêu cầu các doanh nghiệp này phải ký quỹ 100% * Thực hiện tốt công tác marketing, tăng cường thông tin đến khách hàng và mở rộng hoạt động bảo lãnh. Trong sự phát triểnkinh tế đang hiện nay mang tinh đầy cạnh tranh hiện nay, không chỉ riêng hệ thống NHCT Việt Nam mà hầu hết các ngân hàng thương mại muốn tồn tại và phát triển đều phải thực hiện thật tốt công tác marketing. Trước hết, Ngân hàng cần tiến hành nghiên cứu kỹ thị trường với tất cả các yếu tố như đặc điểm khách hàng, tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường, khả năng cung ứng của bản thân ngân hàng trong tương quan so sánh với cá ngân hàng đối thủ khác Từ đó, ngân hàng mới biết được ưu nhược điểm của mình và các ngân hàng khác để đưa ra một chiến lược phát triển lâu dài. Qua quá trình tìm hiểu thi trường và phân tích các cơ hội kinh doanh, Ngân hàng sẽ tiến hành phân đoạn thị trường để từng đối tượng khách hàng có chính sách phù hợp. Các chính sách đối với khách hàng cần phải toàn diện, tổng thể trên cơ sở không ngừng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.NHCT Ba Đình cần phải tập trung vào việc củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống bằng các chính sách ưu đãi thích hợp, không nên áp dụng các quy định chung một cách quá cứng nhắc mà cần linh hoạt nhằm tăng mức độ thuận tiện cho đối tượng này. Với các doanh nghiệp làm ăn lâu dài và có uy tín với Ngân hàng, các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp đấu thầu công trình trọng điểm của Nhà nước, Ngân hàng nên ưu tiên xem xét nhu cầu và kết hợp các hình thức bảo đảm.Với khách hàng mới, Chi nhánh không nên yêu cầu 100% ký quỹ mà dựa vào kết quả thẩm định tài chính. Nếu khách hàng có khả năng bảo đảm, Ngân hàng nên cho phép khách hàng ký quỹ thấp hơn kết quả với thế chấp tài sản. Bên cạnh những chính sách ưu đãi khách hàng và chính sách mức lệ phí, Chi nhánh vẫn phải tiếp tục nâng cao thanh thế của mình bằng những hoạt động tăng cường mối quan hệ tín nhiệm với khách hàng trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi. Trong quan hệ khách hàng, cán bộ nghiệp vụ cần thường xuyên hỗ trợ tư vấn cho khách hàng để khách hàng thực hiện đúng quy định đồng thời giúp khách hàng giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Ngân hàng cần tạo điều kiện cho khách hàng trong chất lượng dịch vụ như thái độ niềm nở, phong cách phục vụ nhiệt tình của mỗi cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh. Thông qua các buổi toạ đàm và các buổi làm việc với khách hàng, cán bộ cần thu thập ý kiến khách hàng về ưu nhược điểm trong quá trình cung cấp dịch vụ, những thắc mắc, những nhận xét cả những lời khen và chê để hoàn thiện các sản phẩm bảo lãnh. * Nâng cao uy tín của ngân hàng trong mối quan hệ với các ngân hàng khác để đẩy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh. Với những hợp đồng bảo lãnh vượt quá khả năng thực hiện của một ngân hàng thì các khoản đồng bảo lãnh là một giải pháp hợp lý cho các ngân hàng. Tuy nhiên, để có thể hợp tác với các ngân hàng lớn, NHCT Ba Đình cần phải khẳng định hơn nữa uy tín và vị thế trên thương trường. Đầu tiên, xuất phát từ những mối quan hệ kinh tế phát sinh với khách hàng của các ngân hàng. Ngân hàng cần giữ được chữ tín đồng thời cộng tác kinh doanh cùng có lợi. Trên một cơ sở cạnh tranh lành mạnh, ngân hàng cần phát huy uy tín của minh thông qua một sức mạnh thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng. Thứ đến, ngân hàng ở thế chủ động, nắm bắt các cơ hội từ những dự án lớn trong quốc gia, trong khu vực và trên thế giới để đề nghị hợp tác đồng bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh. Muốn vậy, ngân hàng sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ và tốt đẹp với các ngân hàng bạn, mở rộng và duy trì quan hệ trên cơ sở phát huy thế mạnh, phục vụ đầu tư phát triển. 3.2.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh. * Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng trong công tác bảo lãnh. Bảo lãnh là một hình thức nghiệp vụ tín dụng nhưng quan hệ vay mượn chỉ thực sự xảy ra khi ngân hàng buộc phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Khi khách hàng của ngân hàng vi phạm hợp đồng với bên nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ đứng ra trả thay khoản tiền bồi thường. Lúc này món bảo lãnh sẽ trở thành một khoản nợ quá hạn và rủi ro không thu hồi được nợ là không nhỏ. Thẩm định tốt chính là nền tảng cơ bản để ngân hàng có sự an toàn trong kinh doanh và giảm thiểu rủi ro. Chính vì vậy, để có được một quyết định bảo lãnh đúng đắn, cán bộ nghiệp vụ tín dụng phải tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định theo đúng cơ chế tín dụng hiện hành của ngân hàng. Qua quá trình thẩm định, trừ trường hợp ký quỹ 100% có thể được miễn một số điều kiện thẩm định, nhìn chung các điều kiện quan trọng mà cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh cần phân tích là: - Tư cách pháp nhân - Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh - Khả năng quản lý điều hành kinh doanh của chủ doanh nghiệp. - Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp. - Hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu hợp đồng. Quá trình thực hiện thẩm định của Chi nhánh thời gian qua có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số vướng mắc. Vì thế, khi tiến hành công tác này, để khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng, Chi nhánh nên sử dụng những nguồn số liệu đa chiều không những từ phía doanh nghiệp mà còn từ khách hàng của doanh nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng, trung tâm ICC Mặt khác, bằng khả năng phân tích môi trường kinh doanh, ngân hàng nên đánh giá những khó khăn thuận lợi của doanh nghiệp để có được một kết luận chính xác về vị trí và triển vọng của doanh nghiệp. Đối với các yếu tố thuộc về khả năng quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp, thực tế ngân hàng ít khi coi trọng vấn đề này. Thực ra, chủ doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới các quyết định kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, ngân hàng cần đánh giá toàn diện năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn và uy tín của chủ doanh nghiệp. Vấn đề về tài sản thế chấp cũng là một trong những vướng mắc khi xem xét các khoản bảo lãnh và cần phải xem xét một cách nghiêm túc và triệt để. Cán bộ tín dụng thẩm định phải có trình độ chuyên môn cao trong việc xác định tài sản thế chấp vì nếu tài sản thế chấp là tài sản cố định thì sẽ có cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Cán bộ tín dụng phải tính toán được chính xác mức độ hao mòn của tài sản dựa trên phương pháp tính hao mòn tại doanh nghiệp đồng thời đánh giá thông qua tình hình thị trường. Nếu như cán bộ phòng bảo lãnh không thể thẩm định được kỹ tài sản thế chấp hoặc thời gian thẩm định quá ít, có thể đưa sang bộ phận chuyên môn hơn như phòng thẩm định tín dụng khách hàng hoặc phải có riêng một nhóm chuyên thẩm định giá trị tài sản để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và kịp thời trả lời cho khách hàng. Trong thực tế hiện nay, các ngân hàng thực sự gặp khó khăn khi đấu giá tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước vì cơ chế thanh lý, phát mãi rất phức tạp. Do đó, trước khi tiếp nhận tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước, cán bộ tín dụng cần nắm rõ các quy hiện thời về tài sản thế chấp để có phương hướng giải quyết phù hợp trong từng hoàn cảnh. Về với công tác thẩm định tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, cán bộ nghiệp vụ cần hết sức tránh tình trạng thẩm định mang tính chủ quan kinh nghiệm. Mỗi hợp đồng kinh tế, mỗi dự án lại thuộc rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau và chế độ hạch toán kế toán nước ta còn chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ nên ngân hàng cũng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích đánh giá tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh trong thực hiện hợp đồng hay dự án. Vì đây là khâu quan trọng góp phần không nhỏ ra quyết định bảo lãnh nên cán bộ thẩm định phải thực sự có năng lực, có kinh nghiệm, đánh giá phương án không những trên phương diện kỹ thuật, tài chính mà còn trên phương diện lợi ích xã hội. Có như vậy, cán bộ mới có thể đưa ra những quyết định phù hợp với bảo lãnh như giá trị bảo lãnh, phí bảo lãnh Đồng thời, cán bộ cũng nên tư vấn cho khách hàng để nâng cao chất lượng dự án. Ngoài những kinh nghiệm làm việc của bản thân, cán bộ bảo lãnh khi tiến hành thẩm định cũng nên phối hợp đồngg bộ với các bộ phận liên quan hoặc các cơ quan chuyên môn, cơ quan có thẩm quyền để nâng cao chất lượng và tính pháp lý của quá trình thẩm định. Ngân hàng cũng nên cho phép luân chuyển hồ sơ giữa các cán bộ trước khi trình lên giám đốc để kiểm tra lại một cách khách quan. Đôi khi nhận xét chủ quan của một cá nhân chưa chắc đã giúp các cán bộ lãnh đạo ra được quyết định đúng đắn và những ý kiến đóng góp từ các cá nhân sẽ giúp hoàn thiện quá trình thẩm định một cách có hiệu quả nhất. * Bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ. Con người là nhân tố quan trọng nhất tác động đến mọi hoạt động của ngân hàng. Cụ thể, con người ở đây là các cán bộ ngân hàng tham gia trực tiếp vào quá trình cung cấp dịch vụ, giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến ngân hàng. Chính vì vậy, năng lực nghiệp vụ, trình độ hiểu biết, thái độ phục vụ và tác phong làm việc của cán bộ ngân hàng sẽ là điều kiện để ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng của đội ngũ cán bộ sẽ giúp khách hàng thấy thuận tiện và tin tưởng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Do đó, công tác đào tạo đội ngũ nên tập trung vào các vấn đề sau: - Đào tạo bài bản và có hệ thống các vấn đề cơ bản cho cán bộ đặc biệt là nhân viên mới để cán bộ hiểu đúng bản chất, vai trò và tính chất rủi ro của bảo lãnh. Ngân hàng nên tiến hành đào tạo chuyên sâu cho cán bộ nghiệp vụ, khuyến khích các cán bộ tiếp tục nâng cao bậc học trong ngành nghề đồng thời cam kết hoàn trả học phí sau khi kết thúc khoá học và có bằng hoặc chứng chỉ. Việc đào tạo cần tập trung theo trọng điểm một cách toàn diện để tránh đào tạo tràn lan, lãng phí. - Phương thức đào tạo có thể là mở lớp học ngay tại Ngân hàng hoặc cử cán bộ đi học bên ngoài hoặc tổ chức phong trào thi đua, các buổi thảo luận hoặc hội thảo trong ngân hàng và giữa các ngân hàng bạn để cán bộ trao đổi thông tin với nhau và rút kinh nghiệm cho bản thân. - Trước xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, ngân hàng cũng nên trao đổi kiến thức ngoại ngữ, tin học và cập nhật thông tin mới cho cán bộ bằng cách cung cấp cho cán bộ những công cụ đầy tiện ích để cán bộ tự nghiên cứu. Đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ khi thực hiện công tác của mình. - Song song với quá trình đào tạo, ngân hàng nên có một tổ chức, sắp xếp hợp lý, công việc và trách nhiệm phải phù hợp với trình độ và năng lực được giao, có như vậy cán bộ mới phát huy được hết khả năng làm việc hiệu quả. Đặc biệt, ngân hàng nên tuyển thêm và mạnh dạn sử dụng những cán bộ trẻ có năng lực, có trình độ thực sự trong công việc để bổ xung đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trong thời gian này. * Hoàn thiện quy trình. Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh của Chi nhánh cần được hoàn thiện theo hướng sau để đảm bảo quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh được đúng đắn, an toàn và nhanh: - Đẩy mạnh tìm kiếm và tư vấn hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các yêu cầu bảo lãnh nhằm chủ động thu hút khách hàng và công tác bảo lãnh được tiến triển thuận lợi. - Nâng cao công tác thẩm định khách hàng trong quá trình thẩm định tư cách pháp nhân, khả năng tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng bảo lãnh. - Ngân hàng nên đơn giản hoá các thủ tục, các quy trình để đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. Ngân hàng cũng phải hoàn thiện mẫu biểu để phục vụ công tác bảo lãnh. Đồng thời, khi tiến hành nếu có vướng mắc nào thì phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để trả lời cho khách hàng càng sớm càng tốt. - Ngân hàng cần làm tốt việc theo dõi, giám sát và quản lý chặt chẽ khách hàng được bảo lãnh trong quá trình thực hiện hợp đồng. - Việc đánh giá, tổng kết, đúc rút ra kinh nghiệm cần được coi trọng đặc biệt sau khi hoàn tất một món bảo lãnh từ đó tìm ra những giải pháp hoàn thiện cho các món bảo lãnh tiếp theo * Đưa công nghệ vào phục vụ cho hoạt động bảo lãnh, kiểm soát chặt chẽ hơn phân cấp, phân quyền cho Chi nhánh. Ngân hàng nên đầu tư hơn nữa vào công nghệ để theo kịp trình độ tiên tiên của các ngân hàng khác. Đây cũng là một khoản đầu tư mang lại lợi nhuận cao vì công nghệ sẽ giúp các dịch vụ ngân hàng trở nên tiện ích hơn đối với khách hàng. Có như vậy, khách hàng sẽ ngày càng sử dụng dịch vụ bảo lãnh của Chi nhánh vì tính thuận tiện so với các ngân hàng khác. Quá trình kiểm tra, giám sát hoạt động bảo lãnh là một nhiệm vụ quan trong không thể thiếu trong nghiệp vụ tín dụng ngân hàng . Để đảm bảo tính rủi ro xảy ra, cán bộ bảo lãnh phải quản lý, chỉ đạo, giám sát chặt chẽ khâu thẩm định khách hàng hay dự án được yêu cầu bảo lãnh. Cán bộ tín dụng cũng có thể xuống tận doanh nghiệp để kiểm tra xem doanh nghiệp có thực hiện đúng hợp đồng hay không. Đồng thời, ban lãnh đạo Chi nhánh cần nắm bắt kịp thời các tình hình liên quan đến khoản bảo lãnh để có thể giải quyết những rủi ro phát sinh trong quá trình bảo lãnh. Ngân hàng nên tổ chức kiểm tra một cách có hệ thống các món bảo lãnh hiện hành để hoàn chỉnh hồ sơ, đánh giá tiến độ thực hiện từ đó tăng cường biện pháp bảo đảm. Tổ chức giám sát chặt chẽ các khoản bảo lãnh vay vốn qua hình thức thanh toán L/C trả chậm để thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ và hạn chế những trường hợp ngân hàng thanh toán thay cho khách hàng trong khi khả năng thanh toán của khách hàng kém. 3.3. Kiến nghị. * Kiến nghị đối với Chính phủ: Với hiện thực tương đối khách quan là cho dù hoạt động của cả hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng có thay đổi như thế nào đi nữa cũng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì dù ngoài sự nỗ lực của bản thân với các giải pháp nghiệp vụ của mình thì cần phải có một môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Thực tế hiện nay, luật NHNN và luật các TCTD đang có hiệu lực trên thực tế nhưng trông từng lĩnh vực cụ thể vẫn thiếu các qui định chi tiết. Mặc dù các văn bản, qui định thường xuyên sửa đổi song vẫn bộc lộ những điểm bất hợp lý và đôi khi là qúa chặt chẽ. Do đó, khi thực hiện các văn bản này, các ngân hàng đã gặp phải không ít những khó khăn. Trong hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng, các TCTD Việt Nam mới chỉ được điều chỉnh chủ yếu bởi các văn bản pháp quy và các văn bản dưới luật của NHNN và các ngành có liên quan. Điều đó đã làm xuất hiện tình trạng nhiều khía cạnh của nghiệp vụ bảo lãnh không được quy định một cách đầy đủ. Mặt khác, hàng loạt các vấn đề phức tạp của nghiệp vụ bảo lãnh cũng không được các văn bản pháp quy hướng dẫn như: vấn đề tư cách chủ thể bảo lãnh của bên thứ ba, giải quyết khi tranh chấp, các mẫu biểu của bảo lãnh chưa thống nhất Chính vì vậy, nhà nước cần sớm tạo hành lang pháp lý đầy đủ đồng bộ, thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh phát triển. Cụ thể cần sớm ban hành luật bảo lãnh, thế chấp, cầm cố tài sản Ngoài ra, bảo lãnh còn liên quan tới việc thực hiện luật pháp, qui định trong một số ngành khác. Việc tháo gỡ khó khăn phải được sự giúp đỡ của các ngành này. Cụ thể như sau: + Trong thủ tục công chứng: Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn về các mẫu giấy tờ để công chứng thì đến nay vẫn chưa có mẫu về cầm cố thế chấp bảo lãnh. Trong khi đó, theo hướng dẫn của ngân hàng thì phòng công chứng không xác nhận. Hơn nữa, mức lệ phí công chứng 0,2% trên số tiền công chứng là chưa hợp lý vì trong khi công chứng phải chịu trách nhiệm về rủi ro và những sai phạm trong hợp đồng thế chấp thì ngân hàng phải gánh chịu mọi rủi ro mà mức phí tối đa của ngân hàng là 2% trên số tiền bảo lãnh. Do vậy, Bộ tư pháp nên qui định mức lệ phí công chứng hợp lý và ban hành mẫu giấy tờ công chứng. Điều này sẽ làm giảm phiền toái cho doanh nghiệp và thuận tiện cho ngân hàng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. + Về thế chấp tài sản: Hiện nay, Bộ tài chính đã chấp thuận cho các doanh nghiệp được sử dụng các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nếu doanh nghiệp Nhà nước bị phá sản thì phần tài sản cũng được xử lý theo luật phá sản của doanh nghiệp Nhà nước hiện hành. Thế nhưng, việc thế chấp tài sản cuả các doanh nghiệp Nhà nước chỉ mang tính hình thức, thực tế ngân hàng không phát mại tài sản vì được Tổng cục quản lý vốn và tài sản không xác nhận “ chấp nhận cho các doanh nghiệp dùng tài sản này để thế chấp “ mà chỉ xác nhận “ tài sản này thuộc quyền quản lý và sử dụng “. Chính vì vậy, nếu rủi ro xảy ra, doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng không thể thu hồi được nợ thông qua việc phát mại tài sản trên, dẫn đến ngân hàng phải gánh chịu mọi hậu quả. Trước tình hình đó các cơ quan hữu quan cần xem xét và giải quyết theo các hướng dẫn sau: Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với doanh nghiệp Nhà nước nhưng trong đó Tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mại tài sản trên để thu hồi nợ. Nếu không các cơ quan này phải có trách nhiệm đền bù thay cho các doanh nghiệp. Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý ( các thủ tục hành chính để phát mại tài sản, giải quyết việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản ) tạo điều kiện cho tài sản được mua bán chuyển nhượng dễ dàng, nhanh chóng. Bên cạnh đó, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần từ nhiều năm nay song trong chính sách với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy không còn bị phân biệt đối xử nhưng vẫn chưa thực sự được bình đẳng, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng, bảo lãnh. Vấn đề này Nhà nước nên tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và nhanh chóng hoàn thành qúa trình cổ phần hoá doanh nghiệp. + Về môi trường kinh doanh. Tiếp tục xây dựng một cơ chế thì trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tín dụng – tiền tệ và giá cả. Củng cố thị trường vốn và thị trường tài chính hiện có, đồng thời không ngừng đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Hơn nữa, cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Khẩn trương thực hiện môi trường đầu tư trong nước và ngoài nước, sớm tiến tới thống nhất cơ chế và chế độ đầu tư trong nước và ngoài nước. + Chính phủ cần sớm thành lập tổ chức xếp hạng định mức tín nhiệm, bởi khi tổ chức này ra đời nó không chỉ hỗ trợ cho ngân hàng mà còn hỗ trợ cho rất nhiều cho các ngành khác. * Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. - Về đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh: Song song với việc cải tiến thủ tục bảo lãnh sao cho đơn giản, chặt chẽ và an toàn, thì cần phải từng bước đa dạng hoá hình thức bảo lãnh. Trong thời gian qua, doanh số bảo lãnh còn rất thấp so với tiềm năng của các ngân hàng. Vì truyền thống, mặt khác NHNN nên hướng dẫn cho các ngân hàng sử dụng hình thức bảo lãnh trên các hối phiếu nhận nợ với nước ngoài, bảo lãnh bằng việc lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ với nước ngoài. Đồng thời cần sớm chuẩn bị để ban hành các văn bản hướng dẫn một số loại hình bảo lãnh mới sẽ sử dụng trong thời gian tới như: bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh hối phiếu - Về phí bảo lãnh và quỹ bảo lãnh: Theo qui định hiện hành, mức phí bảo lãnh là 2%/ năm trên số tiền được bảo lãnh. Theo mức phí này chưa chỉ ra được sự khác biệt về mức độ rủi ro của từng loại bảo lãnh, cũng như chưa thể hiện chính sách ưu đãi của ngân hàng đối với doanh nghiệp có uy tín với ngân hàng. Vì vậy, NHNN nên qui định cụ thể về mức phí bảo lãnh trong qui chế mà để các NHTM chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. NHNN chỉ tập trung vào quản lý vĩ mô, kiểm tra giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua qui định về quỹ bảo lãnh, ký quỹ bảo lãnh. NHNN cần ban hành qui chế cụ thể về bảo lãnh và trích lập quỹ bảo lãnh đối với nghiệp vụ bảo lãnh trong nước, quy định khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh, sử dụng quỹ bảo lãnh. - Về điều kiện để các liên doanh được xem xét bảo lãnh: Trong thực tế, để có thể tham gia dự thầu, đã có nhiều nhà thầu liên doanh với nhau và yêu cầu các ngân hàng xem xét cấp bảo lãnh. Tuy nhiên, trong quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN chưa có hướng dẫn loại hình bảo lãnh cho các liên doanh, điều kiện để các liên doanh được ngân hàng xem xét bảo lãnh, địa vị pháp lý của các liên doanh để xin ngân hàng bảo lãnh Do đó rất khó cho ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu này. Vì vậy, NHNN cần phải ban hành văn bản, quy chế hướng dẫn để NHCT Việt Nam cũng như các ngân hàng khác thực hiện. - Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để phòng ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm đối với người nhận bảo lãnh: - Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng nhằm cung cấp kịp thời, chính xác theo yêu cầu của các TCTD: NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Họ và tên: Hoàng Anh Tuấn Lớp: Ngân hàng 46Q Trường Đại học kinh tế quốc dân Đề tài: Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại NHCT Ba Đình Hà Nội, ngày tháng năm 2008 NHCT Ba Đình Hướng dẫn thực tập

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7705.doc
Tài liệu liên quan